Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF Âm Phù Kinh - Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

TựaÂm Phù Kinh là một quyển sách rất nhỏ của Đạo Lão, tương truyền là do Hoàng Đế (2697-2597) viết. Nhưng có nhiều học giả không công nhận như vậy.Trình Chính Thúc (Trình Di, Trình Y Xuyên, 1033-1107) cho rằng sách này được viết vào thời Ân (1766-1154) hay thời Chu (1122-255).Chu Hi (Chu Nguyên Hối, 1130-1200) cho rằng Lý Thuyên, một đạo sĩ đời vua Đường Huyền Tông (713-755) đã ngụy tạo ra. Chu Hi soạn Âm Phù khảo dị.Thiệu Khang Tiết (1011-1077) cho rằng Âm Phù Kinh được viết ra vào đời Chiến Quốc.Đạo tạng có bộ Âm Phù Kinh tập chú do 7 người chú: Y Doãn, Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Trương Lương, Lý Thuyên.Trương Quả Lão (một vị trong Bát Tiên đời Đường) cũng có viết Âm Phù Kinh và có dẫn Y Doãn, Thái Công, Chư Cát Lượng, Lý Thuyên.Lại có bản do 11 người chú: Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc, Trương Lương, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong, Lý Thuyên, Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Dương Thịnh.- Thạch Đại Dương Nhân Sơn, một người rất giỏi về Đạo Phật, chú Âm Phù theo Phật.- Lý Gia Du giỏi Dịch giảng Âm Phù theo Dịch.- Đơn Chân Nhân, Khấu Trương, Trương Quả Lão, Lý Thuyên là các Đạo Gia nên bình Âm Phù theo Lão.Trịnh Tiều Nghệ Văn cho biết trước sau có 38 bộ Âm Phù Kinh biên soạn thành 51 quyển.Như vậy mỗi người chú Âm Phù một cách. Binh gia giải theo Binh Gia, Đạo Gia giải theo Đạo Gia, Phật Gia giải theo Phật Gia. Nhưng Âm Phù Kinh vẫn là Âm Phù Kinh.(Xem Vô Tích Hoàng Nguyên Bính tiên thích, Âm Phù Kinh Chân Thuyên, Tựa)Tại sao một quyển sách chỉ vẻn vẹn có ba bốn trăm chữ mà được nhiều học giả mê thích như vậy?Thưa vì nó đưa ra một học thuyết quá hay: Đó là hãy bắt trước Trời mà hành sự thì muôn việc đều hay. (Quan Thiên chi Đạo, chấp Thiên chi hành tận hĩ. 觀 天 之 道 執 天 之 行. 盡 矣.)Trung Hoa Đạo giáo Đại Từ Điển viết:«Thánh Nhân quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, chưởng ốc Thiên Nhân ám hợp chi cơ, xử hành vi hợp hồ Thiên Đạo, bất vi tự nhiên, tắc trị quốc dưỡng sinh các đắc kỳ nghi...»«Thánh nhân xem Trời, bắt chước Trời hành sự, nếu việc Trời việc người ăn khớp với nhau, làm gì cũng hợp đạo Trời, không làm gì sai trái với tự nhiên, thì trị nước hay tu thân đều tốt đẹp.» (Hoàng Đế Âm Phù Kinh, tr. 332, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, Hồ Hoài Sâm.)Xưa nay chỉ có ăn ở theo đúng cơ Trời, thời Trời, là hay, là tốt mà ít ai nhận thấy.Chúng ta thấy ngày có mặt trời, đêm có mặt trăng. Mà mặt trời thời hằng cửu, bất biến, mặt trăng thì tròn khuyết biến thiên. Mặt trời là Thái Cực, mặt trăng là Âm Dương. Trăng có tròn có khuyết, con người có khi tốt có khi xấu, nhưng lúc chung cuộc phải tiến tới viên mãn như trăng ngày rằm, như mặt trời chính Ngọ. Chu kỳ mặt trăng gồm đủ 64 quẻ Dịch mà chúng ta không thấy.Mỗi chớp mắt, mở mắt của chúng ta, mỗi một ngày một đêm, mỗi một tháng, mỗi một năm cũng gồm đủ 64 quẻ Dịch. Như vậy rõ ràng là Trời muốn chúng ta sống theo đúng tự nhiên, thì mọi sự sẽ chu toàn.Ngay quẻ Kiền đã dạy chúng ta phải bắt chước Trời mà hành sự.Đại Tượng quẻ Kiền viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức 天 行 健. 君 子 以 自 強 不 息:Trời cao mạnh mẽ xoay vần,Nên người quân tử quyết tâm tự cường.(Không hề ngưng nghỉ triển dương)Câu thứ 4 của Âm Phù Kinh cũng hết sức hay:Thiên Tính Nhân Dã, Nhân Tâm cơ dã. Lập Thiên chi Đạo dĩ định nhân dã.(天 性 人 也, 人 心 機 也. 立 天 之 道 以 定 人 也.)Thiên Tính là người. Nhân Tâm là máy. Lập ra Đạo Trời để xác định (xem) con người (tiến bộ đến đâu.)Đọc Âm Phù Kinh, tôi mới thấy rõ, Con người chính là Trời (Thiên Tính Nhân dã), còn Con người chỉ là Cái máy. Lập ra đạo Trời, cho thấy đâu là Đạo Người rốt ráo.Đạo Con Người thật ra là đạo tự nhiên bất biến. Con người sinh ra không phải là để khổ đau, mà chính là để luôn luôn sung sướng. Con người sinh ra cốt là để nhìn thấy trong mình, ngoài mình, đâu đâu cũng là Chân Thiện Mỹ. Con người hiện chưa được vậy, là vì quá ích kỷ và con u mê dốt nát mà thôi.Gần cuối sách, Âm Phù Kinh lại dạy bài học thứ ba:Thị cố quân tử tri tự nhiên chi Đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi.(是 故 君 知 自 然 之 道 不 可 違, 因 而 制 之.)Cho nên người quân tử không thể đi sai Đạo tự nhiên. Chỉ có thể nhân đó biến chế mà thôi.Xưa nay, người ta thường chống đối với tự nhiên, thích chinh phục thiên nhiên. (Going against Nature, conquering Nature).Nhưng cũng có người cho rằng cần phải tìm hiểu Tự Nhiên, Hiểu Tự Nhiên là Cứu Rỗi mình (Knowledge of Nature, as a way of Salvation), và chủ trương Theo Thiên Nhiên (Following the way of Nature).Cũng có người chủ trương theo tự nhiên là chết, đi ngược tự nhiên mới được trường sinh. (Thuận tắc tử, nghịch tắc Tiên).Biến chế Tự Nhiên Âu Châu dịch là Manipulation of Nature. (Xem Science and Civilisation in China, Vol. V, Joseph Needham, Index, nơi chữ Nature, tr. 541)Tôi tuyệt đối chủ trương ta không thể sống ngược với Thiên Nhiên được, nhưng phải nương theo Thiên Nhiên mà sống. Nếu dạy người đi ngược chiều hướng này là làm hại người mà thôi. Cho nên tôi hoàn toàn chấp nhận lời trên của Âm Phù Kinh.Câu Thuận vi Phàm, Nghịch vi Tiên trong các sách luyện đơn là cốt dạy con người đi sâu vào phía Tâm Linh, chứ đừng để Tâm Thần phát tán ra ngoại cảnh, nhất là khi về già. Nghịch đây không phải là đi ngược Thiên Nhiên.* Chiều đi từ quẻ Phục cho tới quẻ Kiền thường được gọi là Chiều Nghịch. Chiều đi từ quẻ Cấu cho tới quẻ Khôn là chiều Thuận. Thuận là Thuận của phàm nhân; Nghịch là Thuận của Thánh Tiên.Âm Phù Kinh chủ trương: Bắt chước Trời mà hành sự, theo đúng cơ trời mà biến hóa, như vậy để cầu trường sinh. hay làm cho nước giàu dân mạnh, hay làm cho binh cường tướng mạnh để chiến thắng, tất cả đều là một nguyên tắc. (Quan Thiên chi đạo, chấp cơ đạt biến, dĩ cầu trường sinh, phú quốc an dân, cường binh chiến thắng.) (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332)Âm Phù Kinh là: «Thánh Nhân Thể Thiên dụng Đạo chi cơ.» (Âm Phù Kinh là sách Thánh Nhân thay Trời dạy huyền cơ Đạo Lý.)Thánh Nhân dụng tâm hết sức thâm trầm, thấy được Thiên Tính Bản Nhiên của mình, rồi theo đúng cơ vi, sống hợp nhất với lẽ Tự Nhiên. Nhìn vào lòng mình, theo đúng cơ vi Trời Đất, hiểu thế là hiểu rõ Âm Phù Kinh.«Thánh Nhân dụng tâm Thâm vi, tắc năng chiếu kiến tự nhiên chi tính; chấp cơ biến thông tắc năng khế hợp tự nhiên chi Lý. Chiếu chi dĩ tâm, khế chi dĩ cơ, nhi âm phù chi nghĩa tận hĩ.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332)Thần Trời Đất với Thần trong ta là Một, nên khi hoạt động thời in như thần, khi tĩnh lặng thì có đủ Thần trong mình, mình và Thái Không là Một, mình với vạn hữu là bạn, Thể Tính của mình và Thể Tính của trời đất không có gì khác biệt, thế gọi là Đắc Đạo.«Thiên Địa chi thần dữ Ngô chi thần đồng vu nhất thể, cố động dữ Thần khế, tĩnh dữ Thần cụ, dữ Thái Không vi nhân, dữ tạo vật giả vi hữu, Thể Tính vô thù, thị vị Đắc Đạo.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332)Âm Phù Kinh dạy ta lẽ Thiên Đạo và Nhân Tâm ám hợp với nhau, và muốn ta sống đúng theo Trời.«Thiên Đạo Nhân Tâm ám hợp chi lý, dục nhân năng thuận Thiên nhi động.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 333)Âm Phù Kinh xưa nay chỉ có hơn 300 chữ hay hơn 400 chữ. (SĐD, tr.333)Cộng thêm học thuyết Lão là Thanh Tĩnh tự nhiên, thanh tâm quả dục, pha phách thêm Dịch Truyện là thành Thuyết Thiên Đạo, Nhân sự Khế Hợp. (SĐD, tr.333)Âm Phù Kinh cho rằng Thiên Đạo và Nhân Đạo khế hợp với nhau.Và giải Âm là Âm, Phù là Phù Hợp. (SĐD, tr. 333) Âm Phù Kinh đề cao thuyết của Nho Gia là Tồn Thiên Lý, khử Nhân Dục, Tu Tâm, Thành Tính. (SĐD, tr. 334)«Vạn vật hữu hình viết Âm, Vạn Vật giai hữu Tính Mệnh viết Phù, vạn vật giai hữu Tự Nhiên chi Đạo viết Kinh.» Lại nói: «Âm Phù nhị tự, Thân Tâm dã, Tính Tình dã, Thủy Hoả dã, Thần Khí dã, Diên Hống dã, Long Hổ dã, động tĩnh dã, nãi tu đơn chi căn bản, dưỡng đạo chi uyên nguyên.» (SĐD, tr. 334)Tôi dịch Âm Phù Kinh vì thấy một quyển sách nhỏ bé như vậy mà sao lại có nhiều danh nhân bình giải như thế.Tôi thấy những người như Lý Thuyên đời vua Đường Huyền Tông, ưa thích Đạo từ nhỏ, mới đầu Ông có được quyển Hoàng Đế Âm Phù Kinh, Ông đọc cả ngàn lần mà vẫn không hiểu được thâm ý. Theo truyền thuyết thì Ông đã tới Ly Sơn và đã được một bà cụ dạy cho huyền nghĩa Âm Phù, Ông mới hiểu ý nghĩa Âm Phù. Sau đó Ông viết: Hoàng Đế Âm Phù Kinh Sớ, 3 quyển, Thái Bạch Âm Kinh, 10 quyển, Ly Sơn Lão Mẫu truyền Âm Phù huyền nghĩa, 1 quyển. Ông làm quan giữ chức Giang Lăng Tiết Độ Sứ phó Ngự Sử Trung Thừa. Ông là người có mưu lược, sau đó vào danh sơn qui ẩn, phục khí, tịch cốc, thanh tâm tu đạo, không rõ chết ra sao. Ông còn viết thêm ít sách khác. (Xem Du Tấn, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 97) 

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

TẦM LONG ĐIỂM HUYỆT NHẬP LINH - CỔ ĐỒ THƯ
Phong thủy cảnh quan (hình thể) - Tầm long điểm huyệt nhập linhTrong phong thủy thần bí nhất là "Tầm Long điểm Huyệt", nói một cách dễ hiểu "tầm Long" là đi tìm địa hình địa thế của núi, "Điểm Huyệt" là nơi đặt mộ. Nói như vậy sẽ dễ hiểu, và đơn giản quá không? Chẳng trách với trí tuệ người xưa, họ lại thích làm cho nó phức tạp và huyền hoặc hơn. Núi từ xa chạy lại thì như cái gì? Có giống một con rồng không? Cách nói của người xưa thật thú vị. Người xưa có câu "Sống về mồ về mả, ai sống về cả bát cơm" chó thấy sự coi trọng về mổ mả của tổ tiên, xuất phát từ nhu cầu đó, cuốn "Tầm Long Điểm Huyệt Nhập Linh" này được viết, trên cơ sở trích dẫn, chắt lọc từ tinh túy cổ xưa, cố gắng dẫn giải cho dễ hiểu nhất, với hình ảnh màu sắc cho dễ hiểu nhất, với hình ảnh minh họa màu cho tiện theo dõi, tuy vậy đây cũng không phải là sách dễ đọc cho những người mới nhập môn. Thuật phong thủy xưa cũng đưa ra một số yếu tố mà người muốn học "Tầm Long điểm Huyệt: cần chú ý đó là: muốn giỏi phải đi sâu nghiên cứu, do đó chắc chắn phải bỏ ra nhiều tâm huyết mới có thể có được nhiều kiến thức. Cái tinh túy sâu xa nhất của phong thủy nếu không khổ công nghiên cứu và tìm tòi thì không thể đạt tới cực điểm.Khi học phải chú ý tới một số yếu tố quan trọng, nếu thiếu một trong những yếu tố này thì chắc chắn sẽ khó thành:1. Có thầy giỏi truyền thụ2. Biết dụng tâm suy nghĩ3. Khảo sát nhiều mộ cổ4. Đọc nhiều sách để hiểu rõ địa lý5. Phải dốc toàn bộ tâm huyết và thời gian, sức lực6. Tâm thuật phải ngay thẳngViệc tìm vị trí đất, hướng đặt mộ,... là phong tục rất được coi trọng, nhưng điều quan trọng nhất là "Tiên tích Đức, hậu tầm Long" và "Đức năng thắng số"."Tầm Long điểm Huyệt nhập Linh" với kiến thức Phong thủy Hình thế, trích dẫn tinh túy từ nhiều tài liệu Hán cổ, gần 400 hình màu minh họa từ quan sát thực tế.
Lý Thuyết Tam Nguyên Cửu Vận Và Nguyên Lý Dự Báo Cổ
Dựa trên ánh sáng khoa học hiện đại tác giả đã sưu tầm tư liệu, nghiên cứu và giải thích một cách khoa học về những điều được cho là huyền bí trong vấn đề các môn học dự báo cổ xưa, điều này cũng có phần tương đồng như những gì chúng ta đã nghiên cứu gần đây về Kinh Dịch và Hệ Nhị Phân, sách được trình bầy chặt chẽ, giải thích hầ hết các lí thuyết nền tảng xây dựng nên Kinh Dịch, âm dương, can chi.... Mọi thứ được  Dựa trên ánh sáng khoa học hiện đại tác giả đã sưu tầm tư liệu, nghiên cứu và giải thích một cách khoa học về những điều được cho là huyền bí trong vấn đề các môn học dự báo cổ xưa, điều này cũng có phần tương đồng như những gì chúng ta đã nghiên cứu gần đây về Kinh Dịch và Hệ Nhị Phân, sách được trình bầy chặt chẽ, giải thích hầ hết các lí thuyết nền tảng xây dựng nên Kinh Dịch, âm dương, can chi.... Mọi thứ được tác giả trình bầy trong 9 chương chính-Nội dung cuốn sách Chương Mở Đầu. Nguyên lý về toán nhị phân trong dự báo theo Dịch cổ * Thuật ngữ cổ * Con người và số mệnh CHƯƠNG I Những nguyên lý dự báo cổ 1- Nguyên lý Phân cực Âm Dương 2- Nguyên lý Ngũ Hành 3- Quỹ đạo vận động theo số 8 4- Nguyên lý cân bằng động của vũ trụ 5- Hoạt hóa 8 Tượng số Nhị Phân và 9 số Lạc Thư 6- Quy luật xuất hiện các vòng số Nhị Phân 7- Hệ đo lường thời gian cổ 8- Điểm khởi đầu của hệ thời gian Can Chi 9- Quỹ đạo thăng giáng của 9 số Lạc Thư - thước đo Trời " Lường Thiên Xích " 10- Luật biến hóa của các số Nhị Phân 11- Biến hóa Âm Dương trong bản thân tượng số 12- Hệ tiên đề về vũ trụ và Nhân sinh của 8 tượng số CHƯƠNG II Các phương Pháp của Lịch toán cổ 1- Khoa thiên văn Lịch toán cổ Á Đông 2- Các loại lịch 3- Năm,tháng,ngày,giờ 4- Các phương án cải cách Lịch CHƯƠNG III Lịch Toán Và Văn Minh Cổ Đại 1- Lịch và các nền văn minh cổ 2- Lịch Văn Lang cổ - đi tìm nền văn minh đã mất * Vết tích lịch rùa và chữ Khoa Đẩu * Cuộc di dân vĩ đại về phía Nam * Hà Đồ - Lạc Thư - cơ sở của Lịch Rùa Việt Thường * Xuất xứ của hệ Can Chi và nguồn gốc 12 con vật của Địa Chi CHƯƠNG IV Những Hiểu Biết Về Vũ Trụ Hiện Đại 1- Bản chất của vũ trụ 2- Lịch sử ngắn gọn của Vũ Trụ 3- Vật chất không nhìn thấy 4- Bức xạ hóa thạch 5- Thiên Hà của chúng ta 6- Hệ Mặt Trời 7- Tương lai vũ trụ sau Big Bang 8- Sự sống và con người có trí tuệ CHƯƠNG V Những Điểm Thống Nhất Giữa Triết Học Cổ Và Khoa Thiên Văn Hiện Đại CHƯƠNG VI Lịch Toán Theo Hệ Can Chi 1- Nhắc lại hệ thống Can Chi 2- Hệ qua theo số của Hà Đồ 3- Hoạt hóa hệ Can Chi 4- Nạp âm vòng Giáp Tý 5- Suy vượng của Ngũ Hành 6- Tính thời gian theo hệ Can Chi CHƯƠNG VII Phép Tính Vận Khí Theo Cửu Tinh 1- Quan niệm về Khí của Cổ Nhân 2- Nguyên lý cơ bản của phá Cửu Tinh 3- Hoạt hóa Cửu Tinh 4- Quỹ đạo vận hành của Cửu Vận 5- Các cặp số Âm Đương của Tinh Bàn 6- Bản chất Trường Khí theo Cửu Tinh 7- Ứng dụng Cửu Tinh vào Lịch Tam Nguyên - Cửu Vận CHƯƠNG VIII Dự Báo Theo Vận Khí Cửu Tinh 1- Tình xung hợp trong không gian và thời gian 2- Tính âm dương của các Trường Khí 3- Đại vận đương đại và các tiểu vận 4- Niên văn theo Cửu Tinh 5- Ảnh hưởng của Tiểu Vận đến Niên Vận 6- Thiên khí và Địa khí CHƯƠNG IX Vận Số Nhân Văn 1- Chín loại bản mệnh Cửu Tinh nam nữ 2- Năm loại mệnh số nhân văn 3- Tỷ lệ các loại mệnh số 4- Thử so sánh quan niệm Âm Dương cổ với hai quá trình Hưng Phấn và Ức Chế thần kinh hiện đại 5- Bản mệnh và thời vận 6- Bản mệnh Bát Trạch phong thủy Lời kết lý thuyết Tam Nguyên - Cửu Vận PHẦN LỊCH TAM NGUYÊN Lịch Tam Nguyên thứ 28 - ( 1864 - 2043 ) Ba Nguyên Chín Vận của Tam Nguyên thứ 28 Sáu Giáp của vòng Giáp Tý của Tam Nguyên thứ 28 Chín tiểu vận của Tam Nguyên thứ 28 Thượng Nguyên - Đại Vận thứ 82 * Tiểu Vận 1 ( 1864 - 1883 ) * Tiểu Vận 2 ( 1884 - 1903 ) * Tiểu Vận 3 ( 1904 - 1923 ) Trung Nguyên - Đại Vận thứ 83 * Tiểu Vận 4 ( 1924 - 1943 ) * Tiểu Vận 5 ( 1944 - 1963 ) * Tiểu Vận 6 ( 1964 - 1983 ) Hạ Nguyên - Đại Vận thứ 84 * Tiểu Vận 7 ( 1984 - 2003 ) * Tiểu Vận 8 ( 2004 - 2023 ) * Tiểu Vận 9 ( 2024 - 2043 ) Lời kết Lịch Tam Nguyên Tra cứu các bảng thống kê Tra cứu các hình vẽ và ảnh tư liệu. Nội dung cuốn sáchChương Mở Đầu. Nguyên lý về toán nhị phân trong dự báo theo Dịch cổ* Thuật ngữ cổ* Con người và số mệnhCHƯƠNG I Những nguyên lý dự báo cổ1- Nguyên lý Phân cực Âm Dương2- Nguyên lý Ngũ Hành3- Quỹ đạo vận động theo số 84- Nguyên lý cân bằng động của vũ trụ5- Hoạt hóa 8 Tượng số Nhị Phân và 9 số Lạc Thư6- Quy luật xuất hiện các vòng số Nhị Phân7- Hệ đo lường thời gian cổ8- Điểm khởi đầu của hệ thời gian Can Chi9- Quỹ đạo thăng giáng của 9 số Lạc Thư - thước đo Trời " Lường Thiên Xích "10- Luật biến hóa của các số Nhị Phân11- Biến hóa Âm Dương trong bản thân tượng số12- Hệ tiên đề về vũ trụ và Nhân sinh của 8 tượng sốCHƯƠNG II Các phương Pháp của Lịch toán cổ1- Khoa thiên văn Lịch toán cổ Á Đông2- Các loại lịch3- Năm,tháng,ngày,giờ4- Các phương án cải cách LịchCHƯƠNG III Lịch Toán Và Văn Minh Cổ Đại1- Lịch và các nền văn minh cổ2- Lịch Văn Lang cổ - đi tìm nền văn minh đã mất* Vết tích lịch rùa và chữ Khoa Đẩu* Cuộc di dân vĩ đại về phía Nam* Hà Đồ - Lạc Thư - cơ sở của Lịch Rùa Việt Thường* Xuất xứ của hệ Can Chi và nguồn gốc 12 con vật của Địa ChiCHƯƠNG IV Những Hiểu Biết Về Vũ Trụ Hiện Đại1- Bản chất của vũ trụ2- Lịch sử ngắn gọn của Vũ Trụ3- Vật chất không nhìn thấy4- Bức xạ hóa thạch5- Thiên Hà của chúng ta6- Hệ Mặt Trời7- Tương lai vũ trụ sau Big Bang8- Sự sống và con người có trí tuệCHƯƠNG V Những Điểm Thống Nhất Giữa Triết Học Cổ Và Khoa Thiên Văn Hiện ĐạiCHƯƠNG VI Lịch Toán Theo Hệ Can Chi1- Nhắc lại hệ thống Can Chi2- Hệ qua theo số của Hà Đồ3- Hoạt hóa hệ Can Chi4- Nạp âm vòng Giáp Tý5- Suy vượng của Ngũ Hành6- Tính thời gian theo hệ Can ChiCHƯƠNG VIIPhép Tính Vận Khí Theo Cửu Tinh1- Quan niệm về Khí của Cổ Nhân2- Nguyên lý cơ bản của phá Cửu Tinh3- Hoạt hóa Cửu Tinh4- Quỹ đạo vận hành của Cửu Vận5- Các cặp số Âm Đương của Tinh Bàn6- Bản chất Trường Khí theo Cửu Tinh7- Ứng dụng Cửu Tinh vào Lịch Tam Nguyên - Cửu VậnCHƯƠNG VIIIDự Báo Theo Vận Khí Cửu Tinh1- Tình xung hợp trong không gian và thời gian2- Tính âm dương của các Trường Khí3- Đại vận đương đại và các tiểu vận4- Niên văn theo Cửu Tinh5- Ảnh hưởng của Tiểu Vận đến Niên Vận6- Thiên khí và Địa khíCHƯƠNG IX Vận Số Nhân Văn1- Chín loại bản mệnh Cửu Tinh nam nữ2- Năm loại mệnh số nhân văn3- Tỷ lệ các loại mệnh số4- Thử so sánh quan niệm Âm Dương cổ với hai quá trình Hưng Phấn và Ức Chế thần kinh hiện đại5- Bản mệnh và thời vận6- Bản mệnh Bát Trạch phong thủyLời kết lý thuyết Tam Nguyên - Cửu VậnPHẦN LỊCH TAM NGUYÊNLịch Tam Nguyên thứ 28 - ( 1864 - 2043 )Ba Nguyên Chín Vận của Tam Nguyên thứ 28Sáu Giáp của vòng Giáp Tý của Tam Nguyên thứ 28Chín tiểu vận của Tam Nguyên thứ 28Thượng Nguyên - Đại Vận thứ 82* Tiểu Vận 1 ( 1864 - 1883 )* Tiểu Vận 2 ( 1884 - 1903 )* Tiểu Vận 3 ( 1904 - 1923 )Trung Nguyên - Đại Vận thứ 83* Tiểu Vận 4 ( 1924 - 1943 )* Tiểu Vận 5 ( 1944 - 1963 )* Tiểu Vận 6 ( 1964 - 1983 )Hạ Nguyên - Đại Vận thứ 84* Tiểu Vận 7 ( 1984 - 2003 )* Tiểu Vận 8 ( 2004 - 2023 )* Tiểu Vận 9 ( 2024 - 2043 )Lời kết Lịch Tam NguyênTra cứu các bảng thống kêTra cứu các hình vẽ và ảnh tư liệu.Tags:FacebookTwitterMới hơnCũ hơnĐăng bởi:☯ Dân tộc KING hoạt động với tiêu chí phi tôn giáo, phi lợi nhuận, phi chính trị. Mục đích của dantocking.com là cung cấp thông tin quý giá từ các bậc tiền nhân, để hậu thế có thể dễ dàng tìm đọc. Không có mục đích nào khác!
BÍ ẨN VẠN SỰ - TRONG KHOA HỌC DỰ BÁO CỔ
Cách đây 2.500 năm, cộng đồng loài người đã xuất hiện những lý thuyết giải thích về “Vận số” đời người. Con người từng tin rằng, có thể tránh được những rủi ro, hoạn nạn nhờ tuân theo lý thuyết “tránh hung phùng cát”. Đến triều đại Minh, Thanh học thuyết Vận số đã trở nên hoàn thiện và chi phối phần nào đời sống văn hoá tâm linh và hoạt động hàng ngày của nhiều nước châu Á. Cách đây 2.500 năm, cộng đồng loài người đã xuất hiện những lý thuyết giải thích về “Vận số” đời người. Con người từng tin rằng, có thể tránh được những rủi ro, hoạn nạn nhờ tuân theo lý thuyết “tránh hung phùng cát”. Đến triều đại Minh, Thanh học thuyết Vận số đã trở nên hoàn thiện và chi phối phần nào đời sống văn hoá tâm linh và hoạt động hàng ngày của nhiều nước châu Á.Thuyết Âm Dương – Bát quái, một lý luận thuộc tầng cao nhất trong triết học cổ đại phương Đông, song biểu hiện của nó lại hết sức cụ thể sinh động dưới các hình thức tín ngưỡng dân gian phổ biến. Từ rất lâu con người đã biết dùng những ứng dụng đó vào đời sống của mình như xem thời tiết, trị bệnh, ăn uống bảo vệ sức khoẻ, chọn bạn trăm năm, xuất hành, khởi công, làm việc… đặc biệt là chiều hướng phát triển của sự vật. Nhiều người thấy ứng nghiệm trở nên sùng bái đến mức mê tín. Ngoài ra, do tính triết lý sâu xa khó hiểu của nó mà phần lớn nhiều người quên mất cội nguồn cơ bản của học thuyết này.Cuốn sách “Bí ẩn vạn sự trong khoa học dự báo cổ” sẽ làm rõ một số vấn đề quan trọng như: Các ngành học cổ Á Đông đều mang tính dự báo. Dự báo vận mệnh là gì? “Tính cách” quyết định “số mệnh”…Nội dung chính đó được trình bày thành 7 chương:+ Chương I: Thuyết Âm Dương – Ngũ Hành trong triết học phương Đông.+ Chương II: Biểu tượng siêu hình của con người.+ Chương III: Khái quát vận mệnh bằng thuyết Âm Dương.+ Chương IV: Chiêm tinh học phương Tây và phương Đông.+ Chương V: Bát quái Văn vương.+ Chương VI: Mai hoa dịch số & ứng dụng.
BỐC PHỆ CÁCH NGÔN
Phàm bói là đạo thông với thần minh, vì thế đoán hung cát, quyết định điều lo lắng nghi ngờ, do ở hòa tương âm dương, sự biến hóa linh diệu. Nên nghĩa thì rất tinh mà việc thì rất lớn lao. Thánh Kinh có nói: "hết sức chí thành thì có thể biết trước sự việc". Nên người xem bói không thành thì chẳng đúng. Người đoán nói ẩu thì chẳng linh. Đó là hai điều cần biết. - Mọi khi thấy người đời cần việc thì bói mà một chữ Thành chẳng hiểu. Có kẻ thì rượu chè be bét, có kẻ thì tà dâm chẳng tinh khiết, đến lúc cần kíp cầu khẩn cần cảm ứng với thần minh, thì sao cảm được. Lại có kẻ giàu có xem nhẹ chuyện bói nhờ bạn bè hoặc nô bộc bói hộ mà người xem chẳng thực lòng cho nên bói chẳng ứng, chiêm nghiệm chẳng linh, liền kết tội ở người bói mà chẳng tự biết lòng mình chẳng thành. Điều này hết sức đòi hỏi ở người thầy bói. L ại có kẻ làm thầy bói hiếu lợi, dụng bói đề đánh lừa, như kẻ bệnh tật cần bói tuy chẳng phải là việc lớn, mà táng tận lương tâm, cấu kết với tăng ni, đạo quan, định lễ vật cúng cấp phiền toái, hoặc đoán bậy vì lợi, xem người đến bói giàu nghèo mà đoán bậy lúc nhiều lúc ít, rồi tùy chùa, tùy đạo quan, tùy am bắt thế này thế nọ, tụng kinh ra sao, người đi bói đâm hoang mang chẳng bếit dựa vào đâu. Với người giàu có phì tổn thì dễ, người nghèo khó lắm lúc phải nợ nần, bán đồ bán đạc. Rồi khi bệnh lành thì bảo là đủ lễ vật, bệnh nhânchết lại bảo tụng kinh này nọ không đủ, mà khi chết rồi thì có ích gì. Đó là cái hại của tăng, đạo. Lại có kẻ mới học về y, mạch lý, chưa rõ mà cứ hỏi họ tên nơi ở của người bệnh để cáo mà tiến cử, mà nào biết người bói chẳng đủ sức lo lễ vật, đó là cái hại của bọn lang băm. - Đó là cái hại mà đâu đâu cũng có. Ta từ khi buông rèm xem bói không mê hoặc, không vọng đoán, xem xét đoán quẻ và xem kỹ càng, không gì không ứng, đó không phải là cái học chẳng tinh mà đoán bậy. Vậy nay học đã khá tinh, nên viết sách Bốc Phệ Chính Tông, xin người cao minh chỉ bảo. Chỉ sợ con người đi xem bói lòng chẳng thành nên chẳng đúng, nên đoán chẳng linh nghệm mà thôi. Nên thành tâm là đầu vậy.  Nên người xem bói không thành thì chẳng đúng. Người đoán nói ẩu thì chẳng linh. Đó là hai điều cần biết. - Mọi khi thấy người đời cần việc thì bói mà một chữ Thành chẳng hiểu. Có kẻ thì rượu chè be bét, có kẻ thì tà dâm chẳng tinh khiết, đến lúc cần kíp cầu khẩn cần cảm ứng với thần minh, thì sao cảm được. Lại có kẻ giàu có xem nhẹ chuyện bói nhờ bạn bè hoặc nô bộc bói hộ mà người xem chẳng thực lòng cho nên bói chẳng ứng, chiêm nghiệm chẳng linh, liền kết tội ở người bói mà chẳng tự biết lòng mình chẳng thành. Điều này hết sức đòi hỏi ở người thầy bói. L ại có kẻ làm thầy bói hiếu lợi, dụng bói đề đánh lừa, như kẻ bệnh tật cần bói tuy chẳng phải là việc lớn, mà táng tận lương tâm, cấu kết với tăng ni, đạo quan, định lễ vật cúng cấp phiền toái, hoặc đoán bậy vì lợi, xem người đến bói giàu nghèo mà đoán bậy lúc nhiều lúc ít, rồi tùy chùa, tùy đạo quan, tùy am bắt thế này thế nọ, tụng kinh ra sao, người đi bói đâm hoang mang chẳng bếit dựa vào đâu. Với người giàu có phì tổn thì dễ, người nghèo khó lắm lúc phải nợ nần, bán đồ bán đạc. Rồi khi bệnh lành thì bảo là đủ lễ vật, bệnh nhânchết lại bảo tụng kinh này nọ không đủ, mà khi chết rồi thì có ích gì. Đó là cái hại của tăng, đạo. Lại có kẻ mới học về y, mạch lý, chưa rõ mà cứ hỏi họ tên nơi ở của người bệnh để cáo mà tiến cử, mà nào biết người bói chẳng đủ sức lo lễ vật, đó là cái hại của bọn lang băm. - Đó là cái hại mà đâu đâu cũng có. Ta từ khi buông rèm xem bói không mê hoặc, không vọng đoán, xem xét đoán quẻ và xem kỹ càng, không gì không ứng, đó không phải là cái học chẳng tinh mà đoán bậy. Vậy nay học đã khá tinh, nên viết sách Bốc Phệ Chính Tông, xin người cao minh chỉ bảo. Chỉ sợ con người đi xem bói lòng chẳng thành nên chẳng đúng, nên đoán chẳng linh nghệm mà thôi. Nên thành tâm là đầu vậy. Dịch giả: Vĩnh Cao