Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thời Kế Quán

Tầm mười năm về trước, trong rừng sâu mọc lên một kiến trúc kì lạ tên là Thời Kế Quán, gồm một tháp đồng hồ chuyên chỉ giờ lung tung và một biệt thự chôn nửa xuống đất. Trước và sau khi xây Quán, có rất nhiều người liên quan đến nó đã chết, số người thiệt mạng gần đủ để trám kín các ô số trên mặt đồng hồ, lý do không rõ. Chỉ biết từ đó tháp và nhà gần như hoang phế, không ai nhớ đến nữa. Mười năm trôi qua, cây lá đã gần như phủ kín đường vào thì Thời Kế Quán nổi tiếng trở lại, do những người đi rừng bắt gặp ma trôi nổi quanh đó. Tin tức kích thích sự tò mò của một nhóm người chuyên nghiên cứu tâm linh. Họ mời một bà đồng cùng vào Quán để làm lễ gọi hồn, tìm hiểu chân tướng. Khi cửa mở cho họ đi vào, kim trên tháp đã rụng mất. Khi cửa mở cho họ đi ra, ô số tháp có thể thay mới hết. Thời Kế Quán… Một Quán nữa của năng lượng u uất. Một Quán nữa của uẩn khúc đời người phải giải tỏa qua kiến trúc. Một Quán nữa của tài năng lập dị Nakamura Seiji. *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Lộ Quán – 1988; Hình Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. *** Tác giả: Yukito Ayatsuji. Dịch giả: Hải Yến Thể loại: Trinh thám Nhật Cảnh báo: Review viết với giọng điệu tưng tửng, cân nhắc trước khi đọc Nếu “Thập giác quán” đã chinh phục và khiến tôi quyết theo đuổi loạt truyện Quán, thì “Thời kế quán” là cái vẫy tay cuối cùng trước khi tôi tạm biệt series này. Dù series này bị bao lời chê nhưng tôi vẫn trung thành với tác giả Yukito Ayatsuji, cũng từng thích cả bộ Another.   “Thời kế quán” có motip quen thuộc như các cuốn Quán trước, đó là một nhóm người tình cờ tự nguyện bị “giam” vào một không gian u ám hoặc kỳ quái, tại đây, các sự kiện chết chóc liên tiếp xảy ra. Hung thủ có thể thuộc hoặc không thuộc số người đang ở cùng địa điểm đó. Các vụ giết người đều xuất phát từ yêu-hận-tình-thù trong quá khứ. Đặc biệt, tất cả các địa điểm – có chữ cuối trong tên gọi đều là “Quán” – đều là những công trình kiến trúc do một vị kiến trúc sư tài năng cổ quái thiết kế nên. Vị kiến trúc sư này có sở thích đưa vào các công trình của mình những tầng hầm, hành lang ẩn, cửa ngầm, chốt khóa ẩn giấu… Cá nhân tôi nghĩ sống trong những nơi như vậy cũng có nét thú vị riêng, đặc biệt nếu ta là một vị vua thời Trung Cổ đang cần chỗ ẩn nấp trước những người nông dân nổi dậy, nhưng với bản chất đơn giản và thích những gì rõ ràng tươi sáng, tôi không hề muốn bước vào (nói chi là sống) ở những nơi có quá nhiều phòng kín phòng ẩn, quá nhiều những thứ gợi liên tưởng đến hiện trường án mạng (thì nó đúng là hiện trường án mạng mà). Ngay từ những phần đầu, khi thấy xuất hiện chuyện “cầu cơ” thì tôi muốn dừng đọc và cho cuốn sách ra khỏi nhà, nhưng vì thiện cảm đã có từ lâu với series Quán / ngoài ra cũng vì cuốn này được một anh tác giả tôi quen khen hay, nên tôi miễn cưỡng đọc tiếp. Thêm một lý do củ chuối nữa khiến tôi cố gắng đọc đến hết là vì bìa áo đẹp, đẹp hơn cuốn “Hắc miêu quán” dù HMQ có nội dung hay hơn. Câu truyện trong “Thời kế quán” sẽ giúp độc giả có thêm hiểu biết mới mẻ về cách tính giờ cố định và bất định. Bối cảnh truyện là khi smartphone chưa xuất hiện, giới trẻ cũng chưa bị hội chứng nghiện ĐT hoặc làm gì cũng phải chụp hình up fây, nên họ chấp nhận bỏ lại hết phụ kiện tư trang, mặc những bộ áo chùng đen dài cứ như tham gia giáo phái, vào sống mấy ngày trong một không gian thần bí với một nhà ngoại cảm cũng thần bí không kém. Trong bộ áo chùng đen và không gian thiếu ánh đèn thì phân biệt nam nữ còn khó, do đó chỉ cần đánh cắp một chiếc mặt nạ trang trí trên tường là có thể che giấu nhân dạng để thản nhiên giết người. Nhân vật có-thể-xem-như-thám-tử-chính trong truyện vẫn là nhà văn trinh thám kiêm trụ trì một ngôi chùa, không thiết chăm chút bề ngoài và có tài gấp origami cực đỉnh, trong vòng vài phút có thể hoàn thành một mẫu gấp giấy khó mà người khác phải mất mấy tiếng mới gấp xong (tôi thích điều này). Nhưng cũng như những cuốn Quán khác, thám tử này tuy có khả năng suy luận tinh nhạy sắc bén nhưng lần nào cũng suy luận ra khi tất cả nạn nhân đều đã chết. Tuy hiểu rằng trong tiểu thuyết trinh thám thì thường nạn nhân sẽ vô tội (trừ truyện của Tử Kim Trần) nhưng cuốn Quán nào cũng có nhiều-hơn-hai người vô tội bị giết thì tôi cũng hơi buồn bực bức bối. Nhưng đây không phải lý do khiến tôi muốn ngưng đọc series Quán, tôi ngưng đọc là vì hết thấy hay. Giờ khen đến ngoại hình. “Thời kế quán” có bìa được vẽ rất đẹp. Phần dịch thuật tốt, đọc không có cảm giác bị dịch sát nghĩa từ tiếng Nhật. Trình bày đẹp, không có lỗi chính tả hoặc lỗi in ấn. Cũng như những cuốn Quán khác, “Thời kế quán” có danh sách nhân vật và bản vẽ kiến trúc ngay đầu truyện, nhưng khi đọc cuốn này thì tôi không muốn giở tới giở lui để xem cả hai thứ đó, vì nhân vật quá nhiều còn bản vẽ quá phức tạp. Tuy vậy, bản vẽ kiến trúc trong cuốn này có một chi tiết rất thú vị liên quan đến tựa sách. Thêm một điều thú vị khác: thời điểm diễn ra câu truyện là cuối tháng 7 đầu tháng 8, trùng hợp với thời điểm tôi quyết định đọc cuốn này dù không hề biết trước hay cố tình đọc cho trùng. “Thời kế quán” khép lại quãng thời gian trung thành + vui vẻ của tôi với series Quán, nói thì nói vậy nhưng nếu ai tặng những cuốn tiếp theo thì tôi vẫn sẽ đọc. (Sea, 4-8-2020) Cáo Biển Non Xanh *** THỜI KẾ QUÁN Quyển thứ 5 trong xê-ri Quán của Yukito, để khen hay thì hơi khó, nhưng quả thực đây là quyển xuất sắc nhất xê-ri cho đến lúc này. Ưu điểm là rất nhiều nạn nhân, mối quan hệ của các nhân vật trong truyện chồng chéo, mưu kế tinh vi, suy luận phức tạp. Nhược điểm là động cơ tương đối khiên cưỡng, hành vi của thủ phạm thiếu nhất quán, có một chỗ hung thủ gây án mà cảm giác như có đồng phạm (chắc em nhầm, đoạn ý em cũng không đọc kỹ). Nhưng chỗ sáng nhất của tác phẩm này không nằm ở mấy điểm trên, nó sáng bởi vì cho đến lúc này, ít nhất với em, Thời kế quán là tiểu thuyết tiệm cận nhất với những tác phẩm trinh thám cổ điển. Không chỉ tính riêng trong xê-ri Quán, mà kể cả những tác phẩm khác đã từng xuất bản ở Việt Nam như của Shimada Soji hay Paul Halter, hoặc xa hơn như một tác giả (chưa có gì ở Việt Nam) mà em rất thích là Joyce Cato v…v… Tác phẩm này tuy viết ở thời hiện đại, đặt trong thời gian hiện đại (năm 1989) nhưng lại tạo ra được không khí và bối cảnh giống y như thời cổ điển. Điểm cộng lớn ạ. Có một chỗ chắc biên tập viên hơi không chú ý, mong là các anh chị IPM trong group đọc được thì lưu ý giùm em: bản liệt kê thời gian ở trang 306 và 308 bị nhầm ngày, mới cả in thừa ra một đoạn lặp lại những dòng đã ghi phía trên. Còn lại, nhìn chung rất ổn. Phùng Băng *** THỜI KẾ QUÁN Review Thời Kế Quán Tác giả Yukito Ayatsuji Một nhóm người đươc mời đến tham dự một nghi lễ tâm linh gọi hồn tại Thời Kế Quán, một công trình kiến trúc kì dị. Nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi với bản tính hiếu kỳ cũng định đến xin tham quan nhưng bị trễ không vào kịp. Trong lúc đó nhóm người kia bị kẹt trong Thời Kế Quán và lần lượt từng người bị sát hại dã man… Truyện dày nhất trong số các cuốn Quán đã xuất bản đến nay và tình tiết cũng phức tạp nhất. Hung thủ không quá khó đoán nhưng trọng tâm nằm ở kế hoạch gây án. Hắn lợi dụng kiến trúc biệt lập bí ẩn của Thời Kế Quán với 108 cái đồng hồ kì dị để vạch ra một kế hoạch gây án khôn khéo và tàn bạo. Mình cũng chỉ đoán đươc lờ mờ, còn động cơ thì bất ngờ vì tác giả dấu đến phút chót. Với động cơ này mà phải giết một đống người thì cũng hơi điên nhưng không phải trọng tâm nên cũng chẳng cần thắc mắc nhiều. Xét tổng thể thì cũng là cuốn được nhất trong số các Quán, dày hơn 500 trang nhưng viết khá hấp dẫn dễ đọc. Bạn nào thích trinh thám suy luận thì sẽ hợp gu cuốn này. chấm cá nhân 7,75/10 *** Kawaminami Takaaki còn đang loay hoay tìm cách thoát khỏi trận mưa tầm tã thì may thay, cư xá điểm hẹn đã xuất hiện trong tầm mắt. Cậu lôi chiếc đồng hồ quả quýt trong túi áo khoác ra xem giờ. Đây là món đồ cậu thừa kế của ông nội hai năm về trước. Kể từ đó cậu bỏ hẳn đồng hồ đeo tay, chuyển sang dùng loại đồng hồ kiểu cổ này. Đã 4 rưỡi chiều, quá giờ hẹn mất nửa tiếng rồi. Cậu đã có ý thức xuất phát sớm đấy chứ. Nhưng do chưa thông thuộc thành phố, cậu xuống nhầm ga. Khi xuống đúng thì trời đổ mưa, cậu lại mất thêm mấy phút đi mua dù, vất vả lắm mới mò được đường từ nhà ga đến địa điểm như người ta chỉ, rốt cuộc trễ hẹn. Hôm nay Kawaminami có hẹn với một người đã lâu chưa gặp, nên tới trễ thế này thật là xấu hổ. Nhưng người đó sẽ không bực đâu, cậu tự an ủi. Đừng nói ba mươi phút, mà dù phải đợi hai tiếng đi chăng nữa, người đó cũng sẽ mỉm cười bỏ qua cho cậu. Kawaminami vừa giũ nước khỏi dù vừa quan sát bên trong. Cậu đang đứng ở tiền sảnh cư xá Green Heights. Cư xá nằm trên một khu phố yên tĩnh ở Kaminoge, quận Setagaya, Tokyo. Bức tường bên trái là một dãy hòm thư màu vàng đều tăm tắp. Cậu vội đi xem họ tên trên hòm thư để xác định lại số căn hộ. 409. Căn số 9, tầng 4. Đã ba năm rồi hai người chưa gặp nhau. Kawaminami thử mường tượng khuôn mặt anh ta. Đó là một người gầy nhẵng, nước da ngăm đen, cằm hơi nhọn. Anh có cái mũi khoằm, đôi mắt thâm quầng trũng sâu, chân mày lúc nào cũng nhíu lại, môi mím chặt, nhìn qua tưởng là người u sầu khó chịu. Nhưng thật ra cực kì vui tính và hay cười, thi thoảng còn cười kiểu vô tư ngây thơ mà Kawaminami rất thích. Tuy nhiên… Thay vì mong đợi một cuộc tái ngộ vui vẻ, Kawaminami lại thấy lòng ngập tràn ngần ngại, một cảm giác mà cậu hiểu rõ nguồn cơn. Tái ngộ người quen cũ này là một việc vô cùng đáng sợ. Đáng sự không phải do bản thân anh ta, mà do kí ức anh ta khơi gợi. Chỉ cần nhìn thấy anh ta, những hình ảnh khủng khiếp của vụ việc ba năm trước dù muốn dù không sẽ ập về tâm trí cậu. Kawaminami cho rằng suốt ba năm qua, chưa một lần cậu nghĩ đến việc gặp lại anh ta, âu cũng là do e dè cảm giác đáng sợ ấy. Cậu biết, mình không nên ôm mãi trong lòng quá khứ đau thương. Vụ việc ba năm trước khiến cậu mất đi khá nhiều bạn bè thân thiết. Kawaminami sốc nặng đến nỗi cuộc sống sau đó của cậu cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng. Nhưng thời gian trôi đi, cậu đã quyết định mình phải bước tiếp. Đằng nào thì chuyện đã xảy ra là vô phương thay đổi. Cầu xin đến đâu người chết cũng không thể quay về. Vậy thì chỉ còn cách là vượt qua quá khứ mà sống tiếp thôi. Chẳng biết có phải do cơn mưa phiền phức ngoài kia hay không, tâm trí Kawaminami như sũng nước. Cố gắng kiềm chế dòng cảm xúc đang dần trở nên u uất, cậu thả lỏng người và xoay cổ vài cái, rồi tiến về phía thang máy nằm cuối tiền sảnh. Vẩy nốt mấy giọt nước còn sót lại trên dù, Kawaminami giơ tay bấm nút thang máy. Nhưng cậu chưa kịp chạm vào nút thì cửa thang máy đã mở, một phụ nữ bước ra ngoài. Cô mặc sơ-mi tím và bộ vest may bằng vải thô, dáng người cao ráo với mái tóc xoăn nhuộm nâu dài chấm vai. Trong một tích tắc, ánh lấp lánh của sợi dây chuyên màu vàng ôm lấy cần cổ trắng nõn lóe lên chói mắt. Mùi nước hoa kì lạ dâng ngập bầu không khí ẩm ướt khiến Kawaminami có cảm giác mình đang rơi vào một cơn mê. Liếc nhìn khuôn mặt cô, Kawaminami buột miệng thốt lên, “Ồ.” Người phụ nữ mang kính đen to bản, khuôn mặt trang điểm rất dày, tuổi tầm trên dưới ba mươi. Mặc dù cặp kính che đi phần nào khuôn mặt, nhưng Kawaminami có thể khẳng định đây là một phụ nữ xinh đẹp. Cậu ngờ ngợ mình đã thấy cô ở đâu rồi. Không hẳn là gặp ngoài đời, có lẽ là xem trên ảnh… Kawaminami vô thức đứng lại, nhìn theo người phụ nữ. Cô ngó hộp thư nằm bên trái hộp thư căn 409 cậu kiểm tra ban nãy, lấy ra một gói bưu phẩm. Cô cho bưu phẩm vào túi, đoạn bước thẳng ra cửa kính tiền sảnh. Dõi theo đến khi bóng cô mất hút trong màn mưa, Kawaminami nhìn lại hộp thư đựng món đồ cô vừa lấy. Số trên đó là 408. Nằm ngay cạnh căn hộ của người cậu đến gặp. Tiếp theo là… Komyoji Mikoto Kawaminami giật mình khi thấy bảng tên. Trước lúc đặt chân vào thang máy, cậu nhìn cái tên một lần nữa cho chắc. Quả không sai. Đúng là Komyoji Mikoto. Cái tên đề trên hộp thư. Nếu Komyoji Mikoto này chính là Komyoji Mikoto đó thì cái cảm giác đã thấy cô ở đâu rồi của cậu là chính xác. Cậu bước vào thang máy để đi lên, lòng thầm thắc mắc sao lại tình cờ đến thế. Mùi nước hoa vẫn còn thoang thoảng trong buồng thang. Kawaminami nhấn chuông căn 409, cửa liền mở ra. Người xuất hiện trước mặt cậu mặc áo thun màu đen nhăn nhúm, quần jeans dài che đi đôi chân ống sậy. So với lần gặp cuối cùng cách đây ba năm, anh chẳng thay đổi gì mấy. “Ồ,” và vẫn đọc tên cậu thành Conan, hệt như ba năm trước*. “Cậu đến rồi.” Xem giải thích ở Thập Giác Quán, chương 2. “Vâng. Lâu lắm mới gặp lại anh,” Kawaminami gật đầu tạ lỗi. “Xin lỗi anh, tôi tới trễ.” “Hả?” Anh chủ nhà nghiêng đầu. “Không phải chúng ta hẹn 4 giờ à?” “Vâng.” “Thế thì có trễ đâu?” “Hả?” Lần này đến lượt Kawaminami nghiêng đầu. Cậu lôi chiếc đồng hồ quả quýt ra khỏi túi, “hơn 4 rưỡi rồi mà.” “Kì thật. Đồng hồ nhà tôi mới có 4 giờ thôi.” Có khi anh ta chưa tỉnh ngủ cũng nên. Chủ nhà đưa cặp mắt mơ màng về phía góc phòng, “Đó, cậu nhìn đồng hồ đi.” Một chiếc đồng hồ hình bát giác kiểu cổ treo trên tường phòng khách, kim giờ mới gần đến vị trí 4 giờ. “Gì vậy? Không phải nó chết rồi sao?” Nghe vậy, chủ nhà mới để ý. Anh đưa tay phải vò mớ tóc xoăn mềm mại, “Cũng có khi. Ghét thật, cái đồng hồ đó tôi mua ở tiệm đồ cổ đấy.” “Hèn gì…” “Chiều qua tôi mới lên dây cho nó. Chắc hỏng hóc ở đâu rồi cũng nên.” Anh lúc lắc đầu ra chiều đau khổ, rồi quay qua nở nụ cười vô tư lự với Kawaminami. “Mà thôi, cũng đâu có sao.” Đúng như dự đoán, anh chủ nhà, nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi, tên thật là Shimada Kiyoshi, lại bắt đầu cười vô tư, hệt như dáng vẻ ba năm về trước. “Cảm ơn cậu cất công tới đây hôm nay. Làm cậu bận tâm mất rồi. Vào nhà nói chuyện nào, Conan.” Kawaminami Takaaki gặp Shimada Kiyoshi lần đầu vào mùa xuân năm 1986, cụ thể là ngày 26 tháng Ba, đến giờ cậu vẫn còn nhớ. Năm đó cậu 21 tuổi, đang là sinh viên năm ba khoa Công nghệ trường Đại học K, tỉnh Oita vùng Kyushu. Mọi việc bắt đầu khi Kawaminami nhận được một bức thư đề tên người gửi là Nakamura Seiji. Nakamura Seiji là một kiến trúc sư nổi tiếng, vì muốn sống ẩn dật nên đã rời khỏi đất liền, tự mình xây dựng quần thể công trình kì lạ mang tên Lam Ốc và Thập Giác Quán chiếm phần lớn diện tích của Giác Đảo, một hòn đảo nhỏ thuộc vùng Kyushu và sống ở đó. Thế nhưng tháng Chín năm 1985, nửa năm trước khi Kawaminami nhận được thư, ông ta đã chết một cách bất thường. Vì muốn tìm hiểu lá thư bí ẩn này, Kawaminami đã đến nhà ông Nakamura Kojiro, em ruột ông Seiji. Chính tại đây, cậu gặp Shimada. Shimada là con trai thứ ba của một trụ trì. Anh có tính tò mò chằng kém gì Kawaminami. Nhác thấy bì thư đề tên ông Nakamura Seiji quá cố, anh liền tỏ ra quan tâm đặc biệt. Trong khi Shimada là người đam mê các thể loại tiểu thuyết trinh thám thì Kawaminami lại là thành viên của hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám ở trường đại học. Có lẽ đó là lý do khiến Shimada chú ý tới cậu. Mấy ngày sau đó, cả hai bắt tay vào tìm hiểu thư người chết cũng như điều tra thêm về cái chết của ông Seiji nửa năm trước đấy. Nói sơ qua thì kết cục là hai người đã tìm ra chân tướng của vụ giết người trên Giác Đảo mà nạn nhân chính là những người bạn thân thiết của Kawaminami. Tóm lại, vụ việc ba năm trước là vậy. Sau vụ việc trên đảo, cậu và Shimada tiếp tục gặp nhau vài lần nữa, nhưng rồi liên lạc thưa thớt dần đi. Một phần do Kawaminami phải dốc sức hoàn thành khóa luận tốt nghiệp cũng như kì thi đầu vào cao học. Lần cuối cùng hai người gặp nhau có lẽ là tháng Bảy năm đó. Về phần Shimada, sau vụ Thập Giác Quán anh thảnh thơi lang bạt nay đây mai đó, đụng hết vụ án này đến vụ án khác, thi thoảng mới liên lạc thông báo tình hình bản thân. Vào tháng Mười năm 1986, Shimada gọi điện báo cho Kawaminami biết anh có tham gia phá giải vụ án tại Thủy Xa Quán ở Okayama, một trong những công trình kiến trúc do Nakamura Seiji thiết kế. Kawaminami còn nhớ nỗi thôi thúc từ thảm sâu tâm khảm khiến cậu muốn gào lên ngắt lời anh, rằng cậu đã chịu quá đủ những chuyện máu me rồi. Tốt nghiệp đại học xong, Kawaminami học tiếp cao học Công nghệ. Cậu và Shimada bặt tin từ ấy. Hoàn tất chương trình đào tạo thạc sĩ hai năm, Kawaminami đến làm cho Kitansha, một trong những nhà xuất bản lớn ở Tokyo, bắt đầu từ tháng Tư năm nay. Rời khỏi Kyushu đã khá lâu rồi, một hôm cậu quyết định gọi đến nhà Shimada hỏi thăm tình hình thì mới hay anh đã chuyển nhà lên Tokyo từ năm ngoái, chưa hết, Shimada giờ còn là tác giả viết truyện trinh thám, bút danh Shishiya Kadomi. “Lúc đó tôi bất ngờ lắm. Không biết làm sao mà anh lại thành nhà văn.” Kawaminami vừa nói vừa ngồi xuống xô-pha trong phòng khách. Shimada hấp háy mắt tỏ vẻ ngại ngùng. “Tôi cũng bất ngờ. Dân công nghệ như cậu lại đầu quân cho ngành xuất bản, mà còn là chỗ nổi tiếng như Kitansha nữa.” “Tôi nộp thử thôi, không ngờ được nhận. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại trúng tuyển kìa… À nói ra khí muộn, nhưng tôi đọc Mê Lộ Quán rồi đấy. Biết tin cái là tôi tìm đọc ngay.” Mê Lộ Quán là tác phẩm đầu tay của nhà văn Shishiya Kadomi, xuất bản tháng Chín năm ngoái. Khi biết cuốn sách do Kitansha phát hành, Kawaminami kinh ngạc nhận ra cậu với Shimada đúng là có duyên nợ với nhau. “Tôi có gửi một quyển tặng cậu, nhưng do địa chỉ không rõ ràng nên bị gửi trả lại. Cậu đổi chỗ ở rồi à?” “Tôi vào cao học thì căn hộ đó cũng bị phá. Tôi quên nhờ bưu điện chuyển hộ thư tín sang địa chỉ mới nên sách của anh không tới được. Đáng lẽ tôi phải liên lạc với anh, nhưng lu bu chuyện này chuyện kia, thời gian trôi qua lúc nào không hay nữa. Tôi xin lỗi.” “Lỗi phải gì! Tôi cũng thế thôi. Lưỡng lự mãi rồi thành ra thế này.” “Nhưng mà…” “Dù sao thì hôm nay cậu cũng đã tới thăm tôi rồi. Còn gì phải phàn nàn nữa.” Shimada vừa nói vừa gật gù. Kawaminami nhận ra anh đang tỏ thái độ thông cảm với mình. Thâm tâm cậu luôn muốn quên đi những kí ức về vụ việc ba năm trước, nên cố cắm cúi vào khóa luận tốt nghiệp và kì thi cao học. Cậu lo là việc liên lạc với Shimada sẽ lại khiến mình nảy sinh những xúc cảm tiêu cực và sợ hãi. Cảm ơn anh, Kawaminami nghĩ, nhưng không nói ra. “À, anh Shimada này.” Tìm quanh bàn được chiếc gạt tàn đã cáu bẩn, Kawaminami châm thuốc hút. “Anh bỏ chùa mà đi thế có sao không?” Shimada đứng cạnh bếp, đang pha cà phê thì khựng lại, nhún vai hững hờ, “Cha tôi vẫn khỏe. Trước mắt vẫn đủ sức đảm đương vai trò trụ trì chứ chưa cần truyền cho thằng con lang bạt này.” “Anh đến Tokyo để tiện công việc à?” “Cũng không hẳn. Ở đây thì chắc chắn là tiện lợi nhiều mặt, nhưng đó không phải nguyên nhân chính của tôi.” “Thế ạ…” “Nói sao nhỉ, tôi muốn chiêm ngưỡng xem thành phố biến đổi ra sao vào những năm cuối thế kỉ 20. Cuộc sống nơi thôn quê rất lành mạnh, nhưng tẻ nhạt lắm.” “Dạ.” Con người này đúng là không thay đổi gì cả. Bước sang tuổi tứ tuần rồi mà suy nghĩ vẫn không chịu tương xứng với độ tuổi. Kawaminami chực hỏi anh đã nghĩ đến chuyện lập gia đình chưa, nhưng nhanh chóng từ bỏ ý định. Cậu dụi điếu thuốc vào gạt tàn, đảo mắt quan sát nhà cửa. Những tưởng nơi đây phải bừa bộn lắm, hóa ra lại rất gọn gàng sạch sẽ, chẳng giống nơi ở của một người đàn ông độc thân chút nào. Phòng khách rất rộng, sàn lát gỗ. “Căn hộ đẹp thật. Khu này chắc giá cao lắm phải không?” “Ừ, cũng tầm tầm.” “Tầm tầm là sao ạ?” “Chủ cư xá là người quen cũ của tôi. Thông cảm với chiếc ví lép kẹp của một cây viết mới tập tọng nên cho tôi thuê với giá khá rẻ.” “Có chuyện đó nữa à!” “Ừ, tôi từng ở đây hồi đại học rồi. Chủ nhà là con trai một gia đình giàu có. Chúng tôi cùng tuổi nên dễ bắt thân. Cư xá tên là Lục Trang.” “Chà. Hèn gì tên tiếng Anh là Green Heights.” “Ừm. Hắn ta thừa kế cư xá cũ, rồi phá đi xây cư xá này.” Kawaminami thình lình nhận ra ở góc bàn có món đồ là lạ. Một mô hình gấp giấy phức tạp màu đen. “Ác ma hở anh?” Kawaminami trỏ mô hình. “Ừ, nó đã xuất hiện trong Mê Lộ Quán. Cậu vẫn hứng thú với nghệ thuật xếp giấy chứ?” “Vẫn.” Shimada đặt tác phẩm xếp giấy lên lòng bàn tay. Từ tai, miệng, chân tay, đến cả đuôi và cánh, từng chi tiết một đều gắn kết với nhau hết sức chặt chẽ. “Mê Lộ Quán quả là nhận được sự ủng hộ ngoài mong đợi. Nguyên bản cách gấp ác ma là do tác giả của nó gửi thư chỉ cho tôi. Tôi đã đọc các tác phẩm của người ấy nên hiểu được đôi chút về nghệ thuật gấp giấy. Về sau tác giả lại chỉ thêm cho phiên bản ác ma cải tiến. Cậu nhìn chỗ này xem. Phiên bản ban đầu có năm ngón tay thôi.” Kawaminami nhón ác ma lên, ngắm nghía. Quả thật, so với nguyên tác năm ngón, bản cậu đang cầm trên tay có tới bảy ngón. “Ra đây chính là ác ma bảy ngón.” “Chắc cậu đọc KChildhood’s End của Arthur C. Clarke rồi. Overloads* cũng từ cuốn đó mà ra đấy.” Nhân vật người ngoài hành tinh trong Kết thúc ấu thơ, giúp ngăn chặn sự diệt vong của nhân loại. “Tuyệt thật. Mô hình này được gấp bằng đúng một tờ giấy thôi phải không anh, tôi không thấy mối ghép ở đâu cả.” “Ừ.” “Xếp giấy đúng là một nghệ thuật đòi hỏi sự tỉ mỉ tuyệt đối.” Cậu không nghĩ người như Shimada có thể tạo ra từng góc cạnh mô hình hoàn hảo thế này. Nội dung cuốn Mê Lộ Quán cậu đọc hai tuần trước dần dần tái hiện trong đầu. Cả chuyện cậu định nói với Shimada nữa, trên đường tới đây cậu đã suy đi tính lại mãi… Do dự một hồi, cậu quyết định, phải nói ra thôi. “Hừm, anh Shimada… à không, nên gọi là nhà văn Shishiya mới phải, vì dù sao thì hiện giờ tôi cũng là biên tập viên của Kitansha…” “Là gì cũng được, nhưng mà bỏ giùm tôi hai chữ ‘nhà văn’ đi.” “Vậy thì, anh Shishiya!” Kawaminami gọi, rồi dừng lại lấy hơi. “Kì thực tôi cũng không biết nói sao, nhưng mà đúng là có duyên!” “Có duyên? Duyên gì?” “À, chuyện là…” Kawaminami ngập ngừng, liếc mắt lên chiếc đồng hồ bát giác treo tường. Kim vẫn chỉ 4 giờ kém y như ban nãy. Cậu vươn tay kéo chiếc gạt tàn trên bàn lại gần hơn. “Anh biết Biệt thự Đồng Hồ ở Kamakura không?” “Biệt thự Đồng Hồ?” Phản ứng của Shimada Kiyoshi, hay Shishiya Kadomi, thật bất ngờ. Đôi chân mày rậm nhướng cao, mắt mở to nhìn Kawaminami, “Không lẽ…” “Vấn đề nằm ở chính mấy chữ ‘không lẽ’ ấy đấy!” Kawaminami đón ánh mắt Shimada. “Biệt thự còn có tên khác là Thời Kế Quán. Như tôi được biết, đó cũng là một trong những công trình do Nakamura Seiji thiết kế.” “Kể tôi nghe chi tiết hơn đi.” Shishiya Kadomi quay trở về bàn bếp, nhấc tách cà phê vừa pha máy xong, mang lại cho Kawaminami. “Cậu lấy thông tin ở đâu? Kiểu này chắc không phải một mình cậu điều tra rồi!? Nói gì thì nói, cậu hẳn không muốn dây vào những chuyện liên quan tới Nakamura Seiji nữa chứ nhỉ!” “Vâng.” Kawaminami ngậm điếu thuốc mới trên môi, “Chính vì thế, tôi mới nói là có duyên… À, tôi xin phép uống cà phê nhé.” Cậu cho thêm đường vào tách, khuấy đều, nhưng không quên dò xét biểu cảm trên mặt Shishiya! Anh đan hai tay sau đầu, mắt chăm chú nhìn cậu. “Chuyện này bẳt nguồn từ bộ phận tôi làm. Tôi có nói sơ qua trên điện thoại với anh rồi, hồi mùa xuân tôi vào làm tạp chí.” “À, ừ.” Shishiya mím cặp môi dày, gật đầu đồng tình. “Cậu làm biên tập cho CHAOS?” “Anh đọc CHAOS chưa?” “Đọc lướt thôi. Tôi không hứng thú với thể loại tạp chí ấy lẳm.” CHAOS là nguyệt san của Kitansha, ra đời ba năm về trước. Tạp chí lấy tiêu chí “ultra science*”, chủ yếu viết về các chủ đề liên quan đến tâm linh như siêu năng lực, UFO hay những hiện tượng kì bí. Đối tượng độc giả từ 15 đến 20 tuổi. Lúc mới phát hành, tạp chí rất được giới trẻ ưa thích, nhưng sau một thời gian không có thêm bài vở gì mới lạ, giờ chỉ xuất bản cầm chừng thôi. Siêu khoa học. “Ở ban biên tập của CHAOS, tôi đảm nhận phần dự án đặc biệt. Một trong số đó là ‘Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ’.” “Hồn ma à…” Shishiya nhún vai, xoa xoa cặp má hóp. “Có ma thật không?” “Hồi trước có, tôi không rõ chi tiết, nhưng người quanh vùng đều nói thế.” Kawaminami trả lời. “Chủ sở sở hữu biệt thự vốn là ông Koga Michinori, qua đời cách đây chín năm. Trước và sau thời điểm ấy, rất nhiều người trong nhà theo nhau mất mạng. Hiện nay dân trong vùng kháo nhau rằng có một thiếu nữ cứ đi thơ thẩn ở khu rừng gần biệt thự, hình như chính là hồn ma con gái ông Koga Michinori…” “Koga Michinori?! Tôi nghe thấy cái tên này ở đâu rồi thì phải.” “Là người nổi tiếng đấy. Ông là cựu chủ tịch của công ty thuộc hàng nhất nhì trong ngành sản xuất đồng hồ mà.” “À, ra thế. Hóa ra là chủ tịch Koga Michinori của Công ty Đồng hồ Koga. Sau đó lại xây nên Biệt thự Đồng Hồ… Thời Kế Quán hả?” “Nghe bảo công trình kì lạ lẳm. Có tháp đồng hồ khá độc đáo, cấu trúc các phòng rất phức tạp, trong nhà bày đầy đồng hồ cổ.” “Ồ!” Shishiya khe khẽ thốt, mắt dừng ở chiếc đồng hồ bát giác không còn chạy trên tường. Kawaminami tiếp tục, “Công trình kì lạ! Thoáng nghe mấy chữ này tôi đã nghĩ ngay, phải chăng lại liên quan đến ông ta? Bèn hỏi thử phó chủ biên xem sao. Trúng phóc, kiến trúc sư công trình là Nakamura.” “Ra vậy! Đúng là có duyên thật. Conan, cậu cho tôi điếu thuốc!” “Mời anh.” Shishiya rút điếu thuốc ra khỏi bao, lẩm nhẩm, “Điếu cho hôm nay,” rồi châm lửa. Phổi Shishiya vốn rất yếu, vào lần gặp cách đây ba năm, anh từng tuyên bố với Kawaminami rằng đã quyết định mỗi ngày chỉ hút một điếu thuốc thôi. Có thể thấy anh vẫn tuân thủ đúng nguyên tắc đó. “Hừm, dự án đặc biệt của cậu cụ thể ra sao?” Shishiya nhẩn nha nhả khói. “Dự án đó… bảo là thú vị thì cũng thú vị đấy…” Kawaminami bối rối nhìn về phía hành lang dẫn ra cửa chính. “Có chuyện gì khó nói à?” Nghe hỏi, cậu lắc đâu “Dạ không,” chuyển hướng nhìn về lại chỗ cũ, “Mà, anh Shima… à không, anh Shishiya…” “Gọi không thuận miệng nhỉ?” “Không sao ạ. Nãy giờ cũng thuận rồi.” “Có gì đâu, nếu không quen thì không cần gọi thế.” “Không được. Bút danh là để xác nhận danh phận nhà văn của anh mà… Anh Shishiya, căn 408 ở sát vách căn anh phải không?” “Đúng, đây là căn 409 mà.” “Người ở căn đó, anh biết không?” “Căn sát vách á?” Shishiya chớp mắt nghi hoặc. “Biết, cô Komyoji.” “Komyoji Mikoto.” Kawaminami đọc ra cả họ và tên. “Nghe cái tên anh không cảm thấy gì à?” “Cảm thấy gì?” Shishiya ngửa cổ ra sau. “Ý cậu là người nổi tiếng?” “Vâng, cũng có thể nói là người nổi tiếng. Gần đây chị ấy hay xuất hiện trên ti-vi lắm.” “Tôi không mấy khi xem ti-vi. Nghệ sĩ à?” “Không phải nghệ sĩ.” Kawaminami mường tượng lại khuôn mặt người phụ nữ. “Chị ấy là người có khả năng tâm linh, danh tiếng đang lên.” “Có khả năng tâm linh?” Shishiya mở to mắt ngạc nhiên. “Thật á?” “Một nhà ngoại cảm có linh lực mạnh hiếm thấy, lại xinh đẹp nên rất được chú ý. Bên tôi đăng vài bài về chị ấy rồi, ban nãy vừa chạm mặt dưới nhà là tôi nhận ra ngay.” “Trông không có vẻ sở hữu linh lực đặc biệt gì. Thinh thoảng giáp mặt ngoài hành lang tôi chỉ xã giao đôi câu thôi.” “Komyoji xuất hiện trên ti-vi thì toàn mặc đồ đen, mặt mày trang điểm trắng toát như người chết, chắc để tạo bầu không khí ra vẻ thần bí.” “Mà về các hiện tượng siêu nhiên thì quan điểm của cậu như thế nào, tin hay không tin?” “Hồi xưa thì tôi hoàn toàn phản đối mấy chuyện như thế. Nhưng từ ngày làm báo, đọc nhiều tài liệu và bằng chứng, ít nhiều tôi cũng tin là có… Tuy nhiên, chín phần mười bài vở trên báo đều là chuyện bịa.” “Một phần còn lại thì chẳc là chuyện thật hả?” “Có thể nói thế.” “Về linh lực của cô Komyoji, cậu nghĩ sao?” “Tôi cũng không biết nói thế nào… Chị ấy sống một mình ạ?” “Hình như thế. Thi thoảng tôi bắt gặp một người trông cũng có địa vị đi cùng cô ấy.” “Vậy ạ?” “Ừ, mấy lần rồi. Đại khái là một người đàn ông lớn tuổi, nhưng không có vẻ là cha cô ta, chưa chừng lại là bồ bịch cũng nên. Nhà ngoại cảm đi nữa thì cũng vẫn là con người thôi. Đúng không, Conan?” “À vâng… Mà chính vì thế…” Shishiya dụi phần tàn thuốc vào gạt tàn, chờ xem cậu nói gì tiếp theo. “Mấu chốt là ở chỗ, để chứng minh vụ ‘Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ’ là thật, ban biên tập CHAOS đã quyết định đề cử người đẹp tâm linh Komyoji làm trưởng nhóm lần này.” “Ồ, thế hả?” Vẫn cái vẻ đó, Kawaminami nghĩ thầm, rồi nhún vai, “Vậy nên ban nãy tôi mới bất ngờ. Tôi đâu nghĩ chị Komyoji ở tòa nhà này, lại còn ở sát vách anh.” “Ra là thế. Đúng là trùng hợp đến giật mình.” Shishiya cười híp mắt. “Nhưng mà, đôi khi nguồn gốc của nhiều việc đều có liên quan đến nhau cả. Mà bao nhiêu chi tiết ngẫu nhiên trùng hợp thế này thì nhất định là sẽ có chuyện gì đó cho mà xem.” “Nhất định sẽ… có chuyện gì đó…” “Nghe mù mờ nhỉ, không được khoa học cho lắm.” “Nội dung kế hoạch bên tôi đại khái như sau.” Kawaminami tiếp tục. “Từ đêm 30 tháng này, nhóm thực địa sẽ giam mình ở Thời Kế Quán trong ba ngày liên tục. Chị Komyoji với vai trò người gọi hồn sẽ giúp chúng tôi liên lạc với hồn ma đang ngụ trong biệt thự.” “Chắc cậu cũng nằm trong nhóm thực địa phải không?” “Vâng. Thành viên gồm tôi, phó chủ biên, phóng viên ảnh, ngoài ra còn vài sinh viên trong Hội Mystery của Đại học W. “Trinh thám à?” “Không phải trinh thám đâu. Tên hội này hình như là ‘Hội nghiên cứu các hiện tượng kì bí’ nên gọi tắt là Hội Mystery luôn.” “Hầy. Dễ nhầm thật!” “Nghe ‘huyền bí’ chắc mọi người sẽ nghĩ ngay đến người ngoài hành tinh hay UFO. Thật ra chính tôi vẫn luôn nghi hoặc, phải chăng do hiểu lầm này mà tôi mới bị điều đến ban biên tập CHAOS.” “Chắc không đến nỗi chứ…” Shishiya ngả mình ra sau. “Nhốt mình trong ngôi nhà đó hẳn ba ngày? Chà. Chắc sẽ không chịu được đâu.” “Anh nghĩ vậy à?” “Tôi cứ có cảm giác lợn cợn. Nhà ma bình thường thì đã đành, nhưng đây lại còn là một trong những công trình của Nakamura Seiji…” Nhìn vào khuôn mặt băn khoăn của anh nhà văn, Kawaminami hỏi, “Anh cho rằng sẽ xảy ra chuyện gì bất trắc à?” “Ừ… à không. Nói thế thì vô căn cứ quá. Thôi, coi như tôi thần hồn nát thần tính đi.” Shishiya bật cười, nhưng chân mày vẫn nhíu lại. Thập Giác Quán, Thủy Xa Quán, rồi Mê Lộ Quán… cứ điểm qua số thảm án đã xảy ra tại các công trình của Nakamura Seiji thì đủ biết nỗi lo của anh không phải không có lý. “Thời Kế Quán ấy, cậu có tìm hiểu được thông tin gì chi tiết hơn không?” Shishiya hỏi. Như muốn xua đi nỗi ưu tư đang từ từ cuộn lên quấn lấy tâm khảm, Kawaminami lắc đầu thật mạnh, “Chưa có ạ.” “Thế hả? Dù sao thì cũng cứ cẩn thận nhé. Nếu được thì tôi cũng muốn đi cùng. Ngày 30, hai tuần nữa nhỉ?” “Lúc đó anh có bận không?” “Cuốn đang viết hạn chót là mười ngày nữa. Nếu hoàn thành kịp, thì không bận.” Nhìn thái độ không chắc chắn của Shishiya, đủ biết bản thảo đang tiến hành không mấy suôn sẻ. “Thôi tôi cứ về hỏi thăm sếp xem số người tham gia tăng lên có sao không. Nếu không sao thì anh nhập hội nhé.” “Thôi khỏi. Nếu rảnh tôi muốn đi một mình thử coi. Đã là công trình của Nakamura Seiji thì nhất định phải thu xếp đến chiêm ngưỡng.” Nói xong, Shishiya giơ hai tay vươn vai, đứng bật dậy khỏi ghế. “À này, Conan. Gần đây có quán điểm tâm cũng yên tĩnh, đi với tôi ra đấy đi. Từ lúc ngủ dậy tới giờ tôi chưa có gì bỏ bụng. Sẵn tiện hai năm nay bặt vô âm tín rồi, nên tôi cũng có nhiều chuyện muốn hỏi đây.” Chủ nhật, ngày 16 tháng Bảy năm 1989. Bên ngoài, cơn mưa cuối mùa vẫn rả rích rơi. Những lời đầy ẩn ý của Shishiya khuấy động cảm giác bất an mơ hồ trong lòng Kawaminami, nhưng vào thời điểm ấy, cậu vẫn chưa ngờ được rằng chỉ hai tuần sau, trong chuyến viếng thăm Thời Kế Quán, cậu sẽ rơi vào một cơn ác mộng kinh hoàng. Mời các bạn đón đọc Thời Kế Quán của tác giả Yukito Ayatsuji & Hải Yến (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mạng Sống Mong Manh - Tess Gerritsen
Tess Gerritsen (12/7/1953): là một bác sĩ điều trị và một tác giả nổi tiếng thế giới.    Tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của bà về sự trì hoãn trong y học đã dành được rất nhiều lời khen ngợi. Harvest là cuốn sách bán chạy nhất theo tờ Thời báo New York.    Bà cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy khác như The Mephisto Club, Vanish, Body Double, The Sinner, The Apprentice, The Surgeon, Life Support, Bloodstream và Gravity.    Tess Gerritsen sống tại Maine cùng chồng và hai con trai. Có thể ghé thăm website của bà tại địa chỉ: www.tessgerritsen.com *** Dao mổ là một vật đẹp. Bác sĩ Stanley Mackie trước giờ chưa nhận ra được điều đó, nhưng lúc ông đứng cúi đầu, bên dưới những ngọn đèn phòng mổ, ông chợt tự hỏi bằng cách nào ánh phản chiếu từ lưỡi dao giống như ánh sáng do những viên kim cương phát ra. Đó là một tác phẩm nghệ thuật, cái vật hình trăng lưỡi liềm sắc như dao cạo bằng thép không gỉ ấy. Thực vậy, nó đẹp đến nỗi ông chỉ hơi dám nhấc nó lên vì sợ, bằng cách nào đó, sẽ làm cho vật có đầy ma lực lôi cuốn ấy bị mờ xỉn đi. Trên bề mặt nó, những màu sắc cầu vồng, các thành phần tinh khiết tạo thành do sự khúc xạ ánh sáng. - Bác sĩ Mackie? Có chuyện gì sai không? Ông ta nhìn lên và thấy cô y tá, đang rửa tay, cau mày nhìn ông, phía trên chiếc khẩu trang phẫu thuật. Trước giờ ông chưa từng thấy hai mắt cô ấy xanh như thế. Hình như ông đang nhìn thấy, thực sự nhìn thấy quá nhiều việc lần đầu tiên. Màu kem nước da cô y tá. Sợi gân máu chạy dọc theo thái dương. Nốt ruồi ngay phía trên chân mày cô. Hay nó có phải là một nốt ruồi không? Ông nhìn chăm chú. Nó đang cử động, bò như một con sâu về phía cuối mắt cô… - Stan? – Bác sĩ Rudman, chuyên viên gây mê, đang gọi ông, giọng ông ta cắt ngang sự suy nghĩ điên khùng của bác sĩ Mackie. – Anh có ổn không? Mackie lắc đầu. Con côn trùng biến mất. Nó lại trở thành một chiếc nốt ruồi, một đốm nhỏ sắc tố đen trên làn da nhợt nhạt của cô y tá. Ông thở thật sâu vào và nhặt con dao mổ trên khay dụng cụ lên. Ông nhìn xuống người đàn bà nằm dài phía dưới. Chùm ánh sáng phía trên đầu đã được chiếu tập trung xuống vùng bụng dưới của bà ta. Những tấm đắp xanh phẫu thuật, được xếp vào vị trí, làm thành một vùng da trần hình chữ nhật. Đó là một chiếc bụng thon nhỏ dễ thương, có vết sạm nắng do chiếc quần tắm bikini để lại, nối liền hai bờ mông lại – một hình ảnh đáng ngạc nhiên ở giữa mùa bão tuyết này, với những hình ảnh nhợt nhạt mùa đông. Thật xấu hổ cho ông phải dùng dao cắt vào chỗ đó. Một vết sẹo do thủ thuật cắt bỏ ruột thừa để lại, chắc chắn sẽ làm hỏng bất cứ làn da rám nắng nào của vùng biển Caribe. Ông đặt mũi dao lên làn da, tập trung mũi cắt của ông vào điểm McBurney, giữa rốn và chỗ xương hông nhô ra. Vị trí gần đúng của ruột thừa. Với con dao mổ đang ở trong tư thế sẵn sàng để cắt, ông đột nhiên dừng lại. Hai bàn tay ông run lên. Ông không hiểu được điều đó. Việc ấy trước giờ chưa hề xảy ra. Stanley Mackie thường có hai bàn tay vững chắc như đá. Bây giờ ông cần phải nỗ lực thật nhiều để giữ chặt cán dao. Ông nuốt nước bọt và nhấc lưỡi dao lên khỏi làn da. Dễ mà. Hãy thở thật sâu vào vài lần. Việc này sẽ qua thôi. - Stan? Mackie nhìn lên và thấy Bác sĩ Rudman đang cau mày. Cả hai cô y tá cũng thế. Mackie có thể đọc được câu hỏi trong ánh mắt họ, như câu hỏi người ta đã thì thầm về ông mấy tuần nay. Liệu Bác sĩ Mackie già có còn đủ khả năng không? Ở vào cái tuổi bảy mươi tư, ông ta có còn được phép hành nghề bác sĩ phẫu thuật không? Ông không để ý đến cái nhìn của họ. Ông đã tự bảo vệ mình trước Ủy ban Bảo đảm Chất lượng, đã giải thích, trước sự hài lòng của họ, trường hợp cái chết của bệnh nhân vừa rồi của ông. Phẫu thuật, nói cho cùng, không phải là một việc làm không có rủi ro. Khi máu chảy ra quá nhiều trong bụng, rất dễ nhầm lẫn vùng đã được đánh dấu, để cắt một nhát cắt sai lầm. Ủy ban, với sự sáng suốt của họ, đã miễn trách nhiệm cho ông. Tuy vậy, sự nghi ngờ bắt đầu lan truyền trong đầu các nhân viên bệnh viện. Ông có thể nhìn thấy điều đó qua thái độ của các nhân viên y tá, qua sự cau mày của bác sĩ Rudman. Tất cả mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía ông. Đột nhiên, ông cũng cảm nhận được những ánh mắt khác, chúng đang nhìn chằm chằm vào ông, cả tá con mắt lơ lửng trong không khí, chúng thảy đều đang nhìn ông chằm chằm. Ông chớp mắt, và cái nhìn ghê rợn ấy biến mất. Mắt kính tôi, ông nghĩ, tôi sẽ đi kiểm tra mắt kính lại. Một giọt mồ hôi chảy dài trên má ông. Ông nắm chặt cán dao mổ lại. Đây không phải chỉ là việc mổ ruột thừa đơn giản, công việc mà một bác sĩ nội trú cấp thấp có thể thực hiện được. Chắc chắn ông sẽ làm được việc ấy, ngay cả với đôi bàn tay đang run rẩy. Ông tập trung nhìn vào vùng bụng của bệnh nhân, trên chiếc bụng với một vùng da sạm nắng. Jennifer Halsey, ba mươi sáu tuổi. Một du khách ở ngoài tiểu bang, sáng nay bà đã thức giấc trong quán trọ lữ hành Boston, thấy đau ở góc bụng dưới phía bên tay phải. Cơn đau càng lúc càng trở nên tệ hại, bà đã lái xe đi qua vùng bão tuyết tối tăm để đến phòng cấp cứu bệnh viện Wicklin, và đã được chuyển đến cho bác sĩ trực giải phẫu ngày hôm ấy: Mackie. Bà ta không hề biết gì đến những lời đồn đại về năng lực của ông, không biết gì về những lời nói dối và thì thầm đang từ từ phá hủy năng lực chuyên môn của ông. Bà ta chỉ là một phụ nữ đau đớn đang rất mong khối ruột thừa bị viêm của mình được cắt bỏ đi. Ông ấn lưỡi dao vào làn da của Jennifer. Hai bàn tay ông đã hết run. Ông có thể mổ được. Ông cắt một đường thật ngọt. Cô y tá phụ trách việc lau chùi, lấy bông thấm máu chảy ra, đưa cho ông cái kẹp cầm máu. Ông cắt xuống sâu hơn, qua lớp mỡ vàng dưới da, thỉnh thoảng nghỉ để đốt bỏ một vùng bị chảy máu quá nhiều. Không có vấn đề. Mọi việc rồi sẽ tốt đẹp. Ông vào sâu hơn, để cắt bỏ khúc ruột thừa, và sau đó kéo nó ra. Rồi ông có thể về nhà nghỉ trưa. Có thể nghỉ ngơi một chút là những gì ông cần để cho đầu óc sáng suốt trở lại. Ông rạch dao qua màng bụng, vào vùng bên trong bụng. - Kẹp vào! – Ông nói. Cô y tá phụ tá đưa tay cầm cái banh miệng vết mổ bằng thép không gỉ và nhẹ nhàng kéo vết mổ ra. Mackie đi sâu vào trong vết cắt và cảm thấy được ruột, ấm và trơn, bò ngoằn ngoèo quanh bàn tay đeo găng của ông. Cảm giác thật là kỳ lạ, đặt tay vào bên trong cơ thể ấm nóng của một con người. Nó giống như được quay trở lại vào bên trong dạ con. Ông vạch trần khúc ruột thừa ra. Một cái liếc mắt vào lớp mô sưng đỏ cho biết ông đã chẩn đoán bệnh chính xác; cái khúc ruột thừa phải được đem ra ngoài. Ông với tay lấy con dao mổ. Chỉ lúc ông tập trung nhìn lại lần nữa vào cái vết cắt ông vừa thực hiện là có một cái gì đó không chính xác. Có quá nhiều khúc ruột trong vùng bụng, gấp hai lần số chúng cần phải có. Quá nhiều hơn số bà bệnh nhân cần có. Không thể như thế được. Ông kéo mạnh một cuộn ruột nhỏ, cảm thấy nó bị tuột đi, ấm và trơn trượt, qua cặp tay đeo găng của ông. Dùng con dao mổ, ông cắt bỏ cuộn ruột dư thừa ấy đi và đặt cái vòng ướt sũng ấy lên khay. Đấy, ông nghĩ. Như thế sẽ gọn hơn. Cô y tá phụ tá nhìn ông chằm chằm, hai mắt cô ta trợn to lên trên chiếc khẩu trang phẫu thuật. - Bác sĩ đang làm gì thế? – Cô ta la lên. - Quá nhiều ruột. – Ông ta bình thản đáp. – Không thể như thế được. – Ông lại đặt tay vào bên trong bụng và nắm thêm một cuộn ruột nữa. Không cần phải có quá nhiều đoạn ruột dư thừa như thế. Nó chỉ che khuất tầm nhìn của ông ta. - Bác sĩ Mackie, không! Ông ta cắt bỏ. Máu nóng phun ra có vòi từ cái cuộn ruột xấu xa đó. Cô y tá nắm lấy bàn tay đeo găng của ông lại. Ông hất tay cô ra, giận điên lên vì một y tá xoàng dám ngăn hành động của ông lại. - Tìm cho tôi một nhân viên y tá phụ tá khác. – Ông ta ra lệnh. – Tôi cần cái ống hút máu. Phải dọn sạch lớp máu này đi. - Dừng tay ông ta lại! Giúp tôi dừng tay ông ta lại. Dùng tay còn lại, Mackie với tay lấy cái ống hút máu và nhấn đầu nó vào trong vùng bụng. Máu chảy ùng ục trong cái ống và đổ vào bên trong thùng chứa. Một bàn tay khác nắm áo choàng và lôi ông ta ra khỏi bàn mổ. Đó là bác sĩ Rudman. Mackie cố vùng vẫy để thoát ra, nhưng Rudman không thể để cho ông ta đi. - Đặt con dao mổ xuống, Stan. - Bà ta cần phải được dọn sạch. Có quá nhiều ruột trong ấy. - Đặt dao xuống! Vùng vẫy để thoát ra, Mackie lách người để đối diện với Rudman. Ông ta đã quên là ông vẫn còn nắm trong tay con dao mổ. Con dao rạch ngang qua cổ người đàn ông kia. Rudman hét lên và đưa tay lên bịt lấy cổ họng lại. Mackie lùi ra sau và nhìn chằm chằm vào máu đang ứa ra giữa những ngón tay của Rudman. - Đó không phải là lỗi của tôi. – Ông ta nói. – Đó không phải là lỗi của tôi! Một cô y tá la lên vào máy nội đàm: - Cho bảo vệ đến ngay! Ông ta đang nổi điên lên trong này! Chúng tôi cần bảo vệ CHUYÊN NGHIỆP! Mackie trượt chân trên vũng máu lầy lội ngã ra sau. Máu của Rudman? Máu của Jennifer Halsey? Máu chảy thành vũng. Ông quay lại và chạy ra khỏi phòng. Họ đang đuổi theo ông. Tại sao không có gì có vẻ quen thuộc cả? Rồi, thẳng ở phía trước, ông nhìn thấy khung cửa sổ; và phía sau nó, tuyết đang rơi xoáy tròn. Tuyết. Cái dải buộc trắng lạnh ấy sẽ lọc ông sạch lại, sẽ tẩy sạch những vết máu trên bàn tay ông. Phía sau ông, tiếng bước chân chạy rầm rập đến gần. Ai đó la lên: - Đứng lại! Mackie chạy tiếp vài ba bước và nhảy qua khung cửa sổ. Kính vỡ toang ra thành vô số hạt giống như kim cương. Và gió lạnh thổi ngang qua người ông và mọi thứ đều trở nên trắng xóa, một màu trắng pha lê. Và ông ngã xuống. Mời các bạn đón đọc Mạng Sống Mong Manh của tác giả Tess Gerritsen.
Trần Trụi Với Văn Chương - Paul Auster
Giới phê bình phương Tây gọi New York Trilogy là “tiểu thuyết trinh thám siêu hình”, là “giả tưởng phản trinh thám”, là “một biến tấu lạ lùng của thể loại trinh thám”, “một hỗn hợp của trinh thám và tân lãng mạn”, “một trò chơi chắp hình bằng thủy tinh”. Tất cả những cái đó khiến Paul Auster được liệt vào hàng văn sĩ hậu hiện đại. Tuy nhiên, khác với những văn phẩm hậu hiện đại điển hình vốn mang nặng phẩm chất “giả tưởng siêu hình” cùng các “yếu tố phản kháng”, New York Trilogy vẫn nhất quán trong lối kể chuyện, có cách nhìn tân hiện thực, và bộc lộ nỗi ưu tư đầy trách nhiệm của tác giả đối với những vấn đề xã hội và đạo đức. Có thể nói New York Trilogy là một dạng đặc biệt của tiểu thuyết trinh thám hậu hiện đại, vẫn dùng đến những yếu tố quen thuộc của tiểu thuyết trinh thám cổ điển, nhưng lại sáng tạo được một hình thức mới kết nối các đặc tính của thể loại này với các phẩm chất thử nghiệm, siêu hình và châm biếm mỉa mai của văn phong hậu hiện đại. Đó là ý kiến của giới phê bình Âu - Mỹ mà tôi chắt lọc từ nhiều nguồn khác nhau để bạn đọc biết New York Trilogy đã được đánh giá như thế nào, chứ còn ngay từ năm 1987, khi mới chân ướt chân ráo đến New York và đọc ấn bản đầu tiên của nó, tôi đã thấy nó rất hay, mà đã biết tí gì về văn chương hậu hiện đại đâu. Nhưng nói New York Trilogy hay như thế nào với bạn đọc ở đây thì thành chủ quan. Mà tóm tắt cốt truyện thì lại vô duyên, vì làm thế thì có khác gì mời bạn đi xem phim trinh thám rồi dọc đường đến rạp lại bô bô kể luôn ai bị giết ai bị bắt ai bị oan với những màn bất ngờ như thế nào mà cho đến giờ mình vẫn còn hồi hộp. Cho nên tôi chỉ xin phép nói mấy chuyện sau đây: Vừa rồi tôi có đọc cuốn Đường Kách mệnh , in trong tập 1 của bộ Văn kiện Đảng toàn tập ra năm 2005, và thực sự kinh ngạc và khâm phục ngôn ngữ sáng rõ của nó. Vấn đề gì cũng được nói đến một cách giản dị, sáng sủa, không thể ngờ vực gì được, như thể từ ngữ chính là linh hồn của cái mà chúng nói đến. Thế rồi tôi nghĩ đến hệ thống văn bản hiện nay, cái nào cũng cần hàng loạt những tài liệu hướng dẫn, những văn bản dưới luật, mà vẫn khó tìm thấy những tương đương của các câu chữ nọ trong thực tế. Và tôi tự hỏi: Ấy là vấn đề ngôn ngữ hay là vấn đề con người? Tại sao ngôn ngữ ngày càng mất tính chân xác và trở thành rối rắm như hiện nay? Làm thế nào để lại có thể ăn nói rõ ràng sáng sủa như trong Đường Kách mệnh ? Chuyện đi tìm lại thứ ngôn ngữ chân xác này của con người này, lạ lùng thay, lại là một chủ đề cốt lõi của New York Trilogy. Dạo hè vừa rồi tôi có dịch cuốn Tham vọng Bá quyền , bàn về tình hình thế giới sau sự kiện 11/9 – tức là sau khi tòa tháp đôi vĩ đại ở New York bị khủng bố phá sập. Hôm nọ lại đọc tin bên Dubai đang xây dựng một tòa tháp lớn nhất thế giới cao đến gần một cây số, bèn liên tưởng đến tòa tháp Babel huyền thoại, rồi ngẫm đến lịch sử loài người, rồi bỗng nhận ra rằng cái hệ lụy bi thảm trong ngôn ngữ và văn chương của tham vọng loài người cũng lại là một chủ đề của New York Trilogy. Tháng trước thì đọc thấy trên mạng một loạt những bài viết và ý kiến nhân hội nghị lí luận phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ở Đồ Sơn. Hình như ai cũng cố đề cập đến công việc và nội tâm của những người sống bằng ngôn ngữ và nghề viết. Lúc ấy tôi đang dịch đến đúng đoạn giai thoại về cái bô đầy cứt trong phòng ngủ của nhà thơ Mỹ vĩ đại Walt Whitman và bộ óc của ông bị đánh rơi tung tóe xuống sàn phòng thí nghiệm (sau khi ông chết), rồi nhận xét của một nhân vật về hình thức tương tự giữa cái bô cứt và bộ óc của con người phi thường ấy. Nhân vật ấy kết luận rằng: “Chúng ta luôn nói đến chuyện cố thâm nhập vào bên trong một nhà văn để hiểu rõ hơn công việc của ông ta. Nhưng khi vào thẳng trong đó rồi thì lại chẳng thấy gì nhiều – nghĩa là nội tạng ai thì cũng vậy thôi, chẳng khác nhau là mấy”. Than ôi, đúng là chẳng khác nhau là mấy về hình thức, nhưng cái thế giới nội tâm của người sinh ra để viết văn vẫn cứ là một bí hiểm khôn lường. Và lạ lùng thay, hình như cái bí hiểm khôn lường ấy mới là chủ đề xuyên suốt của tập trinh thám siêu hình hậu hiện đại này. Thế rồi tôi chợt nhận ra rằng cả ba cái chủ đề trong New York Trilogy thực ra chỉ là triển khai của một ý niệm cơ bản duy nhất, ấy là tấn kịch bi tráng của giấc mộng và sự nghiệp văn chương khi người cầm bút phải loại bỏ mọi giả hình để trực giao trần trụi với bản thân và thế giới trên con đường đi tìm ngôn ngữ đích thực để diễn ngôn sự thật. Cái giá phải trả cho văn chương thật là ghê gớm! Lạ thay, đúng lúc ấy thì tôi nhận được email của biên tập, nói liệu có nên dịch cái đầu đề New York Trilogy là Bộ ba truyện New York hay không? Có thể đại đa số bạn đọc Việt Nam sẽ hiểu Bộ ba truyện New York là ba câu chuyện gì đó về thành phố hoặc tiểu bang New York ở bên Mỹ. Mà hiểu nhầm như vậy thì rất thiệt cho độc giả. Sau khi thảo luận tới 9 phương án khác nhau, chúng tôi mới quyết định đặt tên cho bản dịch tiếng Việt này của New York Trilogy là TRẦN TRỤI VỚI VĂN CHƯƠNG. Chúng tôi tin rằng đây là tên gọi gần gụi nhất với tấn kịch bi tráng mà Paul Auster đã mô tả rất lạ lùng trong ba câu chuyện hoàn toàn độc lập mà lại quan hệ chặt chẽ với nhau này. Để câu chuyện đậm đặc các vấn nạn hiện sinh của mình được chân xác, Paul Auster, cũng như các nhân vật của ông, đã viện đến nhiều giai thoại lịch sử về những số phận khác nhau, và cách viết này, cộng với cấu trúc nhiều nguồn của các câu chuyện, đã khiến cho Trần trụi với văn chương trở thành một văn phẩm mà người đọc cảm thấy không biết ai thực sự là tác giả. Chính Paul Auster cũng xuất hiện trong truyện, với tên thật của mình, tên vợ tên con thật của mình (Siri là vợ hiện nay của ông, và hai người con là Daniel và Sophie). Nhân vật xưng tôi trong Căn phòng khóa kín thì lại xưng là tác giả của cả Thành phố thủy tinh lẫn Những bóng ma ; và còn nói rằng cả ba truyện trong tập này thực ra chỉ là một câu chuyện, diễn biến theo ba giai đoạn. Bạn cứ đọc đi đã rồi sẽ tự tìm ra được câu chuyện ấy. Phải chăng đó cũng là một đặc tính của văn chương hậu hiện đại: Đặc tính interactive – tương tác : Người đọc phải tham gia và tự tìm thấy câu chuyện cùng nghĩa lí của nó. Trần trụi với văn chương là một văn bản mở. Với một văn bản như thế này, bạn đọc nên coi mình cũng là tác giả, và nếu tác giả đã viết nó ý tứ và thận trọng như thế nào thì ta cũng nên đọc nó ý tứ và thận trọng như vậy, rồi sẽ ngộ được cái khoái cảm đặc biệt mà loại văn chương này mang lại. Để giúp bạn đọc thưởng thức tối đa cái khoái cảm đã hứa hẹn ấy, tôi có dùng một số giải pháp dịch thuật theo lí thuyết Skopos – đặt mục tiêu phục vụ người đọc lên hàng đầu – để vừa chuyển tải được hết ý vừa giữ được liền mạch văn của tác giả cũng như mạch đọc của độc giả; đồng thời cũng cố gắng chú thích hết những chi tiết mà tôi cho là bạn đọc có thể chưa biết, mà lại rất nên biết để thưởng thức câu chuyện đặc biệt này. Thành phố New York là nơi tôi đã trải qua những chuyện lạ lùng nhất trong đời mình. Có lẽ vì vậy mà từ lâu tôi đã muốn dịch New York Trilogy . Tôi xin có lời cảm ơn Công Ty Văn Hóa Phương Nam đã tin rằng công việc có động cơ cá nhân này sẽ giúp bạn đọc mở thêm một cửa sổ nhỏ nữa vào thế giới kì thú của văn chương Mỹ đương đại. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Carol Mann và Paul Auster đã không ngại trả lời nhiều câu hỏi của tôi trong khi dịch cuốn sách này. Bây giờ thì mời bạn đọc hãy bước vào thế giới của Paul Auster như một thám tử văn chương, rồi thể nào bạn cũng phát hiện ra những điều kì thú.   Trịnh Lữ Hà Nội, cuối Thu 2006. Mời các bạn đón đọc Trần Trụi Với Văn Chương của tác giả Paul Auster.
Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 4: Vòng Đua Nước Pháp - Paul Jacques Bonzon
Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. *** Tuyệt vời! Antonin Aubanel - tức Baba - một cuarơ có nhiều thành công, đã được tham gia vòng đua xe đạp quanh nước Pháp. Nhưng sự xuất hiện đột ngột của cuarơ mới này không được nhiều người hài lòng, những hành động, thái độ xấu xa luôn bám theo anh suốt chặng đường đua. May mắn thay, những người bạn đồng hành đã để mắt tới anh... *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** Cái tên Antonin Aubanel đoạt chức á quân cuộc đua xe đạp Milan - San Remo làm chấn động thủ lãnh Tidou. Coi, buổi trưa hôm ấy tan học xong là hắn cầm tờ nhật trình nóng hổi chạy như bay về cư xá Chữ Thập Hung. Còn phải hỏi, Antonin Aubanel chỉ chịu thua quán quân Rodolfi người Ý trong gang tấc ở chặng nước rút, chuyện động trời ấy mà không tri hô lên cho mọi người biết thì quả là chẳng đáng mặt... đồng hương của á quân chút nào. Hắn chạy một lèo lên tầng năm. Vừa thoáng thấy bà mẹ đứng nơi ngưỡng cửa, Tidou la làng: - Mẹ ơi, mẹ còn nhớ anh Antonin Aubanel không? - Biết. Thằng Aubanel cùng quê Reillanette với nhà mình, hồi nhỏ hay nói ngọng phải không? Mẹ còn nhớ nó cứ bập bẹ cái tên Aubanel thành... Aubaba ấy. Nó là anh ruột thằng Frederic bạn con chớ gì? - Đúng rồi, hồi con mới tập đi anh ấy chuyên môn cõng con lên cổ làm kiệu. - Mẹ vẫn nhớ “Aubaba” là trưởng nam ông chủ lò bánh mì ngon nhất trong làng. Do tật cà lăm của cu cậu nên ai cũng gọi nó là... Baba thay cho cái tên Antonin Aubanel. Tidou đắc chí hỏi lại: - Mẹ chỉ biết có vậy thôi sao? Bà mẹ cười tủm tỉm: - Mẹ còn biết hơn nhiều ấy chứ. Sáng nay mẹ và ba con vừa thấy ảnh của nó đăng trong mục Thể Thao báo Tiến Bộ. Người ta đã đưa Baba lên tít chín tầng mây. Thế là bí mật của Tidou đã bị... bật mí trước người lớn. Hắn tiu nghỉu đưa tờ báo mới mua cho mẹ. - Con mới mua tờ Thời Đại có hình cuarơ Antonin Aubanel mình mẩy đầy bùn đất đang tu một chai nước khoáng có dán nhãn quảng cáo tiếp thị đây. Con đọc cho mẹ nghe nhé. - Ồ, đọc di nào. Tidou rổn rảng: - “Nước Pháp đang có một siêu vô địch sau cuộc tranh tài Milan - San Remo. Có lẽ không ai có thể ngờ được vùng nắng ấm quanh năm Reillanette lại sản sinh ra một ngôi sao cho làng xe đạp Pháp. Cách đây sáu tháng, chàng trai Antonin Aubanel chưa hề được ai biết đến bỗng trở thành đề tài cho các trang báo thể thao sau cuộc đua Milan - San Remo. Antonin Aubanel mới 20 tuổi, đã bứt lên ở 40 cây số cuối cùng, thoát khỏi sự đeo bám của hơn 50 cuarơ có hạng là một kỳ tích không phải ai cũng làm được. Tidou thở mạnh. - Cuối bài báo, người ta cho rằng anh Baba sẽ là một siêu sao trong tương lai. Mẹ nghĩ sao? - Mẹ cũng nghĩ như họ. Báo chí thường làm nhiệm vụ tiên tri mà. ... Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 3: Sừng Chó Sói của tác giả Paul Jacques Bonzon.
Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 3: Sừng Chó Sói - Paul Jacques Bonzon
  Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** Thấm thoát Tidou đã hơn 14 tuổi. Thời gian trôi tựa tên bay, mới ngày nào Thủ lãnh nhóm Sáu người còn chân ướt chân ráo làm quen với cái nóng điên người của mùa hè và run cầm cập trước mùa đông băng giá ở Lyon thì bây giờ thời tiết ở quê hương mới đã trở nên người bạn đồng hành của hắn trong những cuộc phiêu lưu mạo hiểm tuyệt vời. Hắn lên lớp 9 cùng lúc với sự trưởng thành của năm chiến hữu. Giáo viên chủ nhiệm của lớp 9 hiện thời là cô Lecoeq, một người phụ nữ đứng tuổi, những kỷ niệm học đường với ông thầy râu quai nón coi như đã lùi xa. * Tidou thức giấc trong cảm giác lành lạnh của tiết Nôen. Chăn màn hình như cũng biết thế nào là trời rét, chúng cuộn tròn quanh thân hình hắn để tìm hơi ấm loài người. Trời ạ, lạnh kiểu này thì cho dù Kafi có là sói thần chắc cũng chết cóng mất. Không biết cái đệm có đủ ấm cho nó không? Vừa mở mắt ra, hắn lập tức chiếu tướng quanh quất. Ê, sao tự nhiên Kafi không ngủ trong phòng. Tidou hoảng hồn bật dậy thò đầu xuống gầm giường. Thật kỳ cục, con cẩu từng nổi tiếng ngáy như sấm cũng chẳng thấy nằm đó. Cơn ác mộng ngày nào làm tóc gáy hắn dựng đứng: Kafi lại mất tích nữa chăng ? Hắn bồn chồn gọi: - Kafi, Kafi... Chỉ có luồng gió mang theo cái giá lạnh cuối năm thốc qua cánh cửa khép hờ trả lời hắn. Quỷ tha ma bắt thiệt, Tidou không một giây do dự nhảy phóc xuống giường, bước ra hành lang tối om. - Chẳng lẽ con chó lại nổi máu săn chuột ư? ... Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 3: Sừng Chó Sói của tác giả Paul Jacques Bonzon.