Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chết ở Venice - Thomas Mann

Chết ở Venice là một cuốn sách quyến rũ đến bệnh hoạn. Ánh mắt của kẻ si tình, đã trở thành cái gương soi chiếu tuyệt đối của cái đẹp. Chàng thiếu niên trẻ tuổi hiện lên qua đôi mắt mê mẩn của Aschenbach thì trở nên tuyệt mỹ, không gì có thể cưỡng lại được. Đó không phải là thứ ái tình đơn thuần, và Mann ngay từ đầu cũng không chỉ viết về một câu chuyện tình yêu đơn phương tuyệt vọng. Mann đeo đuổi cậu bé niên thiếu xinh đẹp kia qua hết các đường phố ổ Venice, cũng để ngắm vẻ xinh đẹp như thiên thần của cậu. Từng chi tiết, đường nét trên khuôn mặt, thân thể cậu đều được nhìn ra bằng ánh mắt mê mụ kỳ lạ. Chỉ có cái tình của một nghệ sĩ đắm đuối cái đẹp mới có thể nhìn thấy và nâng niu từng chút từng chút đẹp đẽ đến như thế. Và đoạn cuối của cuộc hành trình, với cái chết lặng lẽ của Aschenbach, Chết ở Venice đã đạt đến sự tuyệt hảo của câu chuyện, lúc người nghệ sĩ hoàn toàn quy phục cái đẹp, bước vào của sự dấn thân vào mê đắm, con người không thể nào thoát ra được, chỉ có cái chết mới là tận cùng. Cái kết đỉnh cao này, dễ khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của người đàn ông trong Tiếng cười trong bóng tối của Nabokov, khi đã đi đến tận cùng của si mê và cám dỗ. Ở cuốn sách mỏng này, người đọc có thể dễ dàng nhận ra cái chất đặc biệt của Mann, ấy là sự suy nghiệm đậm chất triết lý, với những quan điểm rõ ràng về nghệ thuật bằng lòng tôn sùng cái đẹp. Mann coi cái đẹp là nguồn cơn của sáng tạo, và vì thế cả đời mải miết đi tìm cái cùng sâu bản nguyên của cái đẹp. Ở kiệt tác đầu tay, Gia đình Buddenbrooks, là cái đẹp của sự những hào quang tàn lụi. Tới Núi thần lại là cái đẹp tuyệt đỉnh cô quạnh của thiên nhiên xa vắng, và lòng người mênh mang. Còn với Chết ở Venice, bên cạnh thành phố Venice xinh đẹp như hư ảo, chính Mann đã tìm ra cái con đường để phá hủy của những vòng vây triết lý khô cứng, nguyên tắc, để khai phá tận cùng bản năng thấm nhuần cái đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ. Chết ở Venice được xuất bản lần đầu vào năm 1912, cùng thời gian đó, ông bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Núi thần. Hai cuốn sách này có nhiều điểm khá tương đồng, dù xét về mặt ngôn ngữ, Núi thần đưa lại cảm giác tươi sáng dễ chịu hơn, và những suy niệm về tình yêu, lòng ham muốn nhục dục cũng như cái chết đều được miêu tả rõ ràng, chi tiết hơn, khác với sự dồn nén, ngột ngạt cực độ mà tác phẩm mang lại. Nếu nhà văn Aschenbach vì cuồng si cậu bé Tadzio mà ở lại Venice, thì chàng trai Hans Castorp cũng vì ham muốn một thiếu phụ người Nga mà ở lại núi thần. Đặc biệt, trong cả hai cuốn sách, Mann đều chọn những nơi có bối cảnh tuyệt đẹp để kể câu chuyện của mình, ấy cũng được xem là cái duy mỹ vô cùng của nhà văn. Núi thần hoàn thành sau Chết ở Venice hơn chục năm với nhiều lần sửa chữa, bỏ dở. Thomas Mann được trao giải Nobel năm 1929. *** Paul Thomas Mann là nhà văn Đức đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20. Thomas Mann sinh ở Lübeck, Đức, là con trai thứ hai của Thomas Johann Heinrich Mann (thương gia và thành viên Hội đồng thành phố), và Júlia da Silva Bruhns (một người Brasil sang Đức năm lên 7 tuổi). Thomas có anh trai tên là Heinrich, cũng là một nhà văn nổi tiếng, một em trai và hai em gái. Thời nhỏ gia đình Mann sống sung túc, các con được học hành đến nới đến chốn. Năm 1891, cha Thomas Mann mất vì bệnh ung thư. Theo di chúc của cha ông, gia đình bán công ty và nhà ở Lübeck, mẹ ông và các con chỉ sống bằng tiền gửi tiết kiệm. Từ đây cả gia đình chuyển đến sống ở München - một trung tâm văn hóa và tri thức của nước Đức. Năm 19 tuổi Thomas Mann đã bắt đầu viết báo nhưng luôn mơ ước trở thành nhà văn như anh trai mình. Những truyện ngắn đầu tiên của ông in trong tập Der kleine Herr Friedemann (Ngài Friedemann bé nhỏ) xuất bản năm 1898. Năm 1901, Mann xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrooks) - kể về sự suy sụp của một gia đình ba đời buôn bán ở Lübeck trong bối cảnh cạnh tranh của chủ nghĩa đế quốc. Bộ tiểu thuyết đặc sắc này đã mang lại cho ông giải Nobel năm 1929. Thomas Mann là nhà văn có tư tưởng nhân đạo dân chủ tư sản, chống phát xít, đại diện cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc Đức. Ông tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý, đi sâu vào các khía cạnh bệnh hoạn, cái phù du và cái chết. Văn của Mann chính xác, từ ngữ gọt giũa kĩ lưỡng, đòi hỏi người đọc phải tập trung suy nghĩ, ông dùng nhiều từ ngữ nước ngoài, sử dụng nhiều kiến thức về triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học. *** T   HOMAS MANN (1875 - 1955) là văn hào Đức nổi tiếng đầu thế kỷ XX với bút pháp hiện thực sinh động, ẩn giấu nụ cười mỉa mai thâm thúy. Mùa hè năm 1911 Thomas Mann đến nghỉ mát ít ngày trên hòn đảo Lido thuộc Venice, và một loạt sự kiện cùng ấn tượng ở đó đã tạo cảm hứng cho nhà văn sáng tác truyện dài này. Đầu tiên chỉ là một ý tưởng hoàn toàn ngẫu húng, nhưng rồi câu chuyện tự nó có sức sống riêng, tự nó phát triển theo Logich của riêng mình để dẫn đến một kết cục tất yếu. Cũng như đa số các tác phẩm của Thomas Mann, Chết ở Venice không phải là một cốt truyện hoàn toàn hư cấu: gã lái đò gondola kỳ quái, cậu bé Tadzio và cả gia đình, chuyến đi không thành vì hành lý bị thất lạc, trận dịch tả, anh nhân viên văn phòng du lịch thật thà, tay nghệ sĩ hát rong hung ác -tất cả đều có thật ngoài đời, nhà văn chỉ cần đặt vào trong tác phẩm. Cả nhân vật chính Aschenbach cũng có hình mẫu thực, trong bài nói chuyện On Myself đọc trước sinh viên trường đại học Princeton ở Mỹ năm 1940 tác giả đã thú nhận, ban đầu ông dự định viết khác hẳn. Ông muốn viết về mối tình muộn màng Goethe (1749 -1832) dành cho cô Ulrike von Levetzow, khai thác đề tài một vĩ nhân khi về già sa ngã vì tình yêu với một cô gái trẻ. Nhưng rồi ông chưa dám đụng đến thần tượng Goethe vì sợ mình không đủ sức. Vậy nên ông đã dựng lên nhân vật chính là một nhà văn hiện đại, một nghệ sĩ nhạy cảm, tiêu biểu cho đạo đức và đạt đến vinh quang nhờ lao động. Tướng mạo bề ngoài của Gustav von Aschenbach ông mượn của Gustav Mahler (1860 -1911), một nhạc sĩ lớn người Áo khi ấy vừa từ chuyến lưu diễn Mỹ trở về và đang lâm bệnh nặng. Chủ đề chính của ông vẫn là sức công phá mãnh liệt của tình yêu, khi mù quáng lao theo dục vọng đã hủy diệt cả một cuộc đời nền nếp, một sự nghiệp tưởng chừng vững như bàn thạch. Câu chuyện được kể với nhiều ẩn dụ, giàu hình ảnh và tính nhạc, kết cấu rành mạch với năm chương sách như năm màn của một vở bi kịch cổ điển: chương một dẫn dắt vào đề, chương hai giới thiệu nhân vật chính; chương ba giới thiệu bối cảnh xảy ra sự việc, chương bốn diễn biến sự việc và chương năm đạt đến cao trào với kết cục bi thương. Tác giả cho ta làm quen với một Aschenbach đạo cao đức trọng, đã đạt tới tột đỉnh vinh quang, có những sáng tác "chính thống" và "mô phạm" được đưa vào sách giáo khoa để giáo dục thanh thiếu niên. Ngôn ngữ trang trọng với "phong cách bậc thầy" được nhấn mạnh một cách cố ý, để sau đó dần dần càng làm nổi bật từng bước sa ngã của Aschenbach, đánh mất phẩm giá, trở nên lố bịch và vô liêm sỉ. Chắc chắn tác giả có nhiều mối tương đồng với nhân vật chính, tiểu sử Thomas Mann có rất nhiều điểm trùng hợp với cuộc đời Aschenbach, nội dung tác phẩm cũng là mối ưu tư của tác giả, diễn giải nội tâm Aschenbach cũng là cách ông giải quyết xung đột giữa tư tưởng thị dân tiểu tư sản và nhân sinh quan nghệ thuật của chính mình. Nhưng Thomas mann không phải là Aschenbach. Có một điều khác biệt căn bản, mấu chốt của vấn đề, đó là sau mấy ngày nghỉ ngơi trên đảo Lido. Thomas Mannđã trở về với công việc sáng tác, với "cuộc vật lộn hằng ngày". Ông chỉ để trí tưởng tượng tiếp tục bay bổng tìm cách trả lời câu hỏi, nếu nhà văn buông thả theo cảm xúc, lơ là nghĩa vụ và trách nhiệm, thì kết cục sẽ ra sao? Ông nhìn thấy kết cục thảm hại của Aschenbach, ông biết cách giữ mình không để rơi vào kết cục như thế, nhưng lòng ông vẫn day dứt không yên vì ông biết mình đã phải đánhnh đổi những gì. Như vậy Chết ở Venice là sự tiếp nối những tác phẩm trước của Thomas Mann, cũng như Hanno trong Gia đình Buddenbrook (1901), Spinell trong Tristan (1903) và Tonio Kröger trong tác phẩm cùng tên (1903), nhân vật Aschenbach bị giằng xé trong mối xung đột nội tâm giữa nghệ thuật và cuộc sống. Bằng những hình tượng này, Thomas Mann đã đưa cuộc đời nghệ sĩ của mình ra mổ xẻ, cuộc đời "một thường dân lạc lối vào nghệ thuật, một lãng tử giang hồ luôn hoài vọng mái ấm gia đình, một nghệ sĩ không ngừng bị lương tâm cắn rức", như nhân vật Tonio Kröger của ông tự nhận. Bây giờ xin mời độc giả lần tìm vào những ngõ ngách nội tâm của nhà văn Aschenbach, ở nhiều khá cạnh cũng là của chính Thomas Mann... Hannover, tháng Giêng 2012 Nguyễn Hồng Vân Mời các bạn đón đọc Chết ở Venice của tác giả Thomas Mann.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhật ký Chim Én - Amélie Nothomb
Một gã chạy việc lặt vặt đổi danh tính để trở thành một tay giết thuê có hạng. Cho tới một ngày, gã tình cờ đọc được nhật ký của một cô bé mười sáu tuổi, nạn nhân của gã. Cuốn nhật ký khiến gã bừng tỉnh. Cuộc đời gã rẽ sang một trang mới, tình yêu trong gã nảy nở, tâm hồn gã trở nên ngây thơ hơn, trong sạch hơn... nhưng mọi chuyện liệu có quá muộn ? Một lần nữa, cuộc chiến giữa Thiện và Ác, giữa Tình yêu và Hận thù trở thành chủ đề chính trong sáng tạo của Amelie Nothomb. Vẫn với lối tượng trưng hóa và liên tưởng tài tình, cùng một loạt các đoạn hội thoại sắc sảo, lạ lùng, không bao giờ nhàm chán, Nhật ký Chim Én từng giúp tác giả của nó trở thành một trong những nhà văn trẻ nhất có tên trong danh sách đề cử giải Goncourt năm 2006 *** Amélie Nothomb sinh ngày 13/8/1983 là người Bỉ, nhưng Amélie Nothomb lại chào đời và trải qua một phần tuổi thơ tại Nhật Bản. Từ sau cuốn tiểu thuyết đầu tay Hồi ức kẻ sát nhân xuất bản năm 1992 đến nay, mỗi năm cô cho ra mắt bạn đọc thế giới một tác phẩm mới. Trong đó phải kể đến Phá ngầm tình tứ (1993) với các Giải thưởng Vocation và Chardonne; Sững sờ và run rẩy (1999) với Giải thưởng Lớn của Viện Hàn lâm Văn học Pháp; Không Adam cũng chẳng Eva (2007) với Giải thưởng Flore. CÙNG MỘT TÁC GIẢ: - Phá ngầm tình tứ, 1993. - Những chất dễ cháy, 1994. - Những bài châm biếm, 1995. - Xiêm y, 1996. - Mưu sát, 1997. - Thủy ngân, 1998. - Sững sờ và run rẩy, 1999. (Tác phẩm đoạt giải thưởng lớn của Viện Hàn lâm Pháp). - Lý luận trừu tượng về điện thoại, 2000. - Thuốc xức tóc của kẻ thù, 2001 - Từ điển Robert về danh từ riêng, 2002. - Kẻ phản Chúa, 2003. - Tiểu sử của cơn đói, 2004. - Axit sunfuric, 2005. - Không Adam cũng chẳng Eva (2007) ***   Ta tỉnh dậy trong bóng tối mà không biết gì hơn. Ta đang ở đâu? Chuyện gì đã xảy ra thế này? Nhoáng một cái, ta đã quên hết tất cả. Ta không biết ta là đứa trẻ hay người lớn, là đàn ông hay đàn bà, là kẻ có tội hay người vô tội. Bóng đen dày đặc này là bóng đen của đêm tối hay bóng đen của tù ngục? Ta chỉ biết điều này, càng cay đắng hơn vì đó là hành trang duy nhất ta có: ta vẫn đang sống. Chưa khi nào ta nếm trải trạng thái này: ta chỉ vẫn đang sống mà thôi. Cuộc sống là gì trong cái khoảnh khắc mà người ta có được đặc ân hiếm hoi là không nhận dạng nổi chính mình? Trong khoảnh khắc này: ta sợ. Tuy nhiên, không lúc nào ta được tự do hơn lúc ta chìm đắm trong trạng thái lãng quên ngắn ngủi khi tỉnh giấc. Ta là một đứa trẻ biết ngôn ngữ. Ta có thể đặt một từ nào đó cho sự khám phá còn chưa được gọi tên vào lúc ta sinh ra: ta bị đẩy vào nỗi khiếp sợ của người sống. Trong giây phút kinh hoàng thoáng qua ấy, thậm chí ta không nhớ được rằng ngay cả khi tỉnh giấc, những hiện tượng như thế vẫn luôn có thể xảy đến. Ta đứng dậy, ta tìm cửa ra vào, ta lạc lối như ở trong một khách sạn vậy. Và rồi những kỷ niệm, trong thoáng chốc, đưa thân xác ta trở về với thực tại và trả lại linh hồn cho nó. Ta thấy yên tâm nhưng thất vọng: vậy ra ta là thế, vậy ra ta chỉ là thế mà thôi. Ngay sau đó vị trí của nhà ngục giam thân xác ta lại hiển hiện. Căn phòng của ta thông với phòng rửa ráy nơi ta vẫn thường dìm mình trong nước lạnh. Ta mong muốn cọ rửa gì trên mặt mình với sự cuồng nhiệt và thứ nước lạnh giá này nhỉ? Sau đó chu trình khép kín được khởi động. Người nào có công việc riêng của người nấy, cà phê-thuốc lá, trà-bánh mì nướng hay dắt chó-đi dạo, người ta đã thu xếp công việc sao cho ít sợ hãi nhất có thể. ... Mời các bạn đón đọc Nhật ký Chim Én của tác giả Amélie Nothomb.
Nguyễn Du - Trên Đường Gió Bụi - Hoàng Khôi
Cuộc đời Nguyễn Du có nhiều chỗ “mờ”! Mười năm gió bụi là cả một khoảng thời gian dài Nguyễn Du ở Thái Bình làm gì, hay còn đi đâu nữa? Nguyễn Du có chống Tây Sơn không và chống như thế nào? Mối tình Nguyễn Du với Hồ Xuân Hương kéo dài ba năm là lúc ông ở độ tuổi bao nhiêu? Nguyễn Du theo Gia Long có phải là tự nguyện? Rồi Truyện Kiều sáng tác ở thời điểm nào? Tại sao nhiều bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du viết về cảnh vật, con người Trung Hoa lại không trùng với con đường mà ông đi sứ?... Tất cả những điều đó, các nhà nghiên cứu đều đang gắng sức giải mã. Cũng đã có những giả thiết, những đoán định hợp lý, hợp tình, song vẫn cần những chứng cứ chính xác để tìm sự đồng thuận cao. Nhưng không phải vì thế mà người ta bớt yêu Nguyễn Du, bớt yêu Truyện Kiều, bớt yêu Văn tế thập loại chúng sinh và hàng trăm bài thơ, bài văn của Nguyễn Du bằng chữ Nôm, chữ Hán. Trái lại, các công trình nghiên cứu Nguyễn Du và tác phẩm của ông càng ngày càng thu hút giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Người Mỹ, người Anh, người Pháp, người Nga, người Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… đều có những tổ chức, những chuyên gia nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều. Người Việt hải ngoại hướng tới quê hương cũng tiếp cận Nguyễn Du và tác phẩm của ông không ít. Ở trong nước, di tích Tiên Điền, quê hương Nguyễn Du được xem là di tích cấp đặc biệt của quốc gia. Đặc biệt năm 2011, một tổ chức nghiên cứu Truyện Kiều của các nhà khoa học và những người yêu mến Nguyễn Du, yêu mến Truyện Kiều được thành lập, gọi là Hội Kiều học Việt Nam. Tất cả những điều ấy cho thấy Nguyễn Du và Truyện Kiều luôn là một ma lực, hấp dẫn. Đặc biệt Truyện Kiều được phổ biến, quảng bá bằng rất nhiều hình thức, phương thức từ bác học đến dân gian. Sinh hoạt về Kiều là một sinh hoạt văn hóa và Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa. Trong khi chờ để bổ sung một niên biểu chuẩn xác về Nguyễn Du, đã có những nhà văn thả trí tưởng tượng để tái hiện hình ảnh Nguyễn Du, đắp thịt, đắp da cho nhân vật mà mình yêu mến với mong muốn bè bạn cảm thông hơn về số phận, về nhân cách, về tâm hồn của một con người, một thi nhân nổi tiếng. Sự thực, người dựng chuyện về Nguyễn Du không nhiều. Ngoài một đôi mẩu giai thoại được loan truyền, chuyện về danh nhân Nguyễn Du chỉ mới có cuốn Ba trăm năm lẻ của Vũ Ngọc Khánh xuất bản năm 1988 và cuốn Nguyễn Du của Nguyễn Thế Quang xuất bản năm 2010. Cả hai cuốn trên đều nói rất sơ lược, thậm chí không nhắc tới khoảng thời gian mười năm Nguyễn Du lưu lạc. Là người đi sau, chúng tôi may mắn được tiếp xúc với nhiều công trình nghiên cứu và phát hiện mới, có điều kiện gặp gỡ và học hỏi nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia ở Hội Kiều học Việt Nam, cùng với mong muốn được góp một chút gì cho quê hương Nghi Xuân của mình, nên mạnh dạn dựng một Nguyễn Du theo cách mình hiểu. Nhà viết tiểu thuyết lịch sử lừng danh người Pháp, Alexandre Dumas từng khẳng định: Lịch sử chỉ là chiếc đinh để tôi treo bức tranh của mình. Tôi rất đồng tình với quan niệm này nên đã đặt nhân vật của mình với những thăng trầm lịch sử, đặt nhân vật của mình trong tương quan với những con người có thực cùng thời, chiếu ứng với những bài thơ của chính nhân vật viết ra rồi dựng lên một khung cảnh tôi cho là hợp lý. Truyện được dựng trên tinh thần như thế và tác giả chỉ tái hiện nhân vật Nguyễn Du trong khoảng thời gian từ thơ ấu đến ngoài tuổi 30 (khoảng năm 1793). Tôi cho rằng Nguyễn Du không chỉ có mười năm gió bụi mà cả cuộc đời ông sau trước đều trong cõi phong trần. Cuốn sách này được viết để bày tỏ tình yêu của tôi với quê hương và văn hào Nguyễn Du, để góp tiếng nói của một thành viên Hội Kiều học chào mừng ngày kỷ niệm 250 năm sinh của ông và cũng để nhớ tới thân phụ tôi, người đã nhiều năm gắn bó với Nguyễn Du và Truyện Kiều. Tôi xin cảm ơn những người thầy, những bạn bè đã gián tiếp gợi ý cho tôi qua các công trình mà tôi được tham khảo. HOÀNG KHÔI *** Cuốn sách Đoạn Trường Đoàn Nguyễn Tuấn chỉ tập bản thảo viết tay Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du đang đặt ngay ngắn trên án sách của chú em và hỏi: -Hai chữ “Bất uất” ghi ngoài bìa sách liệu có ăn nhập gì với câu chuyện của chú đang viết ra? Nguyễn Du giãi bày: -Ở cuối sách, em chỉ mong mua vui cũng được một vài trống canh nhưng bác biết đấy, thế nào trong truyện chẳng gửi gắm ít nhiều tâm sự. Hẳn sẽ có người chê, người cười! Vậy nên dẫn ra ngoài bìa hai chữ của cụ Khổng. Cụ dạy nhân tri bất uất, bất diệc quân tử hồ (người khác không hiểu tôi, tôi cũng không oán hận). Em viết vậy là để cho rộng đường dư luận, mong sao được nhiều người mặc sức khen, chê. -Chú quả là người rộng lượng và lo xa. Truyện này rất lôi cuốn! Anh nghĩ nếu sách này được phổ biến rộng ra, thiên hạ sẽ còn nhiều chuyện để bàn. -Đa tạ anh quá khen. Xin được anh chỉ dẫn thêm nữa. -Anh em mình đều là người đọc sách, lại rất hiểu nhau nên anh xin nói thật lòng mình. Cuốn sách của chú không chỉ phê bình trong một vài buổi là đủ. Riêng anh, mấy hôm nay suy ngẫm rất nhiều, lại nhớ lần anh em trò chuyện ở Hà Bắc nên đã mạn phép viết mấy lời đề từ. Chú xem rồi bổ chính nhé! Nguyễn Du trân trọng đón nhận tờ hoa tiên Đoàn Nguyễn Tuấn trao. Bài đề từ chỉ có tám câu bằng chữ Hán rất cô đọng nhưng đúng là một nhận xét tổng quát, chuẩn xác, lại bộc lộ được cảm xúc chân thành. Từ đàn lệ ngữ Duyên các kiều tình Kiến kiếm bất kiến nhân Thần hồ ký hĩ Thái hoa nhường mật Tân khổ vi thùy Thị phong khởi ngữ Diệc lãnh đố ngữ. Tạm dịch: Lời mĩ lệ chốn văn đàn Tả mối tình đáng yêu nơi lầu gác Khác nào kiếm thuật cao siêu thần diệu Chỉ thấy kiếm mà không thấy người Hái hoa để gây mật Đắng cay gian khổ là ai nhỉ? Mà nổi gió nên lời Vậy mà cũng lắm điều đố kỵ lạnh nhạt. ... Mời các bạn đón đọc Nguyễn Du - Trên Đường Gió Bụi của tác giả Hoàng Khôi.
Người Đàn Ông Của Tôi - Rachel Gibson
Những gì xảy ra ở Vegas. . . không xảy ra ở đây. Danh sách những việc "phải làm" ở Las Vegas của Autumn Haven là xem chương trình biểu diễn của Cher và chơi bài – chứ không phải thức dậy và kết hôn với anh chàng khốn kiếp vô cùng quyến rũ Sam LeClaire. Khoảnh khắc đầu tiên cô bắt gặp anh ta nhìn mình như thể một món ăn tráng miệng đầy ngọt ngào, linh tính mách bảo với Autumn rằng cô nên chạy đi. Và cô đã làm thế - ngay trong kỳ nghỉ cuối tuần đầy cuồng nhiệt và mơ mộng của đời cô. Nhưng vào sáng thứ Hai, cô lại quay về với thực tại, và trước khi cô có thể nói "đưa tôi tách café", Sam biến mất. Giờ đây, khi đã trở thành một nhà lên kế hoạch đám cưới thành công, Autumn không còn gặp gỡ anh chàng siêu sao môn khúc côn cầu phụ tình kia… cho đến khi cô tổ chức "Ngày Đặc Biệt" cho đồng đội anh ta, nơi Sam đã làm ồn ã mọi chuyện lên khi tiếp tục những gì anh ta từng bỏ mặc! Nhưng cô đã thề rằng người đàn ông của cô phải là một người nghiêm túc. Liệu Sam có phải là người đàn ông dành cho cô hay liệu cô có vứt bỏ anh ta mãi mãi? *** Rachel Gibson sinh ở Boise, Idaho, USA. Cha cô làm việc cho một công ty điện thoại, mẹ cô làm nội trợ. Hiện sống cùng chồng và 3 con tại Boise. Sáng tác văn do ảnh hưởng từ tiểu thuyết lãng mạn The Spanish Rose (tác giả Shirlee Busbee). Độc giả yêu thích văn chương của cô bởi khám phá được hơi thở mới của dòng văn học lãng mạn hiện đại. Bốn cuốn sách của cô đều trong danh sách Top 10 cuốn sách văn học lãng mạn được yêu thích nhất trong năm của Mỹ (Ten Favorite Books of Year của Romance Writer of America). Tiểu thuyết đầu tay Simply Irresistible trong top Sách bán chạy do tờ New York Times và USA Today bình chọn. Một số tác phẩm của Rachel Gibson đã được dịch và xuất bản tại Việt nam của tác giả Rachel Gibson, gồm có: Bí Mật Của Jane Chỉ Thuộc Về Anh Còn Đó Đam Mê Giã Biệt Tình Xa Hẳn Là Yêu Hãy Cứu Em Không Còn Tâm Trạng Để Yêu Không Gì Ngoài Rắc Rối Không Phải Tình Hờ Lola Chạy Trốn Người Đàn Ông Của Tôi Nói Dối Và Hẹn Hò Trực Tuyến Rắc Rối Với Ngày Valentine Thảm Họa Tình Tình Yêu Trở Lại Vương Phải Tình Em Yêu Em Cuồng Si *** Sam LeClaire là một gã khốn điển trai. Ai cũng nghĩ vậy. Tất cả mọi người từ các phóng viên thể thao cho tới các bà mẹ yêu thể thao. Cô gái đang quấn mình trong ga giường của anh cũng nghĩ vậy. Mặc dù cô ta không hẳn là một cô gái. Cô ta là một phụ nữ. "Em không hiểu vì sao em lại không được đi theo." Sam rời mắt khỏi nút thắt cà vạt sọc xanh của mình và nhìn vào cô nàng siêu mẫu trên giường anh qua gương. Tên đầy đủ cô ta là Veronica Del Toro, tuy nhiên, cũng giống như Tyra, Heidi, hay Gisele, mọi người chỉ biết đến tên cô ta. "Bởi vì anh vốn không biết em định đến," anh giải thích lần thứ mười. "Đưa khách đến đột xuất như thế là bất lịch sự." Điều này không phải lý do thật sự. "Nhưng em là Veronica." Chính thế. Đó mới là lý do đấy. Cô ta cư xử khiếm nhã và quá yêu bản thân. Anh cũng không phản đối gì tính cách ấy. Có thể chính bản thân anh cũng thô lỗ và quá yêu mình, nhưng, không như các mẩu tin viết về mình, anh thật sự biết xử sự đúng lúc đúng chỗ. "Em sẽ không ăn nhiều đâu." Mà không cần cố gắng chút nào. Đó là một trong những điều khiến anh khó chịu về Veronica. Cô ta chẳng bao giờ ăn. Cô ta gọi món như thể mình đói ngấu đói nghiến nhưng rồi chỉ gạt gạt thức ăn trên đĩa. Sam thắt nút cà vạt và nghiêng cằm sang một bên khi cài cổ áo. "Anh đã gọi taxi cho em rồi." Qua gương, anh nhìn Veronica nhổm dậy khỏi giường đi về phía mình. Cô ta bước đi trên thảm như thể đang ở trên sàn catwalk. Chân và tay đều dài, ngực bự nhưng hơi cứng ngắc. "Khi nào thì anh quay lại?" cô ta hỏi khi vòng tay quanh eo anh. Cô ta tựa cằm lên vai anh, ngước nhìn anh qua đôi mắt màu nâu sẫm. "Muộn lắm." Anh nghiêng đầu sang một bên, và khi cài chiếc khuy cổ còn lại, anh liếc nhìn chiếc nhẫn to bự có được khi thắng cúp Stanley trên tủ áo. Chiếc nhẫn bằng vàng trắng – xen vàng – gắn một trăm sáu mươi viên kim cương, ngọc lục bảo, và sapphire tạo thành logo của đội bóng trên mặt. Một bên thân khắc hình cúp Stanley cùng năm chiến thắng, bên còn lại là tên và số áo thi đấu của anh. Anh đã tháo nhẫn ra cho Veronica xem nhưng không định đeo vào lại. Dù có là tuýp đàn ông thích đeo đồ trang sức đi nữa, thì chiếc nhẫn khổng lồ kia không chỉ che kín đến tận khớp tay trên ngón tay phải của anh mà còn quá mức phô trương. Kể cả với một gã thích phô trương. "Muộn thế nào?" ... Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Của Tôi của tác giả Rachel Gibson.
Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ - Cecelia Ahern
Những người như anh được gọi là người bạn tưởng tượng, người  bạn vô hình. Nhưng gọi như thế nào và tin hay không, điều đó không quan trọng. Thế giới Tỉn Phai của anh tồn tại không phải để người ta nói đến hay tán tụng, mà để đáp ứng nhu cầu của những ai cần đến nó. Và anh sẽ trở thành người thay đổi cuộc đời em… chỉ cần em nhìn thấy anh… Thế giới của em là những mảnh ước mơ tan vỡ. Em đã tự đóng cửa trái tim, tự giết chết những mơ mộng và chôn vùi hy vọng của chính mình. Tất cả những gì em có, lẽ ra chỉ là những vết thương mãi mãi không thể lành… nếu em không nhìn thấy anh… Gặp em, quen biết em, và hơn hết là yêu em… Nhìn thấy anh, tin anh, và hơn hết là yêu anh… Đó chính là bầu trời sau cơn mưa tươi sáng nhất… *** - “Độc đáo và quyến rũ trong sự hoà trộn ấn tượng giữa Harry Potter và những cuốn sách dành cho thiếu nữ” - Library Journal - “… Trong sáng, ấm áp và sâu sắc, cuốn tiểu thuyết thứ ba của Cecelia Ahern tràn ngập yêu thương, lãng mạn và sự diệu kỳ. Nếu em thấy anh bây giờ hiện đang được hãng Disney dựng thành him. Ahern cũng là người được Glamour, tờ báo hàng đầu tại Anh, trao tặng danh hiệu” – Nhà văn nữ của năm 2008 - “Ahern đang trong hành trình chinh phục các độc giả trung thành của Marian Keyes và Jane Green” – Library Journal - “Ahern đã xoa dịu những trái tìm tan vỡ bằng niềm hy vọng và sự hài hước trong câu chuyện xúc động và cuốn hút này” – Publishers Weekly - “Câu chuyện hấp dẫn và ấm áp về tình yêu và tình bạn” – Company *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'The Gift' và đã được xuất bản cuối năm 2008. *** Tôi trở thành bạn thân của Luke vào một sáng thứ Sáu của tháng Sáu. Chính xác là chín giờ mười lăm phút sáng, và tôi biết đích xác thời gian là vì lúc ấy tôi nhìn đồng hồ. Chẳng hiểu vì sao tôi làm thế, vì tôi không cần phải có mặt ở bất kỳ nơi đâu vào bất kỳ thời điểm cụ thể nào. Song tôi tin điều gì cũng có lý do của nó, có lẽ vì vậy nên khi đó tôi xem đồng hồ chỉ là để sau này có thể kể lại cho các bạn nghe câu chuyện của mình một cách chính xác. Chẳng phải khi kể chuyện thì các chi tiết là rất quan trọng đó sao? Tôi mừng là đã gặp Luke sáng hôm đó vì tôi hơi buồn khi phải chia tay cậu bạn thân cũ, Barry. Cậu ấy không thể nhìn thấy tôi nữa. Nhưng điều đó phỏng có quan trọng gì, cái chính là giờ đây cậu ta thấy vui hơn, tôi cho đấy mới là điều quan trọng. Chia tay bạn thân là một phần công việc của tôi. Điều đó chẳng vui vẻ gì cho cam, nhưng tôi tin mọi thứ đều có mặt tích cực của nó, vì vậy tôi đã nhìn sự việc này theo chiều hướng là nếu mình không rời xa những người bạn thân, thì làm sao có những người bạn mới được. Mà kết bạn lại là phần công việc tôi thích nhất. Có lẽ đó là lý do tôi được đề nghị nhận công việc này. Chúng ta sẽ hiểu về công việc của tôi ngay thôi, nhưng trước hết tôi muốn kể cho các bạn nghe về buổi sáng đầu tiên tôi gặp cậu bạn thân Luke của mình. Tôi khép cánh cổng dẫn vào vườn trước nhà Barry và bước đi, rồi hoàn toàn chẳng vì lý do gì cả, tôi rẽ trái ở khúc ngoặt đầu tiên, rồi rẽ phải, rồi lại trái, đi thẳng một đoạn, lại rẽ phải và dừng lại bên cạnh một khu dân cư mang tên Fuchsia Lane(1). Hẳn cái tên đó bắt nguồn từ những cây hoa vân anh mọc khắp nơi này. Ở đây chúng mọc hoang dại. Xin lỗi, khi nói “đây” thì có nghĩa là tôi ám chỉ một thị trấn mang tên Baile na gCroíthe thuộc hạt Kerry. Nó nằm ở Ailen. Baile na gCroíthe từng được dịch ra tiếng Anh là Hartstown, tuy nhiên nếu dịch trực tiếp từ tiếng Ailen thì nó có nghĩa là Thị trấn của Trái tim. Theo tôi thì cái tên này nghe hay hơn. Tôi thấy mừng được trở lại đây; khi mới vào nghề tôi đã có vài việc ở đây, nhưng lâu rồi tôi chưa quay lại. Làm nghề này, tôi được đi khắp nước, thậm chí có lúc còn ra cả nước ngoài, khi bạn bè dẫn tôi theo đi nghỉ, những dịp chỉ chứng tỏ rằng dù ở bất cứ nơi đâu bạn cũng luôn cần một người bạn thân. Fuchsia Lane có mười hai ngôi nhà, mỗi bên sáu ngôi, và chẳng nhà nào giống nhà nào. Đoạn đường cụt này quả thực rất đông đúc người qua lại. Bạn hãy nhớ cho rằng đó là một buổi sáng thứ Sáu, và vào tháng Sáu nữa, nên trời nắng đẹp, sáng sủa, và tất cả mọi người đều phấn chấn. À, không phải tất cả mọi người. Rất đông trẻ con đang chơi đùa ngoài đường, đạp xe, đuổi bắt, chơi lò cò, ném lon và vô số trò khác. Bạn có thể nghe thấy tiếng chúng cười và la hét đầy phấn khích. Có lẽ chúng vui vì cũng được nghỉ học. Mặc dù trông đứa nào cũng hay nhưng tôi không bị thu hút. Chúng không liên quan đến công việc của tôi. Một người đàn ông đang cắt cỏ trong khu vườn trước nhà, một phụ nữ tay đeo đôi găng to xù lấm đất đang chăm sóc luống hoa. Mùi cỏ mới cắt tỏa ra ngai ngái, tiếng kéo cắt, cắt, xén, tỉa nghe như tiếng nhạc trong không trung. Ở khu vườn bên cạnh, một anh chàng đang huýt sáo một bản nhạc mà tôi không quen, tay cầm vòi phun nước rửa xe và ngắm những đám bọt xà phòng trôi xuống thành xe, để lộ lớp vỏ sạch bong. Thỉnh thoảng anh ta hướng vòi phun nước vào hai cô bé con mặc đồ bơi sọc đen vàng. Trông chúng như hai con ong nghệ khổng lồ. Tôi thích thú nghe tiếng chúng cười khúc khích. ... Mời các bạn đón đọc Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ của tác giả Cecelia Ahern.