Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thề Non Nước

TIẾNG ĐÀN XUÂN : Một cuốn sách xuân đặc-biệt, in rất mỹ-thuật, phụ thêm nhiều tranh ảnh của những họa-sĩ có tiếng. Ngoài thơ, ca tiểu-thuyết còn có « thuốc nuôi xuân » dâm rượu bổ sức, cùng bùa-chú, thần-tiên pháp-thuật dạy người ta tàng hình, dùng sức thiêng-liêng cho nhân-tình yêu, thăng quan, phát tài. Chuyện là như những cuộc đấu xảo cười, đấu xảo khảo, đấu xảo chết, nhà xéc ho, v.v… do toàn những tay danh bút như Nguyễn-mạnh-Bổng, Mai-đăng-Đệ, Trịnh-đình-Dư, Vũ-duy-Thiện, Nguyễn-tiếng-Lãng, Nguyễn-Tố, Trần-văn-Huy, Nguyễn-xuân-Ngoạn, Tạ-mạnh-Khải, Nguyễn-văn-Phúc, Ái-Liên, Lê-thục-Nữ, v.v… Dày 80 trang, Giá 0p.28 một cuốn mỹ-thuật. RỪNG XANH MÁ PHẤN : Một bộ trinh-thám rất mới, rất hoạt-động vai chủ-động là một bọn thanh-niên Việt-Nam cấp tiến, đau-khổ, uất-ức vì bị cướp mất nguồn sống, gây nên một cuộc biến-đổi giữa chốn rừng xanh làm tiêu-bểu cho tất cả hủ-bại của ngàn xưa. Dày hơn trăm trang. Giá 0p.80. LY-DỊ : Ông Lê-Thanh, một phê bình gia có tài nhận xét đã vạch cho ta thấy rõ trong cuốn này những đau-khổ ngấm-ngầm của những đôi vợ chồng không thể yêu nhau, phải coi gia-đình như nấm mộ, coi những ngày chung sống như nỗi buồn-đau nhất. Giá 0p.45. Hỏi nhà xuất-bản Hương-Sơn 97, Hàng Bông, Hà-nội, mỗi cuốn thêm 0p.08 cước gửi thường, thêm 0p.40 gửi lĩnh hóa giao ngân, mỗi cuốn sau thêm 0p.04. Trả tiền bằng tem thư cũng được. *** Vân-Anh, một mình đứng giữa sân, nhìn lên giăng mà xem, thấy những đám mây bay tán-loạn thường che mờ cả mặt giăng. Cái cảm-hoài vô-hạn, bị cảnh đó khêu động, vụt nghĩ thân-thế con người ta, nhiều người bổn-lĩnh thật là quang-sáng mà phải những cảnh-ngộ ác-nghiệp làm cho đến u-âm sầu-thảm khác gì mặt giăng vốn trong sáng mà có khi phải luồn những đám mây vô-lại kia, bỗng lại nghĩ thân-thế của người ta có khi thật như đám mây bay tán-loạn, bầu giời vô-hạn, biết đâu là chỗ về. Đương nhàn-tưởng bồi-hồi, chợt nghe đồng-hồ nhà bên cạnh đã đánh mười một tiếng ; trong nhà, mẹ già gọi vào để bóp trán. Vừa quay mình vào thời thấy một người khách đến chơi. Vân-Anh mời vào. Uống nước xong, khách bảo làm cháo ăn và nói không phải gọi ai cả. Vân-Anh khi ấy xuống bếp mổ gà với đứa ở. Khách ngồi một mình, trông nhà có hai gian bằng tre, chỗ ngồi uống nước đó kê một đôi trường-kỷ tre, một cái án-thư, bên trong còn có một cái tủ chè bằng gỗ tạp ; một gian bên thời có hai cái giường kê liền nhau, cũng có hai cái chiếu cạp đỏ đã cũ, bên giường trong có mắc một cái màn trắng cũ và vá. Cách một bức phên chắn, còn một gian nhà nữa thời nghe có tiếng bà cụ già thường ho-hắng, như có ý mệt. Khách ngồi buồn, tự nghĩ một mình rằng : vào chơi nhà cô đầu, quang-cảnh thế này nghĩ thật buồn, song cũng tiện cho mình được ngủ qua một tối rồi mai đi ; lại nghĩ như người ả-đầu đó, trông cũng xinh-xắn và cũng phong-cách, sao không được có đông khách hát mà ăn ở bần-tiện đến như thế. Một lúc đã thấy bưng cháo lên thời một con ở ăn-mặc cũng rách-rưới. Vân-Anh lên lấy rượu, ngồi rót mời khách uống. Khách hỏi bên gian buồng trong có tiếng bà cụ già là ai. Vân-Anh nói là mẹ đẻ, mấy hôm vẫn nhọc mệt. Khách giục Vân-Anh vào xem bà cụ có bảo gì, mặc mình tự uống rượu không cần phải ngồi tiếp, Vân-Anh chạy vào qua, rồi lại ra, lên ngồi kề gần khách, múc thìa rượu, vừa cười vừa mời uống. Khách lấy tay gạt đi, rồi cứ cầm chén uống tự-nhiên, như quên mình là ngồi ở nhà cô đầu vậy. Vân-Anh nghĩ cũng lấy làm lạ, ngồi có ý ngắm nhận người khách, ăn-mặc thời nhũn-nhặn mà vẻ mặt rất lanh-lợi điều riêng gì. Suốt bữa rượu ấy, ngoài sự ăn uống, không có câu chuyện gì cả. Rượu xong, khách đi ngủ, đến sáng dậy, chi tiền rồi đi. Cách chừng một tuần-lễ nhà Vân-Anh lại có khách uống rượu, tức là người khách uống rượu cách một tuần lễ trước, mà bận này đến lại có mang một cái va-ly. Hôm ấy giời hơi mưa, trong lúc uống rượu, khách lại tự uống một mình mà uống tất bằng chén, Vân-Anh nghĩ lại lấy làm buồn cười. Một lúc, có người nhà cô-đầu khác đến gọi Vân-Anh đi mời rượu, Vân-Anh xin phép đi. Khách chỉ tự-nhiên mặc lòng. Hôm ấy bà cụ đã khỏi mệt, sau lúc Vân-Anh đi mời rượu, ra ngồi chơi ở trường-kỷ uống nước. Khách nhân hỏi chuyện về Vân-Anh. Bà cụ nói : « Con bé nhà tôi, tên nó là Vân-Anh, vẫn gọi là cái Vân. Từ bé cháu có học chữ nho, cũng đã biết làm thơ ». Bà cụ ngồi chơi một lát, rồi vào buồng nằm nghỉ. Khách lại tự uống rượu một mình. Khoảng hơn mười hai giờ, giời mưa to, Vân-Anh về, đã loáng-choáng say rượu. Khách ở nhà, uống cũng đã say. Vân-Anh lại ngồi bên, rót rượu mời uống. Khách cười, nói rằng : « Mời rượu thời phải có hãm chứ ? » Vân-Anh : « Hãm câu gì ? » - Chỉ muốn nghe một câu hãm bằng chữ nho. - Ai biết chữ nho mà hãm ; cũng chẳng thấy ai hãm bằng chữ nho bao giờ. - Không ai hãm bao giờ mà bây giờ hãm, thế nó mới « mới ». - Khốn như tôi không biết. - Tôi biết rằng chị biết. - Ô hay, cứ buộc vào người ta. - Thôi, hãm đi. - Thế ông đặt đi cho một câu. - Ai hãm thời người ấy phải đặt lấy, nhờ người đặt hộ thời còn có thú gì nữa ! - Tôi đặt lấy thời không biết có nghe được không. - Hãy cứ hãm đi, nghe được hay không, mặc người ta. Vân-Anh vừa mỉm cười, vừa nghĩ. Khách cũng cười mà cất chén uống rượu để đợi nghe. Vân-Anh nghĩ đã xong, rót chén rượu mời, hãm rằng : 鷄鳴風雨瀟瀟天涯遊子 藍橋神仙好惡姻缘 « Kê minh, phong vũ tiêu-tiêu ; Thiên-nhai du-tử, Lam-kiều thần-tiên Hảo, ác nhân-duyên ? » Khách nghe, thần-hồn như phiêu-động ; cạn chén, hỏi Vân-Anh rằng : « Thế trước chị học chữ nho được bao năm ? » - Tôi học từ năm lên sáu, đến năm mười sáu tuổi thời thôi. - Chị học ra làm sao ? - Cũng học đấy thôi, chẳng biết nó ra làm sao cả. - Trong lúc học, chị có tập làm văn, làm thơ gì không ? - Cũng có làm thơ cùng những câu đề vịnh lảm-nhảm. - Các bài của chị làm ra từ khi trước, bây giờ có bài nào còn giữ lại hay còn nhớ không ? - Kể mất đi cũng nhiều, nhưng tôi cũng giữ được một ít, vẫn cuộn để ở trong hòm, những lúc nào buồn quá thời lại giở ra xem chơi một mình. - Bây giờ chị thử lấy ra đây xem. Vân-Anh đi mở hòm, lấy cuốn văn ra. Ông khách giở xem, thấy cũng có nhiều bài thông lắm. Xem đến bài vịnh lĩnh-mai 嶺梅 có hai câu rằng : 含精不向東風笑 獨伴青松蹅雪遊 « Hàm tinh bất hướng đông-phong tiếu, Độc bạn thanh-tùng đạp tuyết du ». Nghĩ như hai câu này thời thật có phong-diệu, cốt-cách, mà tự người làm thơ cũng không đáng trụy thân vào trong đám binh-khang. Khách xem hết các bài văn thơ chữ nho, lại hỏi về văn quốc-âm. Vân-Anh đọc một bài « vịnh sen hồ Hoàn-kiếm » rằng : « Hồ Gươm, sen mới ra hoa, Cả hương, cả sắc, ai là không chơi. Sen tàn, lá rách tả-tơi, Quanh hồ lai vãng ai người tiếc-thương, Nước hồ sen đứng soi gương, Còn đâu là sắc lá hương với đời, Tủi thân sen lại giận giời, Cho chi hương sắc ? cho người trọng khinh ! » Khách nói : « Văn cũng hay, nhưng sao đặt đến buồn quá thế ! » Vân-Anh : « Bài này tôi mới làm. Trong lúc buồn có làm ra vui thế nào được ». Khách ngậm-ngùi một lúc rồi nói rằng : « Nghĩ như chị, người như thế, tài-hoa như thế, mà sao không thấy nổi tiếng ? Chắc lại cũng không được đông khách hát, cho nên trong nhà ở cũng có ý cẩu-thả ». Vân-Anh đến lúc ấy lại buồn lắm, giả nhời khách rằng : « Ông nghĩ cho như vậy, chớ như tôi thời còn có gì mà nổi tiếng. Cứ về bên chữ nho bây giờ, đến như ông Nghè, ông Cử, cũng còn nhiều ông chẳng có vinh-hiển gì ; huống hồ là một người cô-đầu biết đôi ba câu thơ, còn lấy gì làm có giá được. Từ khi tôi ra hát đến nay, hôm nay mới thấy có ông hỏi đến là một. Những cái sự ấy bây giờ đã không ai coi ra gì, nhà ở lại lụp-sụp rơm rác, cũng chẳng có mấy người buồn đến, thỉnh thoảng mới có một vài ông khách đến ăn cháo, còn thời chỉ là đi hát mảnh, lại cũng không khéo chiều quan viên, như thế tài nào mà không phải chịu bần-tiện ? » Lúc ấy đã đến hơn bốn giờ sáng, khách bảo xếp bỏ rượu để đi ngủ. Vân-Anh buông màn cho khách ngủ, rồi vào trong nhà với mẹ. Ngày mai, giời mưa dầm mãi từ sáng cho đến chiều. Lúc người khách ngủ dậy thời vào khoảng chín, mười giờ. Nguyên ý người khách đến uống rượu bận ấy, hoặc định ngủ một tối rồi sáng hôm sau đi đâu thời không biết ; nhân có một đêm nói chuyện, cái cảm tình đối với Vân-Anh thực thương tiếc vô hạn. Lại nhân hôm ấy giời mưa dầm, cho nên thánh ra lại giữ khách ở lại. Mười giờ hơn, Vân-Anh nói cùng khách xin để làm cơm sáng ăn, khách cũng ừ nhưng không có đưa tiền. Trong nhà Vân-Anh từ tối hôm trước chỉ còn có một con gà thời đã làm rượu rồi mà cũng phải vay thêm đồ ăn mới đủ dọn ; đến lúc ấy không biết làm thế nào, nghĩ người khách đi lại chưa thân, cũng không tiện ra hỏi. Hai mẹ con ra vào thì thầm bàn cùng nhau, khách cũng hiểu tinh ý, nhưng cứ tự nhiên như không biết, chỉ nằm xem những bài thơ văn của Vân-Anh, rồi lại mở va-li ra, lấy giấy bút để viết. Độ 12 giờ hơn, thấy có cơm bưng lên, cũng lịch-sự. Khách bảo Vân-Anh mời cả bà cụ ra cùng ăn cơm, nhưng bà cụ xin từ chối. Bữa ấy hai người cùng ngồi uống rượu ; ngoài bức mành thưa, giời vừa mưa vừa gió, những người đi ngoài đường thật là lận-lội mà trong chỗ mâm rượu thời một người du-tử ngồi đối một mỹ-nhân cùng thù tạc, đàm-đạo những nhân tình thế cố cùng là sự làm văn làm thơ. Khách tuy không phải là người say đắm ở nơi bình-khang, nhưng lúc ấy bất-giác cũng cao hứng. Đương lúc tửu-hứng, Vân-Anh nói rằng : « Tôi có một bức tranh sơn-thủy, là của gia-bảo, vẫn cuộn để trong hòm, thường muốn đề một bài quốc-văn mà nghĩ lại không xứng ; nay không mấy khi được gặp cao-nhân, xin hạ bút đề cho một bài, thực là quí hóa quá ». Khách nói : « Sự đề vịnh nguyên đã không dễ, lại đề vào một bức họa trân-trọng thời thực không dám nhận ; nhưng chị thử lấy cho xem thời hay lắm ». Vân-Anh đi mở hòm lấy bức tranh đem ra, khách giở xem, thực là một bức cổ-họa. Trông khoảng trên có đề ba chữ triện, không hiểu là chữ gì. Vân-Anh nói đây là chữ nôm Khách nhận ra thời là ba chữ « THỀ NON NƯỚC » Vân-Anh nói : « Cứ ba chữ này, nguyên nghĩa thường thời là chỉ non thề nước ; đề vào đây thời là làm sao ? » Khách nghĩ một lúc, rồi nói : « Đây hoặc là người ta mượn câu sẵn mà khiến về nghĩa riêng. Ba chữ đề đây, phải nhận nghĩa là non với nước, hai cái thề với nhau. Như thế, có nhẽ mới hợp ý bức họa ». Vân : « Dẫu nhận là như thế, nhưng đây chỉ vẽ một dẫy núi, còn không thấy sông nước gì cả lấy gì làm hai cái thề với nhau ? » Khách : « Đây dẫu không có vẽ sông nước, nhưng nhận kỹ một ngàn dâu ở chân núi này, ý tức là sông nước khi xưa mà tang-thương đã biến-đổi ». Vân : « Dẫu nhận cho là như thế nhưng lấy gì làm thề ? » Khách : « Nguyên bức họa này, ý chỉ là một bức tang-thương, cho nên ở dưới vẽ một ngàn dâu tựa như thế khúc sông ; trên núi thời như mây, như tuyết, như mấy cây mai già, như bóng tà-dương, đều là để tả cái tình-cảnh thê-thảm. Bởi thế cho nên ba chữ đề này, dẫu là lấy câu sẵn mà đề vào, song thực tỏ ra được cái tình thương nhớ của dẫy núi tức là vì dẫy núi mà cảm nỗi tang-thương. Bây giờ tất cứ trong bức họa mà muốn tìm cho ra thế nào là thề, như thế thời nệ vì chữ đề mà hại đến nguyên ý của bức họa ». Vân : « Vậy thế bây giờ muốn đề một bài thời thế nào là phải ? » Khách : « Bây giờ nếu muốn đề một bài phải nên trông vào bức họa, mà lại lấy ba chữ đó làm đầu đề. Chú-trọng vào một chữ non, lấy chữ non làm chủ, vì rằng non đó thực là chủ-trương trong bức họa mà lại có ở trong đề ; còn chữ thề với chữ nước thời trong họa không có mà trong đề có, cũng phải nhận như có mà chỉ nên nói nhẹ như không, vì là thề thời về sự đã qua mà nước thời không trông thấy ở đó. Nghĩa như thế, hoặc có phải chẳng ? » Mời các bạn đón đọc Thề Non Nước của tác giả Tản Đà.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xibiri
XIBIRI Tác giả: Ghêorghi Markốp (Georgy Mokeyevich Markov) Quyển sách này không nói về chiến tranh mà nói về cuộc trốn chạy của một tù nhân chính trị bị đày đi Xibiri. Ivan, là một sinh viên, là cháu của một nhà bác học người Nga chuyên nghiên cứu về khoáng sản, địa chất, đặc biệt là vùng Xibiri. Anh bị bắt vì tham gia đấu tranh chống lại Nga Hoàng.Đồng đội đã tổ chức cho anh vượt ngục thông qua sự giúp đỡ của người dân địa phương. Sau khi trốn thoát, anh có nhiệm vụ sang Thụy Điển để giúp ông bác của anh lưu giữ những tài liệu về vùng đất Xibiri mà bọn Tư bản nước ngoài rất thèm muốn và rắp tâm đoạt lấy. Cái thu hút của tác phẩm không năm ở những cảnh rượt đuổi, chạy trốn mà trong tác phẩm này, Ghêorghi Markốp đã miêu tả thiên nhiên và con người ở Xibiri, cách họ chống chọi với khắc nghiệt của thời tiết, cách họ săn thú, đánh bắt cá, cách ngủ đêm, sưởi ấm trên tuyết. Ngoài ra, tính chính trị trong tác phẩm là rất rõ ràng nhưng dễ chịu, dễ tiếp nhận, ngay cả tình yêu giữa Ivan và Ca-chi-a cũng rất nhẹ nhàng nhưng đầy bất ngờ. Một tác phẩm đáng đọc dành do những ai thích phiêu lưu và thích thiên thiên. *** TIỂU THUYẾT HAI TẬP Nhà xuất bản Cầu vồng Mátxcơva 1984 In theo bản dịch của Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội Người dịch: Chu Nga và Thúy Toàn Người hiệu đính: Trần Phú Thuyết Георгий Марков СИБИРЬ На вьетнамском языке © “Известия”, 1976 © Bản dịch tiếng Việt, Nhà xuất bản Cầu vồng, 1984 In tại Liên Xô​ Ghêorghi Markốp (sinh năm: 1911) - nhà văn Liên Xô trứ danh, nhà hoạt động xã hội, Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa: (1974), người đoạt giải thưởng Lênin (1976), tác giả các tiểu thuyết nổi tiếng về Xibiri: “Gia đình Strôgốp”, “Muối của đất”, “Cha và con”. Xibiri là quê hương của nhà văn thời thơ ấu và tuổi thanh xuân. Cùng với cha đẻ, một người chuyên đi săn gấu, ông đã đi dọc ngang khắp rừng taiga và các sông lớn nhất ở Xibiri. “Môi rường thợ săn, lao động kiếm kế sinh nhai, trại của những người đi săn và đống lửa trong rừng taiga là trường học mở đầu của đời tôi”,- Markốp kể như vậy. Tất cả mọi tác phẩm của nhà văn bắt nguồn từ đấy. Tiểu thuyết “Xibiri” (1969 - 1973) của ông cũng đâm rễ ăn sâu vào đây. Mở ra trước mắt người đọc tiểu thuyết này là những bức tranh cuộc sống hào phóng của Xibiri đầu thế kỷ XX: những cánh rừng taiga và thảo nguyên mênh mông, những con sông hùng vĩ; những đầm lầy chứa khí đốt mà ngay cả những lúc băng giá dữ tợn cũng không đóng băng; những ao hồ đầy cá, nhiều thành phố và làng mạc. Cũng như ở khắp nước Nga, tư tưởng cách mạng đã bùng lên tại đây, ngày càng tăng thêm ý chí và khả năng sẵn sàng lật đổ chế độ chuyên quyền, đem mọi tài nguyên của vùng này phục vụ nhân dân. Chủ đề lịch sử cách mạng trong tác phẩm là dựa trên các sự kiện và số phận của những con người cụ thể. “Tất cả những gì đã xảy ra, - Ghêorghi Markốp viết, - đều đan quyện chặt chẽ với hư cấu cả trên cơ sở sự kiện của cốt chuyện, cả về tính cách của các nhân vật”. *** Êpiphan Crivôrucốp, chủ nhân ông đầu tiên ở làng Gôlêsikhinô, đang tổ chức đám cưới cho đứa con trai của y là Nhikipho. Dạo ấy là vào khoảng giữa tháng mười. Gió lạnh từ sông Ôbi từng cơn từng cơn thổi về, cuốn theo những bông tuyết làm mù mịt cả không trung. Trên bãi cát đã óng ánh một lớp băng, trên cánh đồng, trong tầm mắt của ta, những đám cỏ và những thửa ruộng vừa gặt cũng ánh lên qua màng băng mỏng. Mùa đông đang phóng tới, chỉ có những cánh rừng bá hương vây quanh làng Gôlêsikhinô cây mọc sát vào nhau là kìm bớt được phần nào cuộc tấn công ào ạt ấy. Bầu trời trắng đục và những đám mây đen lững lờ trôi trên làng xóm bất cứ lúc nào cũng có thể rắc tuyết xuống phủ kín khắp mọi nơi. Họ hàng đông con nhiều cháu nhà Crivôrucốp làm náo động cả một vùng. Suốt ngày đêm trong ngôi nhà của Êpiphan không ngớt tiếng hát và tiếng phong cầm đệm, tiếng chân dậm của đám người nhảy múa, tiếng hò hét, đùa rỡn của bọn bạn thằng Nhikipho. Những người làm thuê cho nhà Crivôrucốp, người phi ngựa kẻ chạy bộ, tỏa đi khắp nơi lo kiếm nào cá tươi từ sông Ôbi, nào chim đa đa và gà lôi từ rừng taiga, nào những hộp mật và hộp nhựa bạch dương từ cánh rừng trên khu đất vỡ hoang của nhà Crivôrucốp đưa về làm món ăn cho bữa tiệc cưới. Những con chó làng Gôlêsikhinô hoảng sợ trước sự náo động bao trùm khắp làng xóm ấy, đã sủa lên ầm ĩ, liên hồi, sủa đến đứt cả hơi. Vào ngày thứ ba, khi đám cưới đang ở độ náo nhiệt nhất, thì một chiếc thuyền chở viên cảnh sát trưởng của vùng Parabên và năm người vệ binh ghé vào bờ sông, phía làng Gôlêsikhinô. Viên cảnh sát trưởng đẩy cửa xông vào nhà Crivôrucốp và hét lớn, át cả tiếng ầm ĩ làm rung động nhà cửa: - Tôi ra lệnh, tất cả phải im ngay!.. Một tên tội phạm quốc gia quan trọng vào bậc nhất giam ở Narưm vừa trốn khỏi nhà tù! Lệnh xuống là phải tìm bắt cho bằng được tên này, bắt sống hay giết chết đem xác về cũng được! Ai bắt được y sẽ được trọng thưởng! Tất cả hãy lập tức mặc ấm vào - cả đàn ông lẫn đàn bà - không phân biệt! Đám người trong nhà Crivôrucốp đứng ngẩn ra một lúc. Từ lúc cha sinh mẹ đẻ họ chưa từng chứng kiến một sự kiện nào tương tự: hãy dẹp đồ nhắm với rượu lại mà ba chân bốn cẳng chạy đuổi theo một tên tù vừa trốn khỏi nhà giam, chẳng ma nào biết hắn là ai, cứ như thể mình không còn phải là con người nữa mà, lạy trời, là một thứ ngựa cái chết tiệt nào vậy. Mấy cậu thanh niên vừa định phản đối, nhưng viên cảnh sát trưởng đã len được vào tận chỗ Êpiphan ngồi dưới chân bức tượng thánh và thầm thì vào tai y, cái tai sứt đeo khuyên, một điều gì đó. Và người ta nghe tiếng ông chủ nhà quát lớn: - Các bạn trẻ, cấm không ai được nói gì! Vị đại diện cho đức vua đã ra lệnh! Có nghĩa là - hãy gác lại cuộc chơi! Tất cả những người có mặt tại đây hãy ra sân, rồi vào rừng, quãng bờ sông ấy! Tên tù thế nào cũng còn đang loanh quanh ở đấy, nó chưa thể trốn đi đâu được! - Thật là khủng khiếp quá chừng! Ngày xưa người ta săn đuổi thú rừng, bây giờ thì người ta lại bắt đầu săn đuổi cả con người nữa, - sau ba ngày, lần đầu tiên cô dâu dám mạnh dạn cất lời. Nhưng những lời cô nói bị chìm đi trong tiếng hét hò ầm ầm căng thẳng. Tưởng như chỉ thêm một giây lát nữa - thì những bức tường bằng gỗ thông, rất chắc chắn của ngôi nhà hai tầng nhà Crivôrucốp sẽ bật tung ra vì không chịu đựng nổi sự ầm ĩ ấy. - Này Nhikipho, Nhikipho đâu! - ông chủ của ngôi nhà gào tên gọi đứa con trai. - Con hãy rót rượu ra mời các ngài đại diện cho đức vua đi. Rượu vào, mắt sẽ tinh hơn, Nhikipho làm theo lệnh bố. Viên cảnh sát trưởng và đội vệ binh vừa đứng vừa uống rượu và dùng thức nhắm, mỗi người vớ lấy những thứ gần mình nhất: người miếng thịt hươu, kẻ chiếc bánh bột rán với khúc cá chiên, có người lại vớ được chú gà đồng rán tẩm kem chua. Nửa giờ sau, cái đám người hỗn độn ấy, vừa hò hét vừa la lối, chạy tản ra khắp bờ sông. Có nhiều người trong số đàn ông mang theo rìu, xiên, xẻng, thuổng, còn bọn bạn bè thân cận của thằng Nhikipho cũng như bản thân nó thì lại mang theo súng. Ở nhà Crivôrucốp thì các loại vũ khí ấy thiếu gì: nào súng hai cò, nào súng một nòng, súng đạn ria, súng tự chế nòng rèn để giết những loại thú lớn. Các bà líu ríu chạy theo đám đàn ông; những tay say nhất và những đứa hỗn hào nhất thì vừa khua những chiếc thuổng, những que quấy cám vừa gào tướng lên những lời tục tĩu. Một tốp chừng hai chục người đàn ông lực lưỡng theo viên cảnh sát trưởng xuống thuyền, bơi sang bờ bên kia của con sông nhánh. Trong số đó có cả thằng Nhikipho và bọn bạn du đãng của nó. Mọi người đều cảm thấy rằng: nếu như tên tù còn chưa kịp đi khỏi nơi này thì hắn không thể có chỗ nào lẩn trốn tốt hơn là cánh rừng gần bờ sông phía bên kia. Trong cánh rừng rậm rạp và gai góc ấy chẳng chỉ con người mà ngay cả đến ngựa cũng có thể tìm được nơi ẩn náu. Còn ở bờ sông phía bên này, giáp làng, thì đất đai trơ trụi, trâu bò và các loại gia súc vẫn thường được thả rong trên cánh đồng cỏ, ở đây người qua kẻ lại luôn luôn: kẻ ra đồng cỏ, người đi lễ ở nhà thờ Parabên, có người lại mang nào hạt dẻ, nào lông thú và cả những con thú mà họ săn được đến nhà kho của tên lái buôn Grêbênsicốp ở bến sông. Lát sau, những người đàn ông vừa bơi thuyền sang bờ bên kia đã sắp thành một hàng dài và mất hút vào cánh rừng. Bờ bên này cũng được tổ chức chu đáo: đi dọc theo sát mép bờ sông là hai tên vệ binh, ngay bên cạnh chúng là các gã đàn ông và xa một chút nữa là cánh đàn bà. Họ đi một cách trật tự như vậy được khoảng chừng một vecxta[1] không hơn. Sau đó thì hàng ngũ dần dần xộc xệch, nhiều người bắt đầu chậm bước. Bởi sau mấy ngày tiệc rượu lu bù thì không dễ gì mà sai khiến nổi đôi chân của chính bản thân mình. Một số ông già bà lão hơi sức cũng chẳng được là bao. Cuộc săn đuổi tên tù vượt ngục đối với họ rõ ràng là một việc làm quá sức. Bọn con gái mới lấy chồng cũng không hứng thú gì với cái việc phải lội vào đám bùn lầy khi chân họ đang đi những đôi giầy đẹp đẽ, những đôi giày mà họ chỉ xỏ chân vào cả thẩy một vài lần: trong ngày lễ cưới, khi đến nhà thờ vào ngày lễ Thánh và đôi khi đi chơi bời thăm thú bạn bè. Nhưng những tên vệ binh, nhất là chính bản thân Êpiphan Crivôrucốp, thì lại luôn luôn thúc dục mọi người, chốc chốc lại ý ới gọi với sang hàng người dàn ngang ở bờ bên kia, trong cánh rừng. - Này! Này! - bờ phía bên kia gọi vọng sang. - Có đây! Chúng tôi vẫn đang lùng sục, đang lùng sục đây! - Êpiphan lớn tiếng trả lời thay tất cả. Làng xóm, với những chiếc ống khói lò sưởi, với mùi vị của sự no nê, với tiếng bò rống, tiếng chó sủa, đã không còn trông thấy nữa. «Này! Này» - tiếng gọi từ bờ phía bên kia vọng lại mỗi lúc một thưa dần và một khó nghe hơn. Mà ngay cả Êpiphan, mặc dầu lão vẫn tiếp tục đi, cũng đáp lại những lời trao đổi ấy mỗi lúc một ít hứng thú hơn: chắc là lão đã khản cổ rồi. Một tên vệ binh bị sát toạc chân, ngồi bệt xuống mép bờ sông và từ từ cởi vải bọc chân. Thái độ ấy chứng tỏ anh ta không phải là kẻ hăng hái cho lắm với phận sự của mình. Cánh đàn bà lập tức nhận ra ngay thái độ uể oải ấy, và họ cũng không ngu ngốc gì, nên cũng đứng lại theo, giả bộ như mình cũng có việc cần thiết phải dừng chân: để thắt lại giải khăn vuông, để sắn váy, để buộc lại dây giày. Hàng người đi men theo bờ sông đã thưa thớt hẳn, chỉ còn độ mươi người. Đi sát mép bờ sông nhất là Êpiphan cùng với tên vệ binh thứ hai, đi xa mép bờ sông nhất là Pôlia - người vợ vừa cưới của Nhikipho, cô con dâu mới của nhà Êpiphan. Pôlia bước đi, vẻ rất thích thú. Ba ngày liền ngồi sau chiếc bàn chất đầy những đồ ăn thức uống, tiếng ồn ào và sự tấp nập đã làm cho cô vô cùng mệt mỏi. Những đêm đầu tiên của cuộc sống vợ chồng lại càng mệt hơn. Ở đây, giữa mênh mông trời đất, cô cảm thấy mình dễ chịu làm sao! Gió lạnh thổi như quất vào mặt làm nguội đi cái hơi nóng đang rừng rực bốc lên đầy mặt cô, xua tan cơn mệt mỏi, làm cho cô thấy sảng khoái trong người. Pôlia cứ muốn đi xa mãi, xa mãi chỉ để không bao giờ còn phải quay trở lại cái ngôi nhà của nhà Crivôrucốp ngột ngạt, nặng mùi mồ hôi, mùi thuốc lá, mùi của đám người say khướt, mùi rượu mạnh làm cho trí não u mê. Nhưng kìa, dưới chân cô bắt đầu hiện ra những mô đất mọc đầy lau sậy, và trước mặt cô, sau những bụi cây, ánh lên khúc sông cụt chạy vòng theo hình móng ngựa. Có lẽ cuộc săn đuổi sẽ kết thúc ở chỗ này thôi. Chắc ít ai lại còn muốn đi vòng hoặc lội qua cái khúc sông lầy bẩn ấy. Êpiphan đầu cúi xuống lặng lẽ theo sau tên vệ binh, còn mấy mụ đàn bà thì túm tụm lại bàn bạc điều gì rất sôi nổi. Ánh nước như tăng thêm sức lực cho Pôlia. Cô lướt nhanh từ bụi cây này sang bụi cây khác, mong sao chóng tới nơi long lanh kia để vớt nước lên mà rửa mặt. Gần đến bờ sông, cô lao vào chỗ này, rồi lại lao sang chỗ khác, nhưng chỗ nào cũng gặp phải bùn lầy, không sao qua được. Quãng bờ sông cách cô khoảng chừng trăm bước bỗng cao vượt hẳn lên, dốc đứng như vực. Mép bờ sát mặt nước của đoạn sông này luôn luôn được ngọn sóng chồm lên gội rửa nên rắn lại và bên trên được phủ một lớp cát đỏ khá dày. Pôlia bước vội, cô cho rằng con đường nhỏ cỏ mọc xanh um kia nhất định sẽ dẫn tới lối xuống sông. Và quả là như vậy. Con đường nhỏ chạy ngoằn ngoèo uốn theo những gốc dương đen to sụ khoảng chừng ba trăm bước thì bắt đầu lao xuống dốc. Khi chỉ còn chừng ba bước nữa thì tới mặt nước Pôlia bỗng nhìn thấy một người ngồi trong chiếc thuyền nhỏ đậu nép sát vào thành vực, dưới vòm lá um tùm của cây thùy liễu. Cô gái giật nẩy mình vì hoảng sợ, cô không biết nên xử sự thế nào: hô hoán lên cho mọi người bổ tới hay bỏ chạy cho nhanh. Mời các bạn đón đọc Xibiri của tác giả Georgy Mokeyevich Markov (Ghêorghi Markốp).
Cao Điểm Thứ Tư
Tặng X. I. Ma-rơ-sác, người anh, người bạn, người thầy.   CÙNG CÁC BẠN ĐỌC CỦA TÔI   Câu chuyện về cuộc đời ngắn ngủi này không phải do tưởng tượng ra. Tôi biết người con gái mà quyển sách này kể lại, từ khi cô còn bé, tôi cũng đã biết khi cô còn là nữ sinh-đội viên thiếu niên tiền phong, đoàn viên thanh niên cộng sản. Tôi được gặp Gu-li-a Cô-rô-li-ô-va trong những năm Chiến tranh Ái quốc. Còn những điều trong đời của cô mà tôi không tự thấy được, thì những chuyện của bố mẹ, các thầy giáo, bạn gái và cán bộ phụ trách thiếu nhi của cô bổ sung, về đời sống của cô ngoài mặt trận, các bạn chiến đấu của cô đã kể lại cho tôi. Tôi cũng được may mắn đọc các thư của cô, bắt đầu từ những bức sớm nhất — trên những tờ giấy kẻ sẵn của vở học sinh — cho đến những bức cuối cùng, vứt vội vàng trên những trang sổ tay trong lúc tạm ngừng giữa các trận chiến đấu. Tất cả những điều đó giúp tôi biết rõ, như chính tự mắt mình thấy, toàn bộ cuộc đời rực rỡ và sôi nổi của Gu-li-a, hình dung được không chỉ những điều cô nói và làm, mà cả những điều cô cảm và nghĩ nữa. Tôi sẽ rất vui mừng, nếu như đối với những ai sẽ biết Gu-li-a Cô-rô-li-ô-va qua những trang sách này, cô ta cũng sẽ trở thành thân thiết – dù chỉ một phần nào thôi – như đối với những người đã biết và đã yêu cô trong đời sống. Ê-LÊ-NA I-LI-I-NA ***   NGỌN LỬA NHỎ     — Mẹ đừng ra, — Gu-li-a nói. — Con tối lắm Mẹ cúi xuống trên thành giường: — Gu-lênh-ca,[1] tối hoàn toàn không đáng sợ. — Nhưng mà không thấy gì cả! — Chỉ lúc đầu không thấy gì cả thôi. Nhưng rồi con sẽ thấy những giấc mơ rất hay! Mẹ đắp cho con gái ấm hơn. Nhưng Gu-li-a lại ngóc đầu dậy. Cô bé nhìn ra cửa sổ, hơi sang sáng vì những ánh đèn ở đường phổ chiếu qua bức rèm cửa màu xanh. — Ngọn lửa nhỏ đó có cháy không? — Đang cháy. Thôi, ngủ đi con! — Mẹ chỉ nó cho con đi! Mẹ bế Gu-li-a đến cửa sổ. Phía đối diện, trên những bức tường điện Cơ-rem-lanh, một lá cờ bay phấp phới. Lá cờ được chiếu sáng từ dưới lên và rung động như một ngọn lửa. Chính lá cờ đó bé Gu-li-a gọi là “ngọn lửa nhỏ”. — Con thấy không, ngọn lửa nhỏ đang cháy, - mẹ nói. Vì nó sẽ cháy mãi mãi, Gu-lênh-ca ạ! Không bao giờ tắt cả. Gu-li-a ngả đầu trên vai mẹ và im lặng nhìn ngọn lửa rung rinh trên nền trời tối đen. Mẹ lại bế Gu-li-a đến giường: — Thôi, bây giờ con ngủ đi. Và bà đi ra khỏi phòng, để lại đứa con gái nhỏ một mình trong bóng tối. Mời các bạn đón đọc Cao Điểm Thứ Tư của tác giả Êlêna Iliina.
Cửa Hiệu Tự Sát
Trong Cửa Hiệu Tự Sát - Jean Teulé đã đưa quyền được chết trở thành một thứ quyền được công nhận, nơi các công cụ trợ tử trở nên phổ biến, cái chết trở thành sự cứu rỗi cho hy vọng. Thế giới trở nên phi lý, sự sống cũng trở nên phi lý, loài người phải làm thế nào để có thể giữ được những giá trị nhân bản ngay trong cuộc sống vô nghĩa này, làm thế nào để có thể lấp đầy trái tim bằng tình yêu, tìm được hạnh phúc trong thân phận phi lý của con người? *** Tác giả Jean Teulé sinh năm 1953, là nhà văn, tác giả truyện tranh, biên kịch phim điện ảnh và truyền hình người Pháp.  Một số tác phẩm của ông từng xuất bản như: Rainbow pour Rimbaud (1991), Darling (1998), Ô Verlaine! (2004), Je, François Villon (2006), Le Magasin des suicides (2007), Le Montespan (2008), Mangez-le si vous voulez (2009). *** Review của Jenny Lu về sách Cửa Hiệu Tự Sát: " Bạn đã sống dở ư? Với chúng tôi, bạn sẽ chết tốt " Thử tưởng tượng một nơi mà tự tử là một việc hợp pháp, hơn nữa , được khuyến khích. Nghe có vẻ điên rồ nhưng đây chính là bối cảnh của tác phẩm - Cửa hàng dành cho những kẻ ngán sống. Câu chuyện xoay quanh gia đình Tuvache, có truyền thống " trợ tử " hơn mười đời. Cửa hàng của họ thật tăm tối , không có một tia sáng mặt trời nào và chỉ có ánh sáng tù mù từ đèn ne-ông như nhà xác. Họ cũng không bao giờ cười, luôn luôn tiễn khách hàng bằng câu " Xin vĩnh biệt". TRong cửa hàng luôn là những dụng cụ ghê rợn như dây treo cổ , thuốc độc , súng , ... và khách hàng luôn nhận được lời tư vấn nhiệt tình ( nhưng cũng rợn hết sức) . Ông bà Tuvache nhồi nhét vào đầu con cái họ những điều bi quan , những thảm họa , những tư tưởng muốn chết. Tuy nhiên , họ bó tay với đứa con út - Alan Tuvache- một đứa trẻ luôn lạc quan và giúp họ " khuynh gia bại sản" Nửa đầu cuốn sách là một màu xám u ám , càng về sau khi Alan dần dần thay đổi suy nghĩ của ba mẹ mình thì những màu sáng mới được vẽ lên. Nó không phải là một cuốn sách buồn về cái chết , mà lại là một cuốn sách vừa bi vừa hài , cảnh hài hước đã xuất hiện ngay từ đầu cuốn sách ( lần đầu tiên đọc một cuốn sách về đề tài này mà cười nhiều đến vậy) Mỗi một khách hàng tìm đến cửa tiệm với những lý do khác nhau và có cả tất cả các độ tuổi. Người tìm đến vì bệnh tật hoặc vì chán nản, ... Có những lý do rất quen thuộc với mình. Một trong những đoạn ấn tượng nhất là : " - Sao con lại vẽ chị ấy đang bận rộn và xinh thế hả? Con biết rõ là chị ấy luôn nói mình là đồ vô dụng và xấu lắm kia mà? -Nhưng con , con thấy chị ấy xinh - Marilyn đưa hai lòng bàn tay lên bịt tay, bật khỏi chiếc ghế đẩu và chạy biến về phía cuối cửa hàng" Mình từng trải qua những cảm xúc thật tồi tệ , như nhân vật Marilyn. Cũng đã từng thử các phương pháp ... nhưng đương nhiên là không thành công. Qua những kháh hàng chán sống đó , dường như tác giả muốn gửi gắm rằng bất kỳ một lý do , mọi lứa tuổi , chỉ cần cảm xúc tiêu cực xuất hiện , là đủ đưa họ đến với cái chết. Vì vậy đừng thờ ơ với nhưng người xung quanh mình. Nói chung cuốn sách khá đáng đọc , có những đoạn khá cảm động , chỉ tiếc cho cái kết khá bi thương và gây khó hiểu. " Sứ mệnh của Alan vậy đã được hoàn thành , nó liền buông tay ra " Thật sự không hiểu sao Alan lại phải tự tử nữa trong khi là nguời lạc quan nhất? Hay đó là một cách để tác giả làm cho độc giả phải lưu luyến? p/s : Mình đọc bản cũ , dưới tựa " Cửa hàng dành cho những kẻ ngán sống" *** Cửa hiệu tự sát được viết bởi nhà văn người Pháp Jean Teulé. Tác phẩm này từng được chuyển thể thành phim hoạt hình của Pháp mang tên “The Suicide shop” được phát hành vào năm 2013. Cửa hiệu tự sát kể về một thế giới không có thực, ở đó cuộc sống trở nên phi lý, con người có quyền được lựa chọn cái chết. Tại nơi đó có một cửa hiệu mang tên “Cửa hiệu tự sát”- nơi bán tất cả những vật dụng giúp con người có thể tự kết thúc cuộc sống của mình. Xã hội loài người phải làm thế nào để có thể mang lại ý nghĩ tồn tại? Là tình yêu? Cái gì là Ánh sáng của nguồn sống cho thế giới của họ? Một thế giới giả tưởng đầy tăm tối và chết chóc Là một cuốn sách thuộc thể loại “Phản địa đàng” (Dystopia) – thể loại sách viết về một thế giới được xây dựng từ nền tảng là thế giới mà con người hiện nay đang sống. Tuy nhiên Cửa hiệu tự sát lại là một thế giới đen tối hơn rất nhiều, đó có thể là một thế giới được gây dựng nên sau khi thế giới bị hủy diệt, hậu tận thế, hoặc một chính phủ bị lật đổ. Tuy nhiên, đây cũng là một thể loại sách rất nhân văn. Viết về cái chết để ca ngợi hạnh phúc được sống, là một cách thức để châm biếm và đả kích vào những mặt trái đang tồn tại trong xã hội loài người mà vô tình bị lãng quên hoặc buộc phải chấp nhận. Phản địa đàng là một thể loại sách khá khó đọc vì nó thường rất đen tối, khiến người đọc dễ rơi vào cảm giác nặng nề và đọng lại nhiều suy ngẫm. Nếu muốn thử trải nghiệm một thể loại sách mới, nếu muốn mở rộng cảm quan đọc của bạn thì Cửa hiệu tự sát là một khởi đầu hợp lý vì sự nhẹ nhàng tương đối của nó. Cửa hiệu tự sát hoàn toàn không phải là một tác phẩm kinh dị như cái tên mà nó gợi ra và nó cũng là một cuốn sách đỡ đen tối hơn rất nhiều so với các tác phẩm cùng thể loại. Giữa một xã hội mà cái chết được coi là khởi đầu cho mọi hy vọng, việc tự sát hoàn toàn được công nhận, người ta luôn nghĩ đến cái chết đầu tiên khi gặp bất cứ một nỗi buồn hay sự cố nhỏ nào trong cuộc sống. Cửa hiệu tự sát đề cập đến cái chết một cách tự nhiên như con người chúng ta thường nói về sự sống, thế giới được miêu tả bản chất là đen tối nhưng lại được kể một cách hài hước- một kiểu hài hước lấy ra từ những vấn đề chẳng hài hước chút nào- Đó là cách kể chuyện thường thấy của những bộ phim thuộc thể loại “Hài kịch đen” (Black comedy). Thực trạng của xã hội – “Trào lưu” tự sát Cuốn sách miêu tả rất ít ỏi về thế giới bên ngoài, tất cả những sự việc xảy ra chỉ gói gọn trong không gian của Cửa hiệu- Nơi sinh sống và buôn bán những vật dụng để giúp con người ta tự sát – của gia đình Tuvache gồm một cặp vợ chồng và ba người con lần lượt tên là Vincent, Marilyn và cậu con trai út khác biệt Alan. Những vị khách của Cửa hiệu tự sát, họ để những áp lực, sự buồn chán và nỗi cô đơn đeo bám vào cuộc đời mình khiến bản thân họ tàn tạ, thảm hại tới mức chính họ cũng phải cảm thấy nực cười và ghê tởm. Không cần những viên kẹo độc, không cần những lưỡi dao cạo sắc bén hay sợi dây thừng thắt cổ. Chỉ cần đưa cho những vị khách một chiếc mặt nạ bằng nhựa màu trắng phi nhân cách, trên mũi chiếc mặt nạ gắn một cái gương vậy là đủ để họ cười sặc sụa, thấy ghê tởm mà dẫn đến một cơn đột quỵ. Câu chuyện mà Cửa hiệu tự sát mang đến không phải là thực trạng của một thế giới tưởng tượng. Tự sát là một tình trạng đáng báo động có thực của xã hội con người. Xã hội càng phát triển, con người càng dễ bị cô lập, trầm cảm và tìm đến cái chết. Điều gì khiến một con người được tạo hóa ban cho sự sống, nhưng lại sợ cảm giác được sống? Con người thường bận tâm về những điều người khác nói về mình, thay vì tự yêu thương và chăm sóc, trân trọng những điều bản thân đang sở hữu. Marilyn – con gái của cặp vợ chồng chủ Cửa hàng tự sát là “ người thiếu nữ đẹp nhất khu phố! Không một cô gái trẻ nào trong khu phố Những Tôn Giáo Bị Lãng Quên có thể bằng cái mắt cá chân của cô (Vì cô vô cùng xinh đẹp)”. Tuy nhiên suốt nhiều năm, Marilyn luôn tự ti về bản thân, đó là bởi bố mẹ của cô luôn nói rằng cô thật xấu xí và vô dụng. Nếu con người được nghe quá nhiều về cùng một điều, họ sẽ tin điều đó là đúng. Marilyn cũng vậy. Còn anh trai của Marilyn – Vincent, đó là một cậu bé thông minh và có vô vàn những ý tưởng. Nhưng tài năng ấy lại luôn bị định hướng xuôi theo những góc nhìn tiêu cực và thậm tệ nhất. Bởi vậy, con người không trở nên bất hạnh vì xấu xí và ngu dốt. Cuộc sống là thiên đàng hay địa ngục tùy vào góc nhìn của mỗi con người. Thế giới của Cửa hiệu tự sát là một thế giới đen tối và dường như hoàn toàn không còn hy vọng. Sự ra đời của cậu bé Alan – Con trai út của cặp vợ chồng chủ Cửa hiệu tự sát giống như sự cứu rỗi mà Thượng đế đã ban tặng đến một nơi tăm tối như vậy. Cậu bé khác tất cả những người trong gia đình, khác tất cả những người khách mỗi ngày đến cửa hiệu. Cậu luôn vui tươi, lạc quan và hạnh phúc. Cậu bé làm mòn những lưỡi dao cạo, làm đứt những sợi dây thừng để thắt cổ, loại bỏ những viên kẹo độc trong lọ… và nói những điều lạc quan nhất đến với những khách hàng của gia đình – Alan làm trái tất cả những thông điệp kinh doanh của gia đình.  Alan là hiện thân cho tâm hồn thánh thiện và luôn tràn đầy lạc quan của một đứa trẻ hạnh phúc. Thế giới của Cửa hiệu tự sát là một thế giới dễ liên hệ đến thế giới của những người lớn, một thế giới mà con người giành phần nhiều thời gian của mình để làm việc và áp lực từ chính thứ công việc đó. Họ không biết cách để kết nối với người khác và luôn cảm thấy bản thân thật cô đơn, ngu dốt và nhạt nhòa. Bởi vì họ quá bận tâm tới việc làm hài lòng tất cả mọi người thay vì quan tâm tới cảm nhận của bản thân mình. Alan đã nói với một cô gái trẻ muốn được tìm đến cái chết vì “những người đồng nghiệp cho rằng cô là một người ngu ngốc” rằng: “Đó là vì cô thiếu tự tin. Vì thế cô trở nên long ngóng, nói những điều sai thời điểm. Nhưng nếu cô biết chấp nhận hình ảnh của chính mình trong chiếc mặt nạ này và yêu thương hình ảnh đó…”, “Trước tiên cô hãy kết bạn với cô gái ấy và những người khác sẽ làm theo như vậy”. Không có một cuộc sống hoàn hảo, cũng không bao giờ có được những con người hoàn hảo. Hãy luôn giữ một thái độ tích cực trước những điều bản thân còn thiếu sót và học cách tha thứ cho chính mình, đó cũng là bước đầu để nhìn cuộc sống và những người khác một cách tích cực nhất. “Cuộc đời là như thế. Nó đáng giá của nó. Nó làm những gì có thể, nó cũng có những sai lầm. Không nên đòi hỏi quá nhiều ở cuộc đời. Đến mức phải tự sát.” Một cuốn truyện rất ngắn với một cái kết dài và khó lý giải Cửa hiệu tự sát chỉ dài vỏn vẹn 188 trang giấy. Tuy nhiên lại đề cập được một thực trạng rất lớn và được toàn xã hội quan tâm – Vấn nạn của việc tự sát ngày càng gia tăng, con người coi thường cơ hội được sinh ra và tồn tại. Viết về một xã hội tối tăm nhưng không sử dụng những câu từ nặng nề, đáng sợ hay lớn lao. Thông điệp thật sự được ẩn chứa đằng sau những tiếng cười hài hước. Và một tác phẩm ngắn hoàn toàn không chứng tỏ rằng nó hời hợt, phần lớn tên các nhân vật, từ chính tới phụ rồi tới các địa danh trong truyện đều là những tìm hiểu tỉ mỉ của tác giả Jean Teulé, đằng sau mỗi cái tên ấy là một câu chuyện về những người nổi tiếng đã lựa chọn tự sát để kết thúc cuộc đời mình.  Cửa hiệu tự sát cũng có một kết thúc khá khó hiểu và mang đến nhiều suy ngẫm. Nhất định sẽ có những độc giả cảm thấy, cảm xúc của mình trước đấy giống như bị phản bội. Điều gì ẩn sau cái kết ám ảnh và khó hiểu đó? Cuối cùng sau tất cả, Là tươi sáng hay tăm tối? Là nụ cười hay nước mắt?  Hà Thúy Ngà Mời các bạn đón đọc Cửa Hiệu Tự Sát của tác giả Jean Teulé.
Cô Gái Vượt Thời Gian
Cô gái vượt thời gian là câu chuyện về Yoshiyama Kazuko, một nữ sinh trung học bất ngờ sở hữu khả năng vượt thời gian. Khi đang dọn dẹp trong phòng thí nghiệm hóa học, Kazuko bỗng nghe thấy tiếng thủy tinh vỡ. Từ trong ống nghiệm vỡ tan tành, một mùi hương ngọt ngào lan tỏa khắp không gian. "Mình biết mùi hương này!"Kazuko thoáng nghĩ. Và giây tiếp theo, cô mất ý thức, ngã xuống nền đất lạnh. Để tìm ra nguyên nhân của những bí ẩn xảy đến với mình, Kazuko buộc phải trở về quá khứ, thời điểm nguồn cơn của mọi rắc rối mà cô gặp phải.Tại đây, cô đã tìm ra kẻ thủ phạm gây nên mọi chuyện, thế nhưng cùng với đó là một sự thật khiến cô đi từ tức giận, kinh ngạc, cho đến xúc động, luyến tiếc… Không đơn thuần là câu chuyện khoa học viễn tưởng khô khan, Cô gái vượt thời gian còn khéo léo lồng vào những tâm tư, rung động đầu đời của các chàng trai, cô gái ở lứa tuổi mới lớn, còn bỡ ngỡ nhưng cũng vô cùng chân thật, chân thành. Mang thông điệp nhẹ nhàng mà sâu sắc về lòng tin, về tình bạn, tình yêu, tình thầy trò, Cô gái vượt thời gian chắc chắn là cuốn sách không thể thiếu cho những ai muốn hồi tưởng lại những năm tháng thanh xuân trong trẻo của mình. Cô gái vượt thời gian còn được chuyển thể rất nhiều lần thành phim truyền hình, phim điện ảnh và manga. Trong đó, thành công vang dội nhất phải kể đến bản live-action năm 1983 của đạo diễn Nobuhiko Obayashi và bản anime năm 2006 của đạo diễn Mamoru Hosoda, siêu phẩm từng oanh tạc doanh thu phòng vé Nhật Bản, đồng thời rinh về nhiều giải thưởng danh giá. *** Tác giả: Yasutaka Tsutsui Sinh năm 1934 tại Osaka, tốt nghiệp Đại học Doushisha chuyên ngành Văn học. Những tác phẩm tiêu biểu bao gồm: - Oinaru joso, Kyojin tachi (đoạt giải thưởng văn học Izumi Kyoka) - Kyoko sendan, Yume no kizaka bunkiten (đoạt giải thưởng văn học Tanizaki Junichiro) - Papurika, Watashino guranpa (đoạt giải thưởng văn học Yomiuri)... Gần đây, ông còn tham gia diễn xuất trong những vở kịch, phim điện ảnh và cả phim truyền hình. *** Review sách Cô Gái Vượt Thời Gian, Nguyễn Khánh Huyền:   Vì việc ra mắt khá lặng lẽ, Cô gái vượt thời gian không được xem là bom tấn của năm đó nhưng bộ phim được xem là một trong những phim thành công nhất năm 2006 và nhận được nhiều đánh giá tốt trong các liên hoan phim mà bộ phim tham dự. “Cô gái vượt thời gian” không chỉ là câu chuyện về những hiện tượng “bước nhảy thời gian” và “dịch chuyển tức thời” – những sáng kiến của con người đến từ tương lai được đề cập trong truyện, mà còn kể về những rung động đầu đời của Yoshiyama và Kazuo. Những rung động đến thật nhanh mà cũng rất đỗi trong sáng, ngây thơ. Khi phải đối mặt với những điều quá sức kì quặc và mới lạ, diễn biến tâm lí của Yoshiyama thay đổi xoành xoạch: lo sợ có, hồi hộp có, nhưng cũng cực kì can đảm và dũng cảm để tìm đến người lớn và đối mặt với thách thức để có một lời giải thích đáng cho mọi chuyện. Ngay cả khi đã phát hiện ra chân tướng sự thật, cảm xúc của Yoshiyama cũng được khắc hoạ tỉ mỉ, từ căm ghét, tức giận khi biết nguồn cơn mọi rắc rối của mình là do đâu, đến rung động, bối rối khi nhận được lời tỏ tình bất ngờ và cả những nuối tiếc khi phải nói lời tạm biệt. Tất cả đều cực kì ngây ngô và chân thật đúng với lứa tuổi mới lớn. Mặc dù nội dung rất đơn giản và ngắn gọn, nhưng chính tình cảm và hoàn cảnh đặc biệt của Yoshiyama và Kazuo, cùng lời hứa hẹn về một tương lai sẽ gặp lại nhau, là nguồn cảm hứng lớn để tác phẩm được chuyển thể sang nhiều thể loại khác. Không đơn giản là câu chuyện khoa học viễn tưởng khô khan, " Cô gái vượt thời gian " còn khéo léo lồng vào những tâm tư, rung động đầu đời của các chàng trai, cô gái ở lứa tuổi mới lớn, còn bỡ ngỡ nhưng cũng vô cùng chân thật, chân thành. Mang thông điệp nhẹ nhàng mà sâu sắc về lòng tin, về tình bạn, tình yêu, tình thầy trò, Cô gái vượt thời gian chắc chắn là cuốn sách không thể thiếu cho những ai muốn hồi tưởng lại những năm tháng thanh xuân trong trẻo của mình. *** “Cô gái vượt thời gian” gồm ba mẫu truyện ngắn: “Cô gái vượt thời gian”, “Chân tướng của ác mộng” và “Vũ trụ đa nguyên”. Tác giả tập trung khai thác yếu tố viễn tưởng thông qua từng câu chuyện, ở mỗi câu chuyện là những bí ẩn khác nhau và đều được ông lí giải cặn kẽ, nhưng tất cả không chỉ là những cuộc phiêu lưu khám phá những điều huyền bí đơn thuần, mà còn chất chứa cả những tâm tư, tình cảm ngây ngô của tuổi mới lớn. Truyện ngắn “Cô gái vượt thời gian” đã từng được chuyển thể qua rất nhiều thể loại truyện tranh, anime, kịch, phim truyền hình,…, Trong đó, gần nhất và được giới trẻ biết đến rộng rãi nhất hẳn phải kể đến anime movie The girl who leapt through time do Mamoru Hosoda đạo diễn, nhưng bản thân cốt truyện gốc lại khá đơn giản. Những rắc rối, phiền muộn xảy ra với Yoshiyama và cả việc giải quyết chỉ diễn ra vỏn vẹn trong vòng vài ngày. Giọng văn đơn thuần và mộc mạc đứng từ góc nhìn của Yoshiyama – một cô gái chỉ mới 15 tuổi, nên tình tiết câu chuyện dù dồn dập cũng không quá hồi hộp hay khiến người đọc phải bối rối mà tạo một cảm giác cuốn hút vừa đủ. Trong một ngày học tập bình thường như bao ngày, tình cờ nghe phải một mùi oải hương quen thuộc, sau khi ngất xỉu và tỉnh dậy, Yoshiyama bỗng dưng có được siêu năng lực: cô có thể “vượt thời gian” và quay lại những thời điểm trong quá khứ. Có được năng lực này, Yoshiyama không hề háo hức mà ngược lại rất e dè và lo lắng, chỉ mong sao có thể sớm trở về trạng thái bình thường. Và thế là hành trình đi tìm lời giải của cô bắt đầu. Nhưng “Cô gái vượt thời gian” không chỉ là câu chuyện về những hiện tượng “bước nhảy thời gian” và “dịch chuyển tức thời” – những sáng kiến của con người đến từ tương lai được đề cập trong truyện, mà còn kể về những rung động đầu đời của Yoshiyama và Kazuo. Những rung động đến thật nhanh mà cũng rất đỗi trong sáng, ngây thơ. Khi phải đối mặt với những điều quá sức kì quặc và mới lạ, diễn biến tâm lí của Yoshiyama thay đổi xoành xoạch: lo sợ có, hồi hộp có, nhưng cũng cực kì can đảm và dũng cảm để tìm đến người lớn và đối mặt với thách thức để có một lời giải thích đáng cho mọi chuyện. Ngay cả khi đã phát hiện ra chân tướng sự thật, cảm xúc của Yoshiyama cũng được khắc hoạ tỉ mỉ, từ căm ghét, tức giận khi biết nguồn cơn mọi rắc rối của mình là do đâu, đến rung động, bối rối khi nhận được lời tỏ tình bất ngờ và cả những nuối tiếc khi phải nói lời tạm biệt. Tất cả đều cực kì ngây ngô và chân thật đúng với lứa tuổi mới lớn. Mặc dù nội dung rất đơn giản và ngắn gọn, nhưng chính tình cảm và hoàn cảnh đặc biệt của Yoshiyama và Kazuo, cùng lời hứa hẹn về một tương lai sẽ gặp lại nhau, là nguồn cảm hứng lớn để tác phẩm được chuyển thể sang nhiều thể loại khác. “Vũ trụ đa nguyên” là nơi tác giả thể hiện quan niệm của mình về thuyết thế giới song song, khi cho rằng vũ trụ mà ta sinh sống là một “tấm màn vải dệt từ rất nhiều những sợi chỉ dọc và ngang”, mà thế giới có lịch sử là sợi chỉ dọc, còn sợi chỉ ngang đại diện cho thời gian đã chia thế giới có lịch sử thảnh vô vàn những thời điểm khác nhau. Bằng câu chuyện bi hài của Nobuko khi du hành từ thế giới này sang thế giới khác, gặp gỡ bản thân mình và những người chung quanh trong những phiên bản khác nhau, tác giả đã thể hiện một tâm lí thường thấy ở con người: Thật kì lạ rằng khi chúng ta đã có thể sống một cuộc sống mình mơ ước, người bên cạnh cũng là một phiên bản mà chúng ta kỳ vọng, nhưng chúng ta vẫn luôn hoài niệm và chỉ mong có thể trở về thế giới cũ mà thôi. Khác với hai câu chuyện còn lại, “Chân tướng của ác mộng” không khai thác những yếu tố viễn tưởng mang tính vĩ mô như thế giới song song hay du hành thời gian mà chỉ đơn thuần là quá trình Masako “hoá giải” nỗi sợ hãi của em trai mình, cũng như chính ám ảnh về cây cầu dài và chiếc “mặt nạ quỷ” của bản thân. Truyện ngắn gợi nhiều hình ảnh kinh dị và ghê rợn, nhưng khi khám phá ra thì lại đầy bất ngờ và dễ thương. Sự gắn bó giữa Masako và Bunichi, cách mà họ cùng nhau vượt qua những nỗi sợ hãi, hay tình bạn trong sáng của Masako và Etsuko, và cả sự trưởng thành, mạnh mẽ lên của Yoshio, luôn được tác giả lồng ghép khéo léo trong nội dung của câu chuyện. Trong những truyện ngắn của Yasutaka Tsutsui, các nhân vật luôn dễ dàng chấp nhận và đương đầu mỗi khi có thách thức mới đến. Cũng như dễ dàng tha thứ, bỏ qua cho nhau dù đã phải chịu nhiều rắc rối vì đối phương. Nét đặc biệt nhất của “Cô gái vượt thời gian” có lẽ chính là ở đó, sự đơn thuần và dễ mến trong tính cách của từng nhân vật, sự tin tưởng và những tình cảm ngây ngô, hồn nhiên đều khiến người đọc thấy thoải mái và nhẹ nhàng. Có thể nói, “Cô gái vượt thời gian” là nơi Yasutaka Tsutsui thể hiện những quan điểm của mình về các giả thuyết viễn tưởng, bằng cách giản đơn và dễ hiểu nhất. G1nergy Takoyaki Mời các bạn đón đọc Cô Gái Vượt Thời Gian của tác giả Yasutaka Tsutsui.