Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đầu Xanh Tuổi Trẻ

Review Nguyễn Hữu Cát:   Không hiểu sao khi đọc xong “Crôtcaia” – một truyện ngắn giả tưởng của Dostoevsky, tôi cứ luôn ao ước (như Pautopsky) được nhìn vào đôi mắt của nhà văn, nơi câu chuyện được sinh ra. Chẳng biết khi đặt bút viết những lời kết, có dòng lệ nào lăn chảy trên gương mặt gày gò của ông hay không và đôi mắt màu nâu xám có ánh lên tia nhìn buồn bã, thương cảm và bàng bạc niềm u uẩn không? Chỉ biết rằng nếu được nhìn vào đôi mắt ông, có thể tôi sẽ hiểu được nhiều điều bên dưới những con chữ kia. Phải, truyện ngắn này gây cho tôi một ấn tượng đặc biệt, một xúc cảm mạnh mẽ và một chấn động kinh hoàng. Nó giống như một cơn mộng mị mà khi tỉnh dậy ta còn bàng hoàng không biết là thực hay là mơ? Dostoevsky thích tạo ra mâu thuẫn và những điều bí mật, thậm chí “những điều kỳ quặc” trong kết cấu tiểu thuyết của mình và cho rằng không nhất thiết một tác phẩm phải trình bày tuần tự, sáng rõ để người ta hiểu ngay từ lúc ban đầu. Ông có thiên hướng kích thích người đọc phải săn tìm những điều bí mật ẩn sâu trong tác phẩm. Chính vì thế, ông thường tạo kịch tính ngay ở đầu, ngay ở phần mở đầu tiểu thuyết với những câu hỏi hóc búa. Ông cũng làm như thế với những truyện ngắn của mình. Từ hình thức tự do không giới hạn của tiểu thuyết chuyển sang hệ thống chặt chẽ và khép kín của truyện ngắn, Dostoevsky đã đạt đến đỉnh cao mới của nghệ thuật viết truyện. “Crôtcaia” (hay “Người đàn bà nhẫn nhịn”) là một truyện ngắn bi kịch có sức mạnh phi thường, nó đạt tới độ tự chiếu sáng, vừa trong sáng, mực thước như một họa phẩm chân dung của Rembrant thời Phục hưng, vừa sâu sắc, súc tích như một thi phẩm tình yêu của Puskin. Đọc truyện “Crôcaia” ta có cảm giác như bước vào một căn phòng tối, xa lạ, không nhìn thấy gì và không biết gì hết. Đến khi quen với bóng tối, mắt ta trở nên tinh hơn và bắt đầu nhận biết được các sự vật. Dostoevsky đã phá hủy hình thức bền vững của truyện ngắn cổ điển, ông đưa người đọc đến ngay một sự cố bất thường rồi sau đó phát triển số phận và nhân cách của nhân vật trong giới hạn của sự căng thẳng tinh thần mà nhân vật phải đối đầu. Nói cách khác, nội dung và tính kịch của truyện ngắn được khép kín trong vòng tròn độc nhất của “tai biến nội tâm”. Tất cả được tập trung, xâu chuỗi, đắp nổi cho hình tượng nhằm làm nổi bật cái chấn động tinh thần dữ dội ở nhân vật. Tấn bi kịch của câu chuyện được nhà văn gỡ nút ngay từ sự gợi mở ban đầu: Một người chồng đau khổ, trên bàn của anh ta là thi thể người vợ, trước đó mấy giờ cô ấy lao mình ra ngoài cửa sổ tự tử. Anh ta đang trong cơn bối rối, hoảng loạn, và muốn hiểu chuyện gì đã xảy ra, cố gắng “tập trung mọi ý nghĩ vào một điểm”. Đoạn kết của câu chuyện được đặt thành đoạn mở đầu đã xác định cấu trúc vòng tròn của truyện ngắn. Đó là kiểu “truyện ngắn xoáy trôn ốc”, các đường xoáy của nó tách ra dần điểm xuất phát nhưng điểm gỡ nút ở cuối đường xoáy lại được đặt ngay lên phần đầu. Chương đầu tiên có tên gọi: “Tôi là ai và nàng là ai”. Nhà văn bắt đầu đưa người đọc dõi theo tiểu sử của nhân vật nữ chính trong truyện, số phận bất hạnh của cô cùng tính cách của một tâm hồn non trẻ bị xúc phạm và đè nén trước những bước đi thô bạo của cuộc đời. Mồ côi cha mẹ từ năm mười hai tuổi, cô phải sống trong sự ghẻ lạnh của hai bà dì và gần như trở thành nô lệ cho họ. “Chẳng có tội gì họ cũng đánh đập nàng, cũng đem miếng cơm, manh áo ra mà chửi nàng. Kết cục là họ có ý định đem bán nàng đi”. Thế là Crôtcaia lúc bấy giờ sắp bước sang tuổi mười sáu phải tìm mọi cách thoát thân bằng việc đăng báo tìm việc làm hoặc chốn nuôi ăn. Để có tiền trả công quảng cáo, cô đã phải đem đến tiệm cầm đồ những vật rẻ tiền của cha mẹ: một đôi hoa tai bạc mạ vàng, một cái huy chương bong nước mạ, một viên đá chạm, bức tượng thánh cổ có cái khung bằng bạc… Trong những thứ đó, bức tranh thánh là một hình ảnh nghệ thuật đầy sức ám ảnh mà chúng ta sẽ thấy trong phần cuối cùng của vở bi kịch và đóng vai trò quyết định trong việc hình thành ý đồ sáng tác của Dostoevsky. Đan lồng với câu chuyện số phận của nhân vật nữ là câu chuyện tiểu sử của ông chủ hiệu cầm đồ – sau này là chồng của cô và là người kể lại toàn bộ tấn bi kịch. Đó là một người đã luống tuổi, nghiêm nghị và lãnh đạm với mọi người. Ông ta bị đuổi khỏi trung đoàn và bị sỉ nhục là hèn nhát, không dám nhận lời thách đấu với kẻ thù đã nói xấu cấp trên của mình. Nhưng bản thân ông ta không chấp nhận sự xúc phạm này, dũng cảm coi thường dư luận và sự kết tội bạo ngược. Thế là “từ một người cao thượng ông ta trở thành một người cho vay nặng lãi”. Toàn bộ không gian câu chuyện đều dành hết cho hai nhân vật này. Mặc dù kết cấu của truyện ngắn là tính cô đọng nhưng hai nhân vật này đều được miêu tả khá cặn kẽ qua bút pháp của nhà văn. Như một nghệ sĩ nhiếp ảnh bậc thầy, Dostoevsky nắm bắt những khoảnh khắc đáng ghi nhớ ở nhân vật, làm sống động những vẻ đẹp chợt hiện ra. Ông đặc biệt chú ý đễn những biểu hiện đa dạng trên nét mặt con người, bởi “chỉ trong những khoảnh khắc hiếm hoi, nét mặt con người mới thể hiện rõ đặc điểm cơ bản của mình” (tiểu thuyết ” Đầu xanh tuổi trẻ”). Trên nét mặt Crôcaia thể hiện một nỗi u uẩn, sự kinh ngạc nhiều khi thành hãi hùng trước những cơn bão tham tàn của cuộc đời và cả sự cao thượng của một tâm hồn thơ trẻ. Vóc dáng bề ngoài của cô không quá đặc biệt nhưng vẫn gây chú ý và thiện cảm tới người đọc: vóc người mảnh dẻ, tóc vàng, đôi mắt màu xanh, to đẹp, và trầm ngâm. Cái nhìn nhiều khi nghiêm khắc và nụ cười luôn chứa đựng hoài nghi. Toàn bộ con người Crôtcaia cho tôi cái cảm giác về một sự lắng đọng và chưa định hình của đường nét. Nó giống như bức tranh vừa được phác thảo bằng bút chì. Bên cạnh đó, chân dung tự họa của nhân vật kể chuyện giúp ta hình dung rõ nét hơn mặc dù chỉ là những nét khái quát: đó là một sĩ quan về hưu của một trung đoàn lừng danh, một người có vóc dáng cân đối, cao đẹp và có học thức. Cái nút lãng mạn của câu chuyện mà từ đó tấn bi kịch xảy ra chính là mối quan hệ của người cho vay nặng lãi với cô gái nghèo đáng thương. Cô gái lấy người cho vay nặng lãi. “Thực ra cô ta chẳng biết nhờ cậy vào ai”. Cái ý nghĩ “năm nay tôi bốn mươi mốt tuổi còn nàng vừa đến tuổi mười sáu” đã mê hoặc người kể chuyện – “đó là cảm giác không cân đối, ngọt ngào quá, ngọt ngào quá”. Thế nhưng thực tế, cuộc sống vợ chồng của họ thì ra sao? Có ngọt ngào không? Chính trong lúc bắt đầu một cuộc sống mới với người vợ trẻ, ông ta đòi hỏi một tình cảm lớn, phác thảo những suy nghĩ, mở ra những ý định và những dự kiến thầm kín. Ông ta “tạo ra cả một hệ thống”, một sự nghiêm khắc, giá lạnh, kìm hãm niềm hăng say của tuổi trẻ, một quá trình tính toán nhưng điều độ, lịch thiệp nhưng hết sức tiết kiệm. Và điều quan trọng nhất chính là sự tiết kiệm, ông ta cần có ba chục ngàn để đến sống vĩnh viễn ở Crưm. Tuy nhiên, câu chuyện về cuộc sống vợ chồng của họ tự nó “đi bước đầu tiên”. Một sự im lặng bao trùm, một sự lạnh lung khó hiểu, ngoài những cơn cãi cọ thì giữa họ là một khoảng lặng. “Nổi loạn và độc lập” – đó là những gì bắt đầu manh nha trong tâm tính Crôtcaia, “nàng phản kháng không phải là sự nghèo khổ, mà dường như là tính tằn tiện trong việc tiết kiệm” của chồng. Mối bất hòa của họ tăng lên khi nàng đột nhiên nghĩ ra cách trả tiền theo cách riêng của mình, đánh giá các đồ gửi cao hơn giá trị và đã không được sự chấp nhận của chồng, vốn là người tiết kiệm và ghét thói xa xỉ. Thế là Crôtcaia nổi loạn. Dostoevsky đặt tiêu đề cho chương này là “Người đàn bà nhẫn nhịn vùng lên”. Cô ta quyết định trả thù người làm ơn nhưng cũng là người làm khổ cô ta. Để trả thù, cô tìm đến người bạn cũ của chồng, viên sĩ quan Ephimovich, kẻ khởi xướng việc đuổi chồng cô ra khỏi trung đoàn và đã hẹn hò với hắn ta. Nhưng ngay trong buổi hẹn hò đầu tiên của họ, người chồng đã theo dõi họ từ gian phòng bên cạnh với khẩu súng lục trong túi. Dostoevsky đã diễn tả một cách ngắn gọn và hàm súc cuộc gặp gỡ này như một đoạn phim ngắn. Nhân vật nữ “trong phim” đã tạo ra cao trào khi chính cô đã tỏ ra là một người cao thượng, một kẻ vô tội, “cơn thịnh nộ làm cho trái tim nàng thốt ra những lời cay độc” trước tên Ephimovich. Điều này đã khiến người chồng tin tưởng vào sự trong sạch của nàng. Anh ta phá ngang vở kịch bằng cách mở tung cửa và đưa Crôtcaica đi. Thế nhưng, bi kịch lại nối tiếp bi kịch, một xung đột mới tiếp ngay sau sự kết thúc của xung đột trước. Đỉnh điểm của câu chuyện bắt đầu khi người thiếu phụ trẻ dí mũi súng vào thái dương người chồng đang ngủ. Nhưng thực ra ông ta không hề ngủ. Ông ta biết hết chuyện gì đang diễn ra. “tôi nghe thấy tất cả, mặc dù lúc đó là thứ im lặng chết chóc, nhưng tôi nghe thấy thứ im lặng đó”. Mắt họ đã giao nhau chính trong khoảng khắc chết người đó. Một hành động co giật đã khiến ông ta mở mắt và bốn mắt họ gặp nhau. Tại sao ông ta không chống cự lại? “Cuộc sống của tôi còn để làm gì nữa sau khi con người mà tôi say đắm đã nâng khẩu súng chĩa vào tôi?”. Hóa ra ở thẳm sâu tâm hồn người cho vay nặng lãi nghiêm khắc và lãnh đạm này vẫn ẩn giấu một tình cảm lớn lao, câm lặng và vô vọng. Dostoevsky đã tạo dựng một tấn bi kịch nghẹt thở ngay ở điểm trung tâm của câu chuyện. Một bước ngoặt bất ngờ của một mưu đồ đã được vẽ ra nhưng mờ khuất trong cuộc khủng hoảng sâu sắc của những biến động nội tâm. Và từ đây, câu chuyện đột ngột rẽ sang một hướng khác. Đúng hơn là rơi vào một khoảng ngưng dài mà tính kịch của nó chỉ tiếp tục khi có sự bột phát và chấn động mới ở tâm hồn nhân vật. Phần thứ nhất của câu chuyện dừng lại ở cuộc ly hôn giữa đôi vợ chồng trẻ. “Cô ta đã thắng nhưng không được tha thứ”. “Yêu đời vì đời, và mơ mộng vì tình yêu thực tại“, làm khổ mình vì mình và yêu thương kẻ khác cũng vì mình, nhân vật của Dostoevsky nhiều khi khiến chúng ta không thể hiểu nổi. Họ hiền hậu, vô tâm, lãnh đạm, hoặc ác nghiệt chăng? Không hoàn toàn! “Họ là những người của sự bắt đầu lại“(Xvaig). Họ luôn bị kích động và rối loạn. Họ như đến từ thế giới khác, họ thờ ơ với tất cả, coi khinh tất cả và chẳng trông mong điều gì. Dường như Dostoevsky đã không thể như các nhà văn khác ( Dicken chẳng hạn) chỉ ra cho các nhân vật của mình cái thi vị dưới lớp tro của cuộc sống hàng ngày đơn điệu và bắt họ hãy an lạc trong chính bản thân mình. Các nhân vật của ông thường hay nổi loạn, “ý chí của họ phủ nhận cõi hạ giới này và ngang nhiên bất bình với cuộc đời trước mắt” và điều đáng sợ hơn là họ chối bỏ những gì là thân thiết với mình, sẵn sang bùng cháy như một ngọn lửa. Ở hai nhân vật chính của câu chuyện này, ta có cảm giác niềm căm phẫn luôn giống tình yêu và tình yêu luôn giống niềm căm phẫn. Với họ, mỗi oán thán là một lỗi lầm, và mỗi nhún nhường là một biểu hiện yếu đuối. Họ ngấm ngầm đối đầu nhau, không ai phục ai, không ai nhường ai. Tuy nhiên, cuộc giằng co này đã bị phá vỡ ở phần tiếp của câu chuyện trong một xung đột tâm lý mới. Đỉnh điểm của tấn bi kịch sẽ hòa lẫn với đoạn kết của nó. Tình yêu của người chồng đối với Crôtcaia là sự căm phẫn đã được biến đổi, là lòng thương hại chuyển hóa từ nỗi khỉnh bỉ, là sự hờn dỗi, báo thù, hành hạ, song xen vào tất cả, có một thứ tình cảm ấm nóng nguyên sơ, một tình yêu say đắm chân thành vẫn luôn im lìm, ấp ủ nhựa sống bên trong con người ông ta. Chính hạt giống tinh thần ấy đã đánh vỡ sự lạnh lùng đông cứng trong tâm hồn người cho vay nặng lãi. Ông ta “không thể kìm hãm cơn hào hứng đã sôi động trong trái tim”, “toàn bộ con người tôi xốn xang và thế là tôi té xỉu dưới chân nàng. Đúng là tôi đổ vật vào chân nàng. Nàng đứng phắt dậy, nhưng tôi đã huy động một sức mạnh phi thường dang cả hai tay ôm chặt nàng lại”. Hành động của người chồng là biểu hiện “đầy say mê đến mức độ đau khổ” những cơn dằn vặt đầy ẩn ức đã chất chứa trong lòng ông bấy lâu. Ông ta cứ nhắc đi nhắc lại từng phút một: “anh sẽ không đòi hỏi bất cứ điều gì nơi em, em không phải trả lời anh bất cứ câu gì, em hoàn toàn không phải để mắt đến anh, chỉ cần cho anh được đứng nơi góc nhà nhìn em là đủ, em hãy biến anh thành một thứ đồ vật, thành một con chó con của em”. Rồi ông ta rủ cô đi về miền Nam, đi Pháp, “mà cái chủ yếu là phải đi Bulônnhơ, đi Bulônhơ!”. Ông ta tin rằng Bulônnhơ là tất cả, rằng ở đấy sẽ có một cái gì kết thúc trọn vẹn, và “tình hình sẽ khác hẳn“. Thế nhưng chính trong cái thời điểm ông ta đang cao hứng, đang tràn trề hi vọng, đang tin tưởng một cách nhiệt thành rằng “màn khói sắp rơi xuống” thì tai họa cuối cùng chín muồi, mọi thứ đột nhiên sụp đổ. Cơn bộc phát nội tâm và niềm say mê muộn màng của người chồng đã chẳng đem đến một tia sáng nào. Crôtcaia đã từ chối những tình cảm mãnh liệt đến với mình. Nàng cầm trong tay vật thiêng liêng – bức tranh thánh mà cha mẹ để lại – nhảy qua cửa sổ giữa đôi tay giang rộng của Thần chết. Vụ tự tử này nằm trong sự tương phản nội tại của sự kiện, sự kết hợp bất thường giữa nỗi tuyệt vọng và niềm tin, giữa hủy diệt và cơ hội phục sinh, giữa cái chết và tình yêu. Cái kết cục bi kịch đã tháo tung ra mọi quan hệ thầm kín và rắc rối. Người chồng gắng sức biện bạch bằng sự ngẫu nhiên. Chính điều này là lý do mà ngay từ sự xuất hiện ban đầu, ông ta đã đem lại cho tôi ấn tượng về sự ngu dại. Tuy nhiên, sau đó tôi phải thay đổi ngay cách nhìn của mình, chính sự ngẫu nhiên cay đắng đã đẩy ông ta vào cơn đau khổ cùng cực, khiến cho tâm hồn ông ta bị vỡ tung ra thành nhiều mảnh. “Điều chủ yếu, điều đáng giận là tất cả những chuyện ấy lại là ngẫu nhiên, một thứ ngẫu nhiên đơn giản, dã man và hủ lậu!”. Ông ta gào lên: “Ôi man rợ, man rợ! Vô lý! Không có lẽ! Không thể thế được!” Sự trùng hợp quái ác nào đây, cơn điên loạn cùng cực nào đây, địa ngục tăm tối nào đây, lỗi lầm mù quáng nào đây? Hay tất cả chỉ là trò chơi tàn nhẫn của định mệnh, là sự trêu cợt cố ý của tạo hóa? Nhân vật gần như phát điên, ông ta đang trong sự đày ải của ý thức, trong những đau khổ giằng xé, trong những cơn sốt, những cơn co thắt. Kẻ cô đơn giờ đây đã mất hết mọi thứ, ông ta chẳng còn thiết tới những luật lệ nữa, tự nguyện dứt bỏ mọi quy luật của cuộc sống. “Người ta bảo rằng mặt trời làm sống dậy vũ trụ. Bao giờ mặt trời mọc lên, các vị thử nhìn mà xem, đó chẳng phải là một xác chết hay sao? Tất cả đều chết, khắp nơi là những xác chết”. Đối với con người đang vấp phải những chấn động dữ dội trong tinh thần thì mọi cái đều đã tiêu ma. Còn gì níu kéo nữa đâu? Thiên nhiên, tín ngưỡng, đạo đức, tình yêu, lòng vị tha…? Cái gì có thể lấp đầy sự trống rỗng của tâm hồn ta khi người con gái ta yêu đã rời bỏ ta, rồi ta sẽ ra sao? Ta đã chết niềm tin vào cuộc sống với những nguyên tắc và quy luật của nó, ta còn có thể làm gì đây, còn có thể làm gì khi chính chúng đã xúc phạm ta??? Có thể nói,”Crôtcaia” là một mẫu mực xuất sắc về độc thoại nội tâm của Dostoevsky. Thông qua quá trình nhận thức mọi biến cố đã xảy ra bằng cách “cố gắng tập trung mọi ý nghĩ vào một điểm” và cách lập luận, suy nghĩ biện chứng phức tạp của người kể chuyện, nhà văn đã ghi lại tư tưởng hỗn loạn, tuyệt vọng của con người đau khổ khiếp sợ trước sự cô độc của mình. Ở đây có một cái gì thầm lặng và khó đoán định. Một cái gì gần như là chân lý. Sự khủng hoảng thế giới quan, những chấn động tư tưởng và sự sụp đổ tinh thần phải chăng là tấn bi kịch muôn đời của con người? Muốn viết được một câu chuyện có sức hấp dẫn nghệ thuật đặc biệt, nhà văn “cần phải dự trữ một hoặc một vài ấn tượng mạnh mẽ mà con tim tác giả đã thể nghiệm thực sự” (Dostoevsky). Tất cả những gì được truyền tải qua các hình tượng nghệ thuật đều mang trên mình nó dấu ấn những xúc động, tình cảm, khát vọng của nhà văn, những cơn “lắng đọng trong câm lặng” và cả “những giây phút hào hển của những khoảnh khắc bi tráng”. Nhà văn phải hóa thân thành hình tượng đã tưởng tượng ra. Điều này không hề dễ dàng. Ở tác phẩm này, Dostoevsky đã phải hóa thân vào hai nhân vật, khi là cô gái nhu mỳ mười sáu tuổi với tâm lý thơ trẻ, với những cơn bộc phát cảm xúc, thốt nhiên bừng giận, thốt nhiên hổ thẹn, khi thì trở thành người đàn ông cho vay nặng lãi với những cơn kịch biến trong tư tưởng và tâm hồn. Trong những lần hóa thân ấy, cái được nhận thức và cái được thể nghiệm đã kết thành một hợp chất hữu cơ. Tuy nhiên, phạm vi của cái được nhận thức và chiều sâu của cái được thể nghiệm nhiều khi không hề trùng khớp với nhau. Chính điều này đã tạo nên vẻ bí mật cho các nhân vật của Dostoevsky mà chính ông cũng không thể lường hết được rốt ráo cái chiều kích khôn lường của tâm hồn nhân vật và chụp cho nó cái khung. Bóng dáng của chúng không phải khoan thai bước từng bước vững chãi trên “đại lộ của đời thương” mà chập chờn trong cuộc dấn thân miên man vào “mê lộ của cái khác thường”, trong bóng tối, ảo giác, với những nỗi ám ảnh, những cơn khô kiệt, những cuộc hủy diệt, nổi dậy, tan rã. Ở Crôtcaia và người đàn ông cho vay nặng lãi, chúng ta nhìn thấy một sự bùng cháy bên trong, sự bùng cháy tưởng như có thể đè nát ý thức nhân vật và ở đỉnh điểm của nó có khả năng đưa đến nỗi đau khổ vô bờ bến. Mọi thể chế, quy phạm của truyện ngắn cổ điển dường như đánh mất mình ngay trong tác phẩm này của Dostoevsky. Ông đã đặt toàn bộ cuộc đời con người vào hình thức nhỏ bé của truyện ngắn, chỉ ra ranh giới giữa vĩnh cửu và thân xác phù sinh của họ, thông qua những mâu thuẫn, giằng xé để đi đến đường biên tột cùng của sự nổi loạn. Và tất cả được thể hiện bằng những phương pháp và nguyên tắc sáng tạo cao nhất của nhà văn. “Crôtcaia” đã đem đến cho tôi nhiều suy nghĩ mới mẻ, nhiều ấn tượng lạ lẫm về cuộc sống và chiều sâu thế giới tinh thần con người. Tác phẩm đã không cho phép tôi quên tình cảm cao thượng của sự nhún nhường, những đày ải của sự câm lặng và nỗi đau có thể đến từ những điều ta không thể ngờ. Có lẽ chưa từng có truyện ngắn nào khiến tôi phải thổn thức nhường ấy, nào biết đó là nỗi thổn thức của riêng tôi hay là nỗi thổn thức của cả cuộc sống đây…? (24/01/2013) *** Dostoievski: tiếp tục Ngập ngừng, tôi định viết tiếp bài ở kia, rồi tôi lại thôi, chờ đợi tiếp. Chờ đợi cái gì thì tôi không rõ. Cuốn tiểu thuyết Thằng ngốc là một trong những gì gây choáng ngợp nhất mà Dostoievski từng viết, sự choáng ngợp bắt đầu từ dòng đầu tiên, khi đoàn tàu hỏa từ hướng Vacsava bắt đầu chạy vào địa phận Saint-Petersburg. Một cuốn tiểu thuyết Nga khác cũng mở đầu bằng đoàn tàu: Anna Karenina, nhưng tất nhiên cuốn sách ấy rất khác so với Thằng ngốc. Dostoievski đã đọc, dường như rất kỹ, Anna Karenina, và có ghi lại vài điều; chưa bao giờ Dostoievski và Tolstoy gặp nhau: họ từ chối gặp nhau. Tôi cũng ngập ngừng, sau ba tập sách dày (xem ở kia), tức là đến 1864, mãi không quyết định được là có tiếp tục không. Nếu tiếp tục, thì tức là sau (ngay sau) Balzac, tôi sẽ đọc (trong đó một số là đọc lại, nhưng cũng có những thứ lần đầu tiên đọc: điều này rất quan trọng, tôi sẽ còn trở lại sau) hết sạch Dostoievski. Nếu "theo" các bản dịch của André Markowitz, cụ thể là theo ấn bản trong tủ "Thesaurus" của nhà xuất bản Actes Sud, thì tổng cộng có năm tập to; sau khi xơi tái xong ba tập đầu, tôi đã đi đến quá nửa. Tôi ngập ngừng rất lâu (lâu hơn "mức bình thường" của tôi nhiều). Vả lại, vì trước đó tôi đã đọc "lẻ" Karamazov (trong ấn bản cũng của Actes Sud nhưng không thuộc hệ thống năm tập "Thesaurus") nên thành thử tôi đã đi xong đoạn đầu và cuốn tiểu thuyết lớn nhất của đoạn cuối: ta nhớ Karamazov in năm 1880, đó chính là tác phẩm lớn cuối cùng của Dostoievski, sau đó chỉ còn một "đít cua", một bài phát biểu về Pushkin nữa, rồi Dostoievski chết. Cuối cùng, tôi cũng quyết định. Tôi quyết định nhảy xuống nước. Tôi đọc (lần này, vẫn là đọc lại) cuốn tiểu thuyết lớn ngay trước Karamazov: Trong tiếng Việt, tác phẩm này hay được gọi là Đầu xanh tuổi trẻ. Đây là cả một sự kinh dị lớn lao. L'Adolescent (Đứa thiếu niên) là một niềm kinh dị. Đọc lại nó, tôi bắt đầu hiểu tại sao tôi (từng) ngập ngừng đến thế. Tôi đã dự cảm được, ở lần đọc lại cuốn tiểu thuyết này, tôi sẽ thấy. Thấy gì? Đứa thiếu niên là một sự hội tụ của một điều rất quan trọng. Điều này liên quan đến cả Dostoievski lẫn độc giả siêu hạng nhất của Dostoievski: Bakhtine. Đứa thiếu niên (1874-1875) cho thấy một điều đối với tôi đã tường minh hơn bao giờ hết: thời điểm viết cuốn tiểu thuyết này, Dostoievski đã nhìn thấy. Đã nhìn thấy điều then chốt nhất, chính là điều làm cho Dostoievski trở nên quan trọng như vậy (tôi muốn nói: gây phiền nhiễu lớn đến vậy; bởi vì không nhà văn nào gây nhiều trắc trở cho đọc như Dostoievski; đọc Dostoievski chính xác là độ không của đọc: tôi nghĩ là tôi nhìn thấy một điều rất quan trọng, có biểu nghĩa rất lớn, ở việc trong suốt cuộc đời Roland Barthes hết sức tránh nhắc đến Dostoievski; bởi vì phải tránh thôi). Tôi hình dung Bakhtine cũng nhìn thấy như vậy; nói đúng hơn, Bakhtine đã theo chuyển động của Dostoievski (chuyển động thuộc loại khó hình dung nhất - chính vì vậy văn chương Dostoievski gây phiền nhiễu khủng khiếp đến vậy) và đến chỗ chuyển động trở nên tường minh, nói ngắn gọn, đến chỗ chuyển động chạm đến cấu trúc. Những điều tôi vừa nói chắc chắn trông có vẻ trừu tượng (nhưng cả ở đây, tôi cũng thấy chúng hết sức cụ thể), tôi sẽ còn quay lại, một cách kỹ càng: cụ thể hơn nữa, tôi sẽ dựng lại câu chuyện Bakhtine đọc Dostoievski. Bakhtine đã nhìn thấy gì? Đứa thiếu niên, trước hết, là khi Dostoievski nghịch với một điều: sự trùng tên. Ai từng đọc cuốn sách này còn nhớ thằng bé nhân vật chính khi đi học rất khốn khổ vì trên giấy tờ nó mang họ "Dolgorouki" tức là giống họ một gia đình "ông hoàng" cực kỳ danh giá; không một ai không hỏi nó có phải là "prince" hay không, nhưng về danh nghĩa nó lại là con của một cựu nông nô (mặc dù sự thật thì nó là con một người danh giá hơn nhiều, Versilov). Chưa hết, Dostoievski còn tạo ra hai gia đình cùng là "prince" nhưng hoàn toàn không liên quan gì đến nhau, và đều có họ Sokolski. A, nhưng tại sao lại có lắm "prince" như thế? Ta nhớ, nhân vật chính của Thằng ngốc cũng chính là một "prince", và các "prince" xuất hiện ở khắp mọi nơi trong (gần như) mọi tác phẩm của Dostoievski. Đó là vì xã hội Nga hồi đó rất nhiều "prince". Tôi đã phải đọc hàng đống thứ để cố tìm hiểu tại sao lại có lắm "prince" Nga như vậy; ở một khía cạnh khác, một nhân vật trong Karamazov (chuyện "một nhân vật" là hết sức quan trọng, tôi sẽ còn quay trở lại) cũng phát biểu đầy khinh miệt rằng người Ba Lan quái nào cũng là "bá tước" hết: điều này rất đúng: trong một câu chuyện của Balzac nhân vật chính là một quý tộc Ba Lan, Laginski, và đó cũng là một bá tước (xem ở kia). Tôi nhắc ngay đến Balzac là vì Đứa thiếu niên, trong mắt tôi, là cuốn tiểu thuyết rất Pháp (cuốn tiểu thuyết "rất Anh" của Dostoievski, chắc nhiều người biết, là Những kẻ tủi nhục); thậm chí tôi còn nghĩ là tôi thấy âm hưởng Balzac trong Đứa thiếu niên: một nhân vật phụ, bạn học của thằng bé nhân vật chính tên là Lambert, một học sinh, và tên là Lambert, đương nhiên ta nghĩ đến Louis Lambert của Balzac, không những thế, trường mà bọn trẻ con theo học trong Đứa thiếu niên tuy ở Nga nhưng lại là trường của một người Pháp, Touchard; nếu điều tôi vừa nói là "quá yếu" thì vẫn còn một điều nữa tuyệt đối không thể chối cãi: Đứa thiếu niên có (một trong những) chủ đề chính là chủ đề không thể balzacien hơn: tiền. Nói thêm về sự trùng tên: suýt thì ta còn có thêm một sự trùng tên quái đản nữa, nếu nhân vật (phụ) Akhmakova được Dostoievski viết thành (Anna) Akhmatova. Nhảy xuống nước rồi, tôi thấy không có lý do gì để không tiếp tục. Dưới đây là một tác phẩm ngắn, nó nằm xen vào giữa Đứa thiếu niên và Karamazov: Mời các bạn đón đọc Đầu Xanh Tuổi Trẻ của tác giả Dostoievski.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Thu Hoạch Xương
Haiti và Cộng hòa Dominicana, hai quốc gia láng giềng trên cùng một hòn đảo vùng Ca-ri-bê, năm 1937, Amabelle sống cuộc đời bình lặng của một cô hâu gái người Haiti cho cô chủ Valencia, một gia đình Dominicana thuợng luu. Cuộc sống thường nhật của cô và chàng trai đồng hương Sebastien hẳn sẽ tiếp tục trôi qua trên những ngọn đồi giữa những cánh đồng mía nếu độc tài Trujillo không bắt đầu cuộc thảm sát "Cây mùi tây" nhắm vào người Haiti ở Dominicana. Bị đẩy vào một cuộc vuợt biên đầy nguy hiểm, Amabelle buộc phải đối mặt với việc lựa chọn giữa mất mát và sống còn, giữa những bóng đen trong quá khứ và tương lai. Quan trọng hơn, liệu cô có đủ dũng cảm để tiếp tục sống như một trong "những người trở về từ cõi chết" trên chính quê hương của mình? "Nhưng tôi muốn mọi người biết rằng tôi hiểu. Tôi nhìn thấy tất cả những thứ đó. Chỉ có điều tôi đã tưởng rằng chúng sẽ không nhìn thấy tôi. Tôi những tưởng rằng chúng sẽ không tìm ra tôi. Chỉ đến khi Mimi và Sebastien bị bắt đi thì tôi mới nhận ra rằng dòng sông máu đã chảy tới trước cửa nhà mình, rằng nó vẫn luôn ầm ào chảy ngay trong nhà của tất cả chúng tôi." *** Kế ấy, Jephthah hiệp lại hết thảy dân Gilead, giao chiến cùng Ephraim. Người Gilead chiếm hết những chỗ cạn để vượt sông Jordan dẫn vào Ephraim. Và khi một người Ephraim sống sót nào nói rằng, “Xin để cho tôi đi qua”, thì những người Gilead nói rằng : “Ngươi có phải người Ephraim chăng ?” Nếu anh ta nói, “Không,” chúng bèn nói cùng người đó rằng, “Thế thì, hãy nói ‘Shibboleth.’” Nếu người đó nói “Sibboleth”, vì anh ta không thể phát âm chính xác chữ đó được, chúng sẽ bắt và giết họ tại chỗ cạn của sông Jordan. Khi đó, đã có bốn mươi ngàn người Ephraim bị sát hại. Kinh Judges 12:4-6 Dâng kính lên người, Metrès Dlo, Bà mẹ của Những dòng sông Amabelle Désir *** T ên anh ấy là Sebastien Onius. Gần như đêm nào anh cũng đến để dập tắt cơn ác mộng mà tôi luôn thấy về cái ngày cha mẹ tôi chết đuối. Trong lúc tôi kháng cự lại giấc ngủ, anh thì thầm bảo “nằm yên trong lúc anh đưa em trở lại.” “Trở lại đâu?” Tôi hỏi mà không cảm thấy môi mình động đậy. Anh trả lời, “Anh sẽ đưa em trở lại hang đá phía bên kia con suối.” Tôi loạng choạng rướn người về phía anh, gắng gượng để đứng lên. Anh giúp tôi giữ thăng bằng với những đầu ngón tay dài mà cong, những ngón tay sống động trườn mò về phía tôi. Tôi bám vào người anh, đầu tôi suýt chạm tới giữa vòm ngực anh. Anh đẹp một cách hào sảng trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu thốt nốt, mặc dù gương mặt đen bóng của anh đầy rãnh sẹo đan xen do những thân mía để lại. Cánh tay anh lớn bằng cả vòng đùi tôi. Chúng là những thanh thép, tôi luyện bởi bốn năm thu hoạch mía. “Nhìn em này,” anh vừa nói vừa nâng mặt tôi lên bằng bàn tay rộng lớn hình bát úp, nơi lòng bàn tay đã mất đi chỉ tay do những con dao chặt mía. “Em ngời sáng như một ngọn đèn lồng Giáng sinh, ngay cả với làn da màu tro tàn của gỗ vụn trong mưa.” “Đừng nói với em kiểu đó,” tôi lẩm bẩm trong lúc vẫn đang giằng co với bóng đen của giấc ngủ. “Nói chuyện kiểu này làm em thấy trần trụi.” Anh đưa bàn tay vuốt ve dọc theo lưng tôi. Lòng bàn tay thô ráp và chai sần của anh day miết như muốn bào mòn da thịt tôi, trong khi chiếc vòng đeo tay làm từ những hạt cà phê màu vàng của anh lăn qua lăn lại và mơn trớn sống lưng tôi mềm mại. “Hãy cởi váy ngủ của em ra,” anh gợi ý, “và thực sự trần trụi đi. Khi đã trút bỏ hết rồi, em sẽ biết rằng mình đang hoàn toàn tỉnh táo và anh có thể ngắm nhìn em trong vui sướng.” Nói rồi, anh lướt về phía bên kia phòng và quan sát mọi cử động của da thịt tôi trong lúc tôi cởi bỏ áo quần. Anh ở trong một góc phòng cách xa ngọn đèn, một vùng tối nơi anh nhìn thấy tôi rõ hơn là tôi thấy anh. “Sẽ tốt cho em nếu em hiểu và tin rằng anh luôn ở gần bên em ngay cả khi mắt em không thể nhìn thấy anh,” anh nói. Câu nói này khiến tôi bật cười lớn, quá lớn vào thời khắc nửa đêm. Bây giờ thì tôi đã hoàn toàn khỏa thân và tỉnh táo. Tôi nhanh chóng ngã vào vòng tay anh với bộ váy ngủ còn vướng quanh mắt cá chân. Với thân hình gầy gò như anh hay nói, tôi sợ mình sẽ dễ dàng gãy làm đôi và biến mất. Tôi sợ phải sống nhút nhát, tách biệt, và lạnh lẽo. Tôi sợ rằng mình sẽ ngừng tồn tại khi anh không ở đó. Tôi như một hòn cuội ở biển hút ngược màu sắc của mình vào bên trong và không còn trong trẻo nữa một khi bị mang ra ngoài ánh nắng mặt trời và rời xa bọt sóng. Khi anh không ở đó, tôi sợ tôi sẽ không còn biết ai và cũng chẳng còn ai biết tôi. “Quần áo em che đậy đâu chỉ da thịt em,” anh nói. “Chúng biến em thành một thứ đồng phục gò bó. Bây giờ em mới là em bằng xương bằng thịt.” Tôi hoặc phải ở trong một cơn ác mộng, hoặc không ở bất kỳ nơi nào cả. Nếu không, tôi chỉ trôi lơ lửng trong những ký ức này, xót xa cho tôi của quá khứ, và hơn hết là cho tôi của hiện tại. Nhưng những đau buồn này tôi để dành khi không có anh ở bên. “Hãy nhìn khuôn mặt nhỏ nhắn hoàn hảo của em này,” anh nói, “dáng hình nhỏ nhắn hoàn hảo của em, cơ thể nhỏ nhắn hoàn hảo của em, một người thiếu nữ đang lớn với nước da đen thăm thẳm. Tất cả các gam màu tối hiện hữu trong em, những thứ chúng ta nhìn thấy và không nhìn thấy, cái thiện và cái ác.” Anh lướt tay trên người tôi nhẹ tựa lông hồng, như thể anh cũng sợ rằng tôi sẽ tan biến đi mất. “Mọi thứ trên khuôn mặt em đều nằm đúng chỗ,” anh nói, “mũi em cũng nằm ở vị trí của nó.” “Ôi, wi1, thật thê thảm biết bao,” tôi đáp, “nếu mũi em nằm ở dưới gan bàn chân.” 1 Ừ, đúng. Tiếng Creole ở Haiti. Lần này thì chính anh là người bật cười. Nhìn gần hơn, tiếng cười làm khuôn mặt anh nhăn lại và hai vai anh nhấp nhô lên xuống không đều nhịp. Tôi không bao giờ dám chắc rằng anh đang cười hay vừa cười vừa khóc, mặc dù tôi chưa bao giờ thấy anh khóc. Tôi choàng tay qua người anh và chìm lại vào giấc ngủ. Anh sẽ biến mất trước khi tia nắng ban mai đầu tiên đượm mùi sả ló dạng. Nhưng tôi vẫn cảm nhận được sự hiện diện của anh ở đó trong căn phòng vuông vức nhỏ bé của mình. Tôi có thể ngửi thấy mùi mồ hôi anh, đặc quánh như mật mía khi anh phải vắt sức quá nhiều. Tôi vẫn có thể nếm náp khuôn miệng anh, với phần lợi thẫm màu cà tím có vị ngọt nhầy của sữa dê đun nóng đến quyện đường và mùi của những củ khoai tây màu vàng mù tạt. Tôi cảm nhận những móng tay thô dày của anh vun đôi má tôi lên cao, và vòng đeo tay của anh cứa vào hai hõm nhỏ bên dưới xương gò má để lại một giọt máu khô hình trăng khuyết hoàn hảo. Tôi tận hưởng cách lưỡi anh âu yếm lần theo huyết mạch trên sống lưng tôi và để lại những đường ẩm ướt, những dấu tay hằn mờ trên hông tôi nơi anh bám vào quá chắc, có lẽ trong những giây phút khi anh cảm thấy tôi đang tuột dần đi. Và tôi vẫn có thể đếm những hơi thở của anh, đôi khi gấp gáp hơn cả nhịp tim anh. Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường dành hàng giờ chơi đùa với cái bóng của mình, trò chơi mà cha tôi luôn cảnh báo rằng sẽ khiến tôi gặp ác mộng, những cơn ác mộng nơi ta thấy những giọng nói xoáy thành cơn lốc đủ sắc cầu vồng và nghe những vật với đủ hình thù kỳ dị trỗi dậy cất tiếng nói khẳng định chính mình. Chơi đùa với bóng của mình giúp tôi, một đứa con một, cảm thấy bớt cô đơn. Mỗi khi tôi có bạn chơi cùng, tôi đều cảm giác họ không có thật hay không hiện diện. Tôi coi họ chỉ như vật thế chỗ cho cái bóng của tôi. Và trong quãng đời sau này, tôi còn gặp nhiều cái bóng khác. Đôi khi Sebastien Onius bảo vệ tôi khỏi những cái bóng. Đôi khi anh lại là một trong số đó. *** Edwidge Danticat (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1969) là một tác giả có hai quốc tịch Haiti và Hoa Kỳ, người có những tác phẩm văn học nhấn mạnh cuộc sống của người phụ nữ và mối quan hệ của họ. Những trải nghiệm cuộc sống của riêng bà đã cung cấp nền tảng và cảm hứng cho các tác phẩm của bà. Truyện ngắn và tiểu thuyết của bà tập trung vào các chủ đề mang tính chất tuần hoàn như di dân, tình dục, giới tính và lịch sử . Cha mẹ của bà đã di cư đến New York mà không đem theo bà đi và bà lớn cùng với cô chú của mình. Trong những năm sớm của cuộc đời, bà bị ảnh hưởng bởi lối kể chuyện của người Haiti và phát triển mối quan tâm đến việc viết lách. Khi được 12 tuổi, bà sống cùng với ba mẹ mình tại Brooklyn nhưng không cảm thấy thoải mái khi phải thích nghi với lối sống và văn hóa của thành phố này và chỉ tìm thấy sự bình yên trong các tác phẩm văn học. Sau khi nhận được bằng tốt nghiệp về văn hóa tiếng Pháp tại Học viện Barnard, bà còn nhận được bằng Bậc thầy Nghệ thuật khi, với luận đề của bà, xây dựng những nền tảng của tiểu thuyết đầu tay của bà Hơi thở, Ánh mắt, Kỷ niệm. Bà đạt được những thành công chưa từng có như một người viết truyện ngăn và tiểu thuyết bằng những tác phẩm nhận được những lời khen từ giới phê bình. Bà cũng là một người đấu tranh các vấn đề ảnh hưởng đến người Haiti ở trong và ngoài nước. Với những trải nghiệm như một người có hai quốc tịch Haiti và Hoa Kỳ, bà viết về một trong những nền văn hóa ít nổi bật nhất trong văn hóa Hoa Kỳ sử dụng phong cách mang tính chất thơ và sôi nổi. Tác phẩm của bà đã được dịch sang một số ngôn ngữ như tiếng Hàn, tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Thụy Điển. Bà được xem xét một cách rộng rãi như là một trong những tác giả tài năng nhất của Hoa Kỳ hiện nay. Vào năm 1994, bà đã xuất bản tiểu thuyết đầu tiên mang tên Hơi thở, Ánh mắt, Kỷ niệm dựa trên luận đề su tốt nghiệp của bà có tiêu đề Sự chuyển của tôi trong lửa - một tiểu thuyết rút gọn. Các truyện ngắn của bà đã được xuất bản trong 25 tạp chí định kỳ và đã được tập hợp trong một số lần. Tác phẩm đã được chuyển dịch sang các ngôn ngữ khác nhau như tiếng Nhật, tiếng Pháp, tiếng Hàn, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Thụy Điển. Bà là một giáo viên về sáng tác sáng tạo tại Đại học New York và Đại học Miami. Bà cũng làm việc trong một số dự án về nghệ thuật Haiti và các phim tài liệu về Haiti. Các tác phẩm đã được xuất bản của bà là: The Farming of Bones (1998) The Book of the Dead (1999) Behind the Mountains (2002) Brother, I'm Dying (2007) Ghosts (2009) Create Dangerously: The Immigrant Artist at Work (2010) Claire of the Sea Light (2013) Quality Control (2015), cuốn truyện ngắn mới nhất của bà Mời các bạn đón đọc Mùa Thu Hoạch Xương của tác giả Edwidge Danticat.
Tiếng Gọi Vĩnh Cửu
A-na-tô-li I-va-nốp (sinh năm 1928) - nhà văn Nga nổi tiếng, người được giải thưởng Quốc gia Liên Xô, đã hoạt động trong nền văn học Xô-viết hơn 30 năm. Tên tuổi ông gắn liền với việc khai thác dưới góc độ văn học vùng Xi-bi-ri cùng với lịch sử và hiện tại của nó. I-va-nốp sinh ra và lớn lên tại làng Sê-mô-na-i-kha thuộc miền đông Ca-dắc-xtan. «Ở đó đời sống Xi-bi-ri và con người Xi-bi-ri vẫn đi theo nề nếp của mình», - sau này ông đã viết về làng quê của mình như vậy. Năm 1950, sau khi tốt nghiệp khoa báo chí trường đại học tổng hợp, ông đã làm việc một số năm tại các tòa soạn các báo huyện ở vùng Xi-bi-ri, Viễn Đông và đã từng đi nhiều nơi. Tập truyện ngắn đầu tiên của ông xuất bản năm 1956. Tiếp đó là các tiểu thuyết lớn: «Bóng đen biến mất giữa ban ngày», «Tiếng gọi vĩnh cửu» (1970) rất nổi tiếng ở Liên Xô và ở nước ngoài. Hầu hết các tác phẩm của ông đều được đưa lên màn ảnh, các bộ phim vô tuyến truyền hình nhiều tập dựa theo cốt truyện các tiểu thuyết của ông đã đạt được thành công lớn. Sự việc diễn ra trong cuốn sách này bao gồm gần nửa thế kỷ cuộc sống của một làng quê Xi-bi-ri-từ đầu thế kỷ đến năm 1942, năm thứ hai trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô chống bọn phát-xít Hít-le. A-lếch-xan-đrơ Ốp-tsa-ren-cô, một nhà ngữ văn học lớn của Liên Xô đã viết về cuốn tiểu thuyết «Tiếng gọi vĩnh cửu»: «...chúng ta ngập vào trong thế giới của những xung đột cực kỳ gay gắt, những tình huống vô cùng căng thẳng, những đụng độ về trí tuệ, tinh thần và thể lực ác liệt nhất. Ở đây những khát vọng sôi lên sùng sục, những con người của những niềm tin khác nhau mâu thuẫn với nhau phải dùng đến cả đại bác, tiểu liên, súng máy, súng ngắn, súng lục, nắm đấm và cả hàm răng nữa. Ở đây người ta cũng cảm thấy hơi thở của sự diệt vong gần ngang như hơi thở của sự sống... bởi vì có một thế giới đang sụp đổ và một thế giới khác đang ra đời...» *** Vào một ngày tháng Sáu năm 1908, trong phòng hỏi cung của sở hiến binh thành phố Tôm-xcơ có hai người: dự thẩm La-khơ-nốp-xki, chừng ba mươi lăm tuổi, chiếc mũi tẹt lúc nào cũng như láng mỡ, và cai ngục Cô-xô-rô-tốp, một gã đàn ông vẻ ngoài khó coi với chiếc quai hàm bạnh ra bè bè. La-khơ-nốp-xki ngồi sau bàn làm việc uống nước chè, mình chỉ mặc một chiếc sơ-mi lót trong. Trời nóng nực, áo khoác ngoài nhà binh treo trên lưng ghế tựa. Cô-xô-rô-tốp đứng phục dịch, khăn vắt ngang tay, trông hắn chẳng khác gì một tên hầu bàn ở các quán ăn. La-khơ-nốp-xki đặt chiếc cốc không xuống khay, lên tiếng: - Ta có xem bản báo cáo của anh gửi cấp trên. Anh muốn xin về nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki phải không? - Thưa ngài, đó là điều con vẫn mơ ước từ thời trẻ đấy ạ. - Mơ ước - đó là điều rất tốt. Mơ ước của con người cần phải được thực hiện. - Dạ, ngài có lần đã hứa, nếu con lập được công, ngài sẽ giúp. - Được, được, ta sẽ nói hộ. Cho anh đi thì hơi tiếc, nhưng cũng phải khen thưởng anh vì sự phục vụ tận tụy và trung thành. - La-khơ-nốp-xki đẩy chiếc khay với bộ ấm chén sang một bên. - Thôi, bây giờ ta lại bắt đầu với mấy người đồng hương từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ của anh... Làm thế nào mà anh chộp được chúng thế? - Dạ, thưa ngài Ác-nôn-đơ Mi-khai-lô-vích, hôm đó con đang đi đến rạp xem xi-nê. Khi đi ngoài phố, bao giờ con cũng chú ý quan sát xung quanh, xem có gì đáng khả nghi không? Con đang nhìn thì bỗng thấy từ một ngõ hẹp ngay trước mặt có hai người bước ra, rồi vội vã đi thẳng. Con nghĩ: có cái gì đáng nghi lắm... Vừa lúc đó, một đứa ngoái nhìn lại. Con ngạc nhiên nhận ra đó là Pi-ốt Pô-li-pốp. Đồng hương! Thế còn người đi với hắn là ai? Thôi đúng là An-tôn Xa-vê-li-ép rồi! Hai đứa hồi năm chín trăm linh năm, linh sáu đã bị giam ở nhà tù Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Lúc đó con làm cai ngục ở đấy. Con nghĩ, không biết chúng đến Tôm-xcơ để làm gì? Và thế là con thổi còi... - Thôi, được rồi, khá lắm. Dẫn từng đứa một vào đây. La-khơ-nốp-xki khoác chiếc áo nhà binh lên vai, châm lửa hút. Khói thuốc bay ra ngoài phòng theo lỗ thông hơi của chiếc cửa sổ bịt bằng lưới thép. Chưa đầy hai phút sau, Cô-xô-rô-tốp đã đẩy An-tôn Xa-vê-li-ép vào phòng. An-tôn mặc chiếc áo vét-tông nhàu nát, mấy túm tóc màu bạch kim rủ lòa xòa trước trán dưới vành mũ lưỡi trai. Đôi mắt trong và rất sáng nhìn La-khơ-nốp-xki đầy vẻ hằn học, cau có. Tên dự thẩm rít một hơi thuốc, bước đến bên cạnh An-tôn, hất đầu chỉ hai cặp giấy dày cộp nằm trên bàn, cười gằn: - Tôi vừa mới hỏi xin hồ sơ cá nhân của anh và Pô-li-pốp ở sở hiến binh Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ về đấy. Thế nào, bây giờ thì còn khăng khăng ngoan cố nữa không?   * * *   Gần một tháng trước đây, An-tôn Xa-vê-li-ép vừa tròn 18 tuổi. Và cũng đúng vào ngày sinh, anh tổ chức lễ cưới. Vợ anh là Li-da Da-kha-rô-va, con gái ông Nhi-can-đrơ Da-kha-rốp, một đảng viên Đảng xã hội, quê ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Ông đã hy sinh hồi tháng Ba năm 1905 trong một chuyến vượt ngục từ nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki. An-tôn, sinh ra và lớn lên ở làng Mi-khai-lốp-ca nhỏ bé thuộc xã San-ta-ra, cách Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ chừng trăm rưởi véc-xta1. Cha của cậu, Xi-lan-chi Xa-vê-li-ép, rất nghèo, như ở Mi-khai-lốp-ca người ta thường nói, «nghèo hơn cả con chó của cố đạo». Câu đó có nghĩa gì, không bao giờ An- tôn có thể hiểu được, vì ở Mi-khai-lốp-ca vốn không có nhà thờ, không có cố đạo, và lẽ dĩ nhiên, không có cả chó của cố đạo. An-tôn lớn lên như một đứa trẻ lêu lổng, thường hay đánh đập hai em trai là Phê-đô và I-van. Tất cả trẻ con làng Mi-khai-lốp-ca đều sợ cậu chết khiếp. Chưa ai biết An-tôn rồi sẽ lớn lên thành người như thế nào, thì mùa xuân năm 1904, Mi-tơ-rô-phan, em ruột của Xi-lan-chi, làm nghề thợ mộc, từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ về thăm làng Mi-khai- lốp-ca. - Này chú Mi-tơ-rô-phan, chú đưa thằng An-tôn ra thành phố một thời gian nhé? - người anh hỏi. - Có thể chú dạy nghề cho nó. Ở nhà tôi và mẹ nó chịu không làm sao bảo được nó. Thằng bé sẽ hỏng mất thôi. Nghe nói hình như còn kết bạn với bọn chuyên ăn trộm ngựa, được chúng dạy cho cờ bạc. Ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ An-tôn rất thích, nhưng không chịu học nghề thợ mộc. Suốt ngày cậu lang thang khắp các phố, làm quen với bọn du côn, đánh bạc với chúng, tìm cách móc túi những người say rượu nằm lăn lóc các quán, và nhiều lần bị đánh nhừ tử. Rồi bỗng nhiên cậu bỏ tất cả những trò đó và trở nên say mê bẫy chim ở các cánh rừng xung quanh thành phố, đưa ra chợ bán hoặc đổi lấy bánh quế cho Pi-ốt Pô-li-pốp, con trai một chủ hiệu buôn ở gần đấy. Bản thân An-tôn không ưa của ngọt, bao nhiêu bánh cậu đều cho Li-da có đôi chân thon thả, «con lão khổ sai» - như người ta thường gọi cô. Cô bé Li-da này, người gầy đét như một bộ xương, đầu gối nhọn hoắt và cặp lông mày đen rất dài, lúc đó chừng mười bốn tuổi, nhà ở cùng phố với chú Mi-tơ-rô-phan. Bà mẹ cô hình như bị bệnh lao, ho quanh năm suốt tháng, làm việc ở nhà máy xà-phòng. An-tôn quan tâm đến Li-da chỉ vì cô là con gái của một người tù khổ sai. «Cũng hay, không biết vì sao mà người ta bắt ông ta đi đày, - cậu nghĩ, - chắc có lẽ vì đâm chết ai đó». Một lần, An-tôn đem điều này ra hỏi Gri-gô-ri, con trai cả của chú Mi-tơ-rô-phan làm nghề đốt lò ở đề-pô xe lửa. Anh cao lớn, xương xẩu, đôi mắt to, người bao giờ cũng sặc mùi khói và bồ hóng. Gri-gô-ri là một thanh niên rất vui nhộn, thường hay cho An-tôn đi theo câu cá, và nói chung, đối xử với cậu thân mật, bình đẳng như với một người bạn cùng lứa tuổi. - Con người muốn tìm sự thật nên bị tống đi đày khổ sai, - Gri-gô-ri nói. Anh chăm chú nhìn An-tôn rồi tiếp thêm: - Ông ấy, cha của Li-da, là đảng viên Đảng Xã hội. - Đảng Xã hội là cái gì? - Là cách mạng. - Thế cách mạng là cái gì? Gri-gô-ri phá ra cười, và không hiểu sao, anh lại nháy mắt nhìn An-tôn: - Thế nào, lạ lắm phải không? Rồi anh cũng sẽ biết được thôi. Mọi cái đều có lúc của nó. Ít lâu sau, An-tôn biết được rằng cả Gri-gô-ri, cả chú Mi-tơ-rơ-phan, thậm chí cả bà thím U-li-a-na Phê-đô-rốp-na cũng là những người cách mạng, mặc dù họ tìm mọi cách để giấu kín, không cho An-tôn biết điều này. Và khi thấy An-tôn đã biết hết mọi chuyện, suýt nữa họ bắt cậu phải trở về với bố mẹ ở làng Mi-khai-lốp-ca. Găng nhất là thím U-li-a-na Phê-đô-rốp-na. Nếu không có Gri-gô-ri, chắc chắn An-tôn đã phải về rồi. - Cha ạ, con thật không hiểu cha muốn gì?! - một lần, Gri-gô-ri đã to tiếng với cha. Anh túm lấy bộ quân bài của An-tôn vừa bị thím U-li-a-na tước được vứt trên bàn, lắc lắc trong không khí. - Cha muốn để cho An-tôn cứ đi theo con đường này à? Càng để lâu thì càng khó chữa đấy. Cha phải hiểu rằng, vào cái tuổi này, ma quỷ nào biết nó muốn gì. Toàn những chuyện khác thường! Cho nên, cần phải tìm cách giúp đỡ An-tôn! Và ngay trong ngày hôm đó, chỉ nửa giờ sau, trong lúc nhận tài liệu bí mật từ tay liên lạc viên tại một ga xép ở ngoại ô thành phố, Gri-gô-ri - anh thanh niên Gri-gô-ri bao giờ cũng sôi nổi, không biết chán nản là gì, người đã phản đối việc gửi trả An-tôn về làng Mi-khai-lốp-ca, - đã bị cảnh sát bắn trọng thương. Chiều hôm đó anh tắt thở trên tay An-tôn, chỉ kịp nói mấy lời: - An-tôn, nếu anh đi tìm sự thật, thì nhà tù, khổ sai và, có thể, cả cái kết cục như thế này... sẽ đợi anh... Anh có dám đi không? - Đi! - Không sợ à? - Không! - Tốt lắm... - Tôi cũng sẽ trở thành người như chú! - Tôi tin... Chẳng bao lâu sau, An-tôn đã được nếm mùi tù ngục lần đầu tiên. Cả anh, cả Li-da, cả Pi-ốt Pô-li-pốp, - mặc dù Pi-ốt là con trai của một chủ hiệu khá giàu có. Dần dần, An-tôn và Pi-ốt trở nên thân nhau. Tình bạn của họ chỉ bị có một điều duy nhất làm cho vẩn đục: từ bao giờ không biết, cả hai người đều đã thầm yêu Li-da. Không hiểu cô gái có cái gì làm cho anh chàng Pi-ốt phải say mê? Li-da không xinh, chỉ có đôi mắt của cô là đẹp, đôi mắt hơi xanh như làn nước suối, bao giờ cũng lấp lánh một thứ ánh sáng vừa sống động, vừa bồn chồn. An-tôn yêu cô vì sự táo bạo đến liều lĩnh của cô, mặc dù nhìn bề ngoài thì không thể kết luận như vậy được. Mới 14-15 tuổi, cô đã nhiều lần đến Tôm-xcơ và chuyển tài liệu mật, thậm chí cả vũ khí nữa, từ đấy về. Về phía Li-đa, cô đối xử với An-tôn và Pi-ốt bao giờ cũng như nhau; và mãi cho tới tận thời gian gần đây cũng không biết được là cô thích ai hơn. Trong thâm tâm, An-tôn cho Pi-ốt có nhiều lợi thế và triển vọng hơn, đặc biệt là từ sau ngày ở tù ra. Họ bị bắt vào cuối tháng Mười năm 1905, tất cả gồm bốn người: An-tôn, Li-da, Pi-ốt và I-van Mi-khai-lô-vích Xu-bô-tin - người lãnh đạo tổ chức Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga ở thành phố Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ, một nhà hoạt động cách mạng có nhiều kinh nghiệm. Cùng với cha của Li-da, ông vừa mới vượt ngục từ nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki về mấy tháng trước đây. Các đồng chí kiếm cho ông được giấy tờ hợp pháp mang tên Cu-dơ-ma Tsúc-kin, và bố trí cho làm chân rửa bát ở bếp nhà lao Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Làm việc ở đây, ông tích cực chuẩn bị cho những người tù chính trị vượt ngục. Vào một ngày tháng Mười, trong thời gian bãi công, những người công nhân đường sắt, - sau cái chết của Gri-gô-ri, tổ chức ở đây do cha anh, Mi-tơ-rô-phan, lãnh đạo, - đã tổ chức một cuộc biểu tình chính trị lớn chưa từng thấy và phá được nhà tù. Những đại đội Cô-dắc và quân đội chính quy chỉ mấy phút sau được điều đến để giải tán đám biểu tình, và toàn bộ những người tổ chức cuộc phá ngục đã bị bắt. Ngày hôm đó, Tsúc-kin - Xu-bô-tin trao cho An-tôn và Pi-ốt Pô-li-pốp một nhiệm vụ chiến đấu thật sự. Từ sáng, An-tôn cần phải đến một ga xép vắng vẻ để nhận từ tay ông già công nhân đường sắt một túi đạn và trước mười giờ phải mang đến chỗ hẹn trong rừng ở ngoại ô thành phố. Đây là số đạn dự trữ. Trong trường hợp cần thiết, Pi-ốt Pô-li-pốp sẽ chuyển số đạn đó vào thành phố cho tổ xung kích. Pô-li-pốp là học sinh trung học. Mặc bộ đồng phục học sinh, anh dễ dàng mang đạn đi trong thành phố mà không gây sự nghi ngờ. Nhưng An-tôn lại tự ái vì anh không những không được chọn vào tổ xung kích đi phá nhà tù, người ta cũng không tin tưởng giao cho anh mang đạn vào thành phố. Vì vậy, từ ga xép, anh đến thẳng địa điểm tập trung của tổ xung kích.   Mời các bạn đón đọc Tiếng Gọi Vĩnh Cửu của tác giả Anatoli Ivanốp.
Miền Đất Dấu Yêu
Tặng các bạn thích các chuyện tình lãng mạn nhẹ nhàng để qua thời gian stay home chán ngắt trong mùa dịch Covid-19. (Truyện này Sẻ dịch đã lâu và đăng trên trang nhà, định edit xong rồi mới phổ biến ebook. Nhưng bây giờ, tình hình bận rộn và lửa nhiệt tình đã khô cạn nên thôi đành bỏ cuộc.) Nếu các bạn bỏ qua cho một số lỗi khi dịch vội vàng thì đây là một chuyện tình rất dễ thương, đủ để giải trí cho một buổi chiều rảnh rỗi. *** Những lời hứa ngọt ngào… Những mưu chước thâm hiểm… Summer mắt tím chỉ là một cô bé khi cô nghe những lời hứa hẹn ngọt ngào… em sẽ lớn lên, cô gái mùa hè, và rồi anh sẽ đến và đưa em về nhà… Bây giờ cô đã trở thành một vẻ đẹp kiêu hãnh và đã về nhà an toàn giữa những ngọn đồi hoang dã ở vùng biên giới Texas,… ở nhà cùng Slater McLean, một chủ trại đẹp trai khao khát nỗi đam mê trong sự hăng hái ngây thơ của cô… Nhưng một phụ nữ thâm hiểm đã quyết định tiêu diệt tình yêu của họ, chiếm đoạt khỏi Slater những mẫu đất giàu có nhất của vùng Texas. Một phụ nữ với một vũ khí bí mật : một bức thư sẽ khiên Summer ô nhục mãi mãi… *** Dorothy Garlock là một trong những tác giả bestseller của NEW YORK TIMES, USA TODAY, WASHINGTON POST... Với trên 50 tác phẩm chủ yếu viết về mảnh đất miền Tây hoang đã được dịch sang 18 thứ tiếng, xuất bản ở 36 quốc gia cùng 20 triệu bản in trên toàn thế giới, Dorothy Garlock được mệnh danh là “Tiếng nói của đất mẹ Mỹ - The voice of America’s heart”. Bà đã đạt được hơn 21 giải thưởng danh giá trong sự nghiệp văn chương đồ sộ của mình. *** Ngày thứ Sáu cuối cùng cũng đến. Nó theo sau năm ngày khốn khổ nhất trong cuộc đời của Summer. Hôm nay, vào buổi trưa, nàng sẽ bắt chuyến xe khách sẽ đưa nàng rời khỏi Hamilton mãi mãi. Vào lúc sợi nắng đầu tiên của bình minh vươn đến, nàng ngồi dậy và thay quần áo rồi ngồi bên cạnh cửa sổ. Sau đó, nàng ăn điểm tâm, để lại chiếc khay ngoài hành lang, nàng đóng gói lại hành lý và quay về ô cửa sổ, nơi nàng có thể nhìn thấy Jesse, gã sẽ đến và đưa nàng đến trạm xe khách.   Jesse đã ghé thăm nàng hai lần trong năm ngày vừa qua. Nàng nghĩ nàng sẽ mất trí nếu không có những cuộc ghé thăm của gã. Gã là một người khác biệt hoàn toàn với những gì mà thoạt đầu nàng đã tin. Nàng phát hiện ra gã là một người thật cô độc. Nàng có thể hiểu bằng cách nào Ellen thu phục được nhiều tình yêu và lòng trung thành đến thế từ gã. Cho dù gã không kể với nàng, nàng biết cái chết của Ellen đã cho gã tự do để yêu Sadie. Gương mặt gã thường có nét cười, mang vẻ thiết tha khi gã nói về chị ấy và Mary.   Gã kể với Summer đôi chút về kế hoạch của gã về tương lai. Slater, gã giải thích, giờ đã là chủ nhân của Rocking S. Hắn chắc chắn rằng đó là cách toà sẽ phân xử, vì Slater là người thừa kế duy nhất còn sống trong chừng mực bất kỳ ai biết. Khi mọi thứ đã ổn định, gã và Sadie sẽ kết hôn và bắt đầu xây dựng một nơi chốn ở đâu đó.   “Slater sẽ muốn ông ở lại.” Summer nói.   “Đã đến lúc tôi bắt đầu xây dựng thứ gì đó cho riêng mình,” là lời đáp đơn giản của gã.   Summer tựa đầu vào thành cửa sổ. nàng biết mỗi inch của con đường bên dưới, mỗi mắt gỗ trên vách toà nhà đối diện. Nàng chẳng có gì khác để làm trong năm ngày trống trải ngoại trừ nhìn chằm chằm ra ngoài ô cửa sổ. Nàng không bước ra khỏi phòng, chỉ gặp người chủ khách sạn một lần và đó là khi hắn đặt chiếc khay bên ngoài cánh cửa và nàng nghĩ hắn đã đi rồi, những hắn đang đứng ngoài hành lang đợi nàng ra ngoài để có thể nhìn thoáng qua nàng. Không hiểu sao, vẻ dâm đãng của hắn khiến nàng cảm thấy tội lỗi và không trong sạch.   Bóng đổ trên toà nhà đối diện nói với nàng rằng sẽ không còn lâu nữa đến khi mặt trời ở trên đỉnh đầu. Nàng bắt đầu cảm thấy lo âu. Jesse đã nói gã sẽ đến đây và gã sẽ làm, nàng tự nhủ. Tuy vậy, thời gian như bị kéo dài trong lúc nàng quan sát. Nỗi lo âu khiến nàng xoắn chiếc khăn tay vòng vòng trên những ngón tay, và ngay lúc nàng nhìn thấy gã quành vào góc phố và hướng đến khách sạn, chiếc khăn đã ướt đẫm. Với một cảm giác hết sức nhẹ nhõm, nàng đứng lên và đội nón, ghim nó cẩn thận vào mái tóc bới cao của nàng để gió sẽ không hất nó bay khỏi đầu. Jesse chưa lên ngay và nàng đoán gã sắp xếp với người chủ khách sạn. Nàng lấy tiền mà Slater đã đưa cho nàng ra sẵn và đợi.   “Summer?” Giọng của Jesse.   Nàng mở khoá cửa, “Hello, Jesse.”   “Tiền khách sạn đã được trả rồi, hãy cất tiền của cô đi. Cô sẽ cần nó. Tôi đã có vé cho cô đến Austin, và Bill nói ông ấy sẽ coi chừng cho cô. Đi thôi, ông ấy đang đón khách rồi.” Khi Summer phản đối chuyện tiền nong, gã nói, “Ồ, để sau đi. Sadie và tôi có lẽ sẽ sang Austin. Chúng tôi có thể tìm thấy cô ở đâu?”   “Tôi quyết định sử dụng tên của mẹ tôi. Wheeler. Tôi sẽ để lại lời nhắn tại trạm bưu điện.”   Summer hếch cằm cao lên một chút và vươn thẳng lưng khi họ đi bộ vào trong ánh nắng ban trưa. Jesse nhấc rương hành lý lên vai và đặt một bàn tay bên dưới khuỷu tay nàng. Khi họ đến trạm xe khách, nàng nhận thức rõ về những đôi mắt hiếu kỳ đuổi theo sau họ, và gương mặt nàng bừng cháy. Nàng buộc bản thân chuyển ánh mắt khỏi con đường đầy bụi và nhìn thẳng về phía trước, gương mặt nàng dịu xuống, những cảm xúc như đã bị chôn nén bên trong nàng.   Bill, người đánh xe đã đưa nàng và John Austin đến Hamilton, đang đợi bên cạnh chiếc xe khách. Ông đón hành lý của Summer từ Jesse và nhấc nó lên cho người phụ lái để ràng chúng vào giá để hành lý.   Vì đã đến lúc phải ra đi, Summer muốn níu chặt lấy Jesse. Đọc được suy nghĩ của nàng, vẻ đau đớn trên gương mặt nàng, gã siết chặt cánh tay nàng và khom xuống thì thầm trấn an :   “Rồi sẽ tốt đẹp thôi mà, Summer. Nhớ nhé, nếu mọi thứ chẳng ra sao, hãy viết cho đại uý Slane tại pháo đài. Ông ấy sẽ gởi cho tôi. Nào, cô sẽ làm điều đó chứ?”   Chiến đấu kềm lại nước mắt, nàng gật đầu. “Cám ơn ông.” Nàng thì thầm qua đôi bời môi run rẩy.   Jesse xoay người và nhấc nàng vào trong khoang hành khách, gương mặt của chính gã cũng đang khoác một chiếc mặt nạ để che dấu cảm xúc. Summer ngồi xuống bên cạnh một phụ nữ Mexican ôm một em bé đang ngọ nguậy. Khoang xe đã đầy hành khách; ba người đàn ông và một phụ nữ ngồi bên cạnh người phụ nữ đang ôm đứa bé. Những người đàn ông có vẻ cáu kỉnh vì sự chậm trễ, và nhìn chằm chằm vào nàng với vẻ bực bội. Chiếc roi ngựa quất vun vút, khoang xe tròng trành và bắt đầu lăn bánh. Summer, ngồi ở phía sau cùng, chú mục vào Jesse cho đến khi không còn nhìn thấy gã nữa. Đường mòn chuyển vào một khúc quanh, một đám mây bụi tung mù phía sau họ, và để lại thị trấn phía sau lưng.   Có vẻ như với Summer, nàng chỉ có một mình trong một thế giới cô đơn. Thật ra, nàng chưa bao giờ từng thấy cô độc như nàng đã trải qua năm ngày vừa qua. Trên đường rời khỏi Piney Woods, nàng có John Austin để chăm sóc. Trong chuyến xe tương tự họ đã đi đến Hamilton tìm Sam McLean. Họ đã tìm thấy ông, thật vậy, Sammer chua xót nghĩ.   Sức nóng thiêu đốt bên trong khoang xe. Summer gỡ nón để quạt mát bản thân và luồng gió nhẹ tạo ra đã giúp làm đứa bé im lặng. Nàng cầu nguyện rằng dạ dày của nàng sẽ giữ yên được. Bình thường vào buổi trưa nó sẽ dịu xuống, nhưng hôm nay, nàng đã quá lo lắng khi chờ đợi Jesse đến mức nàng đã lên tục nuốt xuống để giữ cho miệng nàng không lấp đầy nước miếng.   Nàng quan sát những ngọn đồi đang mờ dần nhường chỗ cho màu sắc của ánh dương và bầu trời; quan sát thảo nguyên mênh mông trải dài đến vô tận. Nàng nhìn chằm chằm trở lại đường mòn cho đến khi ánh mặt trời bắt lấy giọt nước ở khoé mắt nàng. Một con đại bàng chuyển động theo đường xoắn ốc bay vút lên trời, vươn thẳng đến vầng thái dương cho đến khi nó chỉ là một chấm nhỏ trong khoảng không bao la. Ồ! để trở thành một cánh chim bằng!   Phần tồi tệ nhất trong nỗi đau của nàng bị vùi sâu phía sau tâm trí và nàng cương quyết không để nó nổi lên bề mặt. Rồi sẽ có tất cả thời gian, bên lề những ảo tưởng, để hành hạ nàng, nhắc nhở nàng.   Họ làm băn toé nước băng ngang qua một con lạch nông và lăn bánh vào trong một điểm dừng. Vì trời quá nóng, Bill nói họ sẽ mất thêm vài phút sau khi những con ngựa mới được móc vào, nếu như có ai muốn được ra ngoài xe. Mọi người đều xuống xe ngoại trừ Summer. Nàng ngồi và đợi, hầu như không nhận thức được rằng lưng váy nàng đã ướt sũng mồ hôi và một dòng suối nhỏ đã chảy giữa đôi bờ ngực. Người phụ nữ Mexican ẵm đứa bé đã mang cho nàng một môi nước. Summer uống một cách khao khát, tham lam và cám ơn người phụ nữ bằng những từ đẫm lệ.   Chiếc xe lăn bánh trở lại, Bill khua vun vút chiếc roi và hét vang với nhóm người mệt mỏi để bắt kịp những phút đã mất. Buổi chiều chậm trôi. Không ai nói chuyện. Đứa bé đã ngủ. Chiếc xe giống như một lò lửa. Summer cảm thấy đầu nhẹ bẫng, giông như nàng đang trôi nổi. Chuyến xe đày ải khiến mọi inch trên con đường để lại dấu vết cơ thể đau nhức của nàng. Nàng tựa đầu ra phía sau và nhắm mắt, trí óc nàng quá kiệt sức để có thể suy nghĩ.   Khi chiếc xe chậm lại và đến một điểm dừng, nàng không bận tâm nhấc đầu lên hoặc mở mắt ra cho đến khi giọng nói của người đàn ông ngồi đối diện bùng nổ.   “Giờ đến chuyện quái gì nữa đây? Chúng ta không bao giờ đi đến nơi với tốc độ như thế này.”   Summer nhìn ra ngoài cửa sổ, nheo nheo mắt lại, nghĩ rằng nàng nhìn thấy Jack đang ngồi trên con ngựa màu nâu đỏ to lớn và nói chuyện với người đánh xe. Nàng chớp mắt vài lần và nhìn lần nữa. Ông ấy vẫn ở đó. Với một ngày cực nóng như hôm nay, trên chuyến xe nóng hầm hập này, nàng cảm thấy một cơn rùng mình ớn lạnh đến mức phải nghiến chặt quai hàm để giữ cho đôi hàm răng nàng không khua lách cách. Làm sao điều này có thể xảy ra? Ông ấy không thể biết nàng ở trên chuyến xe này được. Nàng lùi sâu vào trong chỗ ngồi, giữ chiếc nón phía trước như thể để che gương mặt nàng khỏi ánh mặt trời. Nàng cảm thấy chiếc xe đu đưa khi Bill nhảy xuóng khỏi chỗ ngồi trên cao, nghe thấy tiếng cánh cửa khoang hành khách mở ra.   “Thưa cô,” Bill đang nói với nàng, “Jack đây nói rằng ông ấy đến để mang cô ra khỏi xe.”   “Không! Tôi đã trả tiền vé của tôi rồi. Tôi sẽ đến Austin.”   “Điều đó tuỳ thuộc vào cô, thưa cô, cho dù cô muốn đi hay ở lại.” Bill nói cương quyết, và đóng sầm cánh cửa.   Một vài phút trôi qua, và cánh cửa mở ra lần nữa. Jack đứng đó nhìn xuống Summer. Nàng muốn chết cho xong.   “Summer, hãy ra ngoài ngay, để những cư dân này còn đi tiếp. Tôi đến để mang cô về và tôi sẽ không rời đi mà không có cô.”   “Không! Tôi sẽ không ra đâu. Ông không có quyền can thiệp vào.”   “Quỷ thật, không, ông không có quyền. Cô gái không phải đi nếu cô ấy không muốn.” Lời nói vang đến từ một người đàn ông bên trong chuyến xe.   Jack phớt lờ ông ta. “Tôi sẽ bớt được cả đống rắc rối nếu cô chịu bước ra. Hãy làm điều đó, hoặc là những cư dân đây sẽ phải đợi cùng với cô.”   “Hãy để tôi một mình, Jack. Tôi sẽ không trở lại đâu, vì thế hãy đi đi và để tôi một mình.” Cơn giận và sự bẽ mặt khiến nước mắt tuôn chảy như suối từ mắt nàng.   Jack bước lui và ra hiệu cho Bill rời khỏi xe. Khi họ quay lại đối mặt với nhau, khẩu súng lục của Jack chỉa thẳng vào bụng ông ấy.   “Cái gì… cái gì thế này?”   “Tôi chắc chắn rất ghét làm điều này, Bill, nhưng chẳng còn cách nào khác hết. Có một người đàn ông đang đến chỉ còn cách đây vài dặm. Cậu ấy ở trên một chiếc xe thồ, bị xóc nảy ngang qua những vệt lún bánh xe và những lỗ chó thảo nguyên từ hai giờ trước khi trời rạng đông. Cậu ấy có hai lỗ đạn trên người, vài rẻ xương sườn bị gãy và đôi bàn tay chẳng thể tự ăn được trong một tuần. Cậu ấy đang đến để gặp cô gái đó và ông sẽ không đi đâu hết cho đến khi cậu ấy đến đây.”   “Ông biết là ông đang đưa bản thân vào rắc rối khi chỉa một khẩu súng vào tôi, Jack. Công việc của tôi là đưa chuyến xe này đến Austin. Nếu cô gái bé nhỏ đó và người đàn ông của cô ấy hục hặc thì đó chuyện của họ. Pháp luật có thể giáng xuống khó khăn thật sự trên ông đấy, Jack, vì tội đã chặn chuyến xe.”   “Vậy thì cứ làm đi, bởi vì tôi sẽ chặn xe ông ở đây cho đến khi Slater đến. Không lâu lắm đâu. Tôi đã thấy đám bụi mù của họ kia rồi.”   “Các ông đang làm gì vậy? Băng ngang vùng quê ư? Đó là một chuyến đi địa ngục.”   Jack cười toe toét. “Hãy nói người phụ xe kéo chiếc xe đến chỗ bóng râm trong lúc chúng ta đợi.” Với khẩu súng của mình, ông ra hiệu về hướng cây hồ đào trải rộng mà một trong số chúng vươn dài theo con đường không chút bóng mát.   “Kéo xe qua bên dưới bóng cây đi, Gus. Chúng ta sẽ đợi một lúc nếu quý cô này không đổi ý, thế thôi. Các hành khách có thể bước ra ngoài và duỗi chân tay.”   Người phụ xe nghiêng người qua để gọi Summer, rồi hét lại với Bill. “Người phụ nữ nói không, Bill.” Chiếc xe di chuyển đến bóng râm.   “Phụ nữ chết tiệt! Rất mừng là tôi đã không cưới ai.” Bill nguyền rủa, lấy chiếc mũ đầy bụi của ông ta xuống và đập đập nó vào đùi.   “Điều đó sẽ không kéo dài đâu, Bill. Ông và Slater sẽ phải dịu xuống thôi. Hẳn là có gì đó sai với cái miệng của cậu ấy rồi. Chưa bao giờ nghe nhiều lời nguyền rủa như thế tuôn ra từ nó trước đây. Cơn choáng của cậu ấy đã bị nén lại kể từ khi cậu ấy nghe được chính Jesse đã đặt cô ấy lên chuyến xe khách. Chuyến đi xóc này chẳng làm cho tâm trạng của cậu ấy tốt lên được chút nào, ngay cả khi chúng tôi đã cố định sợi dây treo trên chiếc xe thồ và đặt chiếc giường lông vũ vào đó.”   Ba người đàn ông và người phụ nữ ra khỏi xe, để lại Summer một mình với người phụ nữ có đứa bé. Những cánh cửa để mở và luồng gió nhẹ có phần làm mát họ đôi chút. Summer lau gương mặt nàng bằng chiếc khăn tay ướt sũng. Người phụ nữ giơ một bàn tay rụt rè chạm vào đầu gối nàng. Hành động thương cảm ấy khiến nàng ngước đầu lên. Jack không có quyền bắt họ phải đợi như thế này, khi cho rằng nàng sẽ đổi ý. Nàng đã bảo ông như thế. Nàng nhìn quanh để có thể thấy ông và nghĩ rằng hẳn là nàng đã mất trí. Có phải Jack đang chỉa súng vào người đánh xe không? Chúa lòng lành, ông ấy đã làm thế! Điều gì đang xảy ra? Thế giới điên hết rồi sao?   “Jack! Jack, ông đang làm cái gì thế?” Nàng trèo ra khỏi xe, gần như vấp ngã vì vội vàng. “Hãy để ông ấy đi. Ông không có quyền giữ ông ấy! Để tôi nói…”   Mời các bạn đón đọc Nơi Trái Tim Trở Về của tác giả Dorothy Garlock.
Hạt Cơ Bản
Cuốn tiểu thuyết dữ dội phê phán xã hội phương Tây hiện nay, cũng như những năm 60, 70 của thế kỷ trước; nhà văn còn cực đoan đến mức muốn xóa bỏ cái xã hội đầy rẫy cái xấu xa và tệ nạn ấy. Hai nhân vật chính, Bruno Clément và Michel Djerzinski, đều sống với bà và đều học ở trường trung học ở Meaux. Houellebecq đã rút tỉa các sự kiện từ chính cuộc đời mình; theo một cách nào đó ông đã tự phân tích mình, cuộc tiểu phẫu đó là tiền đề cho cuộc đại phẫu áp dụng cho xã hội, mà ông đã tiến hành một cách xuất sắc trong Hạt cơ bản. Con dao mổ của Houellebecq sắc nhọn, nó bới tung từng ngóc ngách của con người và xã hội, nỗi khốn khổ hiện đại bị lột trần. Nhưng lẽ dĩ nhiên, trước đó, nó đã gây đau đớn cho chính ông. Ở Pháp, Hạt cơ bản rất ăn khách. Năm 1998, việc Houellebecq “trượt” giải Goncourt làm người ta nhớ lại năm 1932 kiệt tác “Hành trình đến tận cùng đêm tối” của Céline cũng để tuột giải này về tay nhà văn Guy Mazeline. Hạt cơ bản chỉ giành giải Novembre. Hạt cơ bản mở đầu bằng việc nhà khoa học Michel Djerzinski xin nghỉ làm tại Trung tâm Khoa học Quốc gia sau 15 năm làm việc tại đây, lấy lý do là để dành thời gian suy nghĩ. Trên thực tế anh sẽ tiến hành những nghiên cứu mang ý nghĩa lớn cho toàn bộ loài người. Tiếp đó câu chuyện quay về những năm tháng tuổi thơ của hai anh em Michel và Bruno, xen lẫn với cuộc sống sau này của họ. Ở Bruno khía cạnh nổi bật là ham mê tình dục đến mù quáng, còn Michel lại hoàn toàn ngược lại: anh là con người của lý trí, dịu dàng và luôn hướng tới một đạo đức theo lối của triết gia Kant. Câu hỏi lớn của Michel là hạnh phúc có tồn tại thật không, và phải giải quyết mối tương quan giữa đàn ông và đàn bà như thế nào. Hai anh em (cùng mẹ khác cha) chỉ giống nhau ở điểm cả hai cùng cô độc, từ bé đến lớn không có chỗ dựa nào khác ngoài những bà nội bà ngoại già nua. Số phận họ bị kết án không thể hạnh phúc, dù đã có lúc bên cạnh Bruno có Christiane dịu dàng và tinh tế, Michel có Annabelle kiều diễm. Sự bi thảm nằm ở từng câu chữ của tiểu thuyết, và trong từng sự kiện nhỏ nhặt nhất của cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Bruno và Michel sống bên lề của những biến chuyển xã hội phương Tây, họ không phải hippie, không phải rock star, mà chỉ là những con người cô đơn, luôn thấy cuộc sống nhàm chán, trống rỗng và đáng căm ghét. Cùng với sự xuống dốc cuộc đời của họ là sự xuống dốc không phanh của phương Tây, rơi tõm vào cơn cuồng loạn của chủ nghĩa tiêu dùng, sự đi xuống của cái gọi là Đức tin, sự đe dọa của nhân bản vô tính, tính hủy diệt của các giá trị tự do, trong đó có vai trò không nhỏ của phong trào giải phóng tình dục những năm 60; tất cả những cái đó, theo Houellebecq sẽ hủy diệt loài người như một quả bom hạt nhân (Chính vì thế mà ông đặt tên tác phẩm của mình là Hạt cơ bản). Theo nhiều nhà phê bình Pháp, kể từ Con quái vật (Roi des Aulnes) của Michel Tournier năm 1970 đến nay chưa có tiểu thuyết Pháp nào chứa đựng nhiều ý tưởng như tác phẩm của Houellebecq. Cả hai tác phẩm đều có tham vọng giải quyết các vấn đề to lớn của toàn nhân loại,Tournier bằng con đường tôn giáo còn Houellebecq bằng con đường khoa học. Đọc Hạt cơ bản, cũng là một cách ngược dòng thời gian trở về những năm 60, 70 của thế kỷ XX ở phương Tây, khi mà tinh thần “tháng năm năm sáu tám”, tinh thần giải phóng tình dục như lý giải cho một sự bế tắc, trống rỗng, hỗn mang đến kinh hoàng, con người cá nhân đã phơi bày một cách tự do và thảm hại với tất cả các cấp độ, khi ấy chúng ta sẽ thật sự chia sẻ và dễ dàng tiếp xúc với những ý tưởng dồi dào gợi ra từ tác phẩm này, dẫu vẫn thấy có những khác biệt không nhỏ về cách tiếp thu, nhìn nhận giữa Đông - Tây. Các-Mac từng có một cách ngôn nổi tiếng: Không có gì thuộc về con người lại xa lạ đối với tôi. Trên tinh thần này chúng ta có thể cắt nghĩa thêm vì sao Hạt cơ bản được bạn đọc ở nhiều quốc gia quan tâm, chào đón, và thực sự trở thành một hiện tượng trên văn đàn thế giới những năm gần đây. Phải chăng bi kịch cá nhân vẫn đang hiện hữu ở nhiều nơi trên trái đất này?  *** Cư dân mạng từ lâu đã xôn xao bàn tán về Hạt cơ bản. Càng bàn nhiều hơn khi bản tiếng Việt của dịch giả trẻ Cao Việt Dũng được truyền rộng rãi trong những người mê sách. Cái tên đầy mùi vị khoa học không cản được sự háo hức của những “kẻ nghiện sách” trước một tên tuổi lớn: Michel Houellebecq. Và khi Hạt cơ bản được chính thức phát hành, một cảm giác “cầm thật nặng tay và đọc lại thật đã” khiến nhà thơ Nguyễn Chí Hoan rất muốn chia sẻ với bạn đọc. - Đừng sợ, tôi rất muốn nói với mọi người như vậy. Cái tên sách khô khan, những “mặc cảm” về thứ văn chương hậu hiện đại khó đọc, khó vào, những lý thuyết về hạt cơ bản được đưa vào tiểu thuyết một cách dày đặc và có hệ thống mà ngay cả dân làm khoa học cũng đôi lúc cảm thấy khó hiểu... tất cả chỉ làm cho Hạt cơ bản hấp dẫn hơn nếu ta cứ đọc nó một cách bình thản, đầu tiên chỉ là để “đọc lấy chuyện” thôi đã. Câu chuyện của hai anh em cùng mẹ khác cha, Bruno và Michel, một kẻ đam mê tình dục đến mù quáng, một người dịu dàng và luôn hướng tới lối sống đạo đức (đạo đức theo triết lý của riêng mình - một nhà khoa học cô đơn đi trước thời đại) thật sự là rất hấp dẫn. Tuổi thơ của họ, khoảnh khắc dậy thì của họ, phút yêu đương đầu tiên của họ, nỗi buồn của họ, những người đàn bà của mỗi người... đủ tạo thành một câu chuyện nhiều cung bậc và không thể làm người ta chán. * Nhưng thưa anh, cảm giác mệt mỏi khi trải qua những trường đoạn liên tiếp mô tả các trạng thái tình dục (nhất là của Bruno) là không thể tránh khỏi, kể cả với những người đọc “cứng bóng vía” nhất? - Đúng. Mệt mỏi và chán nản. Đó chính là ý đồ của tác giả. Ông ta đã cố tình miêu tả tình dục như thế. Ông ta muốn độc giả nhìn như thế về cuộc cách mạng tình dục những năm 1960 - 1970 ở phương Tây. Ông đã làm cho nó trở nên lạnh lẽo, thô kệch, thậm chí nhem nhuốc, không còn chút gì là hấp dẫn. Đúng như Michel Djerzinski -nhân vật chính - đã nói : “Tình dục đã trở nên thảm hại”. Nó cũng không còn đơn thuần là chuyện mỉa mai chua chát về cuộc cách mạng tình dục 1968, mà tràn ngập một ý tưởng chủ đạo: nền văn minh phương Tây xuống dốc từ cách mạng tình dục mà cứ tưởng mình đang làm cách mạng giải phóng con người cá nhân. Với hình tượng Bruno và tất cả những cái gọi là trạng thái tình dục mà anh ta trải qua, Houellebecq chỉ ra sự trống rỗng bế tắc trong việc thỏa mãn tình dục một cách quá đáng, ông đã hạ bệ tình dục như một huyền thoại cuối cùng của lối sống phương Tây. * Có gì hơn nữa ngoài sự phê phán và mỉa mai tình dục, thưa anh? Cái mà người ta nói là làm nên “tầm vóc lớn” của Michel Houellebecq? - Đó là giấc mơ về sự sáng tạo ra một “nhân loại” mới. Nhà khoa học dịu dàng Michel Djerzinski đã luôn mơ ước tạo ra được giống người mới, giống người khao khát tình yêu và không còn cô đơn. Và ở thì tương lai, năm 2029, anh và những đồng sự có chung hoài bão của mình đã thành công, dù lúc đó Michel đã chết được 20 năm. Hạt cơ bản do vậy cũng là một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đầy chất thơ. Bài thơ ấy dù trúc trắc gập ghềnh vẫn là những lời ca tuyệt diệu về hành tinh cô đơn mà chúng ta đang sống. Những trang tả giấc mơ của Michel là những trang đẹp nhất trong cuốn sách, nó đẹp đến ứa nước mắt. Không phải ngẫu nhiên mà khi kết thúc tác phẩm, nhà văn đã “đứng hẳn sang một bên” để tự bạch: “Tham vọng lớn nhất của quyển sách này là vinh danh cái giống loài bất hạnh và can đảm đã tạo ra chúng ta. Loài người khổ đau và xấu xí đó, chỉ hơi khác con khỉ một chút, dù sao cũng mang trong mình rất nhiều đặc điểm cao quí. Cái giống loài bị hành hạ, mâu thuẫn, cá nhân chủ nghĩa và hiếu chiến đó, với tính ích kỷ vô hạn, đôi khi có khả năng bùng nổ bạo lực kinh người, lại không ngừng tin vào lòng tốt và tình yêu”. THU HÀ review *** Hạt cơ bản (1998) là tiểu thuyết đưa nhà văn Pháp Michel Houellebecq trở thành một trong những gương mặt nổi bật của văn học Pháp trong mười năm trở lại đây. Với lối viết thô thẳng và gay gắt, cuốn sách táo tợn này đã làm rung chuyển cả thế giới văn chương. Sinh năm 1958, Michel Houellebecq thuộc thế hệ phải đối đầu với những sợ hãi mà cuộc sống hiện đại và sự cô đơn nhân bản mang đến. Những chủ đề gây tranh cãi cùng với nỗi ám ảnh phải giải thích và đặt tên cho chúng chính là điều làm cho tiểu thuyết được biết đến như một cuốn sách của quỷ dữ. Muốn quẳng đi song lại bị cuốn hút, độc giả càng bất ngờ với cách giải quyết mà tác giả đưa ra bằng thứ ngôn từ cay độc: loài người biến mất, nhường chỗ cho một giống loài mới. Nhân dịp cuốn Hạt cơ bản của Michel Houellebecq vừa được dịch sang tiếng Việt, L’Espace tổ chức buổi hội thảo giới thiệu tác phẩm, với sự tham gia của Dương Tường, nhà phê bình văn học, Nicolas Stedman, dịch giả và Cao Việt Dũng, người dịch cuốn tiểu thuyết sang tiếng Việt. HÀ THÀNH Review *** Ngày mồng Một tháng Bảy năm 1998 rơi đúng vào thứ Tư. Cho nên cũng lô gích, dù quả có hơi khác thường, khi Djerzinski tổ chức bữa tiệc tạm biệt vào buổi tối thứ Ba. Chiếc tủ lạnh hiệu Brandt xếp đầy những chai sâm banh đặt giữa đám túi phôi đông lạnh; nó hơi oằn xuống dưới sức nặng của đống chai; thường nó được dùng để bảo quản các sản phẩm hóa học thông thường. Bốn chai cho mười lăm người, quá ít ỏi. Nhưng toàn bộ bữa tiệc cũng thật giả tạo: động lực tập hợp họ ngồi lại với nhau rất hời hợt; một câu nói vụng về, một cái nhìn liếc xéo là đủ để nhóm người giải tán, mỗi người vội vã đi ra xe của mình. Họ đang ở dưới tầng hầm, trong một căn phòng có máy lạnh, tường lát đá hoa ca rô trắng và treo một bức ảnh lớn chụp vài cái hồ ở Ðức. Không ai đề nghị chụp ảnh. Một nghiên cứu viên trẻ mới đến hồi đầu năm, rậm râu và trông khá ngu xuẩn, sau vài phút đã cáo từ, viện lý do phải đi sửa xe. Một nỗi bồn chồn ngày càng rõ rệt dần xâm chiếm những người khách - đã sắp đến kỳ nghỉ hè. Vài người sẽ đến nhà người thân nghỉ ngơi, một số khác sẽ đi du lịch sinh thái. Những câu nói chầm chậm rơi lộp độp trong bầu không khí. Họ nhanh chóng chia tay nhau. Mười chín giờ ba mươi, bữa tiệc kết thúc. Djerzinski đi cắt ngang bãi để xe cùng với một đồng nghiệp nữ tóc đen dài, da rất trắng, bộ ngực đồ sộ. Cô nhiều tuổi hơn anh một chút; gần như chắc chắn cô sẽ thay anh đứng đầu tổ nghiên cứu. Phần lớn các bài viết của cô xoay quanh gen DAF3 của ruồi giấm; cô còn độc thân. Ðứng trước chiếc Toyota của mình, anh mỉm cười chìa tay ra (mấy giây trước đó anh đã nghĩ mình sẽ làm động tác này, đi kèm với một nụ cười, anh đã chuẩn bị trong đầu như thế). Hai bàn tay nắm lấy nhau và khẽ lắc lắc. Một lúc sau anh nghĩ là cái bắt tay đó hơi thiếu độ nồng ấm; nhẽ ra họ cần phải ôm hôn như các ông bộ trưởng hay vài ca sĩ nhạc nhẹ vẫn thường làm. Nói xong lời tạm biệt, anh ngồi trong xe năm phút, năm phút thật dài. Tại sao cô không nổ máy? Cô đang vừa nghe Brahms [1] vừa thủ dâm chăng? Hay cô đang nghĩ đến sự nghiệp của mình, đến những quyền lực cao hơn sắp sửa có, cô có sung sướng với chúng không? Cuối cùng, chiếc Golf của cô chuyên gia về gen rời khỏi bãi đỗ xe; anh lại trơ trọi một mình. Ngày hôm nay thật đẹp, trời vẫn còn nóng. Trong những tuần đầu tiên của mùa hè này, tất cả dường như cố định trong một sự bất động tuyệt vời; tuy nhiên Djerzinski cũng hiểu rằng ngày đang ngắn dần lại. Anh làm việc trong một môi trường thuận lợi, anh nghĩ trong lúc nổ máy xe. Với câu hỏi: “Làm việc ở Palaiseau bạn có cảm thấy được hưởng một môi trường nhiều ưu đãi không?”, 63% người trả lời: “Có”. Ðiều này cũng dễ hiểu: các tòa nhà không cao lắm, nằm xen kẽ giữa những bãi cỏ. Có nhiều siêu thị lớn, mua bán rất dễ dàng; khái niệm chất lượng cuộc sống có vẻ rất phù hợp ở trường hợp Palaiseau này. Ðường cao tốc Nam Paris vắng tanh không một bóng người. Anh có cảm giác đang ở trong một bộ phim khoa học viễn tưởng New Zealand mà anh đã xem hồi còn là sinh viên: anh đang là người cuối cùng của Trái Ðất sau khi toàn bộ sự sống đã biến mất. Ðiều gì đó trong bầu không khí gợi lên một sự tận thế khô khốc. Djerzinski sống ở phố Frémicourt từ khoảng mười năm nay; anh đã quen với khu phố yên tĩnh này. Năm 1993, anh cảm thấy cần có bầu có bạn, một ai đó chờ đón anh vào mỗi tối khi anh trở về. Anh đã chọn một con chim bạch yến, một con chim rất hay sợ hãi. Nó hay hót, nhất là vào buổi sáng nhưng dường như nó không được vui; nhưng một con chim yến liệu có thể cảm thấy vui? Niềm vui là một cảm xúc dày đặc và sâu sắc, một thứ tình cảm tràn trề phấn khích chỉ ý thức trọn vẹn mới cảm thấy được; người ta có thể ví nó với sự say sưa, sự hân hoan, sự phấn khích. Một hôm, anh thả con chim ra khỏi lồng. Sợ quá, nó ỉa xuống đi văng và lao vào chấn song để tìm lối ra. Một tháng sau, nó lặp lại ý đồ đó. Lần này nó bị ngã khỏi cửa sổ. Yếu đi ít nhiều vì cú ngã, con chim đành đậu xuống ban công một căn hộ thấp hơn năm tầng của tòa nhà đối diện. Michel phải đợi nữ chủ nhân về, sốt ruột vì sợ cô ta có nuôi mèo. Sau đó anh biết cô gái là biên tập viên ở tạp chí Tuổi 20, cô sống một mình và về nhà rất muộn. Cô không nuôi mèo. Ðêm xuống, Michel lấy lại được con chim đang run lên vì đói và lạnh, lẩy bẩy dựa vào thành ban công bằng bê tông. Nhiều lần, chủ yếu khi đi đổ rác, anh gặp lại cô biên tập viên. Cô gật đầu, có lẽ để tỏ cho anh thấy là cô nhận ra anh; anh cũng gật đầu chào lại. Tóm lại, sự cố đã cho phép anh thiết lập một mối quan hệ hàng xóm. Xét về mặt đó, sự cố là tốt. Nhìn qua cửa sổ nhà anh có thể nhìn thấy khoảng chục tòa nhà, tương đương khoảng ba trăm căn hộ. Thường thì khi buổi tối trở về, con chim yến sẽ làm toáng lên và hót líu lo trong khoảng năm hoặc mười phút. Rồi anh thay thức ăn, nước và rơm độn trong lồng. Nhưng tối đó, đón chờ anh là sự yên lặng. Anh lại gần cái lồng: con chim đã chết. Cơ thể nhỏ bé màu trắng của nó đã lạnh ngắt giữa đám rơm và sỏi. Bữa tối của anh là một hộp cá biển trộn rau mua ở siêu thị Monoprix Gourmet, kèm với một chai rượu Valdepenas loại rẻ tiền. Sau một hồi lưỡng lự anh đặt xác con chim vào một cái túi ni lông rồi ném tất cả vào ống đổ rác. Còn làm thế nào khác được bây giờ? Làm một lễ mi-xa chăng? Anh chưa bao giờ biết cái ống đổ rác với cái miệng bé xíu (nhưng đủ để chứa xác một con chim yến) đó dẫn đến đâu. Anh mơ thấy những thùng rác khổng lồ, đầy những phin cà phê, tim xắm ăn liền tưới nước sốt và bộ phận sinh dục bị chặt ra. Những con sâu to đùng, to bằng con chim, vũ trang bằng cái mỏ, sẽ tấn công cái xác chết. Chúng sẽ vặt chân của nó, xâu xé nội tạng của nó, ngấu nghiến hai con mắt của nó. Anh ngồi bật dậy giữa đêm, run rẩy; mới một giờ rưỡi. Anh nuốt chửng ba viên Xanax. Ðó là cách anh kết thúc ngày đầu tiên tự do của mình. Mời các bạn đón đọc Hạt Cơ Bản của tác giả Michel Houellebecq.