Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông

Thị trấn nhỏ nép mình nơi miền rừng núi của tiểu bang Wisconsin không chỉ bị trận bão tuyết bất ngờ ập đến làm cho trấn động. Trong đêm bão, cả gia đình nhà Lacourt gồm 3 người bị sát hại hết sức dã man, ngôi nhà của họ bị thiêu rụi bởi một kẻ mang tên là Người Băng, chỉ vì hắn cần lấy một bức ảnh. Vụ việc xảy ra hết sức phức tạp, để truy tìm ra danh tính kẻ sát nhân, chàng thám tử đến từ thành phố  Minneapolis, tên là Lucas Davenport buộc phải dùng kì nghỉ đông dài ngày của mình khi được cảnh sát trưởng của thị trấn tin tưởng giao trọng trách điều tra vụ án bí ẩn này. Trong khi tham gia vào điều tra vụ án này Lucas Davenport đã quen với một nữ bác sĩ tên là Weather Karkinnen. Tại đây hai người đã nảy sinh tình cảm và cùng nhau đi tìm lời giải đáp của vụ án này. Trong lúc lần mò tháo từng nút thắt, Lucas Davenport không biết rằng, tên sát nhân Người Băng – kẻ thù nguy hiểm nhất của anh đang ẩn mình trong đêm tối như một con sói săn mồi, chực chờ thời cơ hòng hủy diệt mọi đầu mối dẫn đến những bí mật khủng khiếp hơn ẩn dưới lớp tuyết dày. “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một cuốn sách đầy lối cuốn với những tình tiết rùng rợn được đẩy lên cao trào, khiến người đọc như hòa vào dòng chảy của câu chuyện không thể dừng lại. Và khác so với nhiều cuốn tiểu thuyết khác, tác phẩm được xây dựng cốt truyện ngay từ khi được chắp bút của tác giả. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil.   *** Trong số mười chín tiểu thuyết trong series Săn mồi tôi đã viết tính đến giờ, có một vài cuốn có cốt truyện đơn giản hơn, và thực lòng mà nói, cũng có một vài cuốn hay hơn những cuốn khác. Tôi không muốn kể tên chúng ra - thế lại làm giảm doanh thu bán sách của tôi mất - những những người đã theo dõi cả bộ tiểu thuyết nói với tôi rằng “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một trong những cuốn xuất sắc hơn hẳn. Tôi cũng đồng ý với những nhận xét này. Và thường những tác phẩm hay lại là những cuốn truyện không tốn quá nhiều công sức của tác giả. Một câu chuyện với những nhân vật hay ho cùng tính cách phong phú, và với cốt truyện liền mạch ngay từ khi vừa chắp bút sẽ tự khai triển trong tâm trí tác giả như một cuốn phim vậy - ta gần như có thể xem được bộ phim đó khi ngồi viết bên bàn máy tính. Viết nên cuốn tiểu thuyết này giống như chép lại những câu chuyện trong đầu tôi vậy. Cũng có những cuốn kiểu như thế này. Bạn dự định viết một cuốn dài một trăm nghìn từ nhưng khi mới viết được năm mươi nghìn thì bạn lại nghĩ rằng câu chuyện chỉ có thể dừng ở mức năm mươi lăm nghìn từ. Sau cùng, thay vì viết tiểu thuyết, bạn lại viết nó thành một truyện ngắn. Và khi chuyện đó xảy ra, bạn cố tình tạo ra những bất ngờ hay những nút thắt thay đổi cốt truyện mà ngay từ đầu không hề dự định. Và điều này khiến nó trở thành một cuốn tiểu thuyết không xuất sắc. (Những ví dụ điển hình nhất cho thể loại này là những cuốn tiểu thuyết viễn tưởng chỉ dài có hai trăm năm mươi nghìn từ, loại tiểu thuyết bạn có thể đọc trên xe buýt trong vòng hai tuần. Đó là cái kiểu chuyện nói về một anh hùng cưỡi rồng tới Khu Rừng Hắc Ám để chiến đấu với đồ đệ của một phù thủy nào đó. Rồi sau cuộc chiến, anh ta lại tiếp tục đi sâu hơn vào khu rừng để chiến đấu với một tên đồ đệ phù thủy lợi hại hơn, vân vân… Khuấy các tình tiết lên cho đến khi chúng trộn lẫn vào nhau và thành một món dở sống dở chín). Khác với những tiểu thuyết này, cuộc THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG được dựng cốt truyện ngay từ khi chắp bút. Ngay trước khi cầm bút, tôi đã có cơ hội được trải nghiệm mùa đông khắc nghiệt ở khu rừng North Woods. Mùa đông ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành một nhân vật trong cuốn sách, với những con hươu, con sói đói khát và những hiện trường vụ án lạnh lẽo đến thấu xương. Một người bạn của tôi nói rằng vợ anh ấy chưa từng đọc hết cuốn truyện vì nó quá rùng rợn. Cô ấy sống ở vùng nông thôn, và trong suốt mùa đông, khi mà anh bạn của tôi thường xuyên vắng nhà, cô ấy không muốn có bất kì ý niệm nào về những sinh vật hoạt động trong những đêm đông, cho dù đã nhét khẩu súng săn dưới giường… Đồng thời, trong Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi cũng đem đến một nhân vật mới, Weather Karkinnen. Cô là một bác sĩ, và không chỉ sưởi ấm cho Lucas Davenport trong cuốn sách này, cô sẽ trở thành tình yêu của đời anh trong những cuốn tiếp theo. Tôi đã từng thắc mắc mình sẽ làm gì với Weather sau khi cuốn truyện này kết thúc. Thực ra, tôi đã liên tục nhắc đến cô dưới cái tên “Harkinnen” ở những cuốn tiểu thuyết sau này. Tôi tin rằng Weather được khắc họa đậm nét nhất trong Cuộc thanh trừng mùa đông hơn bất kì một cuốn nào khác, dù trong một cuốn truyện, cô ấy trở thành nhân vật chính, và trong các cuốn tiểu thuyết khác cũng xuất hiện nhân vật này. MỘT ĐIỀU KHIẾN Cuộc thanh trừng mùa đông trở nên thành công chính là khi tôi viết cuốn sách này, tôi vẫn khá gần gũi với công tác báo chí. Ví dụ, cảnh hỏa hoạn ở phần mở đầu của cuốn sách thực ra được mô phỏng dựa trên hai vụ hỏa hoạn mà tôi đã đưa tin vào mùa đông ở Minnesota, một vụ cháy căn nhà di động và một vụ ở tòa nhà ở trung tâm Minneapolis. Vụ cháy tòa nhà ở Minneapolis diễn ra khi nhiệt độ xuống tới âm hai mươi bảy độ c với sức gió lên đến gần năm mươi km/h. Khi làm thử phép tính, sẽ cho ra “yếu tố gió lạnh”* tầm âm một trăm nghìn độ. Các anh lính cứu hỏa phải được “đục” ra theo đúng nghĩa đen khỏi những bộ đồng phục bị băng đá thổi ngược lại từ cái vòi cứu hỏa làm cho nặng trịch. Yếu tố gió lạnh (windchill factor), chỉ tình trạng vào mùa đông khi có gió thổi, con người sẽ cảm thấy lạnh hơn nhiệt độ thực tế đo được. Đó là những mẩu chuyện khá hay ho. Theo cá nhân tôi, những câu chuyện viễn tưởng “thực nhất” phải bao gồm những sự kiện được quan sát tận mắt chứ không phải chi được vẽ ra trong trí tưởng tượng của tác giả. Dù sao đi chăng nữa thì mùa đông (ở Hayward, Wisconsin, nơi tôi có một ngôi nhà gỗ để nghỉ hè) vẫn là một trong những nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi. Một tên loạn trí cưỡi xe trượt tuyết, cùng một cô người yêu tuổi mới lớn lệch lạc tư tưởng và một đống xác chết - thảy hết chúng vào câu chuyện này, và ta chẳng còn cần gì hơn thế nữa. SAU KHI KẾT THÚC cuốn truyện và chỉnh sửa những chương đầu cùng chương cuối, tôi ngồi ngẫm lại và nhận ra rằng có lẽ mình đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp của dòng tiểu thuyết trinh thám rồi. Không chỉ không gặp nhiều khó khăn với cuốn này, mà sau sáu cuốn tiểu thuyết tôi đã từng chắp bút, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể điều khiển dòng chảy của câu chuyện từ đầu cho tới cuối. Không như những cuốn tôi đã viết trước đó, tôi không phải dừng lại giữa chừng để đọc lại và bỏ đi một nửa những gì mình đã viết, vì tôi đã dẫn dắt câu chuyện đi sai hướng, hoặc vì tôi đã phạm phải một lỗi cơ bản mà không nhận ra. Tôi có thể thấy được cái kết cho Cuộc thanh trừng mùa đông ngay từ khi bắt tay vào viết… Sau Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi nghĩ rằng mình có thể viết đến cả trăm cuốn nữa cho bộ tiểu thuyết này, và chúng cũng sẽ xuất sắc, cô đọng và đầy chuyên nghiệp như thế này. Và rồi nghiệp viết văn của tôi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện chưa được như ý tôi muốn nhưng ít nhất đó là những gì tôi cảm nhận sau khi hoàn thành cuốn này. Mong bạn đọc sẽ yêu thích câu chuyện. JOHN SANDFORD *** GIÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay. Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang. Chín ki lô mét, góc phương vị* hai trăm bảy mươi độ… Góc phương vị (compass bearing) là góc tạo bởi hướng Bắc và hướng muốn đi trên la bàn. Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian… Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ hồ rồi tắt máy. Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn… Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo. Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại. Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan. Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn. Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân. Và nó gần như quá hoàn hảo. Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực. Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện. Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn. Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà. Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynette hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại -truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà. Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre* vậy. Phương pháp Daguerre (Daguerreotype) là phương pháp chụp ảnh được phát minh bởi Louise Dagueưe (1787-1851), qua đó hình ảnh sẽ được ghi lại trên một tấm bảng kim loại. Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng. Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước. Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy. “Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu. “Sao vậy, anh yêu?”cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành tình cảm cho nhau. Anh rầu rĩ, “Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. “Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này.” “Lạy Chúa, Frank…,” cô đảo mắt. “Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao. “Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?” Cô chuyển chủ đề. “Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?” “Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô “Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. “Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim.” “Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim “High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper. “Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó. “Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được.” Frank năn nỉ. “Anh đã bảo với Harper rồi.” “Sẽ có rắc rối đó, Frank,” Claudia nói. “Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng “Em bật cái lò sưởi lên nhé?” “Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi”. Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. “Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt.” “Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng.” Frank chửi tên dự báo thời tiết, “Mẹ kiếp.” Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút. “Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi” cô nài xin “Hãy suy nghĩ lại một chút thôi.” “Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô. Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão. Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không. Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu. Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Qaudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ… Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ. Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra. Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn. Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy. Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank. Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi. Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng… Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây. Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành. Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà. Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp. “Claudia?” Frank lên tiếng. Cô hét lên. Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?” “Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.” “Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?” “Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 911 đi!” “Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên. “Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp, “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…” “Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.” “Tại sao chúng ta không gọi…” “Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.” Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai.Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày. Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ. Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh” “Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch. Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo “Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper… Có thể…” Mời bạn đón đọc Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông của tác giả John Sandford.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mười Hai Người Hoa Và Một Cô Gái
Với cốt chuyện đơn giản nhưng văn phong giàu hình ảnh và đậm tính hành động, James Hadley Chase khiến cho người đọc có cảm giác như chính họ đang trực tiếp tham gia vào câu chuyện, đối mặt với những sự kiện gay cấn và bí ẩn. Đó là một trong những lý do khiến nhiều người lựa chọn Mười hai người Hoa và một cô gái cho tủ sách của mình. Cuốn sách gồm hai truyện ngắn, Mười hai người Hoa và một cô gái là cuộc điều tra của một thám tử can trường Ferner chống lại những hoạt động tội ác của một băng tội phạm người Hoa, còn Chẳng bao giờ hiểu được đàn bà là câu chuyện tình éo le của một thám tử thất cơ với một cô gái bị nghi ngờ là thủ phạm của một vụ giết người hàng loạt. Mời các bạn đón đọc. *** James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** Fenner hé một bên mắt lúc Paula lách bộ ngực ngon lành và mái tóc bù xù vào khe cửa phòng giấy của ông. Ông lơ đãng nhìn rồi lại thu mình trên ghế tựa, hai chân gác lên tấm giấy thấm trắng tinh trên bàn. Ghế tựa xoay tròn của ông nghiêng 45 độ trông chỉ chực đổ. - Ra đi, Paula. - ông càu nhàu. - Lúc khác hãy vào, bây giờ tôi đang suy nghĩ. Paula lách hẳn bộ ngực vào phòng giấy. Cô đến bên bàn. - Dậy đi. Thần Ngù! - cô nói. - Có khách hàng đang đợi ngoài kia kìa. - Bảo người ta về, - Fenner nhăn nhó. - Bảo họ chúng ta tạm nghỉ. Lạy Chúa, thì thỉnh thoảng tôi cũng cần ngủ chứ? - Thế sếp dùng giường làm cái gì? - Paula sốt ruột nói. - Đừng hỏi tôi những câu như thế, - Fenner gắt rồi lại co người trong ghế tựa. - Mời sếp đứng lên đi. - Paula năn nỉ. - Một bông hoa rừng. Mà em thấy hình như cô ta đang gặp chuyện rắc rối gì rất cần nhờ đến sếp. Fenner mở mắt. -Dáng dấp ra sao? Liệu cô ta có định xin bố thí không đấy? Paula ngồi vào ghế ở góc phòng: -Nhiều lúc em cứ tự hỏi, không hiểu sếp treo tấm biển ngoài cửa để làm gì. Sếp không muốn có khách hàng sao? Fenner lắc đầu: -Không, nếu tôi chưa thấy cần thiết. Mấy vụ vừa rồi được khá tiền. Chúng ta đang rủng rỉnh, đúng không nào? Nghỉ ít lâu đã. -Em thấy vụ này có vẻ lý thú đấy. Nhưng nếu anh không thích thì thôi. Paula đứng lên định ra ngoài. - Khoan đã, - Fenner vội gọi lại. Fenner đã ngồi hẳn dậy, kéo chiếc mũ lên trán: - Đúng là bông hoa rừng chứ? Paula gật đầu. - Em thấy cô ta có vẻ rất hoảng hốt. - Thôi được. Cho cô ta vào. Paula hé mở cánh cửa. nói ra ngoài: - Mời cô vào đây. - Cảm ơn, - tiếng phụ nữ bên ngoài. Một cô gái trẻ bước vào, đi ngang trước mặt Paula, chăm chú nhìn Fenner bằng cặp mắt xanh biếc. Vóc tầm thước. Dáng đi mềm mại. Hai chân mềm mại. Bàn tay nhỏ nhắn và bàn chân nhỏ nhắn. Lưng rất thẳng. Tóc đen nhánh lộ ra ngoài chiếc mũ nhỏ. Mặc bộ đồng màu cắt giản dị và đẹp. Vẻ mặt non trẻ. Có vẻ đang rất sợ hãi chuyện gì đó. Paula mỉm nụ cười trấn an cô gái rồi bước ra ngoài, khép cửa lại. Fenner nói: - Mời cô ngồi. Cô cần tôi giúp việc gì? Ông trỏ ghế tựa lớn. Cô gái lắc đầu. - Tôi muốn đứng, - cô gái nói, giọng hơi hổn hển. - Có lẽ tôi không gặp ông lâu đâu. Fenner ngồi xuống: - Tùy cô, - ông nói giọng điềm tĩnh. - Cô cứ tự nhiên. Hai người nhìn nhau một lúc. Fenner nói tiếp: - Cô nên ngồi xuống thì hơn. Xem chừng cô sẽ phải kể với tôi nhiều đấy, và trông cô lại rất mỏi mệt. Fenner thấy rõ không phải cô gái sợ ông mà sợ thứ gì đó ông chưa biết. Cặp mắt cô gái đầy lo lắng. Hai tay cô co lên đỡ cặp vú rất cao, như thể chỉ chực chạy vụt ra ngoài. Cô gái lại lắc đầu. - Tôi nhờ ông tìm giúp em gái tôi, - cô ta nói giọng lo lắng. - Tôi rất lo cho nó. Tốn bao nhiêu, thưa ông? Ý tôi nói là tôi phải trả ông bao nhiêu? Fenner liếc nhìn lọ mực nằm ngay cạnh bàn tay ông: - Cô không phải băn khoăn chuyện đó. Yên tâm đã. Và kể tôi nghe đầy đủ câu chuyện. Trước hết tôi muốn biết cô là ai. Chuông điện thoại reo. Cô gái đột nhiên hốt hoảng. Cô vội vã chạy ra xa máy vài bước rồi đứng lại, cặp mắt trợn lên và tối lại. Fenner mỉm cười bình thản để cô gái yên tâm. - Lúc tôi ngủ. bao giờ tiếng chuông điện thoại cũng làm tôi hồi hộp như vậy đấy. Fenner nhấc máy. Cô gái lúc này đứng ở ngưỡng cửa phòng giấy, nhìn ông không chớp mắt. - A - lô! Tôi đây. Tiếng trong máy rất bị nhiễu. Giọng đàn ông ngọt ngào: - Ông Fenner? - Vâng. - Ngay bây giờ sắp có một cô gái đến tìm ông. Tôi nhờ ông giữ cô ta lại ở chỗ ông, đợi tôi đến. Tôi đi ngay bây giờ. Ông hiểu chứ? Fenner nháy mắt với cô gái để trấn an rồi nói vào máy: - Chưa hiểu. - Vậy tôi nhắc lại. Ông nghe cho kỹ. Chỉ lát nữa thôi sẽ có một cô gái đến tìm ông, nhờ ông tìm em gái cô ta bị mất tích. Ông hãy giữ cô ấy lại ở chỗ ông đợi tôi đến. Cô ta mắc bệnh tâm thần đấy và trốn ở bệnh viện tâm thần ra hôm qua. Tôi biết cô ta đang trên đường đến văn phòng của ông. Ông chỉ cần giữ cô ấy lại, không cho đi, thế là đủ. Tôi sẽ đến ngay. Fenner kéo mũ chụp xuống mũi. - Nhưng ông là ai? Máy lạo xạo rất to. - Lát nữa tôi sẽ kể ông rõ. Chúng tôi sẽ đền bù công lao của ông hậu hĩ. - Được, - Fenner nói. - Tôi đợi ông. Đợi Fenner đặt máy xuống, cô gái hỏi: - Lão ta bảo tôi điên phải không? Bàn tay không cầm xắc run rẩy bấu vào váy. Fenner gật dầu. Cô gái nhắm mắt một giây, rồi đột nhiên mở to, y hệt như con búp bê nhắm mở mắt bị trẻ nhấc cho ngồi dậy. - Khó mà không tin lão ta được, đúng không thưa ông? - cô gái lo lắng nói. Đột nhiên cô ta đặt xắc lên bàn, tháo găng tay rồi cởi áo vét. Fenner im lặng, tay vẫn còn đặt trên máy điện thoại, nhìn cô gái. Cô gái nấc lên rồi bàn tay run rẩy cởi dần khuy áo sơ mi. Fenner ngượng ngịu lắc bàn tay: -Không cần! Vụ của cô làm tôi thấy hứng thú. Thế là đủ, cô không cần thưởng thêm gì nữa. Cô gái lại nấc lên như khóc, quay lưng lại phía Fenner. Rồi cô cởi áo sơ mi. Fenner đã đưa tay định bấm chuông gọi người vào. Con bé này định giở trò vu cho mình cuồng hiếp nó để mình bị bắt chứ gì? Nhưng Fenner chưa kịp bấm chuông thì ông đã giật mình. Lưng cô gái là cả một vết thương lớn chằng chịt những vết roi rớm máu ngang dọc, tạo thành một hình hoa văn quái đản và khủng khiếp. Cô gái mặc lại sơ mi rồi cài khuy. Mặc tiếp áo vét. Sau đó cô quay mặt lại phía Fenner. Cặp mắt cô còn mở to hơn lúc trước. - Bây giờ nếu tôi nói tôi đang rất sợ thì ông tin chứ? Fenner lắc đầu. - Lẽ ra cô không cần phải làm như vừa rồi. Cô đến đây cầu cứu tôi, thế là đủ. Và bây giờ cô không phải sợ thứ gì nữa. Cô gái vẫn đứng, hàm răng trên trắng bóng cắn cắn vào môi dưới. Rồi cô mở xắc lấy ra một tập giấy bạc đặt lên bàn. - Thế này đã đủ để trả công ông chưa? Fenner sờ ngón tay vào tập giấy bạc. Chưa đếm nhưng Fenner cũng đoán ít nhất phải mười hai ngàn đô. Ông đứng dậy, nhấc tập tiền đem ra cửa. Ông bảo cô gái: - Cô đứng yên đấy. Fenner ra phòng làm việc của cô thư ký Paula. Paula ngừng đánh máy, đặt hai bàn tay lên đầu gối, ngẩng nhìn Fenner. Fenner nói: - Paula! Cô đội mũ mau rồi dẫn cô gái kia đến khách sạn Baltimore. Thuê một phòng và dặn cô ta khóa trái cửa lại. Thu xếp chỗ nghỉ cho cô ta xong, cô nhập khoản tiền này vào tài khoản trong nhà băng. Hãy tác động để cô ta yên tâm. Bảo tôi sẽ che chở được cô ta. Trấn an cô ta, cô ta đang hốt hoảng. Tuổi cô ta vẫn cần có mẹ đấy, cô hãy làm bà mẹ, rõ chứ? Fenner quay vào phòng giấy. - Tên cô là gì? Cô gái chớp chớp mắt: - Ông hãy đưa tôi ra khỏi đây ngay! Ở lại đây tôi sợ lắm! - cô năn nỉ. Fenner đặt bàn tay to bè lên vai cô gái: - Tôi đã bảo cô thư ký đưa cô đi rồi. Cần gì cô cứ nói với cô ấy. Một người nào đó sắp đến đây. Y rất quan tâm đến cô. Tôi sẽ tiếp y. Nhưng tên cô là gì? - Marian Daley, - cô gái đáp. Cổ họng nghẹn lại. - Bà thư ký sẽ đưa tôi đi đâu? Paula bước vào. vừa đi vừa xỏ tay vào găng. - Cô hãy đi vởi cô Paula Dolan. Ra lối cổng sau. Thế là yên rồi, cô không phải lo lắng gì nữa. Marian Daley mỉm cười e thẹn. -Ôi, tôi đến đây nhờ ông là rất đúng. Ông thấy đấy, tôi đang gặp nhiều nỗi bất hạnh... Tôi còn lo cho em gái tôi nữa chứ. Nó sẽ ra sao với mười hai tên người Hoa kia? - Tôi chưa thể nói gì lúc này được. - Fenner lúng túng nói. Lúc tiễn cô gái ra cửa. Fenner nói thêm: -Em gái cô mến người Hoa. có lẽ thế. Cũng có nhiều người như vậy, Cô đừng lo lắng gì hết. Tối nay, tôi sẽ đến gặp cô. Fenner tiễn Paula và cô gái đến tận thang máy. Khi buồng thang máy đã lao xuống dưới, ông trở lại phòng giấy, nhẹ nhàng gài chốt cửa lại. Sau đấy ông mở ngăn kéo bàn lấy ra khẩu súng ngắn tự động nhét vào túi áo vét. Ông lại ngồi xuống, gác chân lên tấm giấy thấm, nhắm mắt. Fenner ngồi suy nghĩ như thế chừng mười phút. Ba thứ làm ông quan tâm: mười hai ngàn đô, những thương tích trên lưng cô gái và mười hai người Hoa. Tại sao cô Marian Daley này lại trả tiền trước? Tại sao cô ta không đơn giản chỉ nói cô ta bị kẻ nào đánh mà lại cởi áo sơ mi ra trước mặt ông? Tại sao cô ta lại nói mười hai người Hoa mà không nói những người Hoa? Tại sao lại là mười hai? Fenner ngọ nguậy trên ghế. Rồi lại chuyện một thằng cha nào đó gọi điện thoại tới. Hay cô Marian kia trốn trại điên thật? Ngờ lắm. Cô ta có vẻ rất hoảng sợ nhưng không có vẻ người mắc bệnh tâm thần. Fenner mở mắt nhìn chiếc đồng hồ báo thức mạ kền nhỏ trên bàn. Paula đưa cô gái đi đã được mười hai phút. Sao chưa thấy thằng cha gọi điện thoại? Bao giờ hắn mới tới? Trong lúc suy nghĩ, Fenner có cảm giác mình không tập trung tư tưởng lắm. Bởi tai ông đang nghe tiếng ai huýt sáo ngoài hành lang. Ông cố tập trung tư tưởng để suy nghĩ vào vấn đề cô gái kia. Marian Daley! Cô ta là ai? Có vẻ con nhà giầu. Bộ quần áo cô ta mặc thuộc loại đắt tiền. Fenner rất khó chịu với tiếng thằng cha nào huýt sáo mãi ngoài hành lang. Bản nhạc nào ấy nhỉ. Bất giác ông cũng huýt sáo theo. Bản nhạc khá buồn. Bản Chloe. Nhạc buồn của giai điệu làm Fenner rối trí. Đột nhiên ông rùng mình, bởi tiếng huýt sáo vẫn ở nguyên một chỗ, như thể thằng cha đứng ngay ngoài cửa văn phòng của Fenner và cố tình huýt sáo cho ông nghe. Fenner rút chân trên bàn xuống rất khẽ. Đứng dậy. Tiếng huýt sáo vẫn khi xa khi gần, khi nhỏ khi to và ở nguyên một chỗ ấy, bên ngoài hành lang. Fenner sờ tay vào báng súng trong túi áo vét. Tuy phòng giấy của ông chỉ có một lối ra chính thức, đi qua phòng làm việc của cô thư ký Paula, nhưng vẫn có một lối ra khác phía trong, bao giờ cũng đóng chặt. Tiếng huýt sáo bên ngoài lối cửa đó. Fenner rón rén bước đến cánh cửa, nhè nhẹ vặn chìa khóa, cố không để đầu ông in bóng lên mặt ô kính mờ trên cánh cửa. Đúng lúc Fenner xoay quả đấm rất nhẹ và từ từ mở cửa thì tiếng huýt sáo đột nhiên ngừng bặt. Ông bước ra ngoài hành lang nhìn. Không có ai. Ông đi nhanh ra chỗ đầu cầu thang, cúi xuống nhìn. Cầu thang vắng ngắt. Ông quay lại, đi nhanh sang đầu cầu thang bên kia. Cũng không thấy ai. Kéo sụp mũ xuống, Fenner đứng im suy nghĩ, tai lắng nghe. Tiếng xe cộ dưới phố, vọng lên yếu ớt. Tiếng thang máy chạy. Fenner chậm chạp, quay về, đứng lại trước cánh cửa mở. Ông vừa đóng cửa, tiếng huýt sáo lại nổi lên. Thần kinh Fenner căng thẳng tột độ. Đóng cửa xong, Fenner rút súng trong túi ra cầm sẵn trong tay, bước sang phòng làm việc của Paula. Đột nhiên ông đứng sững lại, nhăn mặt. Một người đàn ông vóc nhỏ nhắn, mặc bộ âu phục đen nhầu nát ngồi thu mình trong chiếc ghế bọc nệm da êm ái dành cho khách. Y kéo mũ xuống che nên Fenner không nhìn rõ mặt. Nhưng chỉ liếc qua, ông biết y đã chết. Fenner nhét súng vào túi áo, tiến lại gần, ngắm nghía hai bàn tay vàng khè xương xẩu thõng xuống. Rồi ông cúi xuống lật mũ người lạ. Khuôn mặt rúm ró của một người Hoa! Cổ họng y bị cắt ngang, vết cắt chạy dài từ bên này sang bên kia, được khâu lại rất tỷ mẩn. Tuy vậy trông vẫn vô cùng khủng khiếp. Fenner rút khăn tay ra lau mặt. - Lý thú đấy! - ông lẩm bẩm một mình. Đang chưa biết xử sự thế nào thì Fenner nghe thấy chuông điện thoại. Ông nhấc máy. Đó là Paula. Cô thư ký có vẻ rất bối rối. - Cô ta chuồn mất rồi! Em đưa cô ta đến khách sạn Baltimore và thế là cô ta biến mất! Fenner lịm người. - Biến mất nghĩa là sao? Kẻ nào lôi cô ta đi? -Không. Em mải lúi húi ghi tên vào sổ đăng ký thuê phòng ở quầy nên không nhìn. Lúc ghi xong, ngẩng đầu lên thì không thấy cô ta đâu nữa. Em vội nhìn ra. thấy cô ta đi nhanh ra cửa. Em đuổi theo thì cô ta đã biến mất. - Cả tiền cô ta cũng cuỗm theo chứ? -Không. Em gửi tạm thủ quỹ ở đây rồi. Bây giờ em phải làm gì? Về văn phòng chứ? Fenner liếc nhìn xác người Hoa. -Cứ ở lại khách sạn Baltimore. Gọi ăn điểm tâm. Xong việc ở đây, tôi sẽ đến đó gặp cô. Hiện đang có một khách hàng tại đây... -Còn cô gái kia thì sao? Anh nên đến đây ngay thì hơn. Fenner nổi cáu: -Tôi chỉ huy hay cô? Thằng cha ngồi đây đang lạnh dần đây này. Tôi không nói đùa đâu... Fenner đặt máy, đứng lên. Ông quay sang phòng bên cạnh nhìn xác người Hoa. ngắm nghía. - Ta đi thôi, anh bạn, - ông nói. - Một cuộc đi dạo nhỏ! ... Mời các bạn đón đọc Mười Hai Người Hoa Và Một Cô Gái của tác giả James Hadley Chase.
Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt
ROBERT DALEY BÀN TAY KẺ LẠ MẶT Người dịch: Nguyễn Đắc Lộ NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KHÁNH HÒA - 1990 Dịch từ nguyên bản tiếng Anh Hands of a Stranger (Robert Daley) NXB New American Library (Signet Book) 1986, Nguồn sách: @quang3456 Chụp ảnh, pdf, OCR: 4DHN Cuộc đấu tranh để ngăn chặn, chống những tệ nạn xã hội là một trong những trận tuyến thầm lặng nhung không kém phân gay go, quyết liệt và nhiều khi trở thành nóng bỏng đối với nhiều nước trên thế giới hiện nay, đặc biệt là ở những nước tư bản phát triển, khi lối sống thực dụng lan trần, con nguôi chỉ biết chạy theo đồng tiền và những dục vọng thấp hèn, bất chấp mọi luật pháp và những nên tảng dạo đức xã hội. Thống qua tắn bi kịch của một gia dinh, tiểu thuyết “Bàn tay kè lạ mặt” của Robert Daley tuy chỉ đề cập dến một trong những loại hình tội phạm dang làm nhức nhối trong lòng xã hội Mỹ đương đại: tội hiếp dâm, nhung với lối viết chân thực, rất tỉ mi, cụ thể mà có tầm khái quát cao của mình, ngòi bút của ông đã vẽ nên một bối cảnh xã hội rộng lớn của xã hội Mỹ hiện nay: con người được sống với những diều kiện vật chất cao hơn, nhung khi nền tảng đạo đức xã hội bị phá vỡ, con người càng có nguy cơ trở nên tàn ác, tha hóa, thú vật với nhau hơn và tội ác càng cố sức công phá lớn, khó ngăn chặn hơn khi nó tận dụng được những phương tiện khoa học hiện đại phục vụ cho nó. Với một đề tài hấp dẫn nhung thật khó viết vì rất dễ có nguy cơ roi vào dung tục, khiêu dâm, chạy theo những thị hiếu tầm thường, Robert Daley dã thành công và tỏ ra là một cây bút có bản lĩnh. Cuốn sách của ông được đánh giá cao, trờ thành một hiện tượng văn học trong thập niên 80 ở Mỹ. Nhiều nhà phè bình nôi tiếng khẳng định giá trị nghệ thuật, tính chân thực và bức thống điệp nóng bỏng mà ông gửi dến cho mọi người về những mối de dọa của tội ác với cuộc sống và hạnh phúc của con người Trân trọng giới thiệu “Bàn tay kẻ lạ mặt”với bạn đọc. *** Nạn nhân bị xâm phạm đầu tiên sáng hôm ấy là một cô gái da đen mười chín tuổi. Người thứ nhì là một bà nội trợ da trắng ba mươi tám tuổi. Phụ tá chưởng lý quận Judith Adler không làm được gì đáng kể cho bất kỳ vụ nào. Cô gái da đen được một nữ thám tử đưa vào và được chỉ vào một chiếc ghế đối diện với bàn giấy. Viên thám tử trao tập hồ sơ vụ án của cô gái rồi ngồi dựa vào tường, một tập giấy vàng trên váy cô, chiếc ví tay nặng của cô đặt trên sàn nhà ngay bên cạnh. Judith Adler, sau khi nhìn lướt qua tập hồ sơ, thấy rằng nạn nhân tên là Bianca, người đã bị sáu người đàn ông “bề hội đồng” hôm qua, cô ta không hề biết mặt những tên hãm hiếp trước đó. Chẳng tên nào được gọi đích danh và cô ta chỉ có thể mô tả chúng là sáu “anh chàng da đen” thôi. Sự mô tả không làm Judith mỉm cười được. “Bianca, sáng nay cô thế nào?” Nàng ngẩng đầu lên hỏi: “Cô không sao chứ?” Nàng cố hết sức thật ôn tồn và thông cảm vì, xét theo tập hồ sơ, sự thông cảm hoàn toàn là sự công bình mà nạn nhân này hình như muốn có được. Bianca cám ơn, nói rằng cô ta khỏe và hình như sự thật là như thế. Ở vào trường hợp của cô thì một nữ sinh viên khác ở Park Avenue - Judith đã đối phó với nhiều người như thế - chắc sẽ cứng đờ người ra. Bianca mặc quần Jeans và giầy cổ cao, mấy chiếc móng chân màu đỏ tươi ló ra ngoài. Khuôn mặt rất trẻ, nước da rất đen. Cô tô son đỏ tươi và mặc một chiếc áo cánh cũng đỏ tươi. Với tiêu chuẩn trong thế giới riêng của cô, có lẽ ăn mặc như thế là thanh lịch. Judith định nói ai nhỉ? Bản thân nàng mặc một bộ đồ xanh lục bên ngoài một chiếc áo cánh lụa. Nạn nhân bị hãm hiếp kiên nhẫn chờ đợi. Theo tập hồ sơ sự vụ, hiện trường là một khách sạn phúc lợi tại Harlem. Địa điểm này quen thuộc đối với Judith. Công việc của nàng là phải biết những điều như thế. “Đấy chẳng phải là một khách sạn tốt” - nàng chê trách như thể chính khách sạn phải chịu trách nhiệm vì nếu không thì tội ác đối với Bianca không thể nào hiểu được. - “Rất nhiều gái điếm ở đây”. Bianca không có công việc làm, không có địa chỉ nhất định nào cả. Tuần qua cô ta đã di chuyển từ một căn nhà công cộng đến khách sạn phúc lợi và nàng biết rõ phải ngủ với quần áo đầy đủ kể cả đôi giầy vì sợ rằng sáng ra mọi thứ nàng có đều bị ăn cắp. Một người đàn bà tên Maria - không có họ - cũng sống ở đấy và trở thành bạn gái của cô ta. Nhưng Maria có chồng, dù theo luật lệ chung hoặc là chồng thật sự -cũng không thành vấn đề và một buổi sáng anh chồng này khoác lác rằng đã làm tình với Bianca ở phòng bên trong đêm. “Hắn bảo Maria rằng cô đã mút “của” hắn. Và cô có làm thế không Bianca?” Vai trò của nàng cho phép nàng có quyền nêu lên những câu hỏi như thế. Tuy nhiên một số những câu hỏi mà nàng sẽ hỏi sau đây sẽ còn có tính cách riêng tư hơn nữa. “Tôi chẳng thèm làm tình với bất kỳ ai mà tôi vừa gặp mặt cả”. Bianca phản đối. “Tôi nghĩ rằng tôi không chịu nói về việc ấy”. Câu này được nói lên thật trịnh trọng đến nỗi Judith, dù nàng chỉ gật đầu thôi, muốn hoan hô cô. Đối với Judith, sự tự trọng và lòng can đảm đều như nhau. Cả hai đều hiếm, đáng ca ngợi, và trong trường hợp một người mà viễn ảnh của cuộc sống thật tàn nhẫn như cuộc sống của Bianca, nó hoàn toàn bất ngờ. Maria đã ra đường phố thu thập một số đàn ông. Ả đã tìm thấy họ nằm uể oải nơi hiên trước và thơ thẩn ở các góc đường dưới ánh đèn. Ả đã thu thập được sáu kẻ thơ thẩn và đưa họ lên lầu. Tuổi họ từ vị thành niên cho đến năm mươi! “Tao sẽ làm mày tổn thương vì điều mày đã làm với chồng tao”. Ả đã bảo Bianca như thế và cho họ tấn công cô ta. Như mọi tội ác khác, hiếp dâm được phân hạng. Trường hợp hiếp dâm này, Judith Adler thấy, là một sự hiếp dâm để trả thù. Hiếp dâm để gỡ hòa. Hiếp dâm để trừng phạt. Tất cả sáu người đàn ông đều đã hãm hiếp Bianca. Chúng đã thực hiện nhiều lần và kéo dài theo khả năng của chúng. Chúng đã hãm hiếp cô ta cả phía trước lẫn phía sau và khi khả năng hoặc sự hăng hái của chúng hoặc bất kỳ thứ gì đã duy trì được hành động của chúng cuối cùng cạn đi, chúng bắt đầu hãm hiếp cô ta bằng các đồ vật. Thực là may, Judith suy nghĩ, vì chúng không chủ tâm giết cô ta. Nhiều cô gái trong các trường hợp tương tự đã xuất huyết đến chết. Công tác đầu tiên của nàng là đưa ra một sự mô tả chính xác của chính các hành động - cái gì và do ai. Những câu hỏi của nàng minh bạch và nàng đòi hỏi các câu trả lời cũng minh bạch. Nhưng giọng nói của nàng vẫn đều đều vì công tác của nàng không cho phép nàng bày tỏ cảm xúc và đôi khi nàng còn tự hỏi xem nàng có còn cảm thấy sự xúc động nào không nữa. Nàng đã không muốn trở thành chai đá. Mình là một người đàn bà, thỉnh thoảng nàng đã tự nhắc nhở lại như thế. Mình không phải là đàn ông. Nếu so sánh những sự xúc phạm mà người nghèo khổ gây ra cho nhau, đôi khi sẽ làm cho người giàu có có vẻ thánh thiện. Cộng thêm vào việc Maria đã hành động với tư cách giám sát và bản thân những kẻ hãm hiếp, rõ ràng là căn phòng đã đầy dẫy các quan sát viên, và Judith bắt đầu cố gắng thu thập những cái tên mà Bianca biết, không may những cái tên này đều không có họ. Dĩ nhiên, có Maria và chồng ả, Willis. “Willis có hãm hiếp cô không?” “Willis à, hắn là trọng tài đấy”. Silvia, không có họ, được mô tả là “có giọng thanh hơn tôi” đôi ba lần, khóc lóc thảm hại như Bianca và van xin các tên cưỡng hiếp buông Bianca ra. Tiny, được Bianca mô tả là “một người đàn ông mập với một mùi mồ hôi rất nồng”, đã quan sát với ngón tay cái đưa lên miệng. Judith ý thức rằng sự mô tả này có vẻ buồn cười trong lúc kể lại. Có lẽ điều ấy còn có vẻ buồn cười ngay cả trong một phòng xử án nữa. Nhưng đối với nàng nó chẳng có vẻ gì là buồn cười cả. “Cô phải tránh xa khách sạn ấy ra”, Judith ngẩng lên từ những điều ghi chú của nàng và khuyên cô gái. “Vì nếu họ hiểu được cô đã đến với tôi, họ có thể tìm cách hãm hại cô đấy”. Hãm hại cô ta à? Có lẽ họ sẽ giết cô ta đấy. Judith ghi số điện thoại và đẩy nó qua bàn giấy. “Đây là nhà và số văn phòng của tôi” - nàng giải thích. “Nếu cô đánh mất, tôi vẫn còn trong sổ sách. Nếu cô trông thấy bất kỳ ai trong số những người này, nếu có ai quấy rầy cô, tôi muốn cô gọi tôi ngay. Cô hiểu không? Hãy gọi tôi bất kỳ giờ nào bất luận ngày hoặc đêm”. Khi nữ thám tử đưa Bianca ra khỏi văn phòng, phụ tá chưởng lý quận Adler gấp tập hồ sơ, nhưng không bỏ vụ án lại. Dù rằng chẳng có gì nhiều để tiếp tục, nàng quyết định dù sao cũng phải theo đuổi nó. Nàng định đưa hai thám tử da đen đến khách sạn. Nếu Maria, Tiny hoặc Silvia vẫn còn đấy có thể bị nhận diện, và nếu Bianca tìm được địa chỉ và nhớ gọi đến, lúc ấy, có lẽ có thể sắp xếp được một hồ sơ, các sự bắt giữ sẽ được thực hiện. Maria và Willis, khi bị bắt có thể khai ra tên tuổi các tên hãm hiếp. Có lẽ thế mới có thể mong xét xử được. Có quá nhiều chữ “nếu”. Và nàng sẽ lấy đâu ra các thám tử nhỉ? Các chỉ huy trưởng cảnh sát không muốn đưa người ra cho những vụ án ưu tiên thấp như vụ này. Nàng sẽ tán tỉnh nhiều đấy. Vụ án tiếp theo hơi khá hơn. Bà nội trợ người da trắng ba mươi tám tuổi cũng ngồi vào cùng chiếc ghế như Bianca. Có một vết xây xát phía trên gò má bà ta và những vết khâu đen nơi khóe miệng. Bà cố gắng nở một nụ cười thê lương, dường như lúng túng vì đã gây ra nhiều sự phiền nhiễu, và nụ cười này có vẻ rộng một phân về một bên khuôn mặt bà ta hơn phía bên kia. Bà ta trông không xấu quá, Judith nghĩ như thế. Không như một số người mình đã gặp. Những người mà chỉ có những kẻ điên rồ thực sự mới tấn công. Bà nội trợ đã bị ve vãn trong lúc đang thả bộ tại Công viên Trung ương. Bà ta đã bị lôi vào bụi và bị hãm hiếp. Bà ta đã la hét nhưng chẳng ai đến cả. Bà ta đã được xem các quyển album của những kẻ thường hay tấn công về tình dục, nhưng chẳng thể nào chỉ ra được kẻ nào đã tấn công mình. “Bọn hiếp dâm là những tên tái phạm”. Judith Adler bảo bà ta. Lần sau hắn có thể bị bắt và chúng tôi sẽ mời bà xuống và bà cố gắng chỉ ra hắn. Hình như chẳng có gì nhiều cho người đàn bà để đổi lại những gì bà ta phải chịu. Khi viên nữ thám tử đã dẫn bà ta ra, ông Katz bước vào với một tờ giấy ghi lại các cú điện thoại. Ông Katz là thư ký của nàng, một người đàn ông trạc lục tuần đội một chòm tóc giả không thích hợp. Ông ta đã đến làm việc đầu tiên tại văn phòng luật sư quận từ hơn ba mươi năm trước. Trong những ngày ấy, mọi người kể cả các thư ký, đều phải là đàn ông. Vào lúc Judith Adler tốt nghiệp trường luật - chỉ độ một chục năm trước thôi - vẫn chỉ có sáu người phụ nữ trong một ban nhân viên gồm trên hai trăm công tố viên, nhưng họ không được giao vụ nào để khởi tố cả. Dĩ nhiên bây giờ không phải kiểu như thế. Khi xin việc tại đây, Judith còn trẻ, mặt non choẹt và nhiệt tình, và viên chưởng lý quận lúc ấy, một ông già tao nhã, không muốn thu nhận nàng. Nàng vẫn còn nhớ rõ chiếc áo nàng đã mặc ngày ấy, nàng đã cố gắng thật đẹp để làm cho nàng trông được mắt ông già. “Công việc của chúng tôi quá hào nhoáng đối với một phụ nữ trẻ”, ông đã bảo nàng như thế. Nàng đã tranh luận, thuyết phục và nài nỉ. Cuối cùng, hình như trái với lương tri của ông, ông đã nhận nàng. Ông già có lý, bây giờ Judith nghĩ lại. Nó hào nhoáng - còn hào nhoáng hơn cả bất kỳ ai bên ngoài có thể đoán được. Một trong những câu nhắn trên điện thoại, ông Katz bảo, có vẻ đặc biệt, và ông trao nó cho nàng: một đại úy thuộc cảnh sát tiểu bang New Jersey đã gọi: “Ông ta chỉ muốn đích thân nói chuyện với bà thôi. Ông ta bảo rằng có việc khẩn cấp”. Phụ tá chưởng lý quận Adler, với một đầu óc nặng trĩu vì những người đàn bà bị bạo hành, muốn có một sự thay đổi, bất kỳ sự thay đổi nào, dù chỉ là thoảng qua, nên nàng lật qua bức điện khẩn và tò mò. “New Jersey à?” “Hãy gọi điện thoại cho ông ấy”, nàng bảo Katz. Ông ta gật đầu và đi ra. Khi nút trên điện thoại của nàng bật sáng, nàng đập vào nó. “A lô”, nàng gọi. Nghe giọng phụ nữ ở đầu dây, người đàn ông ở đầu kia không chấp nhận. Ông ta chỉ nói chuyện với chính phụ tá chưởng lý quận hiện tại, ông ta nhấn mạnh. “Đây là người ấy đấy”, Judith bực mình nghĩ. Rõ ràng là viên cảnh sát đã mong được nói chuyện với một người đàn ông. Ít năm trước, có lẽ ông ta cũng nói như thế; giờ đây, Judith ghi nhận một lần nữa, những người như thế, chỉ đối xử với nàng bằng một sự im lặng hơi kéo dài thôi. “Tôi là đại úy Sample”, giọng đàn ông cuối cùng lên tiếng. “Bà có thể ra khỏi chỗ đấy không? Chúng tôi có điều quan trọng để thảo luận với bà”. Và ông ta đợi. “Tốt hơn ông nên tường trình cho tôi đi”, Judith nói. Sau khi đã mất hứng thú nơi đại úy Sample, nàng bắt đầu lật qua các bức điện khác. Các luật sư cho các bị cáo, ủy viên công tố trừng phạt rắc rối với một tù nhân, có lẽ thế. Văn phòng thị trưởng. Chánh án hành pháp. “Tôi không muốn nêu vấn đề ấy ra trên điện thoại”, đại úy Sample nói. Câu này cũng làm Judith bực mình. Các cảnh sát viên về một vụ án thích cho là mọi đường dây điện thoại của họ đều bị nghe lén cả. “Tôi hơi bận,” nàng đáp cộc lốc. “Nếu ông muốn đến đây, tôi có thể cho ông một cuộc hẹn vào ngày mai hoặc ngày kia”. Sample cố gắng buông một tiếng cười trấn an. “Tôi không nghĩ rằng tôi có thể tìm ra văn phòng của bà. Bà sẽ phải đưa một chiếc xe cảnh sát đến đầu đường hầm để đưa tôi vào đấy.” Judith quả quyết “Nếu không…” Có một sự im lặng khác trong lúc lời đe dọa của nàng về đến đích. Cuối cùng Sample thở dài. “Hai người đàn ông định buộc cô gái trẻ này vào một chiếc xe” ông ta nói. Ông ta có một giọng nói khàn khàn và một âm điệu cứng. “Và một người của tôi ngẫu nhiên lái xe ngang qua, thế đấy. Chúng tôi bắt hai thủ phạm, và trong cốp xe của họ, bà biết chúng tôi đã tìm ra thứ gì không?” Judith đã quyết định sẽ gọi chánh án hành pháp ngay sau đó. Một vấn đề thuộc thời khóa biểu, nàng đoán như thế. Điều ấy có thể thương lượng trên điện thoại. “Tôi không biết”, nàng nói với đại úy Sample, “ông đã tìm ra điều gì thế?” “10 kilo hasit”, ông ta nói với vẻ đắc thắng. “Hay đấy”, Judith nói. Kế đấy nàng phải dự hai buổi thuyết trình pháp đình, buổi đầu tiên còn năm phút nữa - và trên tầng mười lăm. Sample, như hầu hết các cảnh sát viên của các thành phố nhỏ, bị hăm dọa một cách dễ dàng. “Tôi biết điều ấy không có vẻ gì là nhiều tại New York đâu”. “Ma túy không phải phần hành của tôi”, Judith nói. Nàng không muốn làm tổn thương cảm tình của Sample nhưng tốt nhất nàng nên cắt gọn vấn đề này. “Và New Jersey ngoài quyền xử lý của tôi.” “Chúng tôi có một tờ lệnh xét nhà họ”, Sample vội nói, “và bà nghĩ chúng tôi đã tìm được thứ gì nhỉ?” Lần này ông ta không chờ câu trả lời. “Độ hơn hai mươi cuộn video cassette về các cuộc hiếp dâm hiện nay. Các cô gái trẻ. Các cô người mẫu. Các cô thỏ Playboy. Các cô gái trẻ đẹp”. Giọng ông ta nghe như một cô quảng cáo trình diễn thoát y. “Nhưng các cuộc hiếp dâm đều xảy ra tại New York. Tôi muốn bà ra khỏi đây và nhìn qua các cuộn băng. Bà có định đến không?” Judith thôi lật các tờ giấy ghi lại những cú điện thoại của nàng. “Vụ án ma túy cũng có thể đưa về lại đây nữa”, Sample nói, ông ta cố gắng làm cho ngọt miếng mồi. Ông ta là một viên cảnh sát của một thành phố nhỏ đang có trong tay một vụ án hiếp dâm lớn, Judith nghĩ, ông ta không biết phải đối phó như thế nào với nó, ông ta đang cầu xin sự giúp đỡ. Rồi nàng nghĩ: ông ta chỉ hứng thú vì các nạn nhân đều hấp dẫn. Điều này làm phật ý nàng. Trong lúc các nguyên nhân lướt qua, điều ấy gây khó chịu. Giả sử các nạn nhân đều là các bà già thì sao? Các bà già cũng bị hãm hiếp nữa, nàng muốn bảo Sample như thế. Các bà nội thường đến đấy, nàng nghĩ thế. Họ không còn tự xem mình là đối tượng tình dục, đã nhiều năm rồi và sự xúc động chính của họ trong lúc họ kể lại câu chuyện của họ, trong lúc mô tả điều bọn đàn ông đã làm với họ là sự sợ hãi rằng mình sẽ cười. “Vậy bà định đến không?” Sample bảo. Giọng ông ta có vẻ nài nỉ. Điều ấy rất yếu vì những người mạnh bạo, những viên cảnh sát mạnh bạo, bất kỳ giá nào đều không nài nỉ - hoặc Judith cho rằng như thế. Nhưng điều ấy vẫn có và nàng hiểu được. Mình nên suy nghĩ điều này ít phút trước khi chối từ. Nàng tự nhủ. Mình nợ ông ta nhiều như thế đấy. “Để tôi xem người ta có gì cho tôi ở đây đã”, nàng nói. “Tôi sẽ trở lại với ông sau”. Trong lúc nàng đi vội lên tầng 15, chuyện ấy vẫn bám theo nàng. Buổi đầu tiên trong hai buổi nghe thuyết trình của nàng liên quan đến một tay thanh niên làm việc lặt vặt rất mập, đầu óc chậm chạp ngụ trong một tòa nhà ở phía tây. Ba tuần trước, vì một lý do chẳng ai xác định được là gì, hắn đã hiếp dâm một bà chủ nhà với một con dao để uy hiếp. Khi hắn không duy trì được tình trạng cương cứng, hắn bắt đầu đâm bà ta. Sau đấy tên thanh niên đi đến chỗ mẹ hắn và đưa cho bà mớ quần áo vấy máu của hắn để giặt. Bà đã gọi cảnh sát. Bây giờ luật sư của hắn cố gắng giữ hắn trong phòng bệnh tâm thần, cách ly các tù nhân thông thường với lý do rằng hắn tròn trĩnh và mềm như bất kỳ phụ nữ nào và đúng là không tự bảo vệ được về phương diện thể chất. Mỉa mai trên cả các sự mỉa mai: trong tù hắn sẽ bị hiếp dâm. Judith khăng khăng đòi các điều luật thích hợp. Nếu không nàng không phản đối gì cả. Buổi thuyết trình thứ nhì trong một phòng xử án bên cạnh, liên quan đến một người đàn ông da đen trung niên, lực lưỡng, vừa mới ra tù chỉ có ba tuần lễ. Không có tiền bạc và nghề nghiệp gì cả, duy nhất chỉ có bộ quần áo mà hắn vẫn còn mặc ở tòa án ngày hôm nay, cộng với nhiều cái đói khác nhau của hắn, hắn được thả lỏng trên xã hội. Trong hai tuần lễ tự do, hắn đã hãm hiếp hai người lạ trong hành lang của các tòa nhà. Cả hai đều giống những cuộc hiếp dâm trong tù - những cuộc đương đầu nhanh, tàn bạo rõ ràng là loại tình dục duy nhất mà người này biết hoặc có thể cảm thấy thoải mái. Bây giờ bị cáo lơ đễnh nhìn lên mặt bàn trong lúc luật sư của hắn nói với thẩm phán rằng quyền công dân của thân chủ ông ta đã bị xâm phạm, bắt giữ hắn là trái luật. Viên sĩ quan bắt giữ đã thiếu lý do có thể có được và hồ sơ mà cả hai nạn nhân đã tố giác thân chủ của ông đã được sắp xếp một cách không thích đáng. Đây là một trong nhiều vụ hãm hiếp chưa giải quyết mà chi tiết Judith còn đang mang trong đầu. Trước tòa nàng tranh luận rằng, trái lại, vụ án này tiêu biểu cho công việc có tính nguyên tắc cao nhất của cảnh sát và nàng giải thích rõ tại sao. Rồi nàng đưa chàng sĩ quan hình sự trẻ lên bục. Đầu tiên nàng chất vấn anh ta, rồi viên luật sư thẩm vấn chàng thật gắt gao. Hầu như đây là một cuộc xét xử đại qui mô, chỉ thiếu có bồi thẩm và tuyên án thôi. “Thưa quí tòa”, viên luật sư kết luận, “thân chủ của tôi bị bắt chỉ vì ông ấy là một người da đen trong một vùng phụ cận da trắng. Việc ông ấy bị bắt nặng mùi ngất trời. Tôi muốn nôn ra đây”. Chánh án giữ lại quyết định, điều đó ngầm bảo rằng ông ta có thể có quyết định cuối cùng là ra lệnh phóng thích bị cáo. Điều này xảy ra quá thường. Judith có lẽ cũng phải sốt ruột vì vụ án này và nàng đã thường sốt ruột chờ đợi rất nhiều rồi. Trong lúc ấy, bị cáo lại bị còng tay chỉ đứng cách nàng không đầy mười foot. Nếu một người là một tên hiếp dâm, nàng nghĩ trong lúc quan sát hắn, điều ấy phải được rõ ràng. Người ta có thể đoán ra được bằng cách nhìn hắn. Nhưng chẳng có gì lộ ra cả. Các tên hiếp dâm trông cũng chẳng khác gì người khác. Các tên sát nhân cũng thế. Điều ác không thể nhận ra bằng một cái liếc mắt được. Đây là lý do khiến chúng ta có hai phòng xử. Đấy là một cách tốt nhất mà chúng ra có thể làm được. Chàng cảnh sát trẻ đứng bên cạnh nàng. “Viên luật sư ấy”, viên cảnh sát cố ý nói, “ông ta cừ đấy, đúng không?” Chính những luật sư như thế đã đầu độc hầu hết các cảnh sát viên chống lại nghề nghiệp của nàng, và Judith biết điều này. Nhưng nàng không có ý định nào để phỉ báng các luật sư - bất kỳ luật sư nào - trước mặt các cảnh sát viên, nên nàng mỉm cười với viên cảnh sát, bắt tay anh ta và anh ta bỏ đi. Nàng còn một công việc nữa để làm trên tầng này nên nàng bước qua hai cánh cửa, đi dọc theo hành lang và bước vào một phòng xử ở đó một cuộc xử án đang tiến hành. Mặc dầu chỗ ngồi đều chật ních - bồi thẩm, chánh án, ban bào chữa, công tố, tốc ký, một số lính canh phòng xử có vũ trang - khu vực dành riêng cho người dự thính hầu như trống rỗng. Bao nhiêu là ghế mà chỉ có nàng và ba người khác. Có lẽ là một cuộc xử giả hiệu. Trong những căn phòng như thế này trên khắp đất nước, nền dân chủ được bênh vực từ ngày này sang ngày khác. Báo chí và các công dân, trừ trong một số ít vụ án nổi bật, chẳng chú ý gì cả. Chẳng lạ gì, nàng nghĩ, vì sao hệ thống làm việc không khá hơn mấy. Nàng chiếm một chiếc ghế gần cánh cửa nàng vừa bước vào và đặt hai tập hồ sơ nặng trên chiếc ghế bên cạnh. Công tố viên là chàng thanh niên Benjamin Goldberg. Chàng đang thẩm vấn một nữ nhân chứng trên bục, nhưng khi chàng nhìn lên và trông thấy Judith, chàng tặng nàng một nụ cười ngắn. Chàng trông có vẻ hài lòng vì nàng đã lên. Benjy vừa tốt nghiệp trường luật và mới hai mươi bốn tuổi. Chàng là công tố viên trẻ nhất ở ban của nàng. Nhưng họ đều còn trẻ cả - người lớn tuổi nhất trẻ hơn Judith nhiều. Họ hưởng lương kém, nhiệt tình, siêng năng và so với các luật sư bào chữa mà họ đương đầu, họ thiếu kinh nghiệm một cách thảm hại. Trong những phòng xử trống rỗng như thế này, sự có mặt của Judith chứng tỏ cho Benjy và những người khác thấy rằng lãnh đạo quan tâm đến - rằng có ai đấy quan tâm đến là điều quan trọng. Vụ án ở đây liên quan đến chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một cậu bé năm tuổi do một tên đốn mạt năm mươi hai tuổi ở vùng phụ cận, một người đàn ông có một tiền án hai mươi hai năm về tội tình dục. Người đàn bà trên bục chắc là người mẹ. Benjy xử sự với nàng gần như mỗi ngày một khá hơn. Không như nhiều công tố viên trẻ, chàng là một người có năng khiếu tự nhiên. Chàng sẽ trở thành một luật sư tòa án thành công. Chẳng còn gì nhiều để nàng có thể góp ý cho chàng, vấn đề duy nhất của chàng sẽ là chính bản thân đứa bé. Đứa bé năm tuổi có còn nhớ điều đã xảy ra với nó không? Judith đã đưa ra xử càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, vấn đề ấy phải mất sáu tháng, đứa bé có chỉ được kẻ tấn công nó không, hay tên đốn mạt sẽ lại tự do. Và sẽ tấn công một cậu bé nào đấy vào ngày mai hoặc tuần sau? Trong lúc đứng trong thang máy xuống văn phòng của nàng, Judith cảm thấy bực dọc. Nàng thấy luật chỉ là điều không hoàn hảo, vô hiệu và hầu như lúc nào cũng hoàn toàn không có hiệu quả dù rằng đấy là tất cả những gì nền văn minh có được. Yêu luật, và nàng quả tình yêu nó, như yêu một người không yêu mình. Cuộc đời nàng chỉ qua được một nửa thôi. Cuộc đời của nàng có lẽ mới một nửa - nàng ba mươi bảy tuổi - và nàng đã hoàn thành được gì? Điều nàng cần thật sự, nàng tự nhủ, là một lúc nào đó được rời bỏ văn phòng và ngay cả rời bỏ thành phố, không bận bịu những việc ở đây. Một buổi chiều một mình ở vùng quê bắt đầu làm cho nàng cảm thấy là một thú vui hiếm hoi nhất của cuộc đời. Khi nàng bước vào phòng trước của nàng, ông Katz đưa thêm cho nàng một số lời nhắn trên điện thoại. Chẳng có cái nào khẩn cấp cả, ông bảo. Judith, với hai hồ sơ vụ án kẹp dưới cánh tay, lật qua các bức điện, nhưng trí óc nàng để ở nơi khác. Nàng đang nghĩ đến cú điện thoại của cảnh sát tiểu bang New Jersey. Tại sao nàng không đến đấy trong một giờ và giúp đại úy Sample về những vụ án hiếp dâm mà ông ta nắm được nhỉ? Đấy là một chuyến đi có lý. Có một loạt cửa hàng mua sắm trên đường số 17. Ngoài ấy sẽ có ao hồ, rừng và không khí trong lành để thở. Nàng bỗng bảo ông Katz điện thoại cho Sample xin hướng dẫn. Hôm nay là thứ ba. Ông ta hẹn nàng vào chiều thứ năm. Nàng có nên đi một mình không, nàng tự hỏi, hoặc nên nhờ một cảnh sát trưởng cùng đi với nàng? Nếu thế thì ai đây? Về chiều, các cuộc xét xử đình lại. Tòa án đã kết thúc ngày làm việc. Các bồi thẩm đi phố. Các luật sư biện hộ đang bám vào những chiếc Cadillac của họ. Các thẩm phán đang treo áo trong phòng mình. Chỉ có những luật sư phụ thẩm quận trẻ, lương ít vẫn còn làm việc. Họ đã xuống lại văn phòng nơi họ sẽ làm việc thêm về các vụ án, một số người trong bọn họ còn làm việc đến khuya nữa. Các cuộc thẩm vấn phải được chuẩn bị, các bản tóm tắt phải được tu sửa lại. Họ như những diễn viên thiếu kinh nghiệm tập dợt lại giữa các màn trình diễn. Các nhân chứng cho ngày mai phải được tiếp xúc và phỏng vấn lại. Trong một số vụ, phải đưa thám tử ra truy lùng một nhân chứng thiếu hoặc một bằng chứng cuối cùng. Trời về chiều đã lâu, bỗng một số công tố viên trẻ được bổ nhiệm đến cho Judith cùng bước vào văn phòng nàng. Mỗi đêm trước khi về nhà, nàng muốn biết mỗi vụ án của họ đang diễn tiến thế nào, và lúc này họ có năm vụ, cộng với một vụ thứ sáu mà bồi thẩm vẫn còn vắng mặt. Tất cả những vụ này đều thuộc trách nhiệm của nàng. Nếu có vấn đề nào xuất hiện trong ngày, nàng muốn biết đây là những vấn đề gì. Do kinh nghiệm vượt trội của nàng, có lẽ nàng có thể ngăn chặn được một vụ án khỏi bị thua. Ít nhất nàng có thể đưa ra lời khuyến khích cho các chàng trai hoặc các cô gái đang khởi tố nó. Judith ngồi ở bàn giấy và họ vây lấy nàng và nàng hài lòng vì có họ ở đấy. Nàng mong muốn có những cuộc họp này hằng đêm. Đây là con cái của mình, nàng tự nhủ. Ông Katz đã mang vào một khay cà phê bằng các tông với những chiếc tách styrofoam. Các tách cà phê được chia ra và khuấy lên, đồng thời cuộc thảo luận bắt đầu. Đèn được bật lên. Bầu không khí trong phòng thân thiện, nhưng cũng căng thẳng. Các cuộc xử đều xúc động. Cuộc sống và nghề nghiệp của dân chúng đang bị đe dọa. Những biến cố kinh khủng đang được xét xử. Đa số các cuộc xét xử có vẻ đang diễn tiến tốt đẹp. Chỉ có Brian Crawford đã gặp phải một vấn đề nghiêm trọng; Chàng đứng tựa lưng vào tường, trông buồn bực. “Nhân chứng chính của tôi, nạn nhân, con bé tóc hoe bẽn lẽn ấy,” chàng thốt lên, “cô ta vừa gây trở ngại cho vụ án của tôi đấy.” Đối với các công tố viên này các cuộc xét xử giống như cuộc đời, hoàn toàn không tiên đoán được. Thủ tục tòa án theo đúng cách, nhưng tư cách các nhân chứng thì không. Phản ứng của các bồi thẩm cũng không. Các điều gây ngạc nhiên đều phổ biến. Các nhân chứng quên các câu của họ và ứng khẩu ra những câu mới. Một số đâm sợ hãi và thay đổi câu chuyện của họ. Một số cứng miệng. Các bồi thẩm tin một số và không tin số khác thì vì những lý do thách đố lương tri. Kết quả các vụ không bao giờ có thể tính trước được. Cuộc phiêu lưu hằng ngày của công việc xét xử đối với các luật sư trẻ này là một sự mê hoặc vô tận, và các đồng nghiệp của Crawford đang chờ để nghe bất kỳ điều kinh khủng nào ở pháp đình mà chàng sắp mô tả ra. “Tôi đã bảo cô ta”, Crawford nói, “chỉ ra người đàn ông đã hãm hiếp cô ta”. Có một sự im lặng bi thảm. “Cô bé tóc hoe e lệ này”, Crawford bảo, “chỉ hắn và la hét om sòm, “thằng chó ấy đấy”. Có một sự im lặng trong văn phòng Judith. Rồi mọi người bắt đầu cười. “Tôi không thể nào tin được tai mình,” Crawford bảo. Tiếng cười chấm dứt. Sự thông cảm của bồi thẩm đoàn là một chuyện mỏng manh. Nhưng không có nó các luật sư bảo là bạn thua vụ án. “Và hãy đợi”, Crawford bảo, “cho đến lúc bạn nghe điều cô ta nói tắt ngang.” Tất cả bọn họ đều biết các vụ án của nhau và bây giờ trong tâm trí họ, họ dừng lại để xem lại vụ án của Crawford. Bị cáo gõ cửa với lý do hắn là người trừ chuột. Cô bé e lệ cho hắn vào. Hắn chộp lấy một con dao ở tủ búp phê và hãm hiếp cô ta. Đấy là câu chuyện của cô ta suốt trong các cuộc phỏng vấn trước khi xét xử. “Không may,” Crawford bảo, “điều mà người trừ chuột làm là hắn đặt con dao xuống và bảo với cô ta là, tôi có thể đặt tay lên ngực cô không? Cô ta nói, cái gì đây, hiếp dâm à? Vì nếu như thế, chúng ta khắc phục nó.” Thế rồi cô ta bắt đầu cởi quần áo mình ra.” Một trận cười, sau đó im lặng. “Ngày mai anh thử thẩm vấn lại cô ta một lần nữa xem sao”. Judith xoa dịu anh ta. “Vâng, nhưng tôi phải nói gì?” Các công tố viên khác bắt đầu khuyên bảo. Câu chuyện được luật sư đoàn gợi ra ngày hôm sau hoàn toàn không tương xứng với điều kinh hoàng. Crawford có thể đưa lên bục một bác sĩ tâm thần để xác nhận điều ấy. Nhiều cái tên được đề nghị với chàng. “Nhưng cô ta đã gọi bị cáo là một tên “đít lừa”, Crawford bảo. “Bồi thẩm đoàn không còn xem cô ta là một cô bé tóc hoe e lệ nữa.” “Người đàn ông đã hãm hiếp cô ta đang đứng cách cô ta chỉ có ba thước,” Judith Adler vỗ về. “Cô ta vẫn còn bị hắn làm hoảng sợ. Trong sự kinh hoàng, cô ta gọi hắn bằng một từ thô lỗ.” Mọi người bắt đầu cười lại. “Đấy không phải là một cô bé tóc hoe đoan trang dùng một từ thô lỗ.” Judith bảo, “đấy là một nạn nhân hãm hiếp bị hoảng sợ.” Nàng nhìn quanh đến những người kia. “Marcy?” nàng bảo. Marcy Miller, người phụ nữ thứ hai duy nhất ngoài nàng hiện diện, đang xét xử một nha sĩ đã gạ gẫm nữ bệnh nhân bằng thuốc mê. Vụ án này diễn tiến tốt đẹp, nàng nói. Và trong vụ xử chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một tội nhân tình dục do thói quen, Benjy Goldberg đã đưa cậu bé năm tuổi lên bục chiều hôm nay và đã bắt đầu thẩm vấn trực tiếp. Đứa bé có được một lúc chú ý độ 60 giây. Nó đã ngồi vào ghế nhân chứng, hớp coca-cola và cười với mẹ nó cuối phòng xử. Các câu hỏi phải được lặp lại đôi ba lần nó mới có thể hiểu được và trả lời. Ngày mai Goldberg định bảo nó nhận diện bị cáo ở phòng xử công khai và chàng lo lắng. “Hãy cho nó đứng xa chiếc ghế nhân chứng,” Judith đề nghị. “Hãy bảo nó diễn lại vụ án - bị cáo đã đưa nó vào hẻm bằng cách nào, và hắn đã làm gì. Hãy bảo nó diễn lại. Tôi đã thử điều ấy trước kia với các em nhỏ. Điều ấy có vẻ hợp với chúng đấy.” Cánh cửa mở ra và ông Katz thò đầu vào phòng. “Vụ Ligouri đã có quyết định rồi,” ông thông báo. Tất cả bọn họ đều biết vụ án này nữa. Bồi thẩm đoàn của vụ Ligouri, đã thảo luận kỹ trong hai ngày. Katz bỗng nở một nụ cười thoải mái. Và hắn đã có bản án của hắn. “Trong vòng ít phút nữa,” Crawford bảo, “hắn sẽ vào đây và khoác lác rằng bản tóm tắt của hắn lớn lao như thế nào đấy.” Mọi người đều mỉm cười. “Tôi không hiểu tại sao bồi thẩm đoàn để lâu thế,” Judith trầm ngâm nói. Ngay lúc ấy cánh cửa bị giật ra sau và Anthony Ligouri, hai mươi bảy tuổi, đứng với vẻ đắc thắng trên ngưỡng cửa, đấm ngực, như Tarzan trong một bộ đồ ba mảnh. Những người kia cổ vũ chàng. “Tôi nghe bồi thẩm đoàn đã muốn kết tội anh thế nào đấy,” Benjy Golberg bảo. “Đấy là kết luận của anh”, Crawford nói. “Theo như tôi nhớ,” Benjy Goldberg bảo, “bị cáo hãm hiếp cô ta đứng dựa vào thành sau của một chiếc thang máy, lúc cửa mở và có hai cảnh sát viên đang đợi vào thang máy. Hiếp dâm có nhân chứng. Vậy tại sao bồi thẩm đoàn phải mất hai ngày nhỉ?” Ligouri, ngồi trên bệ cửa sổ của Judith, lau mồ hôi tưởng tượng trên trán. “Tôi đã nói chuyện với một người trong bồi thẩm đoàn sau đấy. Tôi đã suýt thua vụ án. Nạn nhân xác minh, chuyên viên phòng thí nghiệm và bác sĩ thực tập nội trú xác minh. Âm hộ của cô ta hoàn toàn bị trầy trụa. Còn cả tinh dịch nữa. Chúa ơi. Nhưng bồi thẩm số chín không tin rằng sự hãm hiếp xảy ra ở tư thế đứng như mô tả. Ông ta chống lại trong hai ngày. Không thể được, ông ta bảo. Ông ta là một công nhân bưu điện về hưu. Theo ông ta, sự giao hợp ở tư thế đứng không thể thực hiện được.” “Và anh hỏi tại sao thư từ chuyển quá chậm,” Crawford lên tiếng. Mọi người cười vang. “Các bồi thẩm kia tranh luận với ông ta hai ngày,” Ligouri bảo. Có bốn phụ nữ trong bồi thẩm đoàn ấy, tất cả đều có tuổi cả. Cuối cùng một trong số người ấy đứng dậy và bảo ông nhân viên bưu điện rằng ông ta sai, giao hợp ở tư thế đứng vẫn có thể thực hiện được. “Bà biết cách nào không?”, ông ta tra gạn. Và bà già tóc xám này bảo rằng: “Vì tôi đã đích thân làm như thế ở tư thế đứng.” “Điều ấy chắc gây thương tổn cho bà ta,” Judith lẩm bầm. “Ông nhân viên bưu điện vẫn không chịu,” Ligouri nói, “Nên các bà kia lần lượt đứng dậy và nhận rằng họ cũng đã làm điều ấy ở tư thế đứng. Cuối cùng, ông nhân viên bưu điện chịu thua và tôi có lời buộc tội.” Tất cả bọn họ đều cười vang, nhưng Judith thấy rằng họ cũng không được thoải mái. Dù rằng họ còn trẻ, tất cả đều đã lập gia đình. Ngay cả Marcy cũng có gia đình, còn Judith thì không, nên chuyện đùa cợt về tình dục trước sự hiện diện của nàng làm cho họ không được thoải mái như thể nàng là mẹ của họ. Đấy là con cái của nàng và nàng hãnh diện về tất cả bọn họ. Tuy vậy, đôi khi họ làm nàng có cảm giác nàng là gái già. Khi về nhà, nàng đi tắm ngay. Nàng sống trong một căn hộ phía tây công viên trung ương và đêm nay, như mọi đêm, đi tắm là một hành động hết phiên trực đầu tiên của nàng. Nàng kỳ cọ người kỹ lưỡng. Nàng tẩy rửa bụi bặm trong ngày và mồ hôi ở thân thể hay cố gắng rửa sạch bụi bặm trong tâm hồn nàng đây? Điện thoại reo. Sau khi bước ra nhà tắm, nàng lấy chiếc khăn lớn quạt nhanh lên người ít cái rồi bước vào phòng ngủ và trả lời. Da thịt của nàng vẫn còn bốc hơi yếu ớt, và nàng nắm chặt chiếc khăn ở một tay. “Alô?” Vẫn là một người khác trong số các công tố viên trẻ của nàng. David Reidy. Văn phòng nàng có người, 24/24. David trực đêm nay và một vụ án vừa đến - một nữ luật sư làm việc khuya bị hãm hiếp ngay trên bàn giấy của cô, do người thợ chữa điện của tòa nhà. David muốn được nàng khuyên bảo và nàng cho ý kiến. Rồi nàng đi tắm lại. Nàng đứng dưới vòi nước. Judith mặc pyjama và một chiếc áo khoác ngoài và tự đi sửa soạn bữa tối. Sau đấy nàng xem TV một lúc, rồi lên giường nằm, với tờ New York Times gấp lại ở phần đố ô chữ và đầu một cây bút chì cắn ở răng. Khoảng nửa đêm, nàng tắt đèn.   Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt Tập 1 của tác giả Robert Daley.
Đồng Tiền Thấm Máu
Sau Đời Tỉ Phú, Pierre Rey lại đưa chúng ta vào cuộc phiêu lưu đầy hấp dản trong Đồng Tiền Thấm Máu.  Tiền đáng được trọng vọng nhất, người ta nói đến tiền chỉ với những từ ngữ cung kính nhất, lầm rầm, xuýt xoa, tựa như nói tới Thượng đế vậy... Tiền đẻ ra những hành động ngông cuồng nhất. Những cuộc tình diễn ra trên tấm nệm trải bằng giấy bạc dầy tới vài chục phân...Những cọc tiền quăng qua cửa sổ máy bay cho thiên hạ tranh cướp... ĐỔNG TIỀN THẤM MÁU mô tả những cuộc đấu sinh tử vì tiền - Hai tỉ đôla! Một bên là các chủ ngân hàng Thụy Sĩ "... những thằng lưu manh hợp pháp, tệ hại hơn cả chó má. Mà mạnh, lì lợm, xảo quyệt, tham tàn... Chúng đã đánh đổ nhiều chính phủ, thắng nhiều cuộc chiến tranh, cho treo cổ nhiều quốc trưởng..." và một bên là các băng maphia New York; có thể làm được tất cả, tạo ra được tất cả từ những vụ mưu sát tinh vi nhất đến những cái "bẫy tình" kỳ quặc nhất. Đồng tiền vốn không có mùi. Nhưng một khi hai thế lực khổng lồ này đụng nhau, tiền lập tức bốc lên vị tanh nồng của máu. Và dù ai thắng ai thua, máu cũng đã đổ quá nhiều... *** Pierre Rey là tiểu thuyết gia người Pháp, ông sinh ngày 27 tháng 4 năm 1930 tại Courthezon (gần Avignon) tỉnh Vaucluse, mất ngày 22 tháng 7 năm 2006 ở Paris. Pierre Rey hoàn thành khóa học thứ hai tại trường đại học Orange, rồi ông nhập học Trường Mỹ Thuật Paris nơi ông học về vẽ tranh và lịch sử nghệ thuật. Sau khi tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật, đầu tiên ông vẽ minh họa báo chí và nhiều tác phẩm của ông được đưa lên các báo lớn của Pháp. Ông bắt đầu với mục Nghệ thuật và Giải trí, rồi phóng sự thường ngày cuộc sống của người dân thủ đô ở báo Paris Presse (1959) hay Paris Jour (1963). Ông thắng Giải thưởng phóng sự Paris năm 1963. Năm 1965, ở tuổi 33, ông trở thành biên tập viên và tổng biên tập báo Marie Claire, về sau ông chia tay công việc này để hợp tác với Jacques Lacan mười năm trong công việc nghiên cứu. • Tác Phẩm - Le Grec (1972) Đời Tỷ Phú, tiểu thuyết lịch sử của Aristotle Onassis, được dịch ra nhiều ngôn ngữ. - La Veuve (1976) - Out (1977) Đồng Tiền Thấm Máu - Palm Beach (1979) Bãi Biển Cây Cọ - Sunset (1988) Mật Danh Hoàng Hôn - Une saison chez Lacan (1989) - Bleu Ritz (1990) - Liouba (1992) - Le Rocher (1995) - Le Désir (1999) - L'Ombre du paradis (2001) - L'Oncle (2002) *** Ra khỏi khúc ngoặt, Rôlăng phanh hơi đột ngột. Anh cảm thấy trong hai bàn tay nắm cần lái và cột sống mình cái khối bảy trăm năm mươi tấn rung lên nặng nề.   - Cậu ở lại với chúng tớ tối nay chứ ? - Luxianô hỏi.   Rôlăng hạ dần xuống chiếc cần lái đang làm giảm đi sức mạnh của cỗ máy xe lửa.   - Tớ muốn lắm, nhưng...   - Ả xinh không ?   - Bậy, mẹ tớ đấy.   - Tớ tưởng bà ấy chẳng bao giờ rời khỏi Lôdan ?   - Khi tớ ngủ lại ở Duyrích, thỉnh thoảng bà cụ có đến thăm.   - Hạ nữa xuống !...   Đà trượt của con tàu chậm lại trong tiếng kêu ken két nhè nhẹ. Bàn tay vẫn gắn chặt với cần lái, Rôlăng tự nhiên thấy trên bề mặt bê tông sân ga càng lúc càng ngổn ngang những xe đẩy, bọc hàng và những nhóm hành khách, đoàn tàu càng vào ga, hàng ngũ của họ càng ken chặt hơn vào nhau.   - Họ làm sao thế kia ?   - Ai ?   - Họ cứ há hốc mồm ra kìa ?   Bây giờ cỗ đầu máy đang cách những cọc chèn một trăm mét. Lạ lùng là tất cả ánh mắt của những người dưới ke đều kinh hoàng hướng vào Rôlăng và Luxianô.   Một cái nhìn lướt nhanh, kèm theo sau đó là một nét nhăn nhó ghê tởm đông cứng lại trên khuôn mặt, ngay cả khi cỗ đầu máy đã lướt qua.   - Này, - Luxianô lo lắng, - tớ có xốt cà chua trên trán hay cái gì thế ?   - Còn tớ ? - Rôlăng hỏi.   Con tàu lăn mười cây số một giờ khi nó đi vào bên dưới tấm mái bằng kính, nó những chùm người đang chen hai thích cánh đứng canh trước hành lý của họ.   - Đoàn tàu số ~27 Giơne - Duy rích đang vào ga. Mọi người hãy đứng xa các ke. - Giọng một người đàn ông lên bổng xuống trầm, tiếng rung rè của nó được mười cái loa mà âm thanh đan chồng chéo lên nhau đẩy cho đi xa.   Rôlăng thấy một bà phốp pháp mặc váy màu xanh lá cây thả chiếc ví xuống đất, không cúi nhặt mà chỉ ngón tay vào anh rồi đưa bàn tay lên và bộ điệu sợ hãi che nửa dưới mặt bà.   - Cứt ? Anh chửi thề, khó chịu. - Thế là cái nghĩa lý gì ?   Đâu đâu cũng có cùng bộ điệu kinh ngạc như nhau ấy. Và cũng có một cái gì khác nữa đủ làm cho hai người lái tàu hốt hoảng. Chỗ nào đoàn tàu đi qua, chỗ ấy không gian trở nên vắng lặng. Cảnh chen chúc ở sân ga thường tiết ra thứ tiếng ồn ào riêng biệt của nó : tiếng kim loại, tiếng va đập, tiếng râm ran, tiếng la gọi. Nhưng lúc này, chẳng có gì hết. Chỉ là sự im lặng kinh hoàng và những con mắt mở thao láo.   - Dừng…?   Rôlăng kéo phanh. Đầu máy chạm lướt vào mỏm các cọc chèn. Luxianô cắt điện. Trên ke, không một ai nhúc nhích. Hai nhân viên thì thầm bàn bạc với nhau. Người thấp hơn chạy về phía văn phòng trưởng ga. Người kia, Rôlăng biết lơ mơ vì đã có gặp, leo các bậc thang lên đầu máy, bước vào buồng lái. Lúng túng, người đó chẳng nói chẳng rằng, hết quan sát Luxianô lại quan sát Rôlăng.   Rồi hắng giọng.   - Các anh tha cái ấy ở đâu về thế ?   - Cái gì, cái ấy là cái gì ? - Rôlăng văng ra, gây gổ.   - Sao, cái ấy là cái gì ấy ư ? - Người nhân viên ngạc nhiên.   - Này, - Luxianô gầm lên. - Đây không phải là phù thuỷ nhé ? Tôi không thích chơi trò đánh đố.   - Các anh hãy theo tôi !   Trên sân ke, không một ai động đậy. Người ta chỉ nghe thấy tiếng phì phò khe khẽ của một đầu máy hơi nước cổ lỗ đang khậm khịch ở trên một nhánh đường cụt. Nhưng nhún người một cái, Luxianô và Rôlăng đã ở trên mặt sân nhựa. Chỉ khi đến trước cỗ đầu máy của họ - mà họ âu yếm đặt cho cái tên Mácgơrít - họ mới hiểu.   Trên tấm bàn bằng thép đằng mũi đầu máy, như được một nhà trang trí ma quái nâng New đặt vào có một cái cẳng đàn ông bị xén cụt ở ngang bẹn. Khó khăn lăm, người ta mới nhìn thấy một thoáng màu gỉ sắt làm ố bẩn mặt hàng títxuy thẫm màu của chiếc quần, tại chỗ xương hông đã bị chặt đứt. Lẩn thẩn, Rôlăng thoáng nghĩ, đây là một cái cẳng sang trọng. Có lẽ do chất da sang trọng của chiếc giày đen và chất lụa của chiếc bít tất hợp với màu quần chăng? Nhìn kỹ hơn, anh còn thấy một dòng máu nhỏ chảy xuống chiếc bít tất, lan ra giày, loang thành một mảng nâu nhạt ở trên mặt thép tấm bàn chắn.   Lúc đó cả Rôlăng lẫn các nhân chứng khác đều không thể ngờ được rằng cái mảnh đó lại sắp túa tràn ra nhiều lục địa với một tốc độ nhanh kinh người. Để biến thành một cuộc tắm máu.   Mời các bạn đón đọc Đồng Tiền Thấm Máu của tác giả Pierre Rey.
14 Ngày Kinh Hoàng
"Trờ chơi tử thần" cuối cùng cũng đến hồi kết. Một phụ nữ ăn trộm trong siêu thị, bị nhân viên cửa hàng tóm được. Ông chủ thương tình giữ cô ta ở lại làm việc, nhưng dần phát hiện cô có nhiều điều khó hiểu. Một ngôi nhà ẩn trong rừng sâu, một đứa "con gái" bí ẩn... Ông chủ tìm cách tiếp cận mới biết cô cất giấu một bí mật kinh hoàng. Một nhà phê bình ẩm thực tiếng tăm tình cơ được thường thức một món ăn bí mật mà ông đã nếm từ hàng chục năm trước. Để tìm ra sự thật về món ăn này, ông bắt đầu bí mật điều tra và đã phát hiện ra một sự thật ghê rợn... Người kể câu chuyện trong buổi tối thứ mười ba là Chris. Cậu ta nói câu chuyện của mình là câu chuyện đặc biệt, cần sự tương tác của mọi người. Hơn nữa, dựa vào biểu hiện của mọi người trong quá trình tham gia, cậu ta có thể đoán được ai là "người tổ chức". Câu chuyện của cậu ta liệu có "công hiệu" như những gì mình nói? Nam Thiên – người cuối cùng sẽ kể câu chuyện như thế nào? Liệu có điều gì khiến tất cả mọi người đều phải bất ngờ? Ai sẽ là người chiến thắng trong trò chơi này? Thân phận thật sự của "người tổ chức" có được phá giải? Tất cả sẽ được giải đáp vào buổi tối thứ mười bốn. *** 14 ngày kinh hoàng – Ninh Hàng Nhất : cái kết đặc sắc Người tổ chức cuối cùng cũng lộ diện sau 14 ngày kinh hoàng. Ninh Hàng Nhất đã rất thành công khi thổi một luồng gió mới vào thể loại trinh thám cổ điển. Sau 4 tập truyện trinh thám gồm 1 câu chuyện chính dẫn dắt nhân vật và 14 câu chuyện nhỏ, tập 5 của cuốn tiểu thuyết 1/14 này mang tên 14 ngày kinh hoàng cuối cùng cũng đã phần nào làm hài lòng ngay cả những độc giả khó tính nhất. Câu chuyện của Nam Thiên Tạm thời bỏ qua 2 câu chuyện nhỏ như 11 câu chuyện trước đó. Câu chuyện của Sa Gia và Chris, suy cho cùng cũng chỉ làm cho bữa điểm tâm của câu chuyện cuối cùng của Nam Thiên thêm đặc sắc mà thôi. Bởi vì suy cho cùng, sau câu chuyện của Nam Thiên, người tổ chức sẽ lộ diện. Vậy hắn là ai? Sau khi kể xong câu chuyện của mình, Nam Thiên đã dùng một thủ thuật nhỏ, và qua đó biết được chân tướng của người tổ chức. Tất cả đều bàng hoàng Nhưng với Ninh Hàng Nhất, như vậy là chưa đủ để thách thức những người có chỉ số IQ trên 150. Ông liên tục tạo ra bất ngờ này đến bất ngờ khác. Và cuối cùng thì mọi việc mới vỡ lẽ. 14 người, cuối cùng chỉ có 2 người chết. Người tổ chức ra đầu thú với cảnh sát. Mọi chuyện đã kết thúc như vậy. Nhưng phần Vĩ thanh lại mở ra một câu chuyện mới, đứng đằng sau giật dây Người tổ chức, lại là một Mr Robot với thương hiệu “Kẻ nhắc tuồng”. Hy vọng trong tương lai sẽ xuất hiện thêm một tiểu thuyết 1/14 kế tiếp, và nhân vật kẻ nhắc tuồng này lại tiếp tục con đường của mình. Đối với hắn, Trò chơi tử thần mà hắn vạch ra xuyên suốt 14 ngày kinh hoàng này chính là một trò chơi, không hơn không kém. Đỉnh cao của trinh thám cổ điển Nhắc tới trinh thám cổ điển là nhắc tới những tiểu thuyết trinh thám mà tại đó, không dựa vào pháp y, không dựa vào dấu vân tay, nhóm máu, dấu chân…để điều tra ra chân tướng hung thủ. Hầu hết truyện trinh thám cổ điển đều phải dựa vào suy luận và sự thông minh của thám tử để tìm ra chân tướng. Ngày nay với sự hiện đại của công nghệ, đặc biệt là ứng dụng trong việc tìm ra thời gian tử vong, dựa vào dấu chân để tra ra chiều cao hung thủ…và nhiều thứ khác nữa, việc phá án đã đơn giản đi rất nhiều. Bởi vậy, để tạo ra một tiểu thuyết trinh thám cổ điển, nơi chỉ số IQ và suy luận logic lên ngôi, thì bối cảnh mà các tác giả tiểu thuyết trinh thám thường chọn là thời trung đại, hoặc các khu vực khép kín. 10 người da đen nhỏ của Agatha Christine cũng lấy bối cảnh là đảo hoang. Tokyo Hoàng đạo án thì là một vụ án của 40 năm về trước. Các bối cảnh trong truyện trinh thám Kindaichi cũng tập trung cho những địa điểm biệt lập với thế giới bên ngoài. Và Ninh Hàng Nhất cũng không ngoại lệ khi tạo ra một buồng giam 14 người trong 14 ngày, bắt họ tham gia trò chơi tử thần này. Sau khi cái kết được tiết lộ, những fan hâm mộ trung thành của truyện trinh thám cổ điển sẽ phần nào thỏa mãn, đặc biệt là lý giải logic được những “hạt sạn” trong tập 4 (Người thừa thứ 14-đã được reviewsach.net giới thiệu cách đây ít lâu). Những điểm cộng và điểm trừ của tập truyện 14 câu chuyện nhỏ được gắn kết lại xuyên suốt một câu chuyện lớn. Đó chính là tài năng của người kể chuyện. Trong 14 câu chuyện đó, có chuyện hay, có chuyện dở. Có kinh dị, có trinh thám, có bí ẩn, có hư cấu, có giả tưởng. Là một nổi lẩu thập cẩm gia vị đầy đủ, những kiến thức từ kinh tế, xã hội, tôn giáo, tri thức nhân loại cũng được tác giả vận dụng và khéo léo kết hợp hết sức tài tình. Nếu tách riêng 14 câu chuyện riêng lẻ ra, chắc hẳn không nhận được nhiều sự quan tâm lớn đến vậy. Điểm trừ là 14 câu chuyện quá dài, giống như Nghìn lẻ một đêm. Giọng văn trầm ổn, không tạo ra sự đáng sợ, hồi hộp và cuốn hút mặc dù một số đoạn có gắn mác kinh dị. Có lẽ ngay từ đầu, tác giả nên chọn 7 câu chuyện, làm thành tiểu thuyết 1/7 thì hơn. Để tình tiết trôi nhanh hơn, làm cho độc giả nghẹt thở, chỉ có vậy mới xứng danh là một cuốn tiểu thuyết trinh thám hàng đầu.  Nhưng nếu ít người như vậy thì Người tổ chức sẽ nhanh chóng bị nhận diện. Thông điệp từ tác giả thông qua cuốn tiểu thuyết Không phải ngẫu nhiên mà Trò chơi tử thần được ngẫu nhiên xuất hiện. Nhân quả thường đến muộn, làm nhiều người tưởng rằng không có báo ứng. Thông qua cuốn tiểu thuyết, người đọc ngoài được trổ tài phá án, còn biết cách để sống lương thiện hơn. Sẽ không có 14 ngày kinh hoàng của những tiểu thuyết gia lừng danh nếu như ngày đó, không có một cuốn tiểu thuyết trinh thám đỉnh cao bị đạo văn. Mở rộng ra trong cuộc sống, kiếm tiền chân chính vẫn là an toàn nhất cho chính mình, cho lương tâm thanh thản và an nhàn. Một cách khách quan nhất, nếu bạn là một fan hâm mộ truyện trinh thám không dễ đầu hàng trước những câu hỏi logic hack não, thì tiểu thuyết 1/14 nói chung và 14 ngày kinh hoàng nói riêng vẫn là một câu chuyện đáng giá. *** Tác giả Ninh Hàng Nhất tên thật là Ninh Hàng, là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết trinh thám kinh dị. Anh bắt đầu nghiệp viết từ năm 1999, tới nay đã là một tay bút chuyên nghiệp kiêm biên kịch phim. Tác phẩm của anh được đăng trên nhiều các tạp chí, trang mạng lớn của Trung Quốc, còn được dịch và đăng trên các tạp chí ngoại văn. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến “Tiếng đêm”, “Hẹn với thần chết”, “Chuyến đi sống còn”, “Lời nguyền ngày tận thế”. Ninh Hàng Nhất được đánh giá là cây đại thụ trong làng tiểu thuyết trinh thám mới, là “Alfred Hitchcock” của Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết trinh thám 1/14 Trò chơi tử thần gồm có 5 tập hiện đã được xuất bản xong tại Việt Nam, đã được khá nhiều độc giả Việt đón nhận, được đánh giá là bộ tiểu thuyết trinh thám xen lẫn kinh dị gây tiếng vang lớn. Trò chơi cấm là một trong những cuốn series trinh thám mới nhất của tác giả này được xuất bản tại Việt Nam.   Bộ 1/14 gồm có: Trò Chơi Tử Thần Khách Trọ Và Xác Sống Lời Cảnh Báo Người Thừa Thứ 14 14 Ngày Kinh Hoàng *** "T hông qua sự kiện vừa rồi, tôi gần như đã biết ‘người tổ chức’ là ai.” Câu nói này khiến mọi người sửng sốt. Mười một nhà văn đều trợn tròn mắt nhìn về phía thiếu niên thiên tài Chris. Sao cơ? Nam Thiên thấy vô cùng kinh ngạc. Những lời của Chris là thật sao? Hôm nay, là ngày thứ mười mọi người bị nhốt ở đây, câu đố đã được giải rồi sao? Rõ ràng tất cả đều nghĩ như thế thật. Ám Hỏa vội hỏi, “Là ai?” Chris vẫn giữ nguyên vẻ bí hiểm vốn có của mình, nhưng lần này cậu ta không cười, vẻ mặt rất nghiêm túc nói, “Đại để là trong lòng tôi đã rõ nhưng chưa có chứng cứ. Nếu giờ nói ra, e rằng người đó sẽ không thừa nhận.” Cậu ta dừng lại một chút rồi tiếp, “Vì vậy, tôi nghĩ ra một cách...” Chris không nói tiếp, có thể vì cậu ta chưa nghĩ xong “cách” đó là gì, cũng có thể vì không muốn cho “người tổ chức” còn đang ẩn mình trong đám đông biết được kế hoạch. Vẻ mặt cậu ta vô cùng nghiêm túc, chưa bao giờ thấy cậu ta tỏ ra như vậy. Mọi người cũng không tiện hỏi nữa. Một lúc sau Bắc Đẩu mới lên tiếng, “Chúng ta nên cho điểm câu chuyện Quay về của Hoang Mộc Chu tiên sinh không nhỉ?” Lake lẩm bẩm, “Nếu anh ấy đã phạm luật thì việc cho điểm chẳng còn ý nghĩa gì nữa...” Anh ta nói rất nhỏ, nhưng vẫn bị Hoang Mộc Chu thính tai nghe thấy. Nhà văn lớn giận dữ nói, “Tôi không muốn tranh luận với mọi người về vấn đề tôi có phạm luật hay không! Hãy để cho ‘người tổ chức’đáng chết ấy phán xét! Dù thế nào thì câu chuyện mà tôi vất vả nghĩ ra cũng không thể không có điểm!” “Tôi tán thành!” Hạ Hầu Thân nói, “Vấn đề phạm luật sẽ do ‘người tổ chức’ quyết định, còn chúng ta phải cho điểm câu chuyện của mỗi người.” Bắc Đẩu đứng dậy chuẩn bị đi về phía tủ. Trước giờ cậu ta luôn phụ trách việc lấy giấy bút. Nhưng lần này Goth gọi với cậu ta lại, nói, “Lần nào cũng là cậu lấy, để tôi thay.” Bắc Đẩu ngây người, “vâng” một tiếng rồi ngồi xuống. Goth đi về phía tủ, mang ra một nắm bút và tập giấy rồi chia cho mọi người. Trừ Hoang Mộc Chu, mười một người khác đều viết một con số lên giấy. Goth lại thu giấy về, đưa cho Nam Thiên và Long Mã tính điểm bình quân. Quay về của Hoang Mộc Chu cuối cùng được 9,1 điểm, cũng coi là cao, song không vượt qua được con số 9,2 điểm cho câu chuyện Bí mật của Do Nông mà Bắc Đẩu kể. Hoang Mộc Chu “hừ” một tiếng, rõ ràng việc một nhà văn lớn, một tiền bối trên văn đàn như ông ta lại thua một cậu nhóc chẳng có tên tuổi quả là rất mất thể diện. Ông ta không giấu được vẻ khó chịu và bất mãn của mình, nhưng không thể nói được gì, nên lặng lẽ đứng dậy đi về phía căn phòng của mình trên gác. Hoang Mộc Chu là nhân vật chính của buổi tối thứ mười, ông ta rời khỏi thì những người khác cũng chẳng còn có lý do gì để ở lại căn phòng lớn, nên mọi người cũng lần lượt trở về phòng mình. Sa Gia và Nam Thiên đi sau cùng. Sa Gia tỏ ra lo lắng, Nam Thiên hỏi, “Cô sao vậy?” “Ngày mai đến lượt tôi kể rồi.” Sa Gia nói với vẻ bất an, “Câu chuyện tôi nghĩ ra có điểm giống với câu chuyện của Hoang Mộc Chu, bây giờ rõ ràng là không dùng được nữa rồi. Tôi còn chưa đầy một ngày để nghĩ ra câu chuyện mới...” “Không sao đâu, mười mấy tiếng chắc cũng nghĩ ra câu chuyện mới thôi.” Nam Thiên an ủi. “Nhưng, đã có mười câu chuyện được kể rồi.” Sa Gia vẫn nói với vẻ lo lắng, “Đã có nhiều chủ đề được dùng đến, tôi thấy rất khó để nghĩ ra cái gì mà kể...” Đúng vậy, Nam Thiên rất hiểu. Luật của trò chơi này là: chuyện kể sau tuyệt đối không được giống câu chuyện kể trước từ cấu tứ cho đến tình tiết, đó là thách thức rất lớn cho những người kể sau. Ý tưởng sáng tạo không là vô hạn, càng về cuối đề tài càng hạn hẹp. Nhìn dáng vẻ lo lắng, sầu muộn của Sa Gia, Nam Thiên rất muốn giúp cô. Anh suy nghĩ một lúc rồi nói, “Tôi có một kinh nghiệm xây dựng cốt truyện có thể chia sẻ với cô.” “Thật à, mau nói cho tôi biết đi!” Sa Gia vội vã nói. Nam Thiên nói, “Những lúc không tìm được cảm hứng để sáng tác, tôi thường tìm cách soi lại bản thân. Mỗi chúng ta, khẳng định là đều trải qua một số chuyện để lại ấn tượng sâu sắc, tất nhiên, những sự việc đó chỉ là những mảnh vụn trong cuộc sống, không thể nào tạo thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nhưng chúng ta có thể cải biên, thêm thắt chi tiết, từ đó có thể tạo ra một câu chuyện rất hay.” “Lấy cơ sở là những trải nghiệm của bản thân...” Sa Gia ngẫm nghĩ về những điều Nam Thiên nói, “Trước nay tôi chưa thử bao giờ.” “Vậy cô hãy thử đi!” Nam Thiên nói, “Điểm hay của cách này là, vì câu chuyện có xuất phát điểm từ những trải nghiệm của bản thân cho nên rất dễ tìm thấy cảm giác, hơn nữa, câu chuyện được xây dựng nên thường cho cảm giác chân thực hơn nhiều so với sự hư cấu thuần túy.” “Được, tôi sẽ thử.” Sa Gia gật đầu nói, “Cảm ơn anh, Nam Thiên!” “Không có gì. Hi vọng là cô sẽ nghĩ ra một câu chuyện hay.” Nam Thiên nói với vẻ chân thành, anh nhìn đồng hồ điện tử trên cổ tay, “Không còn sớm nữa, hãy nghỉ ngơi đi, đóng chặt cửa vào, chú ý an toàn nhé!” “Vâng, anh cũng thế nhé.” Sa Gia đỏ mặt nói. Họ trở về phòng của mình, khóa cửa lại. Nam Thiên thấy mệt rã rời, lên giường mấy phút sau đã ngủ say. Sáng hôm sau, mọi người lại lấy đồ ăn từ trong tủ ở căn phòng lớn tầng một làm đồ ăn sáng. Trước lúc mọi người tản ra, Long Mã ho một tiếng, nói, “Ồ, có chuyện này, tôi không thể không nói với các vị.” Mọi người nhìn về phía ông ta. Thiên Thu hỏi, “Chuyện gì?” “Là thế này”, Long Mã nói, “sau khi tôi nghe câu chuyện Quay về của Hoang Mộc Chu tiên sinh kể tối qua, tôi bỗng thấy được gợi ý.” Hoang Mộc Chu nhướng mày, chăm chú nhìn Long Mã. Long Mã nói tiếp, “Trong câu chuyện đó, cậu bé Hạ Thanh có rất nhiều điểm giống với ma quỷ1. Điều đó khiến tôi bất giác nghĩ tới hiện thực trước mắt, mười bốn người chúng ta, mà thực ra là mười ba nhà văn bị ‘người tổ chức’ giấu mặt ‘mời’ đến, liệu cũng có những điểm giống nhau nào đó không?” 1 Xem Quay về do Hoang Mộc Chu kể trong Người thừa thứ 14. Câu nói này của Long Mã khiến mọi người đều ngây ra. Lát sau, Bắc Đẩu nói, “Tôi nhớ, vào ngày đầu tiên, ‘người tổ chức’ đã nói, hắn lựa chọn chúng ta vì trong mắt hắn, chúng ta là mười bốn nhà văn viết truyện trinh thám kinh dị ưu tú nhất.” “Đúng thế, có vẻ cậu còn thấy vui vì cũng được dính một tí vào trong đó.” Thiên Thu châm biếm. Bắc Đẩu gãi đầu, tỏ ra ngượng ngùng. Long Mã nhíu mày, lắc đầu, nói, “Người ấy nói như vậy, nhưng lúc đó chúng ta cũng không nghiên cứu kĩ vấn đề này, bây giờ nghĩ lại thì thấy, đó có thể là một cái cớ.” “Anh cho rằng chuyện không đơn giản như vậy, và trong đó còn có nguyên nhân sâu xa hơn?” Goth hỏi. “Đúng thế.” Long Mã nói, “Hơn nữa, tôi cho rằng, tìm ra điểm giống nhau sẽ là mấu chốt vạch rõ thân phận của ‘người tổ chức’.” “Anh dựa vào đâu mà cho là như vậy?” Long Mã phân tích, “Thực ra, tôi đã thấy ngay cách nói ấy có phần khiên cưỡng. Khách quan mà nói, mười bốn người chúng ta được ‘mời’ đến đây là những nhà văn viết truyện trinh thám kinh dị ưu tú nhất nước, thông qua thực lực của những người đã kể chuyện có thể chứng minh rõ điều này. Nhưng e rằng, không thể nói ngoài chúng ta thì không thể tìm ra người khác nữa. Trong số bạn bè của tôi, nhiều tác giả rất có thực lực, tại sao họ lại không trong số này? Những người tham gia trò chơi này, tại sao chỉ là mười bốn? Con số 14 liệu có phải ẩn chứa một hàm nghĩa đặc biệt nào không?” Những lời của Long Mã không khỏi khiến mọi người suy nghĩ. Một lát sau, Ám Hỏa nói, “Đúng vậy, vẫn còn có những nhà văn viết trinh thám kinh dị đỉnh hơn nữa, tại sao lại chỉ có chúng ta được ‘mời’ đến? E là có điều gì đó thật.” “Nói vậy vẫn có rất nhiều điểm nghi vấn.” Hạ Hầu Thân phân tích, “Thực ra, ngay từ đầu tôi cũng thấy ngạc nhiên.” Anh ta nhìn về phía thiên tài trẻ tuổi, “Chris cũng trong số đó. Nghĩ mà xem, cậu ấy là Hoa kiều sống ở nước ngoài thế mà cũng bị cuốn vào sự kiện này. Nhà văn viết trinh thám kinh dị xuất sắc là người Hoa trên thế giới này lại càng nhiều, và như vậy càng không có lý do để chọn mười bốn người chúng ta tới đây.” “Khả năng của ‘người tổ chức’ có hạn, không thể có được bản lĩnh thông thiên để có thể bắt tất cả những người như vậy trên thế giới về đây.” Lake nói. “Vậy Chris đã được đưa đến đây như thế nào?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Anh quên rồi à?” Lake nhắc, “Chris nói, cách mà cậu ấy đến đây không giống chúng ta. Cậu ấy không phải bị làm cho mê man rồi mới đưa đến, mà trong trạng thái tỉnh táo.” “Đúng vậy.” Lúc này Hạ Hầu Thân mới nhớ ra, ông ta nhìn Chris, “Bây giờ cậu vẫn không định nói cho chúng tôi biết rốt cuộc cậu đến đây như thế nào à?” “Tôi đã nói rồi, đó là chuyện của tôi, bây giờ không thể nói được.” Chris bình thản nói, “Hình như chúng ta đã chuyển chủ đề câu chuyện rồi, nên quay lại vấn đề đang nói trước đó đi: rốt cuộc chúng ta có điểm gì giống nhau? Tôi cũng rất hứng thú với điều này.” “Chúng ta có thể nghĩ từ nhiều góc độ.” Long Mã nói, “Mười bốn người chúng ta đều có thể có những điểm giao nhau.” Hạ Hầu Thân nghĩ một chút, nói, “Tôi sống ở thành phố S, còn mọi người?” “Anh muốn xem xem chúng ta có phải là người cùng thành phố không?” Long Mã đã hiểu ra, “Tôi cũng là người thành phố S và sống ở thành phố S.” “Còn có ai sống ở thành phố S nữa không?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Tôi.” Nam Thiên nói. Goth cũng giơ tay, ý nói anh ta cũng như vậy. “Chỉ có bốn chúng tôi ở nơi này?” Hạ Hầu Thân thống kê, “Tôi, Long Mã, Goth và Nam Thiên. Thế còn mọi người?” Ông ta hỏi những người khác. Mọi người lần lượt nói về nơi ở của mình, ngoài Chris và Thiên Thu ra, còn lại cơ bản ở những thành phố không xa thành phố S là mấy. Chris dường như đã nghĩ ra manh mối, “Đối tượng mà ‘người tổ chức’ ‘mời’ đến có lẽ trung tâm là thành phố S!” “Điều này không thể coi là phát hiện lớn gì.” Bạch Kình cười méo mó, “S là thành phố lớn, các thành phố xung quanh cơ bản cũng là những khu vực phát triển. Các tác giả viết trinh thám kinh dị của nước ta vốn dĩ rất nhiều người tập trung tại khu vực này, huống chi Chris sống ở Mỹ, Thiên Thu ở thành phố B cách đây rất xa. À, phải rồi, lại còn cả Uất Trì Thành và Từ Văn đã chết nữa, có lẽ họ cũng là người ở gần thành phố S?” Xem ra, ở cùng một khu vực không thể trở thành điểm chung rồi. Đám đông lại chìm trong suy nghĩ, một lát sau, Ám Hỏa lên tiếng, “Trước đây, chúng ta có từng viết về cùng một đề tài không?” “Không thể có.” Chris phủ định quả quyết, “Tôi đã đọc sách của nhiều người trong chúng ta, đề tài, nội dung đều rất khác nhau. Huống chi nếu cả mười bốn người cùng viết về một đề tài thì truyền thông sẽ phải lên tiếng và chúng ta làm sao mà không biết?” “Vậy thì... Liệu chúng ta có từng xuất hiện trong cùng một hoàn cảnh không?” Sa Gia thăm dò, “Ví dụ như họp báo hoặc trong buổi họp các nhà văn.” “Mấy năm trước hầu như tôi đều ở Mỹ.” Chris tiếp tục phủ định khả năng này. Không khí trong căn phòng lớn lại lắng xuống, hầu như mọi người không tìm được khả năng gì nữa. Nam Thiên nhíu chặt mày, ra sức nghĩ, thế rồi trong đầu lóe lên một ý nghĩ, không kịp cân nhắc, anh nói luôn, “Liệu có phải mười bốn chúng ta đều quen một ai đó không?” Mọi người lại ngây ra. Long Mã nói, “Ý anh là, bản thân mười bốn chúng ta có thể không có điểm giao nhau, nhưng chúng ta cùng quen một người, nên đã gián tiếp khiến mười bốn người chúng ta có mối liên hệ?” “Phải, đúng là ý đó.” Nam Thiên nói. “Sao anh lại nghĩ vậy?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Không biết, đột nhiên nảy ra ý nghĩ đó.” Nam Thiên nói. “Khả năng này đúng là rất có thể...” Lake chau mày, nói với vẻ suy nghĩ, “Nhưng, làm thế nào để kiểm chứng điều này? Bạn bè, đồng nghiệp của mỗi người chưa kể bạn trên mạng, cũng phải mấy trăm người? Không lẽ chúng ta viết hết tên của họ ra rồi đối chiếu từng người một xem có cùng quen không? Như vậy sẽ rất khó khăn.” “Đúng thế.” Bạch Kình nói, “Hơn nữa, còn có một vấn đề, đó là ‘người tổ chức’ ở lẫn trong chúng ta sẽ không phối hợp làm việc đó, thêm nữa là Uất Trì Thành và Từ Văn đã chết thì sao mà biết được. Cho nên, chúng ta không thể đưa ra kết luận được.” Nghe Bạch Kình nói vậy, mọi người có vẻ ỉu xìu. Lúc đó Sa Gia nhìn Nam Thiên, hỏi, “Nam Thiên, anh thấy thế nào?” Nam Thiên trầm ngâm giây lát rồi nói, “Tôi có cảm giác, người mà chúng ta cùng quen đó đã khiến cho mười bốn chúng ta làm cùng một việc trong cùng một thời gian, và chúng ta không biết rằng đã từng làm cùng một việc.” “Ồ...” Thiên Thu bỗng nhiên khẽ thốt lên, sắc mặt lập tức trắng nhợt, Ám Hỏa đứng bên hỏi, “Cô sao thế? Nghĩ ra chuyện gì à?” “Không... không phải.” Thiên Thu cúi đầu, nói, “Tôi chỉ... bỗng thấy sợ trước những lời của Nam Thiên, cảm thấy ớn lạnh.” Hoang Mộc Chu nheo mắt, nói, “Lời của cậu ấy đáng sợ ư? Nếu trong lòng cô không có điều gì ám muội thì sao phải sợ?” Thiên Thu lấy lại tinh thần, hai tay khoanh trước ngực, nói với vẻ coi thường, “Trong lòng tôi thì có điều gì mà ám muội? Đó chỉ là thói quen của những nhà văn viết trinh thám kinh dị, liên tưởng tới một số sự việc đáng sợ và giàu kịch tính mà thôi.” Căn phòng lắng xuống một lúc. Hạ Hầu Thân thở dài, “Xem chừng, tất cả chỉ là suy đoán, không thể rút ra kết luận được.” “Không hẳn, nếu đúng như lời Nam Thiên, thì ít ra chúng ta cũng có hướng để suy nghĩ.” Long Mã nói, “Vẫn còn bốn ngày nữa, biết đâu một trong số chúng ta sẽ nghĩ ra được điều gì.” Nhắc đến vấn đề thời gian, Sa Gia lộ rõ vẻ lo lắng. Cô đứng dậy, nói, “Tối nay đến lượt tôi kể chuyện rồi, tôi phải về phòng chuẩn bị đây.” Nói xong cô rời căn phòng lớn và đi lên gác. Những người khác cũng lần lượt rời khỏi đó. Nam Thiên đứng nguyên tại chỗ, nhíu mày nhăn trán suy nghĩ về gợi ý mà mình vừa mới đưa ra. Anh không hiểu tại sao đầu óc mình bỗng dưng lại lóe ra ý nghĩ ấy, không lẽ tiềm thức đang nhắc anh có một việc nào đó mà anh đã từng làm trong quá khứ có mối liên quan đến sự kiện này? Nhưng, những việc anh trải qua quá nhiều, rốt cuộc là sự việc gì, anh vắt óc cũng không sao nghĩ ra. 7 giờ tối, một lần nữa mọi người lại tập trung ở căn phòng lớn, mỗi người một chiếc ghế da và xếp thành một vòng tròn. Trò chơi của buổi tối hôm nay đã bắt đầu. Sa Gia là nhân vật chính của tối nay. Nam Thiên ngồi cạnh cô, khẽ hỏi, “Đã nghĩ xong câu chuyện chưa?” “Rồi.” Sa Gia gật đầu, khẽ nói, “May mà có anh gợi ý.” “Cô dùng những điều mà chính bản thân đã trải qua thật à...” “Nghe xong rồi hãy nói.” Má Sa Gia thoáng đỏ, “Tóm lại là một câu chuyện đặc sắc khác thường, hơn tất cả những tác phẩm của tôi trước đây.” Hạ Hầu Thân ngồi đối diện nhìn đồng hồ, nói, “Hai người đừng thì thầm nữa, đến giờ rồi đấy!” “Vâng.” Sa Gia quay mặt về phía đám đông, cao giọng, “Tôi bắt đầu kể. Tên của câu chuyện này là Quái thai.” Mời các bạn đón đọc 14 Ngày Kinh Hoàng của tác giả Ninh Hàng Nhất.