Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cỏ - Claude Simon

Với Cỏ, sự phân hóa không mang tính tổng thể quy mô như ở Con đường Flandres mà xuất hiện trong cái thường nhật gần gũi của cuộc đời. Một bà lão 84 tuổi, đúng hơn là một cô gái già, nằm chờ chết trong một gian phòng tối tăm lạnh lẽo toát mùi nước Cologne rẻ tiền và mùi hoa tàn úa quen thuộc. Bà lão đợi chết, đang chết, bận bịu với cái chết, tập trung vào cái chết trong cô đơn, ngạo nghễ, cho dù bà không hay biết gì nữa, không nói năng, không cử động. Bà không còn ai để khóc cho mình ngoài người em trai, có lẽ, cũng đã già với tấm thân nặng nề in đậm dấu ấn thời gian. Đó là một cái chết bình thường của một người con hình thường đã sống một cuộc đời đơn điệu trong sự cần cù, giản dị, đượm phần khắc khổ, đạo hạnh. Qua những hồi tưởng miên man, đứt đoạn của Louise, người cháu dâu, đó là một người con có hiếu, một người chị hết lòng với em, đã giúp em thực hiện giấc mơ của người cha mù chữ suốt đời còng lưng trên mảnh đất: trở nên người có học thức và mang học thức của mình truyền thụ cho kẻ khác. Kết quả là người em đã trớ thành một giáo sư đại học, đã lập gia đình, có con, có dâu, nói chung có một địa vị xã hội đáng kể trong khi người chị gương mẫu kia vẫn một đời sống ở tỉnh lẻ với nghề giáo viên khiêm tốn. Những giờ phút hấp hối của người cô chồng là dịp để Louise ôn lại, ráp lại những mảnh vụn làm nên một số phận, đó cũng là thời gian của tấn bi kịch riêng nơi nàng: ý định cùng người yêu về sống tại một thành phố lạ và quá trình gãy đổ của nó, tất cả diễn ra âm thầm nhưng khốc liệt làm sao! Có thể nói, nhân vật trung tâm ở đây là thời gian, thời gian chi phối tất cả, hiện thân nơi tất cả: từ sự nảy nở và mục rữa của hoa trái đến tiếng mưa rơi, tiếng nước róc rách qua những đồng có, những cánh rừng, những thung lũng… Ðặc biệt sự tàn phá của nó nơi thân xác con người có lẽ khóc liệt hơn cả: thân xác bị gặm mòn bởi từng khoảnh khắc trôi qua của bà lão, thân xác biến dạng vì tuổi tác của người em trai, thân xác xấu xí núp sau những trang phục loè loẹt, giả tạo của bà vợ…: con người “chứng kiến sự tan rã của mình ngay khi còn sống”. Qua lần vách ngăn, Louise đã theo dõi tấm bi hài kịch của đôi vợ chồng già, từ cơn ghen ấp ủ suốt 40 năm của người vợ tới cuộc giằng co xô xát vừa thô bạo vừa tha thiết, tội nghiệp của hai người, trong đó có tiếng khóc, tiếng vỗ về..., đó phải chăng là cố gắng sau cùng của sự sống chống lại ám ảnh của cái chết? Nhưng đó là một cố gắng vô vọng, một cách nào đó lừa dối chính mình. Còn Louise? Cái chết của người cô chồng, người duy nhất trong gia đình nàng có cảm tình, là con dao cắt đứt mọi ràng buộc giữa nàng với nhà chồng: “Giờ đây cô sắp chết, vậy chẳng còn gì nữa”. Nàng sẽ làm lại cuộc đời tại một thành phố với người yêu, điều lẽ ra nàng phải thực hiện từ lâu. Nhưng tại sao nàng trù trừ, không dứt khoát khi ý đồ đã có cơ hội thực hiện? Nàng trù trừ không phải vì hối hận mà có lẽ vì chính tâm hồn nàng cũng rã rời, mệt mỏi, bị nhiễm độc bởi bầu không khí nồng nặc mùi vị của cái chết, của sự băng hoại ở chung quanh, ở sát kề bên thân thể. Nàng không giải thích hay không thể giải thích được. Nàng nghĩ: “Mình đã chết”, và ý nghĩ đó vang vọng trong nàng như một điệp khúc lạnh lùng, ghê rợn. Trước lời hẹn hò của người yêu về chuyến đi, nàng chỉ buông những tiếng “vâng, dạ…” hững hờ và rỗng tuếch. Và nàng biết nàng sẽ không tới, đồng thời cũng biết chàng biết rõ điều đó, và chính chàng cũng sẽ không tới. Nàng tự hỏi tất cả phải chăng chỉ là một sự dối trá, tự đánh lừa? Nói khác đi, tình yêu ở đây cũng chỉ là một sự thất bại thấy trước, như tình yêu giữa nàng và Georges, giữa đôi vợ chồng già kia (bố mẹ chồng của nàng). Khi xem một tấm ảnh cũ rơi ra từ mớ kỷ vật của người đang hấp hối, Louise đã tưởng tượng một cuộc tình nên thơ trong sáng nhưng bất thành của cô gái già trọn đời sống độc thân. Đó là một hình ảnh đẹp hiếm thấy về tình yêu trên những trang sách của Claude Simon: một cái gì gần như không có trong hiện thực.   Cũng như hầu hết các tác phẩm khác, Cỏ có bối cảnh làm nền là chiến tranh, ở đây là giai đoạn đen tối của nước Pháp năm 40. Claude Simon luôn trở về với chiến tranh như một bi kịch lớn của lịch sử cuốn hút những thân phận riêng lẻ, bé nhỏ. Điều này giải thích phần nào cái nhìn bi quan về con người trong một thế giới đổ vỡ, băng hoại, trong đó mọi cố gắng đều vô ích khi nó chỉ còn một đặc quyền là tan biến vào hư vô, “đặc quyền chết”. Ở đây, một phần nào, Claude Simon là người tiếp nối trào lưu triết học và văn học hiện sinh trước đó với Heidegger, Sartre, Camus… Trong bối cảnh của một thế giới hao hụt, tàn lụi như thế, con người nhận ra sự tha hóa của mình, nhận ra sự hiện diện của mình chỉ là một sự vô nghĩa (non - sens). Nó chỉ còn cách buông xuôi, thỏa hiệp với chính sự thất bại của mình, một lần cho tất cả. Nhưng đó không phải là giải pháp mà là sự bế tắc của mọi giải pháp.   Thể hiện một sự tan rã mang tính tổng thể nói trên đòi hỏi một thủ pháp nghệ thuật, một chất liệu ngôn từ tương xứng. Ta biết rằng điều cốt yếu ở Claude Simon không phải là kể một câu chuyện có đầu có đuôi với tình tiết, diễn biến hợp lý. Ông thường phá hủy trình tự thời gian và làm đảo lộn tất cả: thời gian chỉ còn là những mảnh vụn chất chồng hỗn độn lên nhau. Thời gian con người đã sống qua, khi tái hiện đã không còn là nó nữa. Nhà văn tìm kiếm một thời gian khác, bằng chữ viết của mình. Thật không ngoa khi nói rằng mỗi tác phẩm của ông chỉ là sự dàn trải của một câu văn duy nhất, không khởi đầu, không kết thúc, nó đứt đoạn và không ngừng sinh sôi nảy nở, nó bất chấp mọi qui luật và trật tự thường tình, nó mặc tình rong chơi giữa cái thực và cái hư, hiện tại và quá khứ. Viết là chất chồng những chữ, trong đó một chữ làm nẩy sinh một câu, một câu làm nẩy sinh một câu khác, một trang sách và cả một quyển sách trong cuộc vận hành liên tục, bất tận với những độc thoại nội tâm, những hồi tưởng, những mơ tưởng chen vào những mô tả, kể lể..., tất cả lẫn lộn vào nhau, tạo thành một tổng thể ở dạng nguyên sinh, và người đọc sẽ nhận ra ở đó một ý nghĩa, đúng hơn, chính cái tổng thể rối rắm phức tạp đó - một bức thảm muôn màu – tự nó hình thành một ý nghĩa sẽ được người đọc cảm nhận theo cái cách của mình. Với ông đề tài thực của tiểu thuyết chính là cuốn tiểu thuyết đang hình thành dưới ngòi bút nhà văn, dưới con mắt người đọc. Người đọc không còn bình yên trong cuộc hành trình hứa hẹn nhiều bất trắc cũng như chính nhà văn, qua những hình tượng những ngôn từ ngổn ngang kia cũng không ngớt dò dẫm, lắng nghe, kiếm tìm. Con đường vùng Flandres kết thúc, thật ra không có gì kết thúc ở đây: tác giả bỏ lửng nhân vật của mình trong trạng thái hoài nghi, mơ hồ (về chính những gì đã trải qua, nhớ lại). Cuộc phiêu lưu của Louise trong Cỏ kết thúc trong trạng thái lững lờ (sự chối từ ở đây không phải là một chọn lựa mà là một cách buông xuôi), khi nàng ngã người lên thảm cỏ, thân thể như tan lẫn vào cành lá, đất cát, khí trời, vào niềm yên ả của đêm thâu (la paix nocturne). *** Claude Eugène-Henri Simon (10 tháng 10 năm 1913 – 6 tháng 7 năm 2005) là nhà văn Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1985.   Claude Simon sinh ở Antananarivo, Madagascar, là con trai của một sĩ quan đã hy sinh khi Thế chiến thứ nhất mới bắt đầu. Cùng với mẹ và ông bà ngoại, Simon về Perpignan (Pháp) và bắt đầu đi học. Simon tốt nghiệp trường trung học Stanislas ở Paris, sau học ở Đại học Oxford và Đại học Cambridge (Anh). Ông mơ trở thành họa sĩ nhưng phải từ bỏ ý định này sau một thời gian theo học hội họa và quay sang viết văn.   Năm 1936, Claude Simon sang Barcelona tham gia đội quân tình nguyện quốc tế chiến đấu chống lại tướng Francisco Franco. Trong Thế chiến thứ hai, ông chiến đấu trên nhiều mặt trận và bị quân Đức bắt làm tù binh năm 1940. Sau khi trốn thoát khỏi trại tù binh, Simon trở về tham gia phong trào Kháng chiến ở thị trấn Perpignan.   Thành công đầu tiên trong văn học của Claude Simon đến vào năm 1945 sau khi xuất bản tiểu thuyết Le tricheur (Kẻ lừa đảo). Tác phẩm thời kì này viết theo lối trần thuật truyền thống, chịu ảnh hưởng của Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, William Faulkner, Marcel Proust và triết học chủ nghĩa hiện sinh.   Từ giữa thập niên 1950 trở đi Claude Simon bắt đầu tìm tòi, đặt khởi đầu cho trào lưu Tiểu thuyết mới với đặc trưng là cốt truyện “hiện thực” trở thành thứ yếu, còn trung tâm chuyện kể là những miêu tả và các hình tượng không kết gắn với nhau về mặt thời gian, tất cả các cảm xúc đồng hiện trên một bình diện như trên một bức tranh. Năm 1960 Simon kí tên vào “Tuyên ngôn 121” của các trí thức Pháp ủng hộ phong trào đòi độc lập cho Algérie. Tiểu thuyết La route de Flandres (Những con đường xứ Flandres) cũng được xuất bản vào năm này đã mang lại cho ông giải thưởng của tạp chí Express năm 1961. Có thể nhận thấy trong tác phẩm này sự đứt đoạn giữa các sự kiện và ngôn ngữ mô tả chúng - một kĩ thuật mới trong phong cách tiểu thuyết - thể hiện kiếp người vô nghĩa, những đoạn đời không lối thoát, hoặc chỉ dẫn đến cái chết mà thôi. Tiểu thuyết Histoire (Lịch sử, 1967) được trao giải thưởng Meditri. Năm 1973 ông được phong học vị danh dự của Đại học Miền Đông nước Anh.   Từ thập niên 1980, Claude Simon trở về quê Perpignan, vừa viết văn vừa trồng nho. Với tiểu thuyết Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), Simon bắt đầu xa rời phong cách thử nghiệm trong các cuốn sách trước đây của ông. Năm 1985 Simon được trao giải Nobel vì “sự kết hợp trong sáng tác của ông các nguyên tắc của thơ và hội họa”, vì “nhận thức sâu sắc về vai trò của thời gian trong mô tả con người”.   Năm 1989, nhà văn 76 tuổi cho ra đời tiểu thuyết L'acacia (Cây keo hoang) được đánh giá cao; cùng với Les Géorgiques là hai tác phẩm tự thuật độc đáo, trong đó lịch sử và hư cấu, quá khứ và hiện tại đan quyện vào nhau trong một hình thức kể chuyện vừa hư vừa thực. Claude Simon mất ở Paris năm 2005.   Tác phẩm:   - Le tricheur (Kẻ lừa đảo, 1945), tiểu thuyết   - La corde raide (Dây căng, 1947), tiểu thuyết   - Gulliver (1952), tiểu thuyết   - Le sacre du printemp (Mùa xuân đăng quang, 1954), tiểu thuyết   - Le vent (Gió, 1957), tiểu thuyết   - L'herbe (Cỏ, 1958), tiểu thuyết   - La route de Flandres (Con đường xứ Flandres, 1960), tiểu thuyết   - Le palace (Cung điện, 1962), tiểu thuyết   - La chevelure de Bérénice (Mái tóc Berenice, 1965), truyện ngắn   - Histoire (Lịch sử, 1967), tiểu thuyết   - La bataille de Pharsale (Trận Pharsale, 1969), tiểu thuyết   - Orion aveugle (Chòm Thiên Lang mờ tối, 1970), tiểu luận   - Les corps conducters (Những thân xác dẫn đường, 1971), tiểu thuyết   - Triptyque (Bức họa tam bình, 1973), tiểu thuyết   - Leçon de chose (Bài học vạn vật, 1975)   - Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), tiểu thuyết   - L'acacia (Cây keo hoang, 1989), tiểu thuyết   - La Jardin des plantes (Vườn bách thảo, 1997), tiểu thuyết     Mời các bạn đón đọc Cỏ của tác giả Claude Simon.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mưa Mùa Hạ - Ma Văn Kháng
 17 năm trước, tôi đã đọc Mưa mùa hạ của nhà văn Ma văn Kháng, đúng thời điểm dư luận "sốt" lên xung quanh những ý tưởng khá táo bạo mà nhà văn đề cập trong cuốn tiểu thuyết này. Nhiều người thích sự bạo dạn, mới mẻ trong ngòi bút của Ma văn Kháng khi ông lật tẩy, đả phá những vấn đề tiêu cực tồn tại trong xã hội một cách không thương tiếc. Thích cái sự ví von của ông ở hình ảnh đàn mối với những đêm giao hoan lạc thú khởi đầu cho những cuộc sinh sôi, nảy nở, bành trướng của loài sinh vật mà sức phá hoại của nó đã đi vào lịch sử "Tổ mối hổng sụt toang đê vỡ". Cũng không ít người tiếc khi không tìm thấy sự dung dị, chân chất mà ấm áp trong văn phong của ông như thời "Mùa lá rụng trong vườn". Người ta chê ông "nhiều triết lý", trang nào cũng triết lý, các nhân vật cứ gặp nhau là triết lý, mỗi người một diễn đàn, hùng biện say mê, ép cho bằng được kẻ đối thoại phải ngồi im trên trang sách mà nghe. Lại có người không thích sự bỗ bã, tục tĩu trong ngôn ngữ đời thường của một số nhân vật Thưởng, Hảo, ông Tiếu, Loan... Trên thực tế, bỗ bã, tục tĩu vốn là kiểu nói đầu lưỡi của những kẻ vô sỉ, bất lương nhưng không nhất thiết phải thể hiện đậm đặc ở những trang viết có sự xuất hiện của những loại người này, người đọc mới hiểu bản chất của chúng là xấu. Tiếng Việt rất phong phú, sự đa nghĩa của nó chắc chắn giúp nhà văn giải quyết ổn thoả sự khúc mắc của người đọc về sự thô tục trong ngôn ngữ của một số nhân vật. Và như vậy, Mưa mùa hạ có lẽ đã trau chuốt hơn nếu như tác giả không muốn tạo "ép phê' với người đọc bằng việc "bê" thứ ngôn ngữ đời thường thô ráp vào văn.             Ðọc lại "Mưa mùa hạ" khi tác phẩm vừa được tái bản lần 3, vẫn không thoát khỏi cảm giác bị ức chế bởi những màn triết lý dày đặc trong tác phẩm, thậm chí đôi chỗ cao siêu, rõ là được gọt giũa qua cảm quan của tác giả theo đường ray đã định sẵn nhưng không thể phủ nhận tính xã hội và thời đại mà Ma văn Kháng đã tạo ra cho tác phẩm bằng tài năng, tâm huyết và cả những nỗ lực mà dư luận cho là "cuộc thử nghiệm văn chương". Ông đã có lý khi cho rằng, lịch sử của dân tộc VN gắn với lịch sử của những con đê "cong như chiếc nỏ thần" và thuỷ quái chính là tên giặc thứ hai cùng với giặc phương Bắc đe doạ dân tộc ta từ khi mới dựng nước. Sự ví von ấy đã được ông áp dụng cho hiện tại và lũ giặc có sức phá hoại của mối cần được tìm diệt chính là lớp người xấu đại diện cho những tiêu cực đang tồn tại trong xã hội. Ðó là Hưng- một kẻ cơ hội bẩn thỉu. Làm việc trong cơ quan phòng chống bão lụt tỉnh nhưng chính Hưng lại là kẻ gây ra sự cố vỡ đê Lợi Toàn khiến bao người phải chịu cảnh màn trời chiếu nước. Là Loan, một cô gái có bộ mặt của Ðức Mẹ nhưng tâm hồn bị tiền và những thú đàng điếm của lớp trọc phú tiểu thị dân làm méo mó. Là Hảo, một kẻ có nhiều tài vặt nhưng tư tưởng bị hoen ố bởi những ham muốn tầm thường. Là Thưởng, một kẻ bất lương vô sỉ lợi dụng thời thế để buôn bán, lừa lọc... Ðối lập với bọn người xấu trên là những con người hết lòng vì công việc, vì đồng loại, cũng là những người kém may mắn trong sự nghiệp và đời sống tình cảm vì những lý do khách quan khi những thói đàng điếm, tiêu cực nhất thời thắng thế ở đâu đó. Trọng là hình tượng được xây dựng công phu, giống như sợi dây "nhạy cảm" xuyên suốt tác phẩm. Say mê công tác nghiên cứu tìm diệt tổ mối trong thân đê, trực tiếp tham gia cuộc chiến đấu chống bão lụt trên khúc đê xung yếu, Trọng chính là đại diện của lớp trí thức trẻ tuổi có tài, có sức khoẻ, có tâm nhưng thiếu kinh nghiệm và có nhiều nông nổi khi đối mặt với tiêu cực. Trong thế trận mà cái tiêu cực ngang ngửa với các tích cực, người chiến thắng là người ngoài tâm, trí, sức phải biết dựa vào tổ chức và nguyên tắc. Nam và Ngoan là những người như thế. Họ đã khiến ông Cần- bố của Trọng vững tin hơn sau những thất vọng ở trường Ðại học nơi ông công tác, ở cái ngõ bé nhỏ 401 nhà ông, rặt những người xấu và sau cả cái chết của Trọng vì cứu khúc đê Nguyên Lộc. Khép lại tác phẩm bằng hình ảnh ông Cần lặng lẽ giữa bộn bề cảm xúc, dường như nhà văn muốn khẳng định sự thắng thế tất yếu của cái tích cực trong cuộc chiến quyết liệt với những tiêu cực được nguỵ trang bằng đủ hình thức tráng lệ trong xã hội. Cái xấu đã bị đánh bại (Hưng bị đình chỉ công tác chờ kỷ luật; Thưởng chết chìm dưới nước cùng túi vàng có được bằng những việc làm bất chính; Loan bị sa thải khỏi cửa hàng thương nghiệp...) nhưng vẫn hiển hiện trước người đọc một con đê phập phồng nhạy cảm chứa trong lòng sâu những tổ mối rỗng. Cuộc chiến chống tiêu cực vẫn tiếp diễn... Có lẽ vậy mà những ý tưởng, những vấn đề "Mưa mùa hạ" đề cập gần hai mươi năm trước không hề cũ trong cuộc sống hôm nay. Vẫn nóng hổi hơi thở thời đại khiến người đọc dễ thông cảm hơn với những đối thoại mang màu sắc triết lý, triết luận trong tác phẩm để cuốn theo những số phận gần gũi, thân thuộc như chính cuộc đời xung quanh. Có điều, nếu như viết về con người, cuộc sống "Mưa mùa hạ" có phần hơi "cứng", hơi lên gân, thiếu uyển chuyển khi thể hiện các mối quan hệ xã hội con người, chưa lý giải thấu đáo những bước ngoặt của tính cách, số phận thì những trang tác giả viết về đời sống sinh hoạt của mối lại hết sức trữ tình, lãng mạn. Thiên nhiên đã chắp cánh cho tâm hồn nhà văn bay bổng hay nhà văn muốn sử dụng bút pháp trữ tình để tạo sự tương phản với sức phá hoại khủng khiếp của loại sinh vật mù loà kia?. Có lẽ sự không nhất quán trong bút pháp giữa các trang văn... là một thử nghiệm của nhà văn Ma văn Kháng tạo ra hai thái cực thích và không thích "Mưa mùa hạ" 17 năm về trước và cả bây giờ. *** Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội) tên thật là Đinh Trọng Đoàn. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học trường Sư phạm Hà Nội. Ông từng là giáo viên cấp hai, dạy môn Văn và là hiệu trưởng trường cấp 3 thị xã Lao Cai nay là tỉnh Lào Cai. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Từ năm 1976 đến nay ông công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3 năm 1995 ông là Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã 8 lần đệ đơn xin thôi vị trí này. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ *** Cơn bão Nan-xi tan. Ngoài biển đông lại đang hình thành một vùng áp thấp nhiệt đới, có gió xoáy cấp bẩy, cấp tám. Các cơn bão gối đầu nhau, kế tiếp nhau đổ vào đất liền, như có ác ý muốn tàn phá đến tận cùng sự sống trên đất nước còn mang bao vết thương đau sau mấy chục năm đằng đẵng chiến tranh này. Chưa bao giờ có một mùa mưa bão dữ dằn và khốc hại đến vậy. Cơn bão số 4 ập vào vùng Đèo Ngang gây mưa lớn chưa từng có ở miền Trung. Đồng bằng sông Cửu Long chịu hậu quả của những cơn mưa lớn trên đất Lào, ngập lụt hàng trăm héc-ta. Bão số 7 phá phách suốt từ Thanh Hoá tới Tây Nguyên. Bão số 8 quét một vệt dài từ Nam Bình Trị Thiên đến Quảng Nam- Đà Nẵng. Bão số 10 gây thiệt hại lớn vùng bờ biển Quảng Ninh. Mưa lớn ở Tây Bắc, Việt Bắc. Mưa rất to ở trung du, ở đồng bằng Bắc Bộ, ở miền núi Trung Bộ. Nước sông Hồng lên cao, vượt thiết kế. Sông Hoàng, sông Yên, sông Bưởi, sông Cả, sông Mã, sông Chu, sông Gianh, sông La... vượt báo động cấp 3. Đồng ruộng ngập úng. Vụ mùa thất bát. Công trình thuỷ lợi vỡ. Đường giao thông lở từng quãng dài. Cầu cống trôi. Núi đổ. Nhà sập. Của cải mất. Người chết. Tất cả các triền đê đều tràn nước. Nhưng, cũng như quãng đê Nguyên Lộc, không một khúc đê nào bị vỡ hoàn toàn. Hiên ngang trước những thử thách nặng nề, những con đê, nỏ thần trừ thuỷ quái của dân tộc, vẫn vững vàng đối mặt với bão mưa, sóng gió phũ phàng! Mùa mưa bão vẫn còn. Thành phố tiêu điều sau mưa bão vẫn chưa kịp phục hồi các công trình bị tàn phá. Ngõ 401 lênh láng thứ nước cống đen nhánh. Điện thành phố mới khôi phục đã phải dành cho việc chống úng. Trong bóng tối lờ mờ của ngọn đèn dầu hoả trong căn buồng nhỏ vào những ngày này, có những giờ phút ông giáo Cần ngồi lặng như hoá đá. Trên chiếc bàn thờ nhỏ của ông, cạnh ảnh người vợ thân thương, giờ có thêm ảnh Trọng, con trai ông. Trọng đã hy sinh vì kiệt sức lúc hàn khẩu. Ông nhận được tin đau đớn ấy khi cơn bão tan. Và lễ tưởng niệm Trọng tổ chức khi cơn bão tiếp theo bắt đầu khởi phát. ... Mời các bạn đón đọc Mưa Mùa Hạ của tác giả Ma Văn Kháng.
Hiệp Sĩ Sainte Hermine - Alexandre Dumas
Hiệp sĩ Sante Hermine Hiệp sĩ Sainte Hermine là một di ngôn - là lời sau cuối chứa đựng trong nó trái tim yêu tha thiết cuộc sống bộn bề và đầy bủa vây trong xã hội chuyển từ chế độ Phong kiến sang Cộng hòa rồi Đế chế của một thiên huyền thoại. Hiệp sĩ Sainte Hermine cũng khiến cho những xô bồ gấp gáp thực tại bỗng nhiên như chùng lại để người đọc có thể đắm mình trong thế giới lãng mạn phảng phất ấy mang lại một vẻ đẹp thanh khiết trong cuộc sống quá nhiều bụi và khói xăng hiện tại. Lần đầu được đăng nhiều kỳ trên một tờ báo của Pháp nhưng vẫn chưa hoàn tất khi Dumas mất năm 1870. Ông Claude Schoppe, một chuyên gia chuyên nghiên cứu về Alexandre Dumas đã phát hiện ra cuốn sách và ông đã viết thêm ba chương cuối để hoàn tất tác phẩm. Khi xuất hiện trước công chúng, cuốn sách được đánh giá là "hay đến mức không thể tả nổi". Sở dĩ cuốn sách hấp dẫn như vậy là một phần nhờ vào nguồn tư liệu dồi dào về lịch sử mà Dumas đã dày công sưu tầm. Trên bối cảnh của cuộc cách mạng Pháp, cuốn tiểu thuyết đề cập đến sự lựa chọn đầy khó khăn của một nhà quí tộc giữa tư tưởng bảo hoàng và sự ngưỡng mộ cá nhân đối với Napoléon. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844.   Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) Hiệp Sĩ Sainte Hermine *** Một tấm bản đồ lớn được trải trên bàn làm việc của phó vương. Phó vương đi thẳng đến chỗ bản đồ, chỉ tay vào vùng Udine và nói với Lamarque: - Thưa tướng quân, hoàng đế đã ban cho tôi một món quà quý giá khi gửi ông đến bên tôi. Tôi sẽ cho ông biết những tin tức mà tôi được biết. Có thể Áo sẽ phá vỡ hoà ước với chúng ta và sẽ tấn công chúng ta vào ngày 12. Trước đây chưa đầy hai giờ, tôi đã được báo tin này và tôi đã huy động tất cả các tướng lĩnh của các cánh. quân về tập trung xung quanh Udine. Nhưng với những cánh quân từ Italie cần phải năm hoặc sáu ngày họ mới về đến đây. Tướng Lamarque lên tiếng: - Thưa phó vương, xin phép ngài cho tôi hỏi ngài một số câu hỏi. Ngài đang nhắc đến kẻ thù nào? Các đội quân của chúng hiện đang đóng ở đâu? Số lượng của chúng là bao nhiêu? - Về đối thủ của tôi, đó là quận công Jean. - Thế thì càng hay đấy. - Tại sao ông lại nói là càng hay? - Bởi vì ông ta là người ít kinh nghiệm nhất, là người phiêu lưu nhất trong ba anh em. Chắc chắn ông ta sẽ có những lầm lỗi có lợi cho ngài. Vị phó vương thở dài và khẽ nhún vai: - Thật tồi tệ tôi cũng không có kinh nghiệm nhưng chúng tôi sẽ cố gắng hết sức… À, mà ông hỏi tôi những ba câu hỏi cơ mà. ... Mời các bạn đón đọc Hiệp Sĩ Sainte Hermine của tác giả Alexandre Dumas.
Biệt Động Sài Gòn - Chuyện Bây Giờ Mới Kể - Mã Thiện Đồng
Sách Nói Biệt Động Sài Gòn - Chuyện Bây Giờ Mới Kể   Biệt động sài gòn một đội quân không quân phục , không ở đâu trên thế giới này có , là một lực lượng tinh nhuệ , quả cảm của quân đội ta đã thực hiện xuất sắc tư tưởng quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh :Nêu cao tinh thần quyết chiến , lấy ít đánh nhiều , lấy nhỏ thắng lớn .Đây là những cách đánh tiêu biểu cho cuộc chiến tranh nhân dân , cho chiến tranh du kích , góp phần vào thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược , dưới sự lãnh đạo của Đảng và của quân đội ta . Đây là truyện viềt về người thực việc thực , của những nhân chứng lịch sử , vì thế tôi hy vọng cuốn sách này giúp ích nhiều cho việc giáo dục thanh thiếu niên học sinh sinh viên hiểu biết thêm , học tập và phát huy truyền thống chiến đấu anh dũng , đạo đức cách mạng , không ngại hy sinh gian khổ của cha ông , đã viết nên trang sử hào hùng của dân tộc ta trong những năm đánh Mỹ xâm lược ở thế kỷ hai mươi. *** Biệt động Sài Gòn xuất hiện trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, như một sự tất yếu của lịch sử: Cần phải có một đặc chủng tinh nhuệ, với lối đánh độc đáo xuất thần mới tiến công được những mục tiêu trung ương đầu não của địch nằm sâu trong hang ổ cuối cùng của chúng, nhằm tiêu diệt sinh lực cao cấp, phá hủy phương tiện tối tân của địch và đặc biệt là gây tiếng vang chính trih, động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân thành phố cũng như cả nước. Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, nghệ thuật Biệt động phát triển đến đỉnh cao, đã giáng những đòn sấm sét xuống đầu thù, lập nên những chiến công vang dội làm chấn động trong nước và thế giới, nhất là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, góp phần cùng cả nước đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh... dẫn tới thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ (30-4-1975.) Những chiến sĩ biệt động bình thường, được nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng, đã trở thành những thiên thần xung trận, gieo bao nỗi kinh hoàng cho bọn xâm lược và tay sai của chúng. Lịch sử sẽ mãi mãi nhắc tới những cái tên: Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Thanh Xuân (Bảy Bê), Nguyễn Văn Tăng, Bành Văn Trân, Nguyễn Văn Kịp, Lâm Sơn Náo, Trần Phú Cương (Năm Mộc), Lê Văn Việt, Trần Thị Mai, Đoàn Thị Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Thu Trang... gắn liền với những chiến công: Majestic, tàu Card, Đại sứ quán Mỹ, Tổng nha cảnh sát, cư xá Brink, khách sạn Carallelle, Metropol, Victoria, nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, bar Kiện Liên ... Thượng tá Hồ Sĩ Thành (nhà thơ Linh Giang Hội viên Hội nhà văn Việt Nam) từng chiến đấu nhiều năm trên chiến trường Sài Gòn - Gia Định, đã chủ biên, cùng một số tác giả biên soạn cuốn "Lịch sử Biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định 1945 - 1975" đã được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 2003. Sau công trình nghiên cứu lịch sử này, trên cơ sở nguồn sử liệu phong phú, vốn sống thực tế và cảm xúc của mình, tác giả đã dày công tái hiện hình ảnh những chiến sĩ biệt động với những trận đánh tiêu biểu của lực lượng biệt động từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp cho đến kết thúc cuộc chiến tranh chống Mỹ, trong cuốn sách mang tên "Biệt động Sài Gòn - những chuyện bây giờ mới kể". Đây là tập sách viết theo thể loại truyện ký (người thật việc thật) khá sinh động, có sức cuốn hút người đọc. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN Mời các bạn đón đọc Biệt Động Sài Gòn - Chuyện Bây Giờ Mới Kể của tác giả Mã Thiện Đồng.