Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

14 Ngày Kinh Hoàng

"Trờ chơi tử thần" cuối cùng cũng đến hồi kết. Một phụ nữ ăn trộm trong siêu thị, bị nhân viên cửa hàng tóm được. Ông chủ thương tình giữ cô ta ở lại làm việc, nhưng dần phát hiện cô có nhiều điều khó hiểu. Một ngôi nhà ẩn trong rừng sâu, một đứa "con gái" bí ẩn... Ông chủ tìm cách tiếp cận mới biết cô cất giấu một bí mật kinh hoàng. Một nhà phê bình ẩm thực tiếng tăm tình cơ được thường thức một món ăn bí mật mà ông đã nếm từ hàng chục năm trước. Để tìm ra sự thật về món ăn này, ông bắt đầu bí mật điều tra và đã phát hiện ra một sự thật ghê rợn... Người kể câu chuyện trong buổi tối thứ mười ba là Chris. Cậu ta nói câu chuyện của mình là câu chuyện đặc biệt, cần sự tương tác của mọi người. Hơn nữa, dựa vào biểu hiện của mọi người trong quá trình tham gia, cậu ta có thể đoán được ai là "người tổ chức". Câu chuyện của cậu ta liệu có "công hiệu" như những gì mình nói? Nam Thiên – người cuối cùng sẽ kể câu chuyện như thế nào? Liệu có điều gì khiến tất cả mọi người đều phải bất ngờ? Ai sẽ là người chiến thắng trong trò chơi này? Thân phận thật sự của "người tổ chức" có được phá giải? Tất cả sẽ được giải đáp vào buổi tối thứ mười bốn. *** 14 ngày kinh hoàng – Ninh Hàng Nhất : cái kết đặc sắc Người tổ chức cuối cùng cũng lộ diện sau 14 ngày kinh hoàng. Ninh Hàng Nhất đã rất thành công khi thổi một luồng gió mới vào thể loại trinh thám cổ điển. Sau 4 tập truyện trinh thám gồm 1 câu chuyện chính dẫn dắt nhân vật và 14 câu chuyện nhỏ, tập 5 của cuốn tiểu thuyết 1/14 này mang tên 14 ngày kinh hoàng cuối cùng cũng đã phần nào làm hài lòng ngay cả những độc giả khó tính nhất. Câu chuyện của Nam Thiên Tạm thời bỏ qua 2 câu chuyện nhỏ như 11 câu chuyện trước đó. Câu chuyện của Sa Gia và Chris, suy cho cùng cũng chỉ làm cho bữa điểm tâm của câu chuyện cuối cùng của Nam Thiên thêm đặc sắc mà thôi. Bởi vì suy cho cùng, sau câu chuyện của Nam Thiên, người tổ chức sẽ lộ diện. Vậy hắn là ai? Sau khi kể xong câu chuyện của mình, Nam Thiên đã dùng một thủ thuật nhỏ, và qua đó biết được chân tướng của người tổ chức. Tất cả đều bàng hoàng Nhưng với Ninh Hàng Nhất, như vậy là chưa đủ để thách thức những người có chỉ số IQ trên 150. Ông liên tục tạo ra bất ngờ này đến bất ngờ khác. Và cuối cùng thì mọi việc mới vỡ lẽ. 14 người, cuối cùng chỉ có 2 người chết. Người tổ chức ra đầu thú với cảnh sát. Mọi chuyện đã kết thúc như vậy. Nhưng phần Vĩ thanh lại mở ra một câu chuyện mới, đứng đằng sau giật dây Người tổ chức, lại là một Mr Robot với thương hiệu “Kẻ nhắc tuồng”. Hy vọng trong tương lai sẽ xuất hiện thêm một tiểu thuyết 1/14 kế tiếp, và nhân vật kẻ nhắc tuồng này lại tiếp tục con đường của mình. Đối với hắn, Trò chơi tử thần mà hắn vạch ra xuyên suốt 14 ngày kinh hoàng này chính là một trò chơi, không hơn không kém. Đỉnh cao của trinh thám cổ điển Nhắc tới trinh thám cổ điển là nhắc tới những tiểu thuyết trinh thám mà tại đó, không dựa vào pháp y, không dựa vào dấu vân tay, nhóm máu, dấu chân…để điều tra ra chân tướng hung thủ. Hầu hết truyện trinh thám cổ điển đều phải dựa vào suy luận và sự thông minh của thám tử để tìm ra chân tướng. Ngày nay với sự hiện đại của công nghệ, đặc biệt là ứng dụng trong việc tìm ra thời gian tử vong, dựa vào dấu chân để tra ra chiều cao hung thủ…và nhiều thứ khác nữa, việc phá án đã đơn giản đi rất nhiều. Bởi vậy, để tạo ra một tiểu thuyết trinh thám cổ điển, nơi chỉ số IQ và suy luận logic lên ngôi, thì bối cảnh mà các tác giả tiểu thuyết trinh thám thường chọn là thời trung đại, hoặc các khu vực khép kín. 10 người da đen nhỏ của Agatha Christine cũng lấy bối cảnh là đảo hoang. Tokyo Hoàng đạo án thì là một vụ án của 40 năm về trước. Các bối cảnh trong truyện trinh thám Kindaichi cũng tập trung cho những địa điểm biệt lập với thế giới bên ngoài. Và Ninh Hàng Nhất cũng không ngoại lệ khi tạo ra một buồng giam 14 người trong 14 ngày, bắt họ tham gia trò chơi tử thần này. Sau khi cái kết được tiết lộ, những fan hâm mộ trung thành của truyện trinh thám cổ điển sẽ phần nào thỏa mãn, đặc biệt là lý giải logic được những “hạt sạn” trong tập 4 (Người thừa thứ 14-đã được reviewsach.net giới thiệu cách đây ít lâu). Những điểm cộng và điểm trừ của tập truyện 14 câu chuyện nhỏ được gắn kết lại xuyên suốt một câu chuyện lớn. Đó chính là tài năng của người kể chuyện. Trong 14 câu chuyện đó, có chuyện hay, có chuyện dở. Có kinh dị, có trinh thám, có bí ẩn, có hư cấu, có giả tưởng. Là một nổi lẩu thập cẩm gia vị đầy đủ, những kiến thức từ kinh tế, xã hội, tôn giáo, tri thức nhân loại cũng được tác giả vận dụng và khéo léo kết hợp hết sức tài tình. Nếu tách riêng 14 câu chuyện riêng lẻ ra, chắc hẳn không nhận được nhiều sự quan tâm lớn đến vậy. Điểm trừ là 14 câu chuyện quá dài, giống như Nghìn lẻ một đêm. Giọng văn trầm ổn, không tạo ra sự đáng sợ, hồi hộp và cuốn hút mặc dù một số đoạn có gắn mác kinh dị. Có lẽ ngay từ đầu, tác giả nên chọn 7 câu chuyện, làm thành tiểu thuyết 1/7 thì hơn. Để tình tiết trôi nhanh hơn, làm cho độc giả nghẹt thở, chỉ có vậy mới xứng danh là một cuốn tiểu thuyết trinh thám hàng đầu.  Nhưng nếu ít người như vậy thì Người tổ chức sẽ nhanh chóng bị nhận diện. Thông điệp từ tác giả thông qua cuốn tiểu thuyết Không phải ngẫu nhiên mà Trò chơi tử thần được ngẫu nhiên xuất hiện. Nhân quả thường đến muộn, làm nhiều người tưởng rằng không có báo ứng. Thông qua cuốn tiểu thuyết, người đọc ngoài được trổ tài phá án, còn biết cách để sống lương thiện hơn. Sẽ không có 14 ngày kinh hoàng của những tiểu thuyết gia lừng danh nếu như ngày đó, không có một cuốn tiểu thuyết trinh thám đỉnh cao bị đạo văn. Mở rộng ra trong cuộc sống, kiếm tiền chân chính vẫn là an toàn nhất cho chính mình, cho lương tâm thanh thản và an nhàn. Một cách khách quan nhất, nếu bạn là một fan hâm mộ truyện trinh thám không dễ đầu hàng trước những câu hỏi logic hack não, thì tiểu thuyết 1/14 nói chung và 14 ngày kinh hoàng nói riêng vẫn là một câu chuyện đáng giá. *** Tác giả Ninh Hàng Nhất tên thật là Ninh Hàng, là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết trinh thám kinh dị. Anh bắt đầu nghiệp viết từ năm 1999, tới nay đã là một tay bút chuyên nghiệp kiêm biên kịch phim. Tác phẩm của anh được đăng trên nhiều các tạp chí, trang mạng lớn của Trung Quốc, còn được dịch và đăng trên các tạp chí ngoại văn. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến “Tiếng đêm”, “Hẹn với thần chết”, “Chuyến đi sống còn”, “Lời nguyền ngày tận thế”. Ninh Hàng Nhất được đánh giá là cây đại thụ trong làng tiểu thuyết trinh thám mới, là “Alfred Hitchcock” của Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết trinh thám 1/14 Trò chơi tử thần gồm có 5 tập hiện đã được xuất bản xong tại Việt Nam, đã được khá nhiều độc giả Việt đón nhận, được đánh giá là bộ tiểu thuyết trinh thám xen lẫn kinh dị gây tiếng vang lớn. Trò chơi cấm là một trong những cuốn series trinh thám mới nhất của tác giả này được xuất bản tại Việt Nam.   Bộ 1/14 gồm có: Trò Chơi Tử Thần Khách Trọ Và Xác Sống Lời Cảnh Báo Người Thừa Thứ 14 14 Ngày Kinh Hoàng *** "T hông qua sự kiện vừa rồi, tôi gần như đã biết ‘người tổ chức’ là ai.” Câu nói này khiến mọi người sửng sốt. Mười một nhà văn đều trợn tròn mắt nhìn về phía thiếu niên thiên tài Chris. Sao cơ? Nam Thiên thấy vô cùng kinh ngạc. Những lời của Chris là thật sao? Hôm nay, là ngày thứ mười mọi người bị nhốt ở đây, câu đố đã được giải rồi sao? Rõ ràng tất cả đều nghĩ như thế thật. Ám Hỏa vội hỏi, “Là ai?” Chris vẫn giữ nguyên vẻ bí hiểm vốn có của mình, nhưng lần này cậu ta không cười, vẻ mặt rất nghiêm túc nói, “Đại để là trong lòng tôi đã rõ nhưng chưa có chứng cứ. Nếu giờ nói ra, e rằng người đó sẽ không thừa nhận.” Cậu ta dừng lại một chút rồi tiếp, “Vì vậy, tôi nghĩ ra một cách...” Chris không nói tiếp, có thể vì cậu ta chưa nghĩ xong “cách” đó là gì, cũng có thể vì không muốn cho “người tổ chức” còn đang ẩn mình trong đám đông biết được kế hoạch. Vẻ mặt cậu ta vô cùng nghiêm túc, chưa bao giờ thấy cậu ta tỏ ra như vậy. Mọi người cũng không tiện hỏi nữa. Một lúc sau Bắc Đẩu mới lên tiếng, “Chúng ta nên cho điểm câu chuyện Quay về của Hoang Mộc Chu tiên sinh không nhỉ?” Lake lẩm bẩm, “Nếu anh ấy đã phạm luật thì việc cho điểm chẳng còn ý nghĩa gì nữa...” Anh ta nói rất nhỏ, nhưng vẫn bị Hoang Mộc Chu thính tai nghe thấy. Nhà văn lớn giận dữ nói, “Tôi không muốn tranh luận với mọi người về vấn đề tôi có phạm luật hay không! Hãy để cho ‘người tổ chức’đáng chết ấy phán xét! Dù thế nào thì câu chuyện mà tôi vất vả nghĩ ra cũng không thể không có điểm!” “Tôi tán thành!” Hạ Hầu Thân nói, “Vấn đề phạm luật sẽ do ‘người tổ chức’ quyết định, còn chúng ta phải cho điểm câu chuyện của mỗi người.” Bắc Đẩu đứng dậy chuẩn bị đi về phía tủ. Trước giờ cậu ta luôn phụ trách việc lấy giấy bút. Nhưng lần này Goth gọi với cậu ta lại, nói, “Lần nào cũng là cậu lấy, để tôi thay.” Bắc Đẩu ngây người, “vâng” một tiếng rồi ngồi xuống. Goth đi về phía tủ, mang ra một nắm bút và tập giấy rồi chia cho mọi người. Trừ Hoang Mộc Chu, mười một người khác đều viết một con số lên giấy. Goth lại thu giấy về, đưa cho Nam Thiên và Long Mã tính điểm bình quân. Quay về của Hoang Mộc Chu cuối cùng được 9,1 điểm, cũng coi là cao, song không vượt qua được con số 9,2 điểm cho câu chuyện Bí mật của Do Nông mà Bắc Đẩu kể. Hoang Mộc Chu “hừ” một tiếng, rõ ràng việc một nhà văn lớn, một tiền bối trên văn đàn như ông ta lại thua một cậu nhóc chẳng có tên tuổi quả là rất mất thể diện. Ông ta không giấu được vẻ khó chịu và bất mãn của mình, nhưng không thể nói được gì, nên lặng lẽ đứng dậy đi về phía căn phòng của mình trên gác. Hoang Mộc Chu là nhân vật chính của buổi tối thứ mười, ông ta rời khỏi thì những người khác cũng chẳng còn có lý do gì để ở lại căn phòng lớn, nên mọi người cũng lần lượt trở về phòng mình. Sa Gia và Nam Thiên đi sau cùng. Sa Gia tỏ ra lo lắng, Nam Thiên hỏi, “Cô sao vậy?” “Ngày mai đến lượt tôi kể rồi.” Sa Gia nói với vẻ bất an, “Câu chuyện tôi nghĩ ra có điểm giống với câu chuyện của Hoang Mộc Chu, bây giờ rõ ràng là không dùng được nữa rồi. Tôi còn chưa đầy một ngày để nghĩ ra câu chuyện mới...” “Không sao đâu, mười mấy tiếng chắc cũng nghĩ ra câu chuyện mới thôi.” Nam Thiên an ủi. “Nhưng, đã có mười câu chuyện được kể rồi.” Sa Gia vẫn nói với vẻ lo lắng, “Đã có nhiều chủ đề được dùng đến, tôi thấy rất khó để nghĩ ra cái gì mà kể...” Đúng vậy, Nam Thiên rất hiểu. Luật của trò chơi này là: chuyện kể sau tuyệt đối không được giống câu chuyện kể trước từ cấu tứ cho đến tình tiết, đó là thách thức rất lớn cho những người kể sau. Ý tưởng sáng tạo không là vô hạn, càng về cuối đề tài càng hạn hẹp. Nhìn dáng vẻ lo lắng, sầu muộn của Sa Gia, Nam Thiên rất muốn giúp cô. Anh suy nghĩ một lúc rồi nói, “Tôi có một kinh nghiệm xây dựng cốt truyện có thể chia sẻ với cô.” “Thật à, mau nói cho tôi biết đi!” Sa Gia vội vã nói. Nam Thiên nói, “Những lúc không tìm được cảm hứng để sáng tác, tôi thường tìm cách soi lại bản thân. Mỗi chúng ta, khẳng định là đều trải qua một số chuyện để lại ấn tượng sâu sắc, tất nhiên, những sự việc đó chỉ là những mảnh vụn trong cuộc sống, không thể nào tạo thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nhưng chúng ta có thể cải biên, thêm thắt chi tiết, từ đó có thể tạo ra một câu chuyện rất hay.” “Lấy cơ sở là những trải nghiệm của bản thân...” Sa Gia ngẫm nghĩ về những điều Nam Thiên nói, “Trước nay tôi chưa thử bao giờ.” “Vậy cô hãy thử đi!” Nam Thiên nói, “Điểm hay của cách này là, vì câu chuyện có xuất phát điểm từ những trải nghiệm của bản thân cho nên rất dễ tìm thấy cảm giác, hơn nữa, câu chuyện được xây dựng nên thường cho cảm giác chân thực hơn nhiều so với sự hư cấu thuần túy.” “Được, tôi sẽ thử.” Sa Gia gật đầu nói, “Cảm ơn anh, Nam Thiên!” “Không có gì. Hi vọng là cô sẽ nghĩ ra một câu chuyện hay.” Nam Thiên nói với vẻ chân thành, anh nhìn đồng hồ điện tử trên cổ tay, “Không còn sớm nữa, hãy nghỉ ngơi đi, đóng chặt cửa vào, chú ý an toàn nhé!” “Vâng, anh cũng thế nhé.” Sa Gia đỏ mặt nói. Họ trở về phòng của mình, khóa cửa lại. Nam Thiên thấy mệt rã rời, lên giường mấy phút sau đã ngủ say. Sáng hôm sau, mọi người lại lấy đồ ăn từ trong tủ ở căn phòng lớn tầng một làm đồ ăn sáng. Trước lúc mọi người tản ra, Long Mã ho một tiếng, nói, “Ồ, có chuyện này, tôi không thể không nói với các vị.” Mọi người nhìn về phía ông ta. Thiên Thu hỏi, “Chuyện gì?” “Là thế này”, Long Mã nói, “sau khi tôi nghe câu chuyện Quay về của Hoang Mộc Chu tiên sinh kể tối qua, tôi bỗng thấy được gợi ý.” Hoang Mộc Chu nhướng mày, chăm chú nhìn Long Mã. Long Mã nói tiếp, “Trong câu chuyện đó, cậu bé Hạ Thanh có rất nhiều điểm giống với ma quỷ1. Điều đó khiến tôi bất giác nghĩ tới hiện thực trước mắt, mười bốn người chúng ta, mà thực ra là mười ba nhà văn bị ‘người tổ chức’ giấu mặt ‘mời’ đến, liệu cũng có những điểm giống nhau nào đó không?” 1 Xem Quay về do Hoang Mộc Chu kể trong Người thừa thứ 14. Câu nói này của Long Mã khiến mọi người đều ngây ra. Lát sau, Bắc Đẩu nói, “Tôi nhớ, vào ngày đầu tiên, ‘người tổ chức’ đã nói, hắn lựa chọn chúng ta vì trong mắt hắn, chúng ta là mười bốn nhà văn viết truyện trinh thám kinh dị ưu tú nhất.” “Đúng thế, có vẻ cậu còn thấy vui vì cũng được dính một tí vào trong đó.” Thiên Thu châm biếm. Bắc Đẩu gãi đầu, tỏ ra ngượng ngùng. Long Mã nhíu mày, lắc đầu, nói, “Người ấy nói như vậy, nhưng lúc đó chúng ta cũng không nghiên cứu kĩ vấn đề này, bây giờ nghĩ lại thì thấy, đó có thể là một cái cớ.” “Anh cho rằng chuyện không đơn giản như vậy, và trong đó còn có nguyên nhân sâu xa hơn?” Goth hỏi. “Đúng thế.” Long Mã nói, “Hơn nữa, tôi cho rằng, tìm ra điểm giống nhau sẽ là mấu chốt vạch rõ thân phận của ‘người tổ chức’.” “Anh dựa vào đâu mà cho là như vậy?” Long Mã phân tích, “Thực ra, tôi đã thấy ngay cách nói ấy có phần khiên cưỡng. Khách quan mà nói, mười bốn người chúng ta được ‘mời’ đến đây là những nhà văn viết truyện trinh thám kinh dị ưu tú nhất nước, thông qua thực lực của những người đã kể chuyện có thể chứng minh rõ điều này. Nhưng e rằng, không thể nói ngoài chúng ta thì không thể tìm ra người khác nữa. Trong số bạn bè của tôi, nhiều tác giả rất có thực lực, tại sao họ lại không trong số này? Những người tham gia trò chơi này, tại sao chỉ là mười bốn? Con số 14 liệu có phải ẩn chứa một hàm nghĩa đặc biệt nào không?” Những lời của Long Mã không khỏi khiến mọi người suy nghĩ. Một lát sau, Ám Hỏa nói, “Đúng vậy, vẫn còn có những nhà văn viết trinh thám kinh dị đỉnh hơn nữa, tại sao lại chỉ có chúng ta được ‘mời’ đến? E là có điều gì đó thật.” “Nói vậy vẫn có rất nhiều điểm nghi vấn.” Hạ Hầu Thân phân tích, “Thực ra, ngay từ đầu tôi cũng thấy ngạc nhiên.” Anh ta nhìn về phía thiên tài trẻ tuổi, “Chris cũng trong số đó. Nghĩ mà xem, cậu ấy là Hoa kiều sống ở nước ngoài thế mà cũng bị cuốn vào sự kiện này. Nhà văn viết trinh thám kinh dị xuất sắc là người Hoa trên thế giới này lại càng nhiều, và như vậy càng không có lý do để chọn mười bốn người chúng ta tới đây.” “Khả năng của ‘người tổ chức’ có hạn, không thể có được bản lĩnh thông thiên để có thể bắt tất cả những người như vậy trên thế giới về đây.” Lake nói. “Vậy Chris đã được đưa đến đây như thế nào?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Anh quên rồi à?” Lake nhắc, “Chris nói, cách mà cậu ấy đến đây không giống chúng ta. Cậu ấy không phải bị làm cho mê man rồi mới đưa đến, mà trong trạng thái tỉnh táo.” “Đúng vậy.” Lúc này Hạ Hầu Thân mới nhớ ra, ông ta nhìn Chris, “Bây giờ cậu vẫn không định nói cho chúng tôi biết rốt cuộc cậu đến đây như thế nào à?” “Tôi đã nói rồi, đó là chuyện của tôi, bây giờ không thể nói được.” Chris bình thản nói, “Hình như chúng ta đã chuyển chủ đề câu chuyện rồi, nên quay lại vấn đề đang nói trước đó đi: rốt cuộc chúng ta có điểm gì giống nhau? Tôi cũng rất hứng thú với điều này.” “Chúng ta có thể nghĩ từ nhiều góc độ.” Long Mã nói, “Mười bốn người chúng ta đều có thể có những điểm giao nhau.” Hạ Hầu Thân nghĩ một chút, nói, “Tôi sống ở thành phố S, còn mọi người?” “Anh muốn xem xem chúng ta có phải là người cùng thành phố không?” Long Mã đã hiểu ra, “Tôi cũng là người thành phố S và sống ở thành phố S.” “Còn có ai sống ở thành phố S nữa không?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Tôi.” Nam Thiên nói. Goth cũng giơ tay, ý nói anh ta cũng như vậy. “Chỉ có bốn chúng tôi ở nơi này?” Hạ Hầu Thân thống kê, “Tôi, Long Mã, Goth và Nam Thiên. Thế còn mọi người?” Ông ta hỏi những người khác. Mọi người lần lượt nói về nơi ở của mình, ngoài Chris và Thiên Thu ra, còn lại cơ bản ở những thành phố không xa thành phố S là mấy. Chris dường như đã nghĩ ra manh mối, “Đối tượng mà ‘người tổ chức’ ‘mời’ đến có lẽ trung tâm là thành phố S!” “Điều này không thể coi là phát hiện lớn gì.” Bạch Kình cười méo mó, “S là thành phố lớn, các thành phố xung quanh cơ bản cũng là những khu vực phát triển. Các tác giả viết trinh thám kinh dị của nước ta vốn dĩ rất nhiều người tập trung tại khu vực này, huống chi Chris sống ở Mỹ, Thiên Thu ở thành phố B cách đây rất xa. À, phải rồi, lại còn cả Uất Trì Thành và Từ Văn đã chết nữa, có lẽ họ cũng là người ở gần thành phố S?” Xem ra, ở cùng một khu vực không thể trở thành điểm chung rồi. Đám đông lại chìm trong suy nghĩ, một lát sau, Ám Hỏa lên tiếng, “Trước đây, chúng ta có từng viết về cùng một đề tài không?” “Không thể có.” Chris phủ định quả quyết, “Tôi đã đọc sách của nhiều người trong chúng ta, đề tài, nội dung đều rất khác nhau. Huống chi nếu cả mười bốn người cùng viết về một đề tài thì truyền thông sẽ phải lên tiếng và chúng ta làm sao mà không biết?” “Vậy thì... Liệu chúng ta có từng xuất hiện trong cùng một hoàn cảnh không?” Sa Gia thăm dò, “Ví dụ như họp báo hoặc trong buổi họp các nhà văn.” “Mấy năm trước hầu như tôi đều ở Mỹ.” Chris tiếp tục phủ định khả năng này. Không khí trong căn phòng lớn lại lắng xuống, hầu như mọi người không tìm được khả năng gì nữa. Nam Thiên nhíu chặt mày, ra sức nghĩ, thế rồi trong đầu lóe lên một ý nghĩ, không kịp cân nhắc, anh nói luôn, “Liệu có phải mười bốn chúng ta đều quen một ai đó không?” Mọi người lại ngây ra. Long Mã nói, “Ý anh là, bản thân mười bốn chúng ta có thể không có điểm giao nhau, nhưng chúng ta cùng quen một người, nên đã gián tiếp khiến mười bốn người chúng ta có mối liên hệ?” “Phải, đúng là ý đó.” Nam Thiên nói. “Sao anh lại nghĩ vậy?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Không biết, đột nhiên nảy ra ý nghĩ đó.” Nam Thiên nói. “Khả năng này đúng là rất có thể...” Lake chau mày, nói với vẻ suy nghĩ, “Nhưng, làm thế nào để kiểm chứng điều này? Bạn bè, đồng nghiệp của mỗi người chưa kể bạn trên mạng, cũng phải mấy trăm người? Không lẽ chúng ta viết hết tên của họ ra rồi đối chiếu từng người một xem có cùng quen không? Như vậy sẽ rất khó khăn.” “Đúng thế.” Bạch Kình nói, “Hơn nữa, còn có một vấn đề, đó là ‘người tổ chức’ ở lẫn trong chúng ta sẽ không phối hợp làm việc đó, thêm nữa là Uất Trì Thành và Từ Văn đã chết thì sao mà biết được. Cho nên, chúng ta không thể đưa ra kết luận được.” Nghe Bạch Kình nói vậy, mọi người có vẻ ỉu xìu. Lúc đó Sa Gia nhìn Nam Thiên, hỏi, “Nam Thiên, anh thấy thế nào?” Nam Thiên trầm ngâm giây lát rồi nói, “Tôi có cảm giác, người mà chúng ta cùng quen đó đã khiến cho mười bốn chúng ta làm cùng một việc trong cùng một thời gian, và chúng ta không biết rằng đã từng làm cùng một việc.” “Ồ...” Thiên Thu bỗng nhiên khẽ thốt lên, sắc mặt lập tức trắng nhợt, Ám Hỏa đứng bên hỏi, “Cô sao thế? Nghĩ ra chuyện gì à?” “Không... không phải.” Thiên Thu cúi đầu, nói, “Tôi chỉ... bỗng thấy sợ trước những lời của Nam Thiên, cảm thấy ớn lạnh.” Hoang Mộc Chu nheo mắt, nói, “Lời của cậu ấy đáng sợ ư? Nếu trong lòng cô không có điều gì ám muội thì sao phải sợ?” Thiên Thu lấy lại tinh thần, hai tay khoanh trước ngực, nói với vẻ coi thường, “Trong lòng tôi thì có điều gì mà ám muội? Đó chỉ là thói quen của những nhà văn viết trinh thám kinh dị, liên tưởng tới một số sự việc đáng sợ và giàu kịch tính mà thôi.” Căn phòng lắng xuống một lúc. Hạ Hầu Thân thở dài, “Xem chừng, tất cả chỉ là suy đoán, không thể rút ra kết luận được.” “Không hẳn, nếu đúng như lời Nam Thiên, thì ít ra chúng ta cũng có hướng để suy nghĩ.” Long Mã nói, “Vẫn còn bốn ngày nữa, biết đâu một trong số chúng ta sẽ nghĩ ra được điều gì.” Nhắc đến vấn đề thời gian, Sa Gia lộ rõ vẻ lo lắng. Cô đứng dậy, nói, “Tối nay đến lượt tôi kể chuyện rồi, tôi phải về phòng chuẩn bị đây.” Nói xong cô rời căn phòng lớn và đi lên gác. Những người khác cũng lần lượt rời khỏi đó. Nam Thiên đứng nguyên tại chỗ, nhíu mày nhăn trán suy nghĩ về gợi ý mà mình vừa mới đưa ra. Anh không hiểu tại sao đầu óc mình bỗng dưng lại lóe ra ý nghĩ ấy, không lẽ tiềm thức đang nhắc anh có một việc nào đó mà anh đã từng làm trong quá khứ có mối liên quan đến sự kiện này? Nhưng, những việc anh trải qua quá nhiều, rốt cuộc là sự việc gì, anh vắt óc cũng không sao nghĩ ra. 7 giờ tối, một lần nữa mọi người lại tập trung ở căn phòng lớn, mỗi người một chiếc ghế da và xếp thành một vòng tròn. Trò chơi của buổi tối hôm nay đã bắt đầu. Sa Gia là nhân vật chính của tối nay. Nam Thiên ngồi cạnh cô, khẽ hỏi, “Đã nghĩ xong câu chuyện chưa?” “Rồi.” Sa Gia gật đầu, khẽ nói, “May mà có anh gợi ý.” “Cô dùng những điều mà chính bản thân đã trải qua thật à...” “Nghe xong rồi hãy nói.” Má Sa Gia thoáng đỏ, “Tóm lại là một câu chuyện đặc sắc khác thường, hơn tất cả những tác phẩm của tôi trước đây.” Hạ Hầu Thân ngồi đối diện nhìn đồng hồ, nói, “Hai người đừng thì thầm nữa, đến giờ rồi đấy!” “Vâng.” Sa Gia quay mặt về phía đám đông, cao giọng, “Tôi bắt đầu kể. Tên của câu chuyện này là Quái thai.” Mời các bạn đón đọc 14 Ngày Kinh Hoàng của tác giả Ninh Hàng Nhất.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bánh Xe Nghiệt Ngã
Tiểu thuyết “BÁNH XE NGHIỆT NGÔ của tác giả PHI TRƯỜNG đưa bạn đọc đi sâu vào một cơ sở sản xuất của nền công nghiệp hiện đại Hoa Kỳ, hé cho ta thấy bí quyết thành công của nó : những giám đốc năng nổ, tháo vát làm việc mười hai mười bốn tiếng một ngày, những kỹ sư tận tụy yêu nghề luôn tìm cách ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất để nâng cao chất lượng sản phấm, tổ chức lao động chặt chẽ trong nhà máy mẹ kết hợp với hệ thống xí nghiệp vệ tinh qui tụ những tay nghề cao, bộ máy quảng cáo và dịch vụ thương mại rộng khắp thuận tiện cho người tiêu dùng… Đồng thời tác giả cũng phanh phui những mâu thuẫn đang ngáng trở nền sản xuất lớn tư bản. Chủ nghĩa phát triển thậm chí có nguy cơ sa sút : sự cạnh tranh tàn nhẫn giữa các công ti cá mập, nạn ô nhiễm môi trường sống, tệ phân biệt chủng tộc và nạn mafia có mặt khắp nơi dùng khủng bố tàn bạo để bòn rút công nhân, số đông người lao động bần cùng nổi giận… Qua câu chuyên xoay quanh một nhà máy sản xuất ôtô lớn với nhiều gương mặt rất khác nhau, chủ tịch công ty, quản đốc phân xưởng, công nhân bình thường, da trắng và da đen, những cặp vợ chồng chung thủy và những cô nhân tình quí phái… bạn đọc có thể cảm nhận được ánh hào quang kỳ diệu nhưng đầy lo lắng của một hình thái kinh tế xã hội đang tìm cách thích nghi để tồn tại. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như: Bản Tin Chiều Lời Chẩn Đoán Cuối Cùng Phi Trường Tập 1 Phi Trường Tập 2 Nhà Băng Khách Sạn Phi Trường (Người dịch: DgHien) Bánh Xe Nghiệt Ngã ... *** Chủ tịch hãng Động Cơ Thông Dụng bực mình, cả đêm qua mất ngủ : chiếc chăn điện trở chứng liên tục và mỗi lần như thế ông lại thức giấc vì lạnh. Lúc này vẫn mặc bộ đồ ngủ, choàng áo khoác, ông rón rén đi lục tìm khắp ngôi nhà vắng lặng rồi mang bầy lên nửa còn lại của chiếc giường lớn nhiều thứ dụng cụ đồ nghề, bắt đầu tháo bộ phận điện trong khi Côrali vợ ông vẫn còn ngủ. Ông phát hiện ngay chỗ tiếp xúc kém. Vừa cằn nhằn các tay sản xuất chăn điện làm ẩu, ông mang xuống xưởng riêng dưới hầm để sửa. Người vợ vươn vai. Chỉ vài phút nữa đồng hồ báo thức sẽ đánh chuông. Lúc ấy bà mới dậy lo bữa điểm tâm trong khi vẫn còn ngái ngủ. Ở thị trấn Blumfin Hin cách Đitơroi mười lăm kilômét này bây giờ vẫn còn tối. Sáng sớm hôm đó chủ tịch hãng ĐCTD, người khô khan, cử chỉ lanh lẹn nhưng bản tính nói chung điềm tĩnh có hai cớ để bực mình : chiếc chăn điện tất nhiên là một, còn một nữa là cách xử sự rất đáng giận của Imơcxơn Vên. Mấy phút trước đây qua chiếc đài bán dẫn đặt trên bàn ngủ mở thầm đủ nghe ông đã nhận ra giọng nói chua ngoa quen thuộc và dễ ghét của nhà “phê phán xe hơi” cỡ lớn này. Bữa qua trong cuộc họp báo ở Oasinhtơn một lần nữa Imơcxơn Vên lại công kích ba người đáng ghét nhất xưa nay của lão : Động Cơ Thông Dụng, Fo và Craixlơ. Lên án ba ông Lớn về tội “tham lam, tụ tập bè đảng lưu manh, bội tín, cưỡng đoạt tiền của dân chúng”. Vì ba Ông Lớn đã hoàn toàn thỏa thuận cùng nhau ngăn cản việc phát triển loại xe “sạch sẽ” thay cho xe chạy xăng, loại xe chạy hơi nước hoặc chạy điện là những loại Vên cho rằng “đã sẵn sàng lăn bánh”. Lời buộc tội chẳng có gì mới. Nhưng Vên vốn rất khôn khéo trong sự giao tiếp với công chúng và giới báo chí nên đã lồng vào lời tuyên bố những tư liệu mới làm nó có giá trị thông tin, thu hút được người đọc. Vị chủ tịch hãng công nghiệp lớn nhất thế giới tốt nghiệp kĩ sư một trường nổi tiếng ngồi sửa bộ phận hâm nóng của chiếc chăn điện với niềm vui thích thường thấy khi có thì giờ làm các việc trong gia đình. Rồi ông đi tắm, cạo mặt, bận quần áo, tới dùng bữa sáng với Côrali. Trên bàn ăn có tờ Đitơroi Tự Do. Vừa trông thấy tên và ảnh Imơcxơn Vên in trên trang nhất ông chửi thề và quăng tờ báo xuống đất. Côrali đặt trước mặt chồng các món của bữa điểm tâm theo chế độ “chống tăng côléttêrôn” : bánh mì nướng không phết bơ, lòng trắng một quả trứng luộc, cà chua xắt khoanh, fomát trắng. Sáng nào vợ ông chủ tịch ĐCTD cũng tự tay soạn bữa ăn đầu tiên này và cùng ăn với chồng mặc dầu chồng phải đi làm sớm. Côrali ngồi xuống trước mặt chồng, nhặt tờ báo mở ra và nói : “Theo Imơcxơn Vên, chúng ta đã có đủ trình độ kỹ thuật để đưa người lên mặt trăng hoặc sao Hỏa thì ngành kỹ nghệ xe hơi cũng phải cho ra được loại xe hoàn hảo, không có khuyết điểm gì và không gây ô nhiễm không khí”. Người chồng đặt khăn xuống. “Định làm tôi ăn mất ngon đấy à ? Bữa ăn đã chẳng có gì lại còn…” Người vợ tủm tỉm cười. “Em thấy hình như anh đã hết ngon miệng rồi thì phải ! Ông Vên còn trích dẫn Kinh thánh nói về ô nhiễm nữa cơ. - Lay Chúa Kitô ! Kinh thánh nói gì về cái đó được ! - Không phải Chúa Kitô đâu. Đoạn này trích trong kinh Cựu Ước. - Thì đọc đi vậy. Đằng nào bà cũng định đọc”. Người chồng lầu bầu, vẻ tò mò muốn biết. “Thánh Giêrêmi: Ta cho ngươi tới xứ sở xanh tươi như một khu vườn để các người được ăn những trái quả tươi ngon nhất. Nhưng sau khi đến các người đã làm ô trọc xứ sở của ta, biến gia tài của ta thành thứ ghê tởm.” Bà rót cà phê vào tách. “Em thấy tay ấy viết khá tài tình”. - Chẳng ai cho cái thằng đểu ấy là kém thông minh. Người vợ đọc tiếp. “Ngành kỹ nghệ xe hơi và dầu mỏ đồng tình kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật đáng lẽ từ lâu đã dẫn đến việc phát minh ra xe chạy điện hoặc hơi nước. Lập luận của họ rất đơn giản : loại xe này sẽ biến thành số không toàn bộ khoản tiền khổng lồ đầu tư vào loại động cơ đốt trong đang đầu độc khí quyển”. Bà đặt báo xuống. “Bài này có gì đúng sự thật không ? - Rõ ràng Vên cho tất cả những điều ấy là đúng. - Anh thì không ? - Nhất định không. - Không có một tí nào ? - Đôi khi có thể thoang thoảng tí chút sự thật trong một lời tuyên bố ngoa ngoắt. Chính bằng cách đó mà những kẻ như Imơcxơn làm ra vẻ mình có lý”. Người chồng đáp lại, vẻ bực bội. - Anh sẽ bác bỏ những điều lão nói chứ ? - Có lẽ không. - Sao vậy ? - Vì nếu Động Cơ Thông Dụng nện Imơcxơn, người ta sẽ lên án cái Hãng lớn như thế mà đi đè bẹp một cá nhân tầm thường. Nếu không đập lại thiên hạ cũng sẽ nguyền rủa bọn anh, nhưng dù sao họ không thể trích dẫn lời bọn anh để xuyên tạc. - Sao không để một người nào khác đập lại ? - Nếu có tay nhà báo kha khá nào đó đụng đến Hăngri Fo xem, có lẽ ông ta sẽ trả miếng - ông mỉm cười - có điều là Hăngri sẽ nói toạc móng heo và sẽ không công bố lời ông ta được. - Ở địa vị anh, có lẽ em sẽ nói một cái gì. Tất nhiên nếu em tin chắc mình có lý. - Cám ơn lời khuyên của em. Vị chủ tịch ĐCTD chấm dứt bàn cãi ngồi ăn xong bữa. Nhưng cuộc tranh luận với những lời châm chọc cố tình mà Côrali cho là thỉnh thoảng đưa ra sẽ bổ ích cho ông, đã làm tiêu tan nỗi bực dọc từ sáng. Ông nghe phía ngoài cửa bếp bước chân người hầu gái đang vào. Như vậy là lái xe đón cô ta dọc đường đã về và đang đợi ông dưới kia. Ông đứng lên, ôm hôn vợ. Mấy phút sau, khoảng sáu giờ sáng chiếc Cađilắc chở ông theo đường Têlêgráf đi về phía đường FriUê và khu trung tâm. Vào một sáng tháng mười trong trẻo có từng cơn gió tây bắc báo hiệu mùa đông đang về. Thành phố Đitơroi bang Misigân, thủ đô thế giới của công nghiệp xe hơi bắt đầu tỉnh giấc. Ở Blumfin Hin, cách nhà ông chủ tịch ĐCTD mười phút đi bộ, phó chủ tịch hãng Fo cũng đang sửa soạn ra sân bay Mêtrôpôlitên của thành phố. Ông đã dùng xong bữa sáng, một mình. Người nữ nhân viên phục vụ bưng khay thức ăn vào tận văn phòng chiếu sáng yếu ớt trong đó ông ngồi đọc các bản báo cáo từ năm giờ sáng (phần lớn các báo cáo đều viết trên loại giấy xanh đặc biệt mà văn phòng phó chủ tịch dùng cho các văn kiện về thực hiện đề án mới) và ghi vào băng từ những chỉ thị rõ ràng, chính xác. Gần như ông không ngẩng lên nhìn khi bữa điểm tâm được mang vào và cũng chẳng nhìn xem mình đang ăn gì. Trong có một giờ ông làm xong khối công việc người khác phải làm trong cả một ngày hoặc hơn nữa mới xong. Phần lớn các quyết định xoay quanh việc xây dựng thêm xưởng máy mới hoặc mở rộng những nhà máy hiện có, tốn kém hàng mấy tỉ đô la. Phó chủ tịch ngoài nhiều nhiệm vụ khác, có trách nhiệm phê chuẩn hoặc bác bỏ các đề án được đệ trình và định thứ tự ưu tiên. Hôm có người hỏi ông phê duyệt những khoản lớn như vậy có thấy run tay không, ông đáp lại : “Không, bởi vì bao giờ tôi cũng thầm bỏ bớt ba chữ số cuối. Thành ra cũng không khó hơn khi cân nhắc mua một ngôi nhà”. Câu trả lời rõ ràng, bật ra rất nhanh, nói lên bản lĩnh của người vốn là anh bán xe xoàng xĩnh chỉ trong thời gian kỉ lục đã trở thành một trong mười hai ông chủ có quyền quyết định trong vương quốc xe hơi. Cũng chính cách làm ăn kiểu đó giúp ông trở thành siêu triệu phú. Vấn đề cần xem xét là sự tiến bộ và sự giàu sang có đáng với cái giá phải trả không. Phó chủ tịch làm việc mỗi ngày mười hai có khi mười bốn tiếng, thường là bẩy ngày trong một tuần với nhịp độ dồn dập. Như ngày hôm nay, trong lúc phần đông dân thành phố còn đang ngủ ông đã phải lên máy bay riêng của hãng bay đi NiuYoóc, trong lúc ngồi trên máy bay ông tranh thủ nghiên cứu thị trường với các nhân viên dưới quyền, vừa đến nơi phải chủ tọa ngay cuộc họp với các giám đốc địa phương cũng về vấn đề đó. Cuộc họp vừa xong ông phải tranh cãi gay gắt với hai mươi đại lý bang NiuGiơdi về việc bảo hành và các dịch vụ hậu mãi. Sau dó đến Manhattan dùng bữa trưa với một nhóm chủ ngân hàng, đọc một bài diễn văn. Rồi họp báo, đương đầu với các phóng viên. Buồi trưa trở về Đitơroi cũng bằng chiếc máy bay đó, ông có nhiều cuộc gặp gỡ để giải quyết công việc thường lệ cho đến bữa chiều. Trong ngày, vào một lúc nào đó chưa sắp xếp được, phải đưa đầu cho thợ đến tận nơi cắt tóc. Bữa tối ăn trên sân thượng sẽ được điểm xuyết bằng cuộc trò chuyện với người phụ trách các ban quan trọng về kiểu xe mới. Cuối cùng sẽ đến vĩnh biệt một đồng nghiệp mới từ trần tối qua vì nghẽn động mạch vành, (tại nhà thờ tang lễ Hêminhtơn, một chặng trên con đường đưa các ông Lớn ngành xe hơi tới nghĩa trang Út Lên). Sau tất cả những việc đó cuối cùng phó chủ tịch mới được về nhà ôm theo chiếc cặp căng phồng hồ sơ phải nghiên cứu để chuẩn bị cho ngày mai. Lúc này ông đẩy khay điểm tâm ra xa, thu gom giấy từ rồi đứng lên. Bốn bức tường của phòng làm việc đều có giá xếp đầy sách. Đôi khi, vào những buổi không bận rộn tối tăm mắt mũi như sáng nay ông ném lên chúng một cái nhìn tiếc nuối và thèm muốn. Vì nhiều năm trước đây có một thời ông đọc rất nhiều. Có thể ông đã trở thành sinh viên nếu đời ông đi theo hướng khác. Bây giờ thì không có thì giờ đọc sách nữa. Ngay cả việc đọc tờ báo hàng ngày cũng phải rình chộp thời cơ tranh thủ liếc thật nhanh. Nên ông cầm tờ báo còn nguyên nếp gấp khi nhân viên phục vụ mang tới và nhét luôn vào cặp. Vì thế mãi sau ông mới biết những lời công kích mới nhất của Imơcxơn Vên và nguyền rủa hắn như những người khác trong ngành xe hơi đã nguyền rủa từ sớm. Tại sân bay ban tham mưu cùng đi với ông đã tề tựu trong phòng đợi của đoàn Vận chuyển hàng không Hăngri Fo. Ông ra lệnh giọng khô khan. “Lên đường”. Động cơ chiếc Jết Xta bắt đầu chạy, trong lúc cả đoàn tám người lên máy bay. Những người lên sau chưa kịp đeo dây an toàn máy bay đã lăn bánh. Chỉ những người thường đi máy bay riêng mới thấy rõ cái lợi về tiết kiệm thì giờ so với đi máy bay công cộng. Máy bay lăn nhanh ra đường băng cất cánh trong lúc mọi người mở cặp đặt trên đầu gối. Phó chủ tịch mở đầu ngay cuộc thảo luận. “Kết quả thu được ở khu vực đông bắc mấy tháng gần đây không được khả quan. Các ông đều đã nắm được số liệu, cũng như tôi. Tôi đòi hỏi sự giải thích tình hình đó. Và muốn biết những biện pháp nào đã được thi hành”. Ông vừa nói xong thì máy bay cất cánh. Phía chân trời vầng dương đỏ quạch nhô dần, sáng lên giữa những đám mây xám trôi rất nhanh. Dưới cánh máy bay đang nâng độ cao, ánh sáng ban mai làm nhìn rõ thành phố và các vùng phụ cận trải dài. Khu trung tâm Đitơroi, ốc đảo vuông mỗi cạnh một cây số giống như một Manhattan thu nhỏ; tiếp liền sau đó là những héc ta đường phố buồn tẻ, nhà cao tầng, nhà máy, nhà ở, phần lớn cáu bẩn. Một thành phố công nghiệp dơ dáy phát sợ vì không chịu vung tiền cho công việc quét dọn vệ sinh. Phía tây thành phố, Điếcbơn sạch sẽ xanh tươi hơn, tận cùng bằng tổ hợp công nghiệp khổng lồ của LơRu. Ngược lại ở đầu phía đông, khu Mũi Lớn, phô những rặng cây thẳng tắp : đó là thiên đường của những kẻ giầu có. Phía Nam là khu công nghiệp Vianđốt mù mịt khói; đảo Bel-In nép sát bờ sông Đitơroi như chiếc sà lan mầu rỉ đồng chở khẳm. Bờ sông bên kia là lãnh thổ Canada, thành phố Oaixo cũng xấu xí cũng gớm ghiếc không kém Đitơroi trên đất Mĩ. Và trên khắp mọi miền, ánh sáng ban ngày làm nổi rõ mật độ giao thông dầy đặc trên mạng đường sá. Hàng vạn con người như đàn kiến cỏ (hoặc đàn chuột len-mút tùy theo cách nhìn từng người) gồm thợ thuyền, nhân viên, viên chức lũ lượt kéo nhau bước vào một ngày sản xuất mới trong vô vàn xí nghiệp lớn nhỏ. Đitơroi kiểm soát và điều khiển nền sản xuất xe hơi của cả nước, nên khi ngày làm việc bắt đầu thì nhịp xuất xưởng lập tức hiện trên tấm bảng lớn đặt tại điểm giao thông lộ các con đường đi tới Fo và tới Craixlơ, những con đường đầy ứ xe. Nhờ sử dụng một hệ thống thống nhất trong cả nước, từng phút một số lượng xe xuất xưởng trong năm hiện lên bằng những con số cao một mét rưỡi trên bảng. Mỗi khi có thêm một dây chuyền khởi động thì tổng số lại tăng lên. Lúc này đã có hai mươi chín nhà máy trong vùng đông bắc làm việc, gửi số liệu lên bảng, số liệu tăng vọt sau khi mười ba xưởng lắp ráp của trung tâm tây và sáu xưởng của Califoócnia khởi động. Những người chạy xe trên đường nhìn tấm bảng với tâm trạng của người bác sĩ nhìn số đo huyết áp, của kẻ đầu cơ chứng khoán khi nhìn bảng giá ở ngân hàng. Có những người còn cá cược nhau về tổng số lúc sáng, lúc chiều. Những xưởng gần nhất cách đây khoảng 1,5km là của Craixlơ, nói chính xác là các xưởng Đốt và Plai-mao mỗi giờ cho ra hơn trăm xe. Trước đây viên chủ tịch hội đồng quản trị của Craixlơ thỉnh thoảng đến giám sát việc bắt đầu chế tạo một sản phẩm mới và tự mình thử khi sản phẩm ra đời. Gần đây ít khi ông làm thế. Buổi sáng hôm đó ông vẫn còn ngồi nhà đọc từ nhật báo Phố Uôn và uống ly cafê do vợ pha trước khi bà đi dự cuộc họp Hiệp hội Nghệ thuật. Hồi đó ông tổng giám đốc hãng Craixlơ (mới nhậm chức chủ tịch gần đây) tất bật chạy ngược chạy xuôi khắp nhà máy không hề mệt mỏi, phần vì nhà máy thiếu máu đang rất cần một giám đốc năng nổ, phần khác là vì bản thân ông đang muốn dứt khoát dứt bỏ cái nhãn “kế toán” người ta thường gán cho những người ngoi lên theo con đường của ngành tài vụ chứ không qua ngạch kỹ sư hoặc chuyên viên thương mại. Dưới quyền ông, hãng đã trải qua nhiều bước thăng trầm : sáu năm thịnh vượng gây được lòng tin cho các cổ đông tiếp theo là sáu năm sa sút đến mức báo động. Sau đó bằng những cố gắng ghê gớm và những tiết giảm khắc nghiệt hãng đã vượt qua cơn hiểm nghèo, khiến có người cho rằng chưa bao giờ hãng hoạt động tốt bằng trong thời kì khó khăn. Tuy nhiên thời khó khăn đã qua, không ai cho rằng chiếc Pentátta đời mới nhất của Craixlơ có thể lại mất cái vị trí nó đã chiếm được. Vị chủ tịch có thể rảnh rang một chút, suy nghĩ nhiều hơn, đọc những thứ thấy thích đọc. Lúc này ông đang đọc bài của Imơcxơn Vên; bài đăng trên nhật báo Phố Uôn có phần kín đáo hơn trên từ Đitơroi Tự do. Nên làm ông chán ngấy, ông thấy lời chỉ trích của lão cùn mòn, không có bản sắc. Nên ông chỉ lướt qua rồi chuyển qua mục bất động sản có sức thuyết phục hơn. Không mấy người biết ít lâu nay Craixlơ đang chăm lo xây dựng một vương quốc bất động sản, trước mắt làm cho hoạt động kinh doanh của công ti phong phú hơn, và sao lại không ? trong vài thập kỷ nữa sẽ đưa “số ba” lên ngang hàng hoặc cao hơn Động Cơ Thông Dụng. Trong khi chờ đợi ngày đó, vị chủ tịch hài lòng ghi nhận nhịp độ sản xuất trên mức khả quan của các nhà máy Craixlơ. Như vậy đó, sáng nay cũng như tất cả các buổi sáng, Ba Ông Lớn vật lộn ráo riết để giữ vững ngôi thứ của mình trong khi một hãng khác ở bang Uýtcơnxin, hãng Động Cơ Mĩ bé nhỏ hơn cũng góp vào dòng lũ xe hơi này một phần tuy ít ỏi hơn nhưng hiện đại hơn. Mời các bạn đón đọc Bánh Xe Nghiệt Ngã của tác giả Arthur Hailey.
Nicôlai Cudơnhétxốp - Người Tình Báo Anh Hùng
A. LUKIN - T. GLATCỐP NICOLAI CUDƠNÉTXỐP NGƯỜI TÌNH BÁO ANH HÙNG Thùy Dương và Thế Anh dịch SỞ VĂN HÓA VÀ THÔNG TIN HẬU GIANG - 1983 - TRONG những tập báo cũ số ra ngày 22 tháng Sáu năm 1941 chỉ có những tin tức bình thường nhất, hoàn toàn thanh bình về cuộc sống của đất nước. Những số báo ấy được xếp chữ và in hồi đêm, bản hết vào sáng sớm, khi tất cả biên giới phía Tây đã ngập chìm trong khói lửa, những quả bom đầu tiên đã rơi xuống Kiep, Minxcơ, Xêvaxtôpôn. Người Mátxcơva chỉ đến nửa buổi mới hay tin chiến tranh qua thông báo khẩn cấp của Chính phủ trên đài phát thanh. Trong những phút đen tối ấy Nicôlai Cudơnétxốp cũng giống như mọi người xô-viết khác: tức giận và căm thù bọn xâm lược tráo trở xâm phạm tự do và sự tồn tại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, Nhưng anh không ngạc nhiên. Anh đã quá biết nước Đức Hitle. Anh hiểu rằng chiến tranh là không thể tránh được. Một cuộc chiến tranh khủng khiếp, đẫm máu: Một cuộc chiến tranh chưa từng có trong lịch sử. Và anh biết anh sẽ phải đứng vào vị trí nào trong đội ngũ chiến sĩ chống phát-xít. Ý định đầu tiên của Cudơnétxốp là được ra mặt trận đã đạt được. Là một vận động viên nhảy dù, thạo dùng súng, một tay trượt tuyết cừ, lại thêm biết tiếng Đức, anh liền được đưa vào đơn vị biệt kích dù, Chẳng còn bao lâu nữa anh được tới mặt trận - chỉ đợi phiên chế xong các phân đội là lên đường. Sau đó ít lâu Cudơnétxốp được tập nhảy dù và nhảy nhiều lần, nhưng anh không trở thành chiến sĩ biệt kích và thực sự anh chỉ nhảy dù có một lần duy nhất vào hậu cứ địch, mà lại qua mãi một năm sau kia. Mệnh lệnh của một đồng chí cấp trên vội vã phiên chế Cudơnétxốp vào đơn vị biệt kích, đã bị một đồng chí cấp trên khác cao hơn và cái chính là nhìn xa trông rộng hơn, hủy bỏ vô điều kiện. Đồng chí này tính rằng một người có kiến thức tiếng Đức như vậy mà đưa vào biệt kích dù bình thường thì không thích đáng. Do đó tên họ Cudơnétxốp từ đơn vị biệt kích dù đã được chuyển sang một danh sách khác, trong đó số lượng ít hơn nhiều. Người thuộc danh sách đặc biệt này không được tung ra mặt trận. Những người này được ném vào sau mặt trận. Không cử đi từng phân chi đội, mà từng người một, trường hợp đặc biệt – từng nhóm nhỏ là cùng. Những phẩm chất riêng, kiến thức kinh nghiệm của họ cho phép sử dụng họ trong những điều kiện phức tạp hơn nhiều và khá đặc biệt. Lính lái xe tăng, phi công, các chuyên viên quân sự khác, sau ngày 22 tháng Sáu năm 1941 đều cần cho Tổ quốc không kém gì anh em trinh sát, tình báo. Nhưng dạy cho một người lái xe tăng hay máy bay dù sao cũng dễ hơn là biến người ấy thành một người lính của mình mà lại ở trong hàng ngũ địch. Gần một năm trời... Những ngày tháng dài đằng đẵng, mệt mỏi, vô công rồi nghề chờ đợi (mặc dù cũng đâu phải ngồi yên). Hết đề nghị này đến đề nghị khác gửi đi nhưng không được chấp thuận, cấp trên một mực từ chối, Cudơnétxốp lang thang hàng giờ khắp thành phố và tự thấy hổ thẹn vì tuổi trẻ và sức lực của mình - đàn ông lứa tuổi anh lúc này ở thủ đô chỉ có thể gặp trong quân phục hoặc đi nạng. Nicolai bất giác có lần giật mình thấy sợ không dám ngồi xuống chỗ trống trên xe điện để tránh những cái nhìn trách móc, thậm chí khinh rẻ của cả toa xe. Em trai Vichto của anh đã đi chiến đấu, còn anh là anh cả, vậy mà vẫn giậm chân tại chỗ trên đường phổ Mátxcơva. Mátxcơva... Ai có mặt ở thủ đô vào mùa thu đầu tiên của chiến tranh, hẳn không bao giờ quên bộ mặt nghiêm khắc mới mẻ của thủ đô. Cửa sổ các nhà đều dán những mảnh giấy chéo nhau, mặt các cửa hiệu được chắn cao những chồng bao tải cát, những quả khinh khí cầu xam xám lờ mờ bay trên trời đêm, những mũi tên trắng viết trên tường nhà với chữ đề: «Hầm tránh bom», những khẩu đội cao xạ bốn nòng thường trực trên các nóc nhà. Hầu như đêm nào còi báo động cũng rền rĩ réo vang, những luồng ánh sáng đèn chiếu hừng hực sục sạo xoáy vào bầu trời tối om, đạn cao xạ giận dữ vút bay lên liên tiếp, lả tả trút xuống mặt đường trận mưa mảnh thép sắc cạnh. Và mỗi sáng các bác nhân viên vệ sinh sân phố lại đổ đầy nước vào các bồn gỗ để trên gác áp mái tất cả các nhà trong thành phố. Khi họ còn chưa đến, mấy chú bé còn lại trong thành phố (chúng chẳng vội đi đâu mùa đông nhà trường đóng cửa cả) đã len lỏi đến trước, moi từ đây các bồn gỗ lên những kíp pháo sáng sơn đen lấp lánh và những cái ống pháo sáng của địch bị cháy. Các em lớn, trước đó, trong những đợt máy bay địch, đã dập tắt những pháo sáng này trong các bồn nước.   Mời các bạn đón đọc Nicôlai Cudơnhétxốp - Người Tình Báo Anh Hùng của tác giả A. Lukin & T. Glatcốp.
Án Mạng Chuột Chín Đầu
Trấn Giang, còn gọi là Nhuận Châu, thời dân quốc từng là tỉnh lị Giang Tô, khi Trung Quốc vừa thành lập thì thuộc khu hành chính Tô Nam quản lý. Tháng 10 năm 1949 đã xảy ra một vụ án giết người đốt xác vô cùng ly kỳ. Người chịu trách nhiệm công tác điều tra của vụ án này là một chàng trai An Huy, tên Mục Dung Hán. Mục Dung Hán học đến cấp 2, lúc nhỏ lại tập võ nên thân thủ bất phàm. Tuy gia đình anh mở cửa hàng buôn bán, nhưng thời kỳ đầu kháng chiến thì cha của anh đã bán hết gia sản, lấy tiền tổ chức vũ trang kháng Nhật, hơn nữa còn nhanh chóng gia nhập Trung Cộng. Không bao lâu sau, cha và hai chú của anh ta hy sinh trong lúc tác chiến với quân Nhật. Năm 1943, Mục Dung Hán tham gia quân Tân Tứ. Đầu tiên là đánh địch, sau lại làm trung đội trưởng trinh sát. Năm 1949 Mục Dung Hán đã là chỉ đạo viên của tiểu đoàn trinh sát thứ chín thuộc quân dã chiến Hoa Đông. Trong chiến dịch vượt sông, chiếc thuyền của anh ta bị đạn pháo bắn trúng, hơn ba mươi người chỉ còn lại bảy người sống sót. Mục Dung Hán xem như mạng lớn, nhưng lại bị thương nặng, ôm một tấm ván thuyền hôn mê trôi hơn bốn mươi dặm mới được cứu lên. Sau khi vết thương lành lại thì bộ đội nơi Mục Dung Hán đã đánh tới Phúc Kiến. Tháng 9 năm 1949, tổ chức phái anh ta tới phân khu quân Tùng Giang, thủ tục cũng đã chuẩn bị xong xuôi, nhưng một ngày trước khi lên đường lại xảy ra một sự cố bất ngờ. Hôm đó, anh ta đang trên đường quay về chỗ ở sau khi tạm biệt chiến hữu thì một chiếc xe jeep đột nhiên thắng cái két trước mặt anh ta, một tiếng hô to vọng ra từ trong xe: “Đây không phải Tiểu Mục à?” Người trong xe là vị thị trưởng thành phố Trấn Giang vừa thăng chức vào tháng trước, Hà Băng Hạo. Đây là một vị cán bộ tham gia cách mạng từ thời hồng quân, từng đảm nhiệm chức đội trưởng “đội dân tiên” huyện tê Hà tỉnh Sơn Đông, bí thư huyện ủy kiêm chính ủy chi đội du kích, chuyên viên trụ sở Giao Đông Bắc Hải và bí thư chủ nhiệm kiêm chính ủy bộ hậu cần khu Bắc Hải thời chiến, phó chuyên viên cơ quan riêng Giao Đông Bắc Hải, tổng đội trưởng kiêm chính ủy tổng đội thứ hai của Giao Đông trước kia, đại đội trưởng đại đội thứ hai trung đoàn vượt sông xuống Nam. Đội trinh sát của Mục Dung Hán lúc ấy đóng quân cùng một chỗ với hai đại đội “Độ Tổng”, giúp đỡ lẫn nhau. Nên dù chức vụ của cả hai cách xa nhau những vẫn là người quen. Người quen cũ gặp nhau nơi đất khách thì đương nhiên phải ngồi lại nói vài câu. Khi đó, thị trưởng Hà đã mời Mục Dung Hán lên xe. Sau khi hỏi thăm tình hình, biết Mục Dung Hán chuẩn bị tới phân khu quân Tùng Giang bèn nói ngay: “Thế thì thà cậu tới Trấn Giang làm với tôi còn hơn.” Mục Dung Hán đáp: “Tôi không muốn rời khỏi bộ độ. Tôi còn muốn cầm súng đánh giặc.” Hà Băng Hạo mới nói: “Cậu tới Trấn Giang làm ở ủy ban quân quản, vẫn mặc quân trang và cầm súng đấy thôi.” Mục Dung Hán nghe vậy thì rục rịch. Hà Băng Hạo sợ anh chàng thay đổi nên nói: “Tôi sẽ lập tức nhờ người chuyển cậu tới Trấn Giang, chiều nay cứ về đó cùng tôi là được.” Khi đến Trấn Giang rồi Mục Dung Hán mới biết mình bị thị trưởng Hà “lừa”. Đúng là làm ở ủy ban quân quản, nhưng lại là bộ công an của ủy ban quân quản – Cũng chính là cục công an trực thuộc văn phòng thành phố, hai cái tên một nhóm người (1). Mặc quân trang cũng không sai, nhưng chẳng qua là một bộ đồ có in hai chữ “công an” lên ngực áo mà thôi. Súng thì cũng có đeo, nhưng có dùng tới hay không thì khó mà nói trước. Cục công an thành phố cũng không sắp xếp công việc cho anh ngay, mà để anh làm quen với tình hình trước, còn nhấn mạnh rằng đây cũng là công việc trị an. Mục Dung Hán đoán chắc công tác của mình sau này cơ bản chính là điều tra hình sự, lúc ấy công an điều tra gọi là trinh sát, lãnh đạo phần lớn đều cho rằng nó cũng như trinh sát quân sự của bộ đội mà thôi. Đã đến nước này rồi thì chỉ có thể cắn răng làm tiếp mà thôi. Mục Dung Hán đã có chuẩn bị tâm lý là sẽ làm hình cảnh. Khi đó đang thực hành hình thức “đại trị an”, công việc hình trinh (2) do trị an quản lý. Ngày nào Mục Dung Hán cũng chạy khắp nơi trong thành phố, ven sông, đường Đại Tây, xung quanh bến tàu nhỏ và nhà ga đồn công an. Hơn nửa tháng trôi qua, anh cũng đã làm quen với hình cảnh của tất cả các đơn vị vì đã có nhiệm vụ đưa xuống. Bắt đầu từ ngày 30 tháng 5, đến ngày 9 tháng 10 Mục Dung Hán nhận nhiệm vụ này, cục công an thành phố Trấn Giang, bốn phân cục bên dưới cùng với tất cả mười hai đồn công an do phân cục quản lý, tổng cộng nhận được 37 bức thư tố giác, mục tiêu bị lên án là cùng một người. Người bị tố giác vừa nhìn tên đã biết là biệt danh trên giang hồ, tên là “Chuột Chín Đầu”, tên thật là gì thì không ai rõ. Nếu như nội dung tố giác là thật thì kẻ này đã làm rất nhiều chuyện như giết người, phóng hỏa, ăn cướp, trộm cắp, cưỡng hiếp, lừa gạt. Dựa theo quy định đương thời, tất cả những thành phố vừa giải phóng xếp hết những đối tượng bị tố giác nhưng không liên quan trực tiếp tới chính trị, không làm nguy hại trị an xã hội hoặc nguy hại mạng sống và an toàn tài sản của người khác vào án treo lịch sử. Đồn công an và phân cục nhận được những bức thư tố giác này xong thì sẽ đưa cho ban chỉ huy cục trị an thống nhất đăng ký và bảo quản. Cho nên những bức thư tố cáo “Chuột Chín Đầu” do các đồn công an, phân cục khác và cả thành phố nhận được đều bị gom lại, giao cho ban trị an thành phố bảo quản. Hôm nay, lãnh đạo đã tìm Mục Dung Hán nói chuyện, giao những bức thư tố giác này cho anh rồi nói: “Đồng chí Tiểu Mục hãy xem thử những bức thư này, tìm cách điều tra rõ ràng xem rốt cuộc Chuột Chín Đầu này là ai, đang ở đâu, có phạm phải những hành vi phạm tội được ghi trong thư tố giác hay không”. Lúc đó Mục Dung Hán còn chưa được phân công việc cụ thể, cũng không trục thuộc phòng ban nào, ban trị an cũng vậy, đội hình cảnh cũng thế, chẳng bên nào sắp xếp công việc cho anh, ngay cả bàn làm việc cũng không có. Sau khi nhận nhiệm vụ, anh cầm túi hồ sơ căng phồng chứa 37 bức thư tố giác kia đi một vòng trong trong cục, cuối cùng tìm được một chỗ giữa đống đồ chất chồng ở sân sau căn tin. Anh bèn lấy ván gỗ và gạch xếp đỡ thành một bàn làm việc tạm thời. Đâu vào đấy thì anh bắt đầu xem thư. Sau khi xem hết 37 bức thư thì cũng đã đến giờ tan sở. Quay về ký túc xá, Mục Dung Hán lại chia nội dung của những bức thư tố giác này ra trên sổ tay làm việc, sau khi chỉnh lý lại, anh phát hiện tuy 37 bức thư này không phải do cùng một người viết, nhưng nội dung đại khái đều như nhau: Tố cáo Chuột Chín Đầu là thứ đầu trộm đuôi cướp. Trong đó có một bức thư nhắc tới nơi gây án của Chuột Chín Đầu là ở trên Trường Giang, nơi giao nhau giữa An Huy và Giang Tô, là một tên thủy tặc. Mục Dung Hán nghiên cứu một lúc, cảm thấy có ba vấn đề chưa rõ: Thứ nhất, tất cả thư tố giác đều gọi kẻ bị tố giác là Chuột Chín Đầu, không có bức nào nói tới tên thật của hắn ta. Thứ hai, trong mỗi bức thư tố giác đều nói Chuột Chín Đầu tội ác tày trời, nhưng không có bất kỳ bức nào nói tới thời gian và địa điểm cụ thể, mà chỉ dùng mấy chữ qua loa như “lúc kháng chiến”, “bảy tám năm trước” các kiểu, càng không nói rõ người bị hại là ai, gây nên hậu quả thế nào. Nói chung, trong thư tố giác chỉ nói rõ tội danh của Chuột Chín Đầu thứ không phải hành vi phạm tội. Thứ ba, những bức thư này phần lớn đều không nói Chuột Chín Đầu ẩn nấp ở đâu, vài bức có nhắc tới thì cũng không hề rõ ràng, chỉ nói là ẩn nấp trong thành phố Trấn Giang, nhưng lại không có địa chỉ cụ thể. Mục Dung Hán cho rằng với những manh mối không rõ ràng thế này mà lãnh đạo lại bảo anh đi điều tra thử, xem ra là muốn để anh luyện tay. Cũng nhờ đó kiểm tra khả năng làm việc của Mục Dung Hán, khi sắp xếp cương vị công tác cụ thể cho anh sau này cũng có cái mà tham khảo. Dù sao anh cũng là chỉ đạo viên đội trinh sát trực thuộc tung đội chín Hoa Dã, chức vị này xem như cấp doanh chính (3), không thể đối đãi tùy tiện như mấy anh lính quèn bình thường được. Nghĩ vậy, Mục Dung Hán bèn hạ quyết tâm, nhất định phải điều tra cho ra tung tích của Chuột Chín Đầu, còn phải tra xem hắn ta có phạm những tội được ghi trong đống thư tố giác kia hay không. Mang theo suy nghĩ này, Mục Dung Hán chong đèn tiếp tục đọc lại những bức thư tố giác này. Gần đến nửa đêm thì anh lại phát hiện được một đặc điểm mà khẳng định trước kia không ai chú ý tới: Trong 37 bức thư tố giác này có 9 bức thư rất khác thường, chữ viết đẹp thì không nói, xếp từ cũng rất ngay ngắn, người viết hẳn là đã từng đi học. Lại xem kỹ hơn thì cả giấy lẫn phong bì của 9 bức thư này cũng khác nhau. Có bức rất khuôn phép, bức thì là lấy giấy dán lại làm phong thư. Cuối cùng Mục Dung Hán cũng nhận ra, 9 bức thư này có thể là nhờ người như mấy ông thầy đoán chữ đầu phố viết hộ. (1) Một cơ cấu, hai cái tên, còn được gọi là một nhóm người hai cái tên, là một loại cơ cấu biên chế của TQ. dựa theo lời giải thích của văn phòng hội ủy viên cơ cấu biên chế trung ương "cái gọi là một cơ cấu chính là một đại biểu pháp nhân, một quản lý tài vụ, một nhóm lãnh đạo và một đội ngũ. Sở dĩ có hai cái tên là chỉ hai tên gọi cơ cấu, dựa theo nhu cầu công việc mà lấy danh xưng tương ứng để đối ngoại". (2) Điều tra + xử phạt. (3) Cấp doanh chính có quân hàm thiếu tá. Mời các bạn đón đọc Án Mạng Chuột Chín Đầu của tác giả Lãng Nhân Môn.
Ngôi Nhà Mũi Tên
Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.