Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF Phê bình văn học - Thế hệ 1932

Ấn phẩm “Phê bình văn học thế hệ 1932” của tác giả Thanh Lãng được nhà xuất bản Phong Trào Văn Hoá ấn hành lần đầu tiên năm 1972. Ấn bản đang được lưu giữ ở Quán sách Mùa Thu trọn bộ 2 cuốn. Sách có tình trạng rất tốt, bìa gốc, lõi sách và gáy sách đều rất đẹp. Để biên soạn được bộ sách này, Thanh Lãng đã để ra gần 15 năm làm việc với bốn năm thư ký. Ông cho biết, thời gian trước đó, nói đến Lịch sử Phê bình Văn học ở Việt Nam, người ta mới chỉ dựa vào các sách Phê bình đã xuất bản mà chưa đi tìm các bài phê bình còn nằm rải rác trên khắp các báo xuất bản từ năm 1932 đến năm 1945. Tác giả đã để ra 15 năm trời để đọc và trích tất cả các bài phê bình in rải rác trên các báo xuất bản từ năm 1932 đến năm 1945. Rồi từ đó, trình bày cho học trò, các sinh viên Ban Văn chương Việt Nam trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, một cái nhìn tổng quát về sinh hoạt phê bình văn học suốt 13 năm, từ 1932 đến năm 1945 kèm theo đầy đủ tài liệu. Với tất cả các tờ báo, ông đã phân tích tỉ mỉ, ghi nhận xem có bao nhiêu biên tập viên, đường lối, chính sách của mỗi tờ báo, rồi trích tuyền các bài cần trích tập hợp lại trong bộ sách này. Bộ sách này gồm có 04 phần: Lịch sử NỀN PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM thế hệ 1932- 1945. Lịch sử NỀN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM thế hệ 1932- 1945. Lịch sử NỀN THI CA VIỆT NAM thế hệ 1932- 1945. Lịch sử NỀN SÂN KHẤU VIỆT NAM thế hệ 1932- 1945. 

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Sợ Sống - Lê Văn Trương PDF
Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964), bút hiệu Cô Lý, là nhà báo, nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Ông sinh tại làng Đồng Nhân, nay là khu phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội. Cha ông gốc người Hà Đông, lên lập nghiệp ở Bắc Giang. Trước Cách mạng Tháng Tám, Lê Văn Trương làm rất nhiều nghề: Công chức Sở Dây thép, khai khẩn đồn điền, thầu khoán, buôn bò, buôn ngọc, buôn lậu... ở nhiều nơi, có khi sang tận Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc. Song, về sau, ông cộng tác với nhiều báo như: Trung Bắc tân văn, Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Truyền bá, Việt Nam hồn… Sau Cách mạng Tháng Tám, ông theo kháng chiến, làm Chủ tịch Ủy ban Đãi vàng Bắc Bộ, vào bộ đội, công tác ở Tiểu ban Văn nghệ, Ban Tuyên huấn thuộc Phòng Chính trị Liên khu III. Sau bị bệnh, ông xin phép về Hà Nội chữa bệnh. Đầu năm 1954, ông vào Sài Gòn làm thầu khoán, viết báo, tái bản sách cho đến cuối đời.Tủ Sách Người HùngSợ SốngNXB Lê Cường 1942Lê Văn Trương157 TrangFile PDF-SCAN
Suối Đàn - Lan Khai PDF (NXB Cộng Lực 1942)
Trong 17 năm cầm bút (1928 – 1945), ông để lại cho nền văn học VN hàng trăm tác phẩm đủ các thể loại. Chỉ tính từ 1939 đến 1942, Lan Khai đã để lại gần 50 cuốn sách các loại, có thể chia làm ba loại: tiểu thuyết tâm lý xã hội, tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết đường rừng. Ngoài ra ông còn viết Nghiên cứu lý luận văn học, dịch sách và sưu tầm văn học dân gian các dân tộc thiểu số vùng cao. Tiểu thuyết đường rừng: Tiếng gọi của rừng thẳm (Tân Dân xuất bản, 1939 Truyện đường rừng (Tân Dân xuất bản, 1940 Dấu ngựa trên sương (Hương Sơn xuất bản, 1940 Chiếc nỏ cánh dâu (Duy Tân xuất bản, 1941 Suối đàn (Cộng Lực xuất bản, 1942)Suối ĐànNXB Cộng Lực 1942Lan Khai150 TrangFile PDF-SCAN
Tại Tôi - Hồ Biểu Chánh PDF
Mâu thuẫn ngày càng tăng giữa vợ chồng Như Thạch – bà Cả Kim – cô Phụng, chị Như Thạch, nên vợ chồng chàng từ bỏ tất cả trở lên Sài Gòn lập nghiệp. Tại đây Như Thạch đi dạy học, sống trong nghèo khổ và nuôi vợ đang mang thai. Sau khi cô Nhung sinh con thì cô bị bệnh rồi mất. Đứa con gái được đặt tên Thanh Nguyên. Không lâu sau, chính Như Thạch cũng qua đời do bênh lao. Lúc lâm trọng bệnh, Như Thạch viết lá thư kể rõ sự tình, mong bà Cả Kim tha thứ và đem cháu về nuôi, nhưng không thấy hồi âm, nên lúc hấp hối chàng đành gởi con gái Thanh Nguyên lại cho bạn đồng môn của mình là Tự Cường cùng tờ di ngôn và bảo Tự Cường cố giữ kín tung tích Thanh Nguyên, chờ khi cô 18 tuổi…Tại TôiNXB Đức Lưu Phương 1938Hồ Biểu Chánh204 TrangFile PDF-SCAN
Thanh Niên Với Ái Tình PDF (NXB Đời Mới 1943) - Nguyễn Lương Bích
Tự nghìn xưa, người ta đã nói đến ái tình. Và tự nghìn xưa, mỗi người quan niệm ái tình một khác. Sự trái ngược nhau ấy là do lẽ : ái tình chưa được hiệu tới triệt-để. Ca-ngợi ái-tinh là những ai chỉ mới được nếm cái phần ngon ngọt nhất của ái tình, hoặc đã đuợc nếm cả mùi tan khổ, nhưng lờ đi, để chiều theo xu-hướng của thế tình. Hoặc chưa được một lần biết cái hương-vị yêu-đương, nhưng khát-khao và mờng-tượng những cái tình hay ho, đẹp-đẽ, tả trong những văn thơ đã được coi. Người ta a-dua sách-vở mà ca-ngợi ái-tình.Thanh Niên Với Ái TìnhNXB Đời Mới 1943Nguyễn Lương Bích168 TrangFile PDF-SCAN