Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dòng Đời Nổi Trôi

.. "Cúi đầu thủ thế... Tay không rời mặt... Vào góc... Thoát ra... Thọc, thêm lực hơn nữa... Thân trên linh hoạt... Móc ngang... Chân di chuyển nhanh hơn nữa... " - Tiếng thầy võ sư quát dồn dập hướng dẫn khi tôi đang tập thực chiến trên sàn Boxing cùng một đàn anh khác. Đến với cái môn thể thao nhồi thể lực này chỉ vỏn vẹn có gần 2 năm nhưng cũng đủ biến tôi từ một thằng hs cấp 3 yếu ớt, trầm cảm. Trở nên rắn rỏi và cứng cáp hơn cả về cơ thể lẫn tâm lý. Nói về cuộc sống của tôi đến thời điểm hiện tại có thể miêu tả bằng những từ như "Buồn", "Khổ, "Bất Hạnh", "Thiệt thòi"... Hajzzz, tự bản thân tôi thì thấy hợp với 2 chữ "Vô cảm" hơn. Từng có một gia đình hạnh phúc, tròn đầy như bao gia đình khác với bố mẹ và một thằng em trai kháu khỉnh. Nhưng tất cả đã chấm dứt với tôi bởi một tai nạn giao thông khi tôi vừa đỗ vào trường chuyên cấp 3. Cả gia đình vui mừng đón tin vui và tưởng thưởng cho tôi một chuyến du lịch xa nhà mà trước khi thi tôi đã đòi hỏi nếu đỗ. Cuộc đời đã cướp mất gia đình của tôi hay là chính bản thân tôi đã làm hại những người thân yêu ruột thịt của mình. Nhiều đêm tỉnh dậy trong cơn ác mộng, nhìn vào vết sẹo dài gớm ghiếc trên ngực. Tôi lại tự dằn vặt tại sao kẻ chết đi không phải là mình mà lại là bố mẹ và em trai. Khóc rất nhiều, trầm cảm có, ù lỳ có. Từ một hs cấp 2 năng động và hoạt bát, tôi trở thành một hs cấp 3 hoàn toàn khác, vô cảm và băng giá... với mọi thứ xung quanh. Cuộc đời đã ném vào tôi những nỗi mất mát đau đớn nhất. Thì hà cớ gì tôi lại phải cởi mở đón nhận cái cuộc đời ấy. Tôi còn tồn tại và phát triển trong cái cuộc đời này, hoàn toàn chỉ là bởi nghĩa vụ và trách nhiệm với lời hứa mà tôi đã hứa với cha mẹ trước giờ lâm tử. Rằng phải cố sống và sống tốt. Tôi sẽ cố sống, còn để sống tốt... tôi chưa thể cảm nhận, vì tôi vô cảm, hay có khi cố sống cũng là một dạng thù hình của sống tốt rồi cũng nên. 3 năm cấp 3 trôi qua nhạt nhẽo, chẳng có ấn tượng gì đọng lại trong tôi ở cái tập thể này và ngược lại cũng vậy... không bạn bè, không người yêu. Thay vào đó những dấu ấn và bạn bè của tôi lại được hình thành rõ nét ở cái clb boxing này. Nơi mà có lẽ chỉ vài tháng nữa tôi sẽ phải xa nó... nếu tôi đỗ đại học. - Lên Hà Nội nhớ đừng đua đòi, cố gắng làm thêm để trang trải nhé. Rảnh thì về chơi với cô - Cô ruột tôi cất tiếng. Tôi cười khẩy, chào cô rồi quay lưng ra đi mà không có lấy một chút lưu luyến gì cái ngôi nhà này, gia đình của cô tôi. 3 năm sống trong ghẻ lạnh và cô độc, tôi cũng không dám trách móc gì vì ít nhất cũng đã phải sống nhờ nhà họ trong một thời gian dài. Dù tiền sinh hoạt hàng tháng thì vẫn trích từ tài khoản trong ngân hàng mà bố mẹ tôi để lại cho tôí khi nào tới 18t mới được toàn quyền sử dụng. Cơ mà tôi có cái quyền để không yêu quý cái ngôi nhà ấy. Ngày biết tin đỗ đh cũng là ngày mà tôi lên sẵn phương án cho một cuộc sống tự do, tự lập, riêng một cá thể hoàn toàn. - "Con chào bố mẹ, anh chào em trai nhé. Tạm biệt gia đình thân yêu... Con đi đây" - Chờ cho nén nhang cuối cùng tắt hẳn tôi khoác balo rời nghĩa trang thành phố để bắt xe khách lên HN. Ngoảnh mặt nhìn qua ô kính nơi chôn rau cắt rốn của mình, nơi mà gia đình mình mãi mãi ở lại đến khi xa dần, khuất dần... Con đang bước tiếp hành trình của con đây, con sẽ cố gắng thực hiện toàn vẹn lời hứa với gia đình mình... Con hứa... Chiếc xe bon bon trên đường quốc lộ ngày một xa dần, bên trong nó là một con người cô độc với những hành trình chông gai của cuộc đời đang chờ đợi trước mắt... *** Địa ngục tinh thần - sẽ là đao to búa lớn khi nói vậy nhưng quả thực với riêng bản thân tôi chuỗi ngày vừa qua tựu chung 1 phần có thể ví von như vậy. Trống rỗng trong cả suy nghĩ lẫn tâm trí. Đáng sợ nhất là mớ bòng bong tỉnh trong mơ, mơ trong tỉnh cứ bu bám đầu óc khiến tôi nhiều lúc trở nên si mê ko biết đâu là thực tại. Có lần đi bộ còn suýt bị xe đâm chỉ vì ko nghĩ là mình đang sang đường. Nhiều sáng thức dậy tôi vô thức vồ lấy đt, nt chúc ngày mới theo thói quen rồi giật mình, lại xóa đi khi chợt nhớ ra 1 điều. Để rồi sau đó chỉ biết vò đầu lắc lắc, mong sao những gì xảy ra chỉ là 1 cơn ác mộng. Rượu say, đòn tỉnh - chính trong thời điểm luẩn quẩn ấy, 1 người đã xuất hiện khiến tôi tỉnh lại với thực tại. Ko ai khác chính là KN... 1 trận đòn nhừ tử từ đám tay chân và từ chính anh ta. - Dám làm nhiều việc sau lưng tôi như vậy, kể cũng xem như cậu lớn mật đấy. Nể mặt cậu từng là bạn cái Ngọc, cũng từng là nv thân cận của tôi, xem như gặp gỡ hn thay cho lời cảnh cáo. Chuyện giữa cậu và nó từ giờ chính thức chấm dứt. Tôi ko muốn gặp cậu trong hoàn cảnh này lần nào nữa vì lần tới chắc chắn cậu ko còn người ngợm nguyên vẹn như thế này đâu. KN trước giờ đã nói là làm nên tôi hiểu anh ta ko nói suông. Chuyện này đến tai anh ấy hẳn là từ miệng Hoa chứ bản thân Ngọc chắn chắn chẳng bao giờ chịu nói ra. Chỉ là chính tôi trong giây phút đau đớn, bê bết ngồi góc đường, tự vấn lòng mình đã đến lúc phải chấp nhận sự thật. Trận đòn của KN đau đớn về thể xác nhưng 1 phần cũng nhờ nó mà tôi thoát khỏi đám mây mù u mê đã vây quanh mình suốt 1 khoảng tg. Tôi mặt dày chủ động hẹn gặp Hoa xem như là lần cuối muốn hỏi thăm tin tức về Ngọc. - Đang có 1 người rất tốt quan tâm đến nó rồi. Chỉ cần anh biến khỏi cuộc đời nó nữa thôi là ổn. Tôi cười khổ cam chịu lời sỉ vả từ Hoa, thực ra cô ấy chịu hẹn gặp tôi thế này đã xem như nể nang lắm rồi. Qua 1 hồi hỏi han tôi cũng chứng thực đc "người tử tế" ấy ko ai khác chính là T.Hoàng. Rốt cuộc vẫn là linh cảm của mình chính xác - T.Hoàng thực sự có tình cảm với Ngọc. Anh ta rõ ràng có xuất thân lẫn thân thế rất tốt. Chưa kể thâm tình hiện tại khi X và Z vẫn đang trong giai đoạn đầu của sự hợp tác. Ấy là còn chưa nói đến cảm tình có sẵn của bà Liên cũng như KN giành cho anh ta. Nếu T.Hoàng thực sự tốt như vậy hẳn Ngọc sẽ có đc hạnh phúc, ko còn phải gồng mình, ko còn phải chịu đựng nữa... Điều này lẽ ra tôi phải lấy làm vui, vậy mà cớ sao sống mũi cứ cay xè đến ê ẩm thế này. Đã thực sự tỉnh rồi đấy nhưng phải quên đi nữa... Quên đi những chuyện cũ... quên đi Ngọc... quên đi mối tình đầu, cũng là duy nhất... Hà Nội, có lẽ cũng đã đến lúc phải xa nơi này rồi... ---- Suy nghĩ trên tôi từng cố trốn tránh nhưng cũng đến lúc phải quyết định. Tôi đến thăm anh họ, vừa hỏi han tình hình cty hiện tại, vừa tiện thể tâm sự chuyện tôi tính rời HN. Anh cũng ko có ý kiến gì về chuyên tôi muốn vào Nam lập nghiệp, dù sao nhà cửa dưới quê tôi cũng bán hết rồi. Mối liên kết duy nhất còn lại chỉ là mộ phần gđ và họ hàng mà thôi. - Tình hình cty anh dạo này thế nào rồi, đã giải quyết xong quyết toán với mấy chủ đầu tư kia chưa? - Hajzz... Anh họ thở dài ảo não khi nghe tôi hỏi chuyện làm ăn, kiếp làm cai, thầu phụ. Ăn rơi ăn vãi công trình từ các chủ đầu tư lớn. Làm chưa xong thì bị ép tiến độ, xong rồi lại bị chậm nghiệm thu quyết toán. Bị ngang nhiên chiếm dụng vốn mà vẫn phải niềm nở để đòi tiền. Lương nhân công nhiều khi còn nợ mà vẫn phải chạy vạy vay mượn để xin dự án. Đơn giản làm nghề này mà ko có dự án quay vòng là cầm chắc "chết". - Dự án bên... cty X vẫn chưa đến hạn hả anh? - Uhm, mà sao đang dưng mày lại nghỉ ở đó, thấy nó bắt đầu khó khăn ah? Nghe anh họ nói vậy tôi chỉ biết lắc đầu cười trừ, cty của anh lẽ ra còn có thể kiếm đc nhiều công trình hơn nếu X giành đc mấy khu đất kia. Chỉ tiếc vì tôi mà... Thời gian chuẩn bị cho sự chuyển đổi tương đối thảnh thơi nên dạo này tôi hay đi lại quê - HN để thăm họ hàng và thắp hương mộ phần gđ. Tôi cũng thường qua thăm mộ ct Đặng mỗi khi từ quê trở lại HN. Dù gặp nhau ko nhiều nhưng những ấn tượng trong qk khiến tôi có cảm tình rất tốt với ông ấy. Đã có lúc tôi từng nghĩ tương lai sẽ được làm con rể, được hàng ngày gọi ông là "Bố" trên cty cũng như ở nhà, được.. . Vài bông cúc tươi thay cho những bông đã hơi héo. - "Sau này vào Nam rồi, chắc con ko còn đến thăm bố thường xuyên đc nữa. Thông cảm cho con bố nhé!!!" ---- Bụng của My lộ hẳn rồi con bé mới chịu làm đám cưới, đám cưới vui như hội ấy vì con bé đông bạn đông bè mà. Đợi tiệc mừng này kết thúc tôi mới chia sẻ quyết định vào SG sống với a.Mạnh và đám bạn của mình. Khỏi phải nói tất cả bất ngờ thế nào khi nghe tin ấy, với Trà, My và Xuân chóa còn có thêm vài phần sốc nữa. Thời điểm chính thức rời HN vào SG sau nhiều lần nấn ná cuối cùng cũng đc tôi lên lịch cụ thể. T.Dương cho đến hn mới biết tin sau khi nghe tôi nói chuyện trả phòng vào cuối tháng. Từ sau chuyện đổ vỡ của tôi, cũng tội cho T.Dương khi đến giờ cô ấy vẫn ko thôi cảm thấy có lỗi. - Vẫn còn áy náy hả, áy náy nhiều thì đem mồi lên phòng tôi. Sang làm thêm 1 trận say nữa trước khi tôi bái bai HN đc chứ, haha. Tôi lại cười khích bác T.Dương nhưng cô ấy chẳng 1 tia hưởng ứng. Chuyện say mèm với T.Dương giờ đã trở thành vô cùng nhạy cảm rồi. Nhìn T.Dương cứ cắm mặt vô Lap chat chit với bạn bè, tôi đâm nhàm chán. Vừa quay qua quay lại định chào cô ấy thì trước mắt lướt qua 2 hình ảnh khá quen thuộc. Bức ảnh trên face 1 người bạn của T.Dương, chụp khá nhiều người kiểu cách học sinh - sv, có thể là 1 nhóm bạn. Hầu hết là người ngoại quốc, khung cảnh xung quanh cũng là ở nc ngoài. Nếu chỉ có vậy thì chẳng có gì đặc biệt nhưng điều đặc biệt làm tôi phải chú ý, xen giữa đám sv ngoại quốc đó chính là hình ảnh T.Hoàng và Vinh thân mật bóp cổ nhau tạo hình vui nhộn, cả 2 đều cười rất tươi. Bức ảnh chụp bằng dslr nên chất ảnh rõ nét, zoom hình lên tôi có thể khẳng định là mình nhìn ko nhầm. Từng mảnh ghép trí nhớ lướt nhanh qua đầu, T.Hoàng từng 1 lần đến X tìm Ngọc nhưng ko gặp, khi đó anh ta trực tiếp giáp mặt Vinh nhưng cả 2 đều tỏ ra lạ lẫm ko quen biết. Tại sao lại vậy chứ??? T.Hoàng vừa du học về, Vinh qua lời tay Trường kể cũng từng tốt nghiệp bên nước ngoài, thậm chí còn từng làm cho cty đối thủ của X. Băn khoăn là vậy nhưng ko biết phải cắt nghĩa ra sao. Suy nghĩ 1 hồi tôi mới tỉnh ngộ giờ mình chẳng còn chút nào liên quan gì đến X và gđ Ngọc. Vậy có nghĩ cũng chẳng để làm gì, có thể T.Hoàng và Vinh khi đó gặp nhau chỉ là lần gặp gỡ duy nhất. Sau vài năm có quên cũng là bình thường. Còn chưa kể nếu là người giống người, dù điều này rất khó xảy ra. Nhưng nếu họ thực sự quen nhau, thậm chí là bạn của nhau thì sao? Nếu thật thì tại sao lại phải "đóng kịch"? Phân vân trước nhiều quyết định thì cứ nên chọn những quyết định sao cho sau này khỏi phải hối tiếc nhiều nhất "tại sao ngày xưa mình lại ko làm vậy". Nghĩ vậy tôi bèn lấy máy gọi cho KN, màn hình đt vẫn hiện lên dòng chữ "a.Nguyên" quen thuộc. ---- Đến SG vào 1 ngày mưa lớn, ngày trước cùng KN ra vào thường xuyên nên tôi cũng đã quen với thời tiết trong này. Mấy ngày đầu ăn uống có phần hơi kém vì chưa quen khẩu vị. Sau lọ mọ, tự đi tìm tòi quanh TP rồi lượn lờ sang hẳn vài tỉnh thành lân cận. Mỗi lần đều đi tới mệt lả, đói meo mới ăn uống nên dần dà cũng quen dần khẩu vị. Người dân trong này thân thiện và nhiệt tình hơn nên tôi "khoái" họ lắm. Sau hơn tháng làm quen và cảm nhận dần nhịp sống trong này thì tôi cũng tìm đc cv mới. 1 cty về xnk mà Trà giới thiệu, ban đầu tôi cũng ko nghĩ là mình sẽ làm cv này đâu nhưng hơn 1 tháng sống trong này, tư tưởng thoải mái dần nên tôi cũng có chút hứng khởi với cv mới mẻ này. Dù sao thì cuộc sống vốn đc tạo thành từ vô vàn những trải nghiệm. Thay mới những điều đã cũ cũng giúp bản thân có những góc nhìn mới mẻ hơn. Cv mới yêu cầu đi lại nhiều từ cty cho tới thực địa xuống hiện trường. Hàng ngày tiếp xúc với giấy tờ, chứng từ, invoice... các loại thủ tục, luật định... Nói chung cũng đủ để cả ngày bận rộn, dù vậy tôi vẫn chưa quên đc cảm giác làm việc ở X... và Ngọc... ---- 1 ngày, thằng ku Hải (thằng em ngày xưa cùng học boxing, giờ làm cho cty anh họ tôi) vào SG ăn cưới tiện thể thăm tôi, nghe nó nói chuyện mới biết cty anh họ tôi đang gặp khó khăn về tiền vốn. Nợ quyết toán từ các chủ đầu tư chưa đòi đc nên đã đến nc phải vay lãi cao để trả lương và các chi phí. Tôi gọi điện trách ông ấy vì sao ko chia sẻ rồi lập tức xin nghỉ, cùng Hải bay ra HN. Ae bàn bạc thống nhất rút hết tiền bán nhà của tôi hỗ trợ anh họ trả nợ. Mặt khác tôi quyết định gọi điện hẹn gặp KN. Định trực tiếp đến X nhưng anh ta dời điểm hẹn sang quán bar mà ngày trước cả 2 vẫn hay đến. - Là cty của anh họ cậu??? Lý do tôi hẹn gặp KN chỉ đơn giản là về việc thanh quyết toán cho công trình của anh họ. Từ đầu đến cuối cuộc gặp chỉ có vài phút mà ko nói thêm bất cứ 1 chuyện gì khác. - Thôi đc rồi, về khoản quyết toán cho cty anh cậu tôi sẽ có quyết định sớm nhất. Còn có điều này... tôi vốn vẫn thắc mắc... tại sao hồi đó cậu lại nói với tôi về chuyện giữa Vinh và T.Hoàng. Tôi nhớ lúc đó tôi đối xử với cậu khá tệ mà. -À cái này... thực ra em làm ko vì gì cả. Em nói với anh chỉ vì ko muốn sau này phải cảm thấy tiếc nếu có chuyện gì đó xảy ra thôi. Cám ơn anh vì cuộc gặp hn, hy vọng vấn đề quyết toán của anh em sớm đc giải quyết. KN nghe tôi nói vậy chỉ nhẹ gật đầu, đoạn tiếp tục ngồi lại uống rượu mặc cho tôi rời đi ---- 3 tuần sau cuộc gặp KN, tôi nhận đc tin từ anh họ thông báo công trình bên X đã đc duyệt quyết toán 100%. Vấn đề tài chính cty tạm thời đc giải quyết dù vẫn còn vài chủ đầu tư khác nấn ná trì hoãn. Tôi hài lòng với lời hứa của KN, vừa suy nghĩ chuyện cảm ơn anh ta thì U.Nhi gọi tới. Hơi bất ngờ vì con bé tự dưng lại liên lạc nhưng sau khi nghe điện tôi còn sốc hơn vì loạt sự việc vừa xảy ra. Là tin đồn về việc Y lôi kéo thành công vài nhà đầu tư đột ngột rút vốn khỏi dự án đang triển khai của Q trên nền 4 khu đất đấu giá cùng 1 vài dự án khác. Điều tương tự cũng đc X giành cho Z với tổ hợp dự án mà cả 2 đang hợp tác. Bất ngờ bị thoái vốn đồng loạt như rút dao găm khỏi vùng động mạch chủ. Cả Q và Z đồng thời thiệt hại nhưng Q thê thảm hơn nhiều vì phương thức kd "trèo cao nhờ phụ thuộc nguồn vốn liên kết". Đến giờ khi các nguồn vốn này đồng loạt rút khỏi, liền khiến Q hoàn toàn đổ sập. Người ngoài nhìn vào thì tha hồ đặt giả thiết và phân tích, về phần tôi chẳng mất công cũng đc U.Nhi bật mí sự thật. Số là bắt nguồn từ việc KN cho it kiểm tra Lap của U.Nhi, phát hiện máy con bé bị dính phần mềm gián điệp sao chép các nội dung. Truy ngược theo các dữ kiện, bức ảnh của Vinh - T.Hoàng và mqh ngày 1 thân mật giữa Vinh và Nhi thì kẻ "gián điệp" ko ai khác chính là anh ta. KN sau đó thực hiện 1 cuộc trao đổi q.trọng với G.Huy. Biết đc biên bản ghi nhớ giá ngày trước với W đc 1 người ko tên gửi đến cho G.Huy. Sau khi xâu chuỗi các mối hợp tác liền nghi ngờ Z giả quỷ giả thần tài chính của chính mình. Nhún nhường ký giao kết cùng X nhưng sự thật sau lưng lại ngấm ngầm lên kế hoạch thao túng. Tranh thủ ô.Luân tan giã với X và tình hình rối ren khi ct Đặng qua đời. Z đứng sau lôi kéo hùn 1 phần vốn giúp Q qua mặt X mua lại 4 khu đất đấu giá. 1 mặt lại giật dây Q hợp tác với Y, lợi dụng mqh đối thủ cạnh tranh giữa X và Y để mượn 1 phần tay Y "đánh" cho X mệt mỏi. Lúc bấy giờ Z mới ra mặt huy động nguồn vốn góp giúp X với lòng tin là 1 đối tác quen thuộc. Mặt khác tận dụng sức ảnh hưởng hối thúc hôn gia của Ngọc với T.Hoàng. Theo di chúc của ct Đặng thì Ngọc đc thừa hưởng 1 số cổ phần ko hề nhỏ. Chỉ cần T.Hoàng khôn khéo dùng tình cảm lay động đc Ngọc là hoàn toàn có thể khống chế số cổ phần đó để ngày càng tiến sâu hơn vào trong lòng X. Đối tác quen thuộc, bạn thân lâu năm tất cả cũng ko bằng 1 chữ Tiền, cả 3 bố con họ Trần này quả thực quá độc. G.Huy sau khi phán đoán người gửi biên bản kia có thể chính là Vinh - 1 người bạn, người thân của T.Hoàng đc cài vào X - mới đinh ninh cty Y của mình bị lợi dụng trắng vốn. Tất nhiên anh ta khá giận dữ nhưng đề nghị sau đó của KN cũng giúp anh ta giãn ra phần nào. 1 vài cổ đông trong Q vốn đã bị KN lôi kéo thành công trước đó. "Giá trị lôi kéo" này hiện tại vẫn còn khi KN huy động 1 lượng tiền dựa trên sự hợp tác với gđ Trà. Chỉ cần thêm 1 cú sốc lớn đủ khiến Q sảy chân là X lập tức có thể thâu tóm số cổ phần này, sau đó nhượng quyền lại cho Y. Lôi kéo đủ đến mức quá bán thì việc thâu tóm sát nhập cty Q, tất cả đều nằm trong tay G.Huy. Chính nhờ đề nghị hấp dẫn đó mà Y chấp nhận bắt tay X, "tiêu diệt" Q và "đánh" tả tơi Z như diễn biến tài chính trong suốt những ngày vừa qua. Nghe tin này xong tôi cũng chỉ cảm thấy phần nào an ủi vì nỗi oan ức của mình đc minh bạch. Dù vậy, tất cả mọi cảm xúc cũng chỉ dừng lại ở đó mà thôi vì hiện tại tôi đã ko còn là người của X nữa. ---- Chiều hn, lúc ra bãi lấy xe để xuống hiện trường thì tôi bất ngờ bị 1 cơn đau quằn quại nhói lên ở vùng bụng. Đau đến phải cúi gập người xuống vì khó thở. Đáng nói cơn đau này ko phải là lần đầu tiên, nó đã xuất hiện suốt nửa tháng nay, lúc đau nhiều đau ít biểu hiện rất thất thường. Nhiều lần định đi khám nhưng ngại vì lý do cv nên tôi đều khất lần. Dùng thuốc giảm đau có đỡ nhưng cơn đau vẫn ko dứt điểm. Sau nhiều trì hoãn, cuối cùng vẫn phải lê thân đến bv. Tưởng chỉ là đau bụng bình thường nhưng hóa ra nó lại phức tạp hơn tôi nghĩ. Phải qua 2 lần khám tại 2 bv khác nhau mới phát hiện đc nguyên nhân cơn đau là do 1 khối u nằm ở phúc mạc (nếu bạn nào đọc từ những ngày đầu hẳn vẫn nhớ có lần mình nhắc về bệnh này và thỉnh thoảng vẫn bị đau bụng, phải dùng thuốc). Bác sĩ trấn an chưa có kết quả xét nghiệm chưa cần quá lo lắng nhưng tôi biết bệnh này ko hề đơn giản như ông ta nói. "- Gen nhà mình có mầm ung thư thì phải, trong họ có 2 chú bác đều mất vì "thằng" này. Mày cũng phải cẩn thận đấy, đi làm ăn uống tiếp khách chừng mực thôi. Tiền nhiều hay ít cũng ko q.trọng bằng sức khỏe đâu." Lời anh họ cảnh báo hồi tôi mới ra trường văng vẳng vang lên trong đầu. Bác và chú tôi đều mất vì K, đặc biệt chú tôi cũng bị chính căn bệnh K phúc mạc này hành hạ. Cơn gió nhẹ sau cơn mưa thổi qua mát mẻ nơi hành lang bv. Bước ra khỏi phòng khám, tôi thoải mái hít hà trọn vẹn từng luồng khí mát. Thấy lòng mình nhẹ tênh 1 cảm giác thanh thản ko lo sợ, ko vướng bận. Tâm lý buông lơi bản thân, sẵn sàng chấp nhận mọi an bài của số phận. Chỉ 1 quãng đường từ bv về cty mà rất nhiều suy nghĩ, hình dung ko ngừng hiện lên trong đầu tôi. Nếu là u lành tôi sẽ tiếp tục sống, tiếp tục 1 cuộc đời với nhiều trải nghiệm đang chờ đợi. Còn là u ác... thì sao chứ, tôi sẽ ko mất tg vào việc nằm 1 chỗ để điều trị. Thay vào đó sẽ là những chuyến du lịch, đi nhiều nơi nhất có thể cho đến lúc chết. Khi ấy chết cũng là chuyến đi cuối cùng đưa tôi đoàn tụ cùng bố mẹ và đứa em trai bé bỏng. Hầu hết mọi thứ đều đc tôi lạc quan hóa, duy chỉ có Ngọc là vẫn còn đó sự băn khoăn. Nếu tôi chết đi, sẽ ko còn đc cùng cô ấy hít thở chung 1 bầu trời nữa. Ngọc vẫn chưa yêu ai khác kể từ khi chúng tôi c.tay, mặc cho T.Hoàng trong tg đó ra sức tấn công, bày tỏ thiện chí. Biết đc những điều này đều do Trà tâm sự. Cô ấy dạo này thường qua lại với KN và gđ bên đó nên có thể chứng thực việc Ngọc vẫn chưa quên đc tôi. Nếu còn nặng tình vậy, hẳn cô ấy sẽ đau lòng lắm nếu bệnh tình của tôi xấu đi. Xuân chóa tiện công tác ghé qua thăm, tình cờ nhìn thấy đống hồ sơ bệnh án liền trách móc tôi rất nhiều vì ko thông báo gì cho mn, chỉ biết "ích kỷ" âm thầm chịu đựng 1m. Tôi biết nó mắng đúng nên chi đành cười gượng nhờ nó giữ bí mật cho đến khi có kết quả xét nghiệm chính thức. ---- Nghĩa trang quê tôi... đêm qua mưa to mà sáng nay trời cứ phủ 1 làn sương mỏng se lạnh. Không gian trở nên tĩnh lặng nơi những lối đi ngăn cách những nấm mồ. Tôi hơi co người lại vì lạnh, lững thức bước từng bước men theo con đường đất, nơi trông ra 1 khuôn viên với những cây bằng lăng xòe tán rộng. Tiếng xào xạc mỗi lúc một rõ rệt... tựa tay lên những nấm mồ thở dốc. Bây giờ, nhiều lúc tôi thấy mình thật giống 1 ông lão 80, chỉ lê mình đi cũng đã mệt phờ vì cơn đau quặn nơi thành bụng ... Cái sức sống của tuổi 25 biến đi đâu mất sạch rồi? Tôi bặm môi, bước tiếp, có lẽ liều thuốc hq vẫn còn tác dụng... Cố đi đến đầu hồi, tôi ngồi xuống ngẩng mặt lên nhìn bầu trời nhưng ko thấy gì cả ngoài 1 tán lá dày đen thẫm, xuất hiện lỗ chỗ những vệt sáng của ánh nắng nhạt mờ mờ phía trên. Để tâm trí trôi đi lặng lẽ... gió hình như cũng thổi mạnh hơn. Chợt phát hiện bên thân cây trước mặt đâm ra 1 chồi non nho nhỏ, đứng cô đơn trơ trọi 1m. Nhìn chồi xanh ấy sao cô đơn giống cuộc đời tôi thế. Gục mặt xuống cánh tay, chơi vơi trong 1 mớ tâm trạng không định hình nổi. Lặn sâu trong đó là nỗi nhớ vẫn thường bị tôi cố tình chôn lấp. ...Đã nửa năm rồi! Thế là anh cũng đã sống mà ko có em 1 cách đúng nghĩa trong từng ấy tg. T.gian đi qua trước cửa, giống như là t.gian chết...vô hồ. Ko biết giờ này cô ấy ra sao? Đang vui hay buồn? Tôi ko kìm lòng nổi, thốt lên 1 tiếng thở dài xen lẫn tiếng gió da diết lẫn trong những tán lá... - Ngọc ơi... anh nhớ lắm... anh yêu em!!! - Em cũng yêu anh!!! Tôi ngẩng mặt lên vì giọng nói quen thuộc, chỉ 1s sau nc mắt như muốn trào ra. Buông rơi hết mọi suy nghĩ trước đó, tôi giang rộng 2 tay ôm bóng dáng đang đứng trước mặt mình vào lòng. Ngọc cũng ôm chặt lấy tôi, nức nở như một đứa trẻ... thì thầm giữa những tiếng nấc. _ Sao lại bắt em chờ lâu thế? Sao lại thế hả? Anh vẫn yêu em mà, phải ko? _ Anh xin lỗi! Tôi đẩy đầu Ngọc ra xa hơn một chút để có thể nhìn rõ hơn, niềm hạnh phúc ánh lên trong mắt sau nhiều ngày xa cách. - Em lạnh ko? - Ko, có anh ôm em rồi mà. - Ừm... mà sao sớm thế này em đã ở đây làm gì vậy? - Mộ "bố mẹ và em trai"... đầu tháng và rằm ngày nào em cũng về thắp hương mà. - Thật thế ư? - giờ tôi mới hiểu vì sao mấy ngôi mộ của gđ dạo gần đây lúc nào cũng tươm tất và thay hoa liên tục. - Có gì ko thật chứ, cũng như anh hay đến thắp hương bố em thôi mà. - Ơ, sao em biết... em nhìn thấy ah? - Từ hồi anh còn chưa vào SG cơ, nhìn anh loay hoay cắm đám cúc vào lọ em thương lắm nhưng vì ghét nên chỉ đứng từ xa nhìn vậy thôi. - Anh xin lỗi nhưng anh thề là chưa làm gì có lỗi với em cả. Chuyện hôm đó với T.Dương chỉ là... - Ko cần nói nữa, em tin anh mà - Ngọc đưa tay lên miết lấy môi tôi. - ... Xa nhau rồi em mới biết là mình chỉ cần đc yêu anh thôi... - Uhm, nhưng mà... anh hiện tại.. anh hiện tại đang bị... - Xuân kể với em rồi, là bệnh thì sao chứ, sống chết thì đã sao. Chỉ cần biết mình yêu nhau trọn vẹn như lúc này thôi là em thấy mãn nguyện rồi. Nghe Ngọc nói vậy, tôi cúi xuống hôn nhẹ lên viền môi hồng hồng của cô ấy. Bầu trời hình như đã tan bớt mây mù, nắng đã có màu vàng rám hơn rồi. Tình yêu chân thành vượt qua những lo âu, những hy sinh riêng lẻ, những hiểu lầm, những khổ đau... cuối cùng trở về nơi chúng xứng đáng đc trân trọng. Mãi mãi ko mất đi hạnh phúc. P/s: 2 ngày sau Ngọc theo tôi bay vào SG nhận kết quả xét nghiệm. Cả 2 đều xác định trước tâm lý và "lịch trình" riêng cho mỗi tình huống tốt hoặc xấu. Ngọc nắm chặt tay tôi trên suốt quãng đường đến bv. Tôi trấn an cô ấy ko phải nghĩ nhiều nhưng bản thân giờ phút ấy chính là tột cùng căng thẳng. Kết quả xét nghiệm: âm tính, ko phát hiện có tế bào ung thư. Mời các bạn đón đọc Dòng Đời Nổi Trôi của tác giả Lê Vũ Trọng Nghĩa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Oscar Và Bà Áo Hồng
Oscar và bà áo hồng được viết bởi nhà văn Eric-Emmanuel Schmitt. Ngay khi ra mắt, cuốn sách nhanh chóng gặt hái nhiều thành công, với vô số giải thưởng như giải Chronos, giải Jean Bernard của viện hàn lâm Y học… Bên cạnh đó, tác phẩm còn được chuyển thể thành phim, kịch và luôn được đánh giá cao trong lòng công chúng. Ở Việt Nam, tác phẩm được giáo sư Ngô Bảo Châu và Nguyễn Khiếu Anh đồng dịch, xuất bản năm 2015. Oscar và bà áo hồng là những bức thư gửi đến Chúa của cậu bé Oscar 10 tuổi, biệt danh Sọ Trứng bởi cậu có cái đầu trọc lốc - hệ quả của những đợt điều trị hóa chất. Cậu kể cho Chúa nghe về căn bệnh ung thư của mình, về bà Hoa Hồng - người tình nguyện viên già luôn ở bên Oscar trong bệnh viện. Có thể nói, chính bà Hoa Hồng đã trao cho cậu bé hy vọng sống trong những ngày còn lại của cuộc đời, chi tiết bà kể với cậu bé về truyền thuyết: “Ở quê bà, Oscar ạ, có một truyền thuyết kể rằng trong 12 ngày cuối cùng của một năm, người ta có thể dự đoán được 12 tháng của năm tiếp theo sẽ như thế nào. Chỉ cần quan sát từng ngày một để có được bức tranh thu nhỏ của từng tháng… Đấy là truyền thuyết. Ta muốn bà cháu mình thử chơi trò đó, cháu và ta. Đặc biệt là cháu. Từ ngày hôm nay cháu sẽ quan sát mỗi ngày và tự nhủ là mỗi ngày tương ứng với 10 năm”. Chính truyền thuyết hư cấu này đã mang đến hy vọng sống cho cậu bé. Từ giây phút ấy, mỗi ngày trôi qua đối với cậu bé Oscar đều là một ngày tuyệt diệu. Cậu được sống trọn vẹn với ý muốn và tình cảm của mình, trải qua những năm tháng “dậy thì” đầy rắc rối với vài người bạn trong bệnh viện và biết rung động trước cô bạn gái. Hay những năm tháng “tuổi trẻ” đáng nhớ khi Oscar dũng cảm đứng ra bảo vệ người yêu, kết hôn và ở bên cạnh “vợ” của mình trong cuộc phẫu thuật quan trọng, giải quyết bất hòa với bố mẹ trong đêm Giáng Sinh… Rồi đến độ tuổi “xế chiều”, cậu trầm tư suy nghĩ về tất cả những gì đã trải qua trong đời mà không hề hối hận… Oscar sống hết mình, học cách yêu thương và nghĩ về người xung quanh, về cuộc sống nhiều hơn là cái chết. Từng là một cậu bé luôn trách bố mẹ, gọi họ là “nhát cáy” vì không dám cười nói, gần gũi với cậu như khi khỏe mạnh. Nhưng nhờ bà Hoa Hồng, Oscar đã hiểu ra nỗi đau, việc né tránh của họ khi phải chứng kiến con mình ngày càng yếu và có thể ra đi bất cứ lúc nào. Thấu được nỗi lòng cha mẹ, cậu không còn trách họ, ngược lại Oscar đã can đảm nói “Con yêu bố mẹ, hãy luôn ở bên con”. Và chính câu nói ấy đã khiến bố mẹ Oscar thức tỉnh, can đảm để dẹp nỗi sợ mất con, thay vào đó là sự yêu thương con trọn vẹn từng ngày. Đối với vị bác sĩ tận tụy Dusseldorf, Oscar đã suy nghĩ trưởng thành hơn, cậu nói: “Bác sĩ hãy sống thoải mái lên vì bác sĩ đã cố gắng chữa trị cho cháu hết sức có thể rồi, đừng coi đó là tội lỗi để mà ôm rơm nặng bụng…”. Chính câu nói ấy của Oscar đã khiến Dusseldorf mỉm cười nhẹ nhõm, suy nghĩ lạc quan, tích cực hơn để tiếp tục công việc cứu người cao cả. Chỉ vỏn vẹn hơn 100 trang sách, nhưng Schmitt đã kể cho chúng ta thấy những nỗi buồn, nỗi đau, niềm hy vọng và cả tình yêu giữa con người với con người qua cái nhìn của một cậu bé và cả cảm xúc trước khi lìa xa thế giới của rất nhiều người. Qua hình ảnh Oscar, tác giả muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng trong cuộc sống hiện tại, hàng ngàn “Oscar” đang sống những ngày tháng ngắn ngủi xung quanh chúng ta. Bạn hãy trân trọng, yêu cuộc sống này bởi không phải ai cũng có cơ hội để thực hiện điều đó. Nếu ta có tình cảm với ai đó đừng ngại bày tỏ, buồn hãy tìm người chia sẻ, muốn gì nhất định phải thực hiện ngay... Nguyên Phương - Zing.vn *** Chúa thân mến, Cháu tên là Oscar, cháu mười tuổi, cháu từng châm lửa đốt mèo, đốt chó, đốt nhà (hình như cháu đã từng rán cả mấy con cá vàng nữa) và đây là bức thư đầu tiên cháu gửi cho ông bởi vì trước đây cháu bận học nên không có thời gian. Báo trước với ông luôn, cháu ghét viết lắm. Phải bị ép thì cháu mới viết. Bởi vì viết là cái trò buộc nơ, kết hoa, tủm tỉm cười duyên, vân vân… Viết chỉ là nói dối để làm cho đẹp hơn. Đấy là trò của người lớn. Bằng chứng à? Đây nhé, đầu thư cháu viết thế này: “Cháu tên là Oscar, cháu mười tuổi. Cháu từng châm lửa đốt mèo, đốt chó, đốt nhà (hình như cháu đã từng rán cả mấy con cá vàng nữa) và đây là bức thư đầu tiên cháu gửi cho ông bởi vì cháu bận học, không có thời gian” đáng ra cháu cũng có thể viết là: “Mọi người gọi cháu là Sọ Trứng, trông cháu có vẻ mới bảy tuổi, cháu sống ở bệnh viện vì bệnh ung thư, cháu chưa bao giờ nói chuyện với ông vì cháu chẳng tin là ông có thật.” Chỉ tội cháu viết thế thì hỏng bét, ông sẽ khó để ý đến cháu hơn. Mà cháu lại cần ông để ý đến cháu. Thậm chí còn tiện cho cháu nếu ông dành thời gian giúp cháu đôi ba việc. Thế này nhé. Bệnh viện là một nơi cực-kỳ-dễ-thương, với hàng đống người lớn vui vẻ và nói to, với đầy đồ chơi và các bà áo hồng* thích chơi với trẻ con, với bọn bạn lúc nào cũng rảnh rang như Thịt Rán, Einstein hay Bỏng Ngô, tóm lại, bệnh viện thật là đỉnh nếu ông là một bệnh nhân làm người khác vui. Thế mà cháu không làm cho người khác vui nữa. Sau khi ghép tủy, cháu cảm thấy mình không làm cho người ta vui nữa. Sáng nay, ông bác sĩ Düsseldorf khám cho cháu mà chẳng vui vẻ gì, cháu làm ông ấy thất vọng. Ông ấy nhìn cháu mà chẳng nói gì, cứ y như là cháu đã làm gì sai. Mà cháu cũng cố gắng lúc phẫu thuật đấy chứ; cháu ngoan, cháu để người ta gây mê, cháu đau mà không kêu, cháu uống đủ thứ thuốc. Có những hôm cháu muốn thét lên với ông ấy, để nói với ông ấy rằng có thể chính ông ấy, bác sĩ Düsseldorf, với cặp lông mày đen sì, đã đánh hỏng vụ phẫu thuật ấy. Nhưng trông ông ấy đau khổ quá cho nên những lời xỉ vả của cháu bị nghẹn lại ở cổ họng. Bác sĩ Düsseldorf càng im lặng, ánh mắt buồn bã, cháu lại càng có mặc cảm tội lỗi. Cháu hiểu ra mình đã thành một bệnh nhân tồi, một bệnh nhân ngăn người ta tin rằng y học thật là tuyệt diệu. Ý nghĩ của bác sĩ là một thứ truyền nhiễm. Bây giờ cả tầng, tất cả các y tá, các bác sĩ nội trú và các bà lao công đều nhìn cháu như thế. Họ có vẻ buồn rầu khi cháu vui vẻ; họ cố rặn cười khi cháu pha trò. Đúng là bây giờ người ta cười không còn như trước nữa. Chỉ có bà Hoa Hồng là không thay đổi. Theo cháu thì bà ấy đằng nào cũng già quá rồi, không thay đổi được nữa. Với lại bà ấy Hoa Hồng quá. Cháu chẳng cần giới thiệu bà Hoa Hồng với ông đâu, Chúa nhỉ, bà ấy là một bà bạn tốt của ông mà, vì bà ấy chính là người bảo cháu viết thư cho ông. Vấn đề là ở chỗ chỉ có một mình cháu gọi bà ấy là bà Hoa Hồng. Thế nên ông phải cố gắng một tí để biết xem cháu đang nói về ai nhé: trong số các bà mặc áo bờ lu hồng đến chơi với bệnh nhân trẻ con, bà ấy là bà già nhất. – Bà Hoa Hồng ơi, bà bao nhiêu tuổi? – Cháu có nhớ được số có mười ba chữ số không, nhóc Oscar? – Ôi! Bà bốc phét! – Không. Không được để ai ở đây biết tuổi của bà đâu đấy, nếu không bà sẽ bị đuổi và bà cháu mình không được gặp nhau nữa. – Sao lại thế? – Vì bà ở đây trái phép. Có giới hạn tuổi cho các bà áo hồng. Mà bà đã vượt xa cái giới hạn ấy rồi. – Bà bị quá đát à? – Đúng rồi. – Giống như sữa chua? – Im nào! – OK! Cháu sẽ không nói gì đâu. Bà ấy thật là dũng cảm khi tiết lộ bí mật với cháu. Nhưng bà ấy gặp đúng người tốt đấy. Cháu sẽ câm như hến, mặc dù cháu cũng lấy làm lạ là với chừng ấy nếp nhăn trông như các tia nắng xung quanh mắt mà bà ấy lại không bị ai nghi ngờ gì. Một lần khác, cháu biết thêm một bí mật của bà ấy, mà nghe đến nó thì chắc chắn là ông, Chúa thân mến, sẽ nhận ra bà ấy là ai. Bà Hoa Hồng và cháu đi dạo trong hoa viên bệnh viện, và bà ấy giẫm phải một cục phân. – Tổ sư! – Bà Hoa Hồng ơi, bà nói bậy đấy. – Ranh con, để cho ta yên, ta muốn nói gì thì ta nói. – Ơ kìa, bà Hoa Hồng! – Nhấc cái mông lên. Đi dạo chứ có phải là đua ốc sên đâu. Khi đã ngồi xuống một cái ghế băng để mút kẹo, cháu mới hỏi: – Sao bà nói năng dữ tợn thế? – Bệnh nghề nghiệp đó, nhóc Oscar à. Trong nghề của bà, nói năng ỏn ẻn thì bà toi rồi. – Thế bà làm nghề gì? – Bà nói cháu cũng không tin đâu… – Cháu thề là cháu sẽ tin. – Đô vật. – Cháu không tin bà đâu! – Đô vật. Người ta đặt cho bà biệt danh là Bà bóp cổ vùng Languedoc*. Từ đó, mỗi khi cháu buồn chán, và khi bà Hoa Hồng tin chắc không có ai nghe thấy, bà lại kể cho cháu nghe về những giải đấu vật lớn mình từng tham gia: Bà bóp cổ vùng Languedoc đấu với Mụ bán thịt vùng Limousin*, cuộc đấu suốt hai mươi năm với Diabolica Sinclair, một bà người Hà Lan có vú là quả đạn cối, và nhất là trận đấu ở Cúp thế giới với Ulla-Ulla, còn gọi là Con chó ở Büchenwald*, người chưa từng thua cuộc, ngay cả khi phải đối mặt với Cặp đùi thép, hình mẫu của bà Hoa Hồng hồi còn là đô vật. Các trận đấu của bà Hoa Hồng làm cháu mơ mộng mãi, vì cháu cứ tưởng tượng cái cảnh bà bạn của mình như lúc này đang ở trên võ đài, một bà già nhỏ bé mặc áo bờ lu màu hồng, hơi lập cập, đang ra tay xay ra cám mấy con quỷ cái mặc may ô. Cháu có cảm giác như đấy chính là mình. Cháu trở thành kẻ mạnh nhất. Cháu đi trả thù. Đấy, với chừng ấy chỉ dẫn, bà Hoa Hồng hay Bà bóp cổ vùng Languedoc, mà ông không phát hiện ra bà Hoa Hồng là ai thì Chúa ạ, ông phải thôi làm Chúa và nên về hưu là vừa. Cháu nghĩ là mình đã nói rõ rồi đấy nhỉ? Quay về chuyện của cháu nhé. Tóm lại là vụ ghép tủy của cháu làm mọi người ở đây thất vọng. Vụ hóa trị cũng đã gây thất vọng rồi nhưng không nghiêm trọng bằng, vì người ta còn hy vọng vào việc ghép tủy. Bây giờ cháu có cảm giác là mấy ông lang kia chẳng biết đề xuất gì nữa, đến là đáng thương. Bác sĩ Düsseldorf, người mà mẹ cháu cứ bảo là đẹp trai, dù cháu thì thấy lông mày hơi rậm, ông ấy tỏ vẻ chán nản hệt như một ông già Noel hết sạch quà trong túi. Không khí tồi tệ dần. Cháu nói chuyện với thằng bạn Thịt Rán. Thực ra nó không phải tên là Thịt Rán, mà là Yves, nhưng chúng cháu gọi nó là Thịt Rán vì tên ấy hợp với nó hơn, vì nó bị bỏng nặng. – Thịt Rán này, tớ có cảm giác là các bác sĩ không thích tớ nữa, tớ làm họ thấy tuyệt vọng. – Cậu đùa à, Sọ Trứng! Các bác sĩ ấy, họ không biết mệt mỏi đâu. Lúc nào họ cũng có đầy ý tưởng phẫu thuật cho cậu. Tớ đếm rồi, họ đã hứa thế với tớ ít nhất là sáu lần. – Có lẽ là câu tạo cảm hứng cho họ. – Chắc thế. *** Éric-Emmanuel Schmitt thu hút người đọc trước hết bởi giọng văn mượt mà, ấm áp và các cốt truyện mang tính giáo dục, nhân văn cao cả. Ông từng chia sẻ: "Tôi không viết để thuyết giáo. Ngược lại, tôi thích làm người đọc suy nghĩ bằng cách kể một câu chuyện hay". Có lẽ chính vì suy nghĩ này của tác giả mà truyện và kịch của ông đã được đưa vào giảng dạy tại các trường trung học tại Pháp và Đức như những tác giả đương đại kinh điển. Người ta đã viết về các tác phẩm của ông: Đề cập đến những vấn đề phức tạp bằng ngôn từ đơn giản, bằng tiếng nói từ trái tim và làm người ta suy nghĩ đến ý nghĩa thực sự của sự việc đó. Các tác phẩm của Schmitt đặt ra những câu hỏi lớn như : Nếu không có chiến tranh và xung đột các tôn giáo sẽ nói gì với nhau, sẽ tồn tại như thế nào? Nên nhìn sự sống và cái chết như thế nào ? Yêu thương, sự tôn trọng, thù hận, cô đơn, chủng tộc, màu da, đức tin, trẻ em, người già, xã hội, tệ nạn... người ta đã đang và sẽ nhìn nhận những cảm xúc và thực tại đó như thế nào ? 6 tác phẩm của Éric-Emmanuel Schmitt đã được dịch sang tiếng Việt: 1.     Nửa kia của Hitler (giải thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2008). 2.     Con của Noé. 3.     Một mối tình ở điện Élysée. 4.     Một ngày mưa đẹp trời. 5.     Chàng Sumo không thể béo. 6.     Oscar và bà áo hồng. Mời các bạn đón đọc Oscar Và Bà Áo Hồng của tác giả Éric-Emmanuel Schmitt.
Con Của Noé
Nguyễn Đình Thành (dịch) Bruxelles năm 1942, Joseph, cậu bé Do Thái lên bảy. Joseph được cha Pons, vị cha xứ chân chất và mẫu mực, nhận nuôi cùng hàng chục đứa trẻ Do Thái khác tại Villa Jaune ở ngoại ô. Nơi đây, Joseph đã khám phá ra tình bạn, khám phá ra một thế giới hoàn toàn khác với thế giới cậu từng sống, và trên tất cả, những giá trị văn hoá quý giá của nhân loại hiện diện trong những cổ vật mà cha Pons đang cố gắng lưu giữ. Hai con người, một già một trẻ thuộc hai tôn giáo khác nhau đi bên nhau để bổ trợ nhau, liệu có thể cùng nhau vượt qua cơn đại hồng thuỷ bạo lực tàn khốc nhất trong lịch sử loài người? Một cuốn tiểu thuyết ngắn đầy xáo động trong cùng mạch truyện với Oscar và bà áo hồng, đã đưa Eric-Emmanuel Schmitt trở thành một trong những tác gia Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. *** “Chúng ta sẽ thoả thuận như thế này nhé, con đồng ý không? Con, Joseph, con sẽ giả vờ là người Công Giáo còn ta, ta sẽ giả vờ là người Do Thái. Đây là bí mật của chúng ta, bí mật lớn nhất trong các bí mật. Ta và con có thể chết nếu phản bội bí mật này nhé. Thề không nào?” “Con xin thề.” Bruxelles năm 1942, Joseph, cậu bé Do Thái lên bảy. Joseph được cha Pons, vị cha xứ chân chất và mẫu mực, nhận nuôi cùng hàng chục đứa trẻ Do Thái khác tại Villa Jaune ở ngoại ô. Nơi đây, Joseph đã khám phá ra tình bạn, khám phá ra một thế giới hoàn toàn khác với thế giới cậu từng sống, và trên tất cả, những giá trị văn hoá quý giá của nhân loại hiện diện trong những cổ vật mà cha Pons đang cố gắng lưu giữ. Hai con người, một già một trẻ thuộc hai tôn giáo khác nhau đi bên nhau để bổ trợ nhau, liệu có thể cùng nhau vượt qua cơn đại hồng thuỷ bạo lực tàn khốc nhất trong lịch sử loài người? Một cuốn tiểu thuyết ngắn đầy xáo động trong cùng mạch truyện với Oscar và bà áo hồng, đã đưa Eric-Emmanuel Schmitt trở thành một trong những tác gia Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. *** Eric rõ ràng đã thành công khi “buộc” độc giả phải cười nghiêng ngả ở một số đoạn xong rồi lại rơm rớm nước mắt được ngay… – LE TÉLÉGRAMME Một cuốn tiểu thuyết ngắn nhưng thuần khiết và đượm chất triết học… – LA DERNIÈRE HEURE Eric-Emmanuel Schmitt đã tặng chúng ta một câu chuyện không thể rời mắt… – LE SOIR MAGAZINE Một truyện kể trong đêm khuya – LE SOIR Tự vấn về tôn giáo trong không gian và thời gian… – LIRE *** Éric-Emmanuel Schmitt thu hút người đọc trước hết bởi giọng văn mượt mà, ấm áp và các cốt truyện mang tính giáo dục, nhân văn cao cả. Ông từng chia sẻ: "Tôi không viết để thuyết giáo. Ngược lại, tôi thích làm người đọc suy nghĩ bằng cách kể một câu chuyện hay". Có lẽ chính vì suy nghĩ này của tác giả mà truyện và kịch của ông đã được đưa vào giảng dạy tại các trường trung học tại Pháp và Đức như những tác giả đương đại kinh điển. Người ta đã viết về các tác phẩm của ông: Đề cập đến những vấn đề phức tạp bằng ngôn từ đơn giản, bằng tiếng nói từ trái tim và làm người ta suy nghĩ đến ý nghĩa thực sự của sự việc đó. Các tác phẩm của Schmitt đặt ra những câu hỏi lớn như : Nếu không có chiến tranh và xung đột các tôn giáo sẽ nói gì với nhau, sẽ tồn tại như thế nào? Nên nhìn sự sống và cái chết như thế nào ? Yêu thương, sự tôn trọng, thù hận, cô đơn, chủng tộc, màu da, đức tin, trẻ em, người già, xã hội, tệ nạn... người ta đã đang và sẽ nhìn nhận những cảm xúc và thực tại đó như thế nào ? 6 tác phẩm của Éric-Emmanuel Schmitt đã được dịch sang tiếng Việt: 1.     Nửa kia của Hitler (giải thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2008). 2.     Con của Noé. 3.     Một mối tình ở điện Élysée. 4.     Một ngày mưa đẹp trời. 5.     Chàng Sumo không thể béo. 6.     Oscar và bà áo hồng. Mời các bạn đón đọc Con Của Noé của tác giả Éric-Emmanuel Schmitt.
Pho Tượng Thần Kâli
Tác giả: Henri Vernes NXB: Trẻ 1988 Charles-Henri-Jean Dewisme, được biết đến với bút danh là Henri Vernes, là một tác giả của tiểu thuyết hành động và khoa học viễn tưởng, trong đó ông đã xuất bản hơn 200 đầu sách. Tác phẩm: Bảy Cây Thánh Giá Bằng Chì Pho Tượng Thần Kâli ... *** Mặt trời ngả bóng trên thành phố Calcutta, biến đổi dòng sông Hoogly, một trong hàng trăm phụ lưu của sông Hằng linh thiêng, thành một dòng thác khổng lồ của chất lưu huỳnh nóng chảy, điểm xuyết đây đó vài chiếc buồm đen của những ghe thuyền chở nông dân từ những cánh đồng xa trở về. Chỉ mặc quần soóc, áo may-ô, nằm dài trên bao lơn trước cửa phòng mình ở khách sạn Thanh Xà, Bob Morane lặng ngắm thành phố. Thành phố Calcutta này, chữ Ấn Độ gọi là Kâli Ghât - thành phố Kâli - lấy tên của nữ thần Kâli, chủ sự Phá hoại và Chết chóc, có năm triệu dân, bày ra cảnh nghèo khổ nheo nhóc với hàng ngàn con bò thần gieo rắc bệnh dịch. Ở thành phố lớn này bệnh dịch tả hoành hành, là nơi mà Đông phương và Tây phương chung góp những điều xấu; một bên là dịch tễ và đói khát, bên kia là thất nghiệp và sa đọa tinh thần. Từ chỗ nằm, không cần đứng lên khỏi chiếc ghế dài, Morane nhìn những đốm lửa thắp lên trong những khu phố đông dân cư. Và rộng ra tất cả miền đồng bằng sông Hằng rực sáng dưới mặt trời sắp lặn... Một cảnh tượng khó quên, vượt cả óc tưởng tượng của con người, có hình dáng như một tấm vải khổng lồ sẵn sàng chìm vào bóng tối bất cứ lúc nào. Bob đã tới Calcutta được bốn ngày. Tờ tuần báo "Phản Ánh", một tờ tuần báo lớn của Pháp đang đăng một loạt phóng sự về các con sông lớn trên thế giới, đã giao cho Bob thiên phóng sự về sông Hằng. Morane, trước nay chỉ ghé Ấn Độ trong những khoảng thời gian ngắn ngủi, đã sốt sắng nhận ngay sự ủy thác đó. Trong bốn ngày vừa qua, chàng đã thăm viếng Calcutta, sau đó sẽ đi khắp miền đồng bằng, rồi sẽ tới Bénarès, Thành phố Thánh, để lên tận vùng xa xôi thượng lưu sông Hằng, sát ranh giới dãy núi Hy Ma. Tối hôm đó, Bob quyết định phải nghỉ ngơi, cả buổi sáng và gần hết buổi chiều, chàng đi qua những khu đông dân, chụp từng bức ảnh và bị những nhóm hành khất gầy trơ xương liên lục nhào đến xin bố thí, chàng phải len lỏi giữa hàng trăm con bò gầy gò vô chù đi ngúng nga ngúng nguẩy, ruồi bám quanh mình. Những con bò này là những vật tổ thần, không ai được giết hoặc hành hạ, đã là gánh nặng cho Ấn Độ nói chung, và Calcutta nói riêng. Morane ngả người trên ghế dài, ưỡn mình, hít không khí nóng bức của buổi hoàng hôn, chàng lùa những ngón tay mặt vào trong mớ tóc cứng. Sau một ngày vất vả, chàng cảm thấy khoan khoái được nằm dài; không suy nghĩ, không lo toan công việc, hưởng những lạc thú trong tầm tay. Việc đó cho chàng ý niệm về Niết Bàn, cõi hư vô cao cả và thánh thiện mà những người sùng bái đức Phật ao ước. Đột nhiên, một giọng nói cất lên bên cạnh làm chàng người Pháp giật mình : - Có thư cho ông Morane. Bob quay đầu lại. Một người hầu Ấn Độ, quần áo trắng toát, trên trán vẽ thêm con mắt thứ ba của thần Siva, đứng ngay bên chiếc ghế dài, tay bưng chiếc khay đựng một lá thư. Bob nghĩ thầm: "Những người Ấn này di chuyển như những bóng ma. Anh chàng này dám cắt cổ mình mà mình cũng chưa kịp nhận ra nữa..." Bob cầm lấy lá thư, người hầu rút lui, chàng vội xé phong bì, trong đó có một tờ giấy gấp tư. Chàng mở ra, và đọc: "Thiếu tá Morane, Cần gặp ông gấp. Nhận được thư này, hãy đến ngay nhà tôi, số 115 phố Baghavapur. Việc sinh tử. Cecil Mainright" Morane nhảy dựng. Chàng biết Cecil Mainright, tuy chưa hề gặp mặt ông ta. Ở Paris, giáo sư Aristide Clairembart, nhà khảo cổ học già bạn của Bob, biết chàng sang Ấn, có dặn rằng : - Ông qua Calcutta thì hãy thay mặt tôi, lại thăm ông bạn đồng nghiệp của tôi là Cecil Mainright. Ông ta là người nhiệt tình theo Ấn Độ giáo, đã ở bên đó bốn chục năm, thuộc nằm lòng xử sở ấy, sẽ giúp đỡ ông được nhiều việc. Vừa tới thủ đô của miền Bengale phương Đông, Bob đã bắt đầu liên lạc ngay với nhà bác học kia nhưng ông ta bận nhiều công việc, hẹn chàng mấy hôm nữa mới cho gặp. Theo hẹn thì ngày mai chàng mới phải tới nhà ông Mainright. Vậy tại sao lại có lá thư kỳ quái này, nhất là câu: "Việc sinh tử". Mainright gặp nguy chăng? Nếu gặp nguy, sao ông ta không gọi đến cảnh sát, mà lại cầu cứu chàng, người mà ông ta chưa hề biết mặt? Bob nhún vai. Tìm làm quái gì câu giải đáp cho những sự bí ẩn loại này? Cứ biết là chỉ lát nữa đây, chính miệng giáo sư Mainright sẽ nói cho hay là được rồi. Xưa nay có bao giờ Morane từ chối lời kêu gọi giúp đỡ của ai đâu? Bạn của ông Aristide Clairembart gặp nguy thì chàng phải tìm cách cứu thôi. Bởi thế chàng quyết định tới nhà ông Mainright ngay tối hôm đó. Vì biết số điện thoại của giáo sư Mainright chàng nhấc ống nói trong phòng mình, xin số bên kia. Đợi hơn một phút, chàng mới nghe tiếng nói của cô phụ trách điện thoại trong khách sạn : - Rất tiếc, ông ạ. Số mà ông gọi đang kẹt. Morane nhăn mặt, gác máy. Không thể liên lạc với giáo sư Mainright, chàng đành tới nhà ông ta. Mặc vội chiếc sơ-mi thể thao hở cổ, và chiếc quần len màu vàng mang đôi giày nhẹ, chàng định bước ra thì chợt nghĩ lại, đến lôi ở dưới gầm giường ra cái túi du lịch lớn, có dây kéo. Chàng rút trong một ngăn túi lấy ra một khẩu colt 38, ngắn nòng, dắt vào thắt lưng. Chiếc áo vét-tông che khuất khẩu súng. Chàng không có thói quen đi đâu cũng mang sùng kè kè, nhưng nhớ đến câu "Việc sinh tử" mà giáo sư Mainright viết trong thư, nên chàng nghĩ chẳng nên phó mặc cho sự may rủi trong một cuộc đụng độ. Vài phút sau chàng rời khách sạn, vẫy một chiếc taxi. Chiếc xe ghé sát lề đường, và người tài xế, một anh chàng người Sikh to con có bộ râu đen, xuống xe mở cửa cho khách. Bob nhận ra anh kia mang ở thắt lưng một con dao quắm rất dài. Chỉ vào vũ khí đó, chàng người Pháp hỏi : - Anh dùng thứ đó làm gì vây? Cắt cổ khách đi xe hả? Toét miệng ra cười, để lộ hàm răng trắng, đẹp hơn những phím đàn dương cầm, người tài xế lắc đầu. - Thưa ông, không. Munghal này không cắt cổ khách đi xe bao giờ... nếu khách trả tiền đàng hoàng. Dao này chỉ để cứa cổ Hồi hồi. Nói rồi anh ta nhổ nước bọt, tỏ lòng khinh ghét. Morane mỉm cười : - Rất may tôi không phải là người Hồi giáo. Munghal lại cười : - Thưa ông, vâng. Rất may... ông đi đâu, để tôi chở? Bob Morane ngồi trong xe, nói : - Số 115, đường Baghavapur! Chiếc taxi chuyển bánh lao đi, qua những đường phố đông nghẹt giữa một rừng xe cam nhông, xe điện, xe tay xe đạp và những con bò đi lang thang. Những con bò này gây trở ngại cho cho sự lưu thông, bởi chúng chỉ nhích từng chút cho chiếc taxi lọt qua. Chúng sợ tiếng còi xe hơn là bản thân chiếc xe. Đường Baghavapur là một con đường hoang vắng, nằm sát chân cầu Howrah, hai bên là những ngôi nhà cổ, kiểu xây cất thời nữ hoàng Victoria, bao bọc chung quanh là những khu vườn rộng, có rào sắt rất cao. Chiếc taxi ngừng trước nhà số 115, Morane xuống xe. Chàng người Sikh hỏi : - Tôi phải đợi ngài chăng? Bob lắc đầu : - Không, chắc tôi phải ở lại đây khá lâu. Chàng trả tiền cuốc xe, còn biếu thêm tiền thưởng hậu hĩnh. Chiếc taxi rồ máy. Bob còn lại một mình trên vỉa hè. Đêm đã xuống được một lúc, đường Bagharapur hoàn toàn chìm trong bóng tối. Đôi chỗ, vài bóng đèn điện tù mù soi xuống hàng cây phượng vĩ hoa đỏ thắm trong khung cảnh đen tối của ban đêm. Bob nhủ thầm: "Cái chỗ này chẳng có gì vui!" Thử lại cho chắc dạ khẩu súng lục dắt ở thắt tưng có thể rút ra dễ đàng, chàng tiến lại chỗ hàng rào sắt. Cánh cửa sắt hé mở làm chàng ngần ngừ. Chàng có cảm tưởng là đang rơi vào một ổ phục kích. Tuy nhiên chàng vẫn lách mình qua khoáng hẹp giữa hai cánh cửa, và tiến vào một lối đi rộng dẫn tới ngôi nhà mà một cửa sổ ở tầng trệt có ánh đèn rất sáng. Nhanh nhẹn, bằng bước chân đi đôi giày nhẹ, đế crếp, Morane lặng lẽ tiến lại gần ngôi nhà. Chàng tới bậc thềm thì có một bóng người từ phía trong hấp tấp bước ra. Đáng lẽ phải tránh sang một bên, Bob lại đứng chắn ngang đường, và hai người xô vào nhau rất mạnh, đồng thời có một vật trăng trắng lăn xuống lối đi. Người lạ mặt, hẳn là một người Ấn, vì bộ mặt đen của hắn không nổi lên trong bóng tối, cúi xuống để nhặt vật đánh rơi. Morane liền ngăn lại, chàng nói bằng tiếng Anh : - Ê! Một phút đi, anh bạn! Chạy ẩu chạy tả như thế mà không xin lỗi, đâu có được. Chàng vừa nói thế, người kia lầu bầu giận dữ, nhào lại bên chàng. Bob nhìn thấy một lưỡi dao găm lóe lên, vội lùi lại một bước. Lưỡi dao chệch qua cổ họng chàng vài phân, chàng vội dùng cườm tay chặt vào cánh tay đối thủ. Nhát chặt rất chính xác, người Ấn đành để mất vũ khí. Ngay lúc đó có tiếng chân tháo chạy, Bob nghĩ đối thủ tính bỏ trốn. Nhanh như chớp, chàng rút súng khỏi thắt lưng, hô to: "Ngừng lại, không ta bắn!", nhưng người kia đã biến mất trong bóng tối. Morane đứng lại một lúc, súng vẫn cầm tay, sẵn sàng nhả đạn nếu nghe có tiếng động nhỏ, nhưng kẻ gây hấn đã biến hẳn và vật rơi xuống từ đầu trận đấu vẫn nằm yên trên mặt đất. Bob nhặt lên, mới đầu chàng chưa nhận ra được đó là cái gì, vì nó được bọc kín trong một mảnh vải. Có thể là một chiếc khăn được buộc dầy chặt chẽ. Qua lần vải, Bob nắn bóp thấy một vật cứng, hình thù không đều đặn. Toàn bộ, dù vật ấy không lớn, nhưng rất nặng, Bob đoán chừng vật ấy bằng đá hay kim loại. Chàng nhún vai: "Đây hẳn là một báu vật mà thằng kia đánh cắp của ông giáo sư. Ta đem trả lại cho ông ta tất biết ngay đó là cái gì..." Leo lên những bậc thềm, Morane tới cửa thì thấy cảnh cửa mở toang dẫn vào một căn phòng vuông vắn bên trong sáng trưng. Cánh cửa thứ hai cũng mở, để lọt ra ngoài một vệt sáng dài. Bob đứng im, tay vẫn lăm lăm khẩu súng, tai lắng nghe nhưng cả gian nhà im ắng, hình như người nhà đã đi đâu cả. - Giáo sư Mainright! Giáo sư Mainright! Gọi liên tiếp hai lần, chàng chờ đợi, nhưng không có ai trả lời. - Trong nhà có ai không? Lại vẫn im lặng. Lần này, Morane cảm thấy lo lắng. Cái người cầm dao găm chạy trốn như một tên trộm, cùng ngôi nhà bỏ hoang mà phòng nào cũng sáng trưng đèn đối với chàng có vẻ bí ẩn. Các giác quan chàng đều hoạt động. Bob tiến vào căn phòng lớn, thăm dò để tìm xem có người nào chăng. Sau đó, hăng hái lên, Bob bước mau tới cánh cửa thứ hai đang hắt ra một luồng ánh sáng. Căn phòng hiện ra trước mắt Morane là một phòng làm việc rất rộng, chứa đầy những mẫu khảo cổ. Những hình chạm nổi gỡ ở những thạch động thiêng liêng, những bức tượng Phật cổ xưa qua thời gian đã nhẵn bóng những mớ ngọc thạch màu xanh hoặc những mẫu phún thạch, những mảnh đồng quý cắt ra từng miếng. Trên trần nhà, một chiếc quạt máy quay chầm chậm, làm chuyển đi luồng không khí nặng nề và nóng bức của đêm miền nhiệt đới. Tuy nhiên, tất cả những thứ đó chẳng khiến Bob chú tâm. Trái lại, chàng để ý ngay đến một người tóc hoa râm, một người Âu cúi gục trên chiếc bàn gỗ, đầu bất động quay về phía cửa. Không còn nghi ngờ gì nữa, Bob biết người đó là giáo sư Mainright, nhưng ông đã chết rồi. Chàng người Pháp đứng lặng hồi lâu ở chỗ bậc thềm. Nghề nghiệp phiêu lưu của chàng đã nhiều lần đưa chàng tới những cảnh ngộ tương tự, nhưng sự hiện hữu của tử thi gây cho chàng nhiều ấn tượng. Ông Mainright, mới một thời gian ngắn trước đây kêu cứu với chàng mà bây giờ không còn sống nữa. Bob có cảm tưởng mình chịu phần nào trách nhiệm về cái chết này. Nếu chàng đến sớm hơn, hẳn là mọi chuyện êm xuôi. Nhưng làm sao chàng đến sớm hơn được. Vừa nhận lá thư của nhà bác học bất hạnh chàng đã chẳng rời khách sạn ngay đấy ư? Dần dần, Morane cũng lấy lại được bình tĩnh. Đi tới cuối căn phòng chàng đem cái vật chưa biết rõ vẫn bọc trong chiếc khăn đặt vào một góc bàn giấy. Sau đó chàng lại gần người chết, thấy dấu vết bị siết còn rành rành trên cổ nạn nhân, và gần ghế bành, chàng thấy một dải lụa rất dày thắt một nút thòng lọng. Hẳn là hung thù đã sử dụng nó để giết nạn nhân. Chàng đưa mắt nhìn khắp phòng: Không một cửa tủ nào bị nạy. Hình như trong nhà không bị mất mát thứ gì. Hoàn toàn không... trừ ra... Morane lấy lại cái gói chàng vừa đặt ở góc bàn, mở vội chiếc khăn và vật bí ẩn hiện ra, đó là một pho tượng nhỏ tráng men, cao cỡ chừng không hơn mười phân, mang hình dáng một người đàn bà đang đứng, bốn cánh tay đều duỗi ra một cánh tay cầm thanh gươm, một xách một thủ cấp, còn hai cánh tay khác thì xòe ra như ban phép, lòng bàn tay đỏ lòm. Dễ sợ nhất là khuôn mặt với đôi mắt cú vọ có những tia máu, cái miệng toác hoác, lưỡi thè lè giữa hàm răng nhọn hoắt. Hai mảnh xương nhỏ dùng làm hoa tai cho người đàn bà kỳ quái và một chuỗi sọ người vấy máu, lủng lẳng trước ngực. Ở hai cổ chân và bốn cổ tay, người đàn bà ấy mang những chiếc vòng ngọc thạch sáng rực, và quanh cổ đeo một đạo bùa. Morane nghĩ thầm: "Nếu ta không lầm thì đây là bức tượng nữ thần Kâli, vị Hắc thần, vợ của thần Siva, và vì muốn cướp đoạt pho tượng mà kẻ kia đã giết vị giáo sư tội nghiệp này. Nhưng những vòng ngọc thạch và lá bùa thì ta thấy dường như là của già, và có thể cả bức tượng nữa..." Lấy một con dao rọc giấy ở trên bàn, chàng cậy một mảnh men tráng ở gót chân pho tượng thì thấy hiện ra một thứ kim loại màu xam xám. Bob thì thầm : - Chì! Thế mà kẻ gây hấn với ta hoài công đánh cắp pho tượng. Như vậy có thể không phải hắn đã giết ông Mainright đâu. Đột nhiên, chàng giật mình, đôi mắt chàng, chăm chú nhìn dải lụa ở gần chỗ bàn giấy. Dải lụa gợi cho chàng một ý nghĩ. Chàng thì thầm : - Vật này dùng để siết cổ ông Mainright. Nó với pho tượng thần Kâli phải có một liên hệ nào đó. Cá nhân ta, ta không thấy một liên hệ nào. Chuyện này, ta thấy có vẻ quái đản, không thể nào tưởng tượng được. Chàng không khỏi rùng mình, đưa mắt nhìn quanh, tưởng như một quái vật khát máu khủng khiếp thình lình hiện ra. Nhưng không, chẳng có gì, chỉ có một mình chàng ở trong phòng với xác chết. Chẳng bao lâu sau, chàng làm chủ lại thần kinh của mình. "Nếu ta không lầm thì đây chỉ là một vu giết người bình thường. Hung thủ đã vào đây, trong ngôi nhà có nhiều tiền bạc và bảo vật quý giá này, nhưng sau khi thắt cổ ông giáo sư bất hạnh Mainright, hắn đã lấy đi thứ gì? Một pho tượng tầm thường bằng chì tráng men..." Morane lại quan sát pho tượng Hắc thần, một lúc lâu sau khi xem xét kỹ lưỡng, mới nghĩ tiếp: "Phải. Đây là pho tượng của mụ già uống máu Kâli, có thể mở ra nhiều bất ngờ cho chúng ta. Tốt nhất là ta báo cảnh sát cái đã". Chàng nhấc ống điện thoại đặt trên bàn giấy. Nhưng khi chàng đặt ống nghe vào tai thì không có tiếng gì cả. Chàng lẩm bẩm: "Ta quên đi mất! Máy kẹt mà! Dây điện bị cắt rồi! À, không có điện thoại, vẫn có cách kêu cảnh sát rất kiến hiệu: cách này đây..." Chàng lại gần một cửa sổ, mở ra, dang thẳng tay chĩa khẩu súng lên trời, bốp cò liền ba phát. Trong đêm tĩnh mịch, tiếng súng vang dội như sấm và chàng không thắc mắc gì về kết quả. Trong khu phố toàn những biệt thự, xưa nay thường lặng lẽ êm ả, chắc chắn một loạt đạn nổ sẽ mau chóng đánh động hàng xóm. Tác phẩm: Bảy Cây Thánh Giá Bằng Chì Pho Tượng Thần Kâli ... *** Mời các bạn đón đọc Pho Tượng Thần Kâli của tác giả Henri Vernes.
Đời Du Nữ
Saikaku Và Thế Gian Đa Tình "Con người là những hiện thân ma quái”, đó là nhận xét của Ihara Saikaku, văn hào Nhật Bản thế kỷ XVII. Đó không phải là một lời phê phán về đức lý mà chỉ miêu tả tài tình bản tính của con người bằng một mệnh đề ngắn gọn. Những hiện thân ma quái, ôi con người, đó là hữu thể khó nắm bắt nhất, khó định tính nhất. Đó là một sinh vật đa chiều. Nhận xét của Saikaku tình cờ phù hợp và như thể là cộng hưởng với lời thơ Hy Lạp trong khúc hợp xướng thứ nhất từ vở bi kịch Antigone của Sophocles: “Nhưng không gì vượt qua nổi con người Trong sự kỳ lạ của nó!” Chính bản thân Saikaku cũng là một hiện tượng lạ trong văn học Nhật, người có thể được so sánh với Rabelais của văn học Pháp về một tiếng cười chói lọi mà cả hai đã ném vào đời sống. CHÂN DUNG CỦA “VẦNG TRĂNG PHÙ THẾ” Ihara Saikaku (1641 – 1693) là người cùng thế hệ với thi hào Basho dù hai người ít có điểm chung nào về tâm hồn lẫn cuộc sống. Tuy nhiên, trong 26 năm sáng tác đầu tiên (Saikaku bắt đầu viết văn vào tuổi 14) ông chuyên tâm làm thơ, nhất là thơ haiku. Ông có tài làm thơ nhanh đến mức nổi danh là “Nimano” (Nhị Vạn Ông). Vì trong một cuộc thi thơ, Saikaku đã đọc hầu như liên tục hơn hai vạn bài haiku, chính xác là 23.500 bài, trong khoảng thời gian một ngày (đúng 24 giờ đồng hồ) vào năm 1684 trước ngôi đền Sumiyoshi ở Osaka. Đó là một kỷ lục thơ ca không thấy ai tìm cách vượt qua. Khả năng sáng tác thần tốc ấy không mấy thích hợp cho thơ trữ tình – hàng vạn bài haiku (hay haikai theo cách gọi thời đó) mà ông làm rồi ra sẽ không còn vương lại trong trí nhớ ai. Tuy vậy vào năm 1672 Saikaku cũng đã là nhân vật trung tâm của một nhóm nhà thơ tiên phong đi theo phái Danrin. Và tác phẩm đầu tiên của Saikaku được ấn hành nằm trong tập thơ haiku của nhóm này xuất hiện vào năm 1673. Cho dù sau này nổi tiếng là một tiểu thuyết gia lỗi lạc, Saikaku cũng dành cho thơ không ít thời gian. Tính đến cuối đời, ông xuất bản chừng khoảng 12 tập thơ và tác phẩm phê bình thơ. Nuôi ba đứa con, trong đó có một đứa con gái mù. Ông không tục huyền bao giờ và năm 1677, làm lễ thí phát, một cử chỉ khá thông thường của các nghệ sĩ thời đó khi muốn dành cuộc đời mình cho sáng tạo nghệ thuật hoặc đi tu. Năm năm sau, vào tuổi 40, ông đạt được thành công lớn khi quay ngòi bút sang văn xuôi với cuốn tiểu thuyết Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko). Cuốn sách ấy mở đầu cho hàng loạt tác phẩm “Phù thế thảo tử” (Ukiyo zoshi) của ông, ảnh hưởng đến cả thời đại. Và Saikaku trở thành tiểu thuyết gia hàng đầu, linh hồn của thời Phục hưng Nhật Bản. Saikaku tuy không phải là người sáng tạo ra văn chương phù thế, tức “Phù thế thảo tử” nhưng ông đã đem lại cho nó một màu sắc huy hoàng, tựa như tranh khắc gỗ, vẽ lại cuộc sống đa tình của thế gian, kể cả những hiện thân ma quái của nó. Phù thế, ấy là Ukiyo, là cõi người ta. Uki là “ưu” (ưu sầu) nhưng cũng là “phù” (trôi nổi). Cuộc đời hẳn nhiên là phù ảo nhưng cuộc đời cũng là phiêu lãng. Phiêu lãng là sống. Là đi. Là yêu. Là ôm ấp trần gian. Là mộng. Là bay đi theo hương. Là phong ba. Là cát bụi. Là không chết trong khi sống. Là cười cho cả tiếng. Là khóc cho khô lệ. Là một hiện thân tràn đầy của từng khoảnh khắc. Văn chương phù thế, mà Saikaku là người dẫn đầu, là văn chương của những ngọn sóng náo nức, mãnh liệt, lúy túy, nén mình về phía trước mà quay lưng lại với những thần linh xưa cũ. Sống là sóng, là nổi sóng, là thay đổi, là trôi, là dâng tràn. Và con người đô thị, những thị dân Edo chợt khám phá ra tiếng nói của chính mình nơi Saikaku. Khác với võ sĩ đạo, các thị dân ấy đã có con đường của riêng mình gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo). Các nhân vật của Saikaku, cả nam lẫn nữ, đều phiêu lãng trên con đường ấy, cuồng nhiệt và liều lĩnh, ngây thơ và sành sõi, đa tình và tuyệt vọng, thường vấp phải sai lầm nhưng tất cả đều không sợ sống. Sau đó ít năm, Saikaku thử bút trong lãnh vực sân khấu, viết kịch bản cho múa rối (Joruri). Cũng như trong thơ, ông không đọ nổi với Basho thì trong sân khấu, ông chẳng bì được với Chikamatsu. Vở kịch ông soạn vào năm 1685 chỉ là một thất bại. Ngoài ra ông cũng viết một số bài phê bình về kịch nghệ Kabuki. Và với năng lực tài hoa của mình, Saikaku còn đi vào hội họa, vẽ minh họa cho một số tập thơ và tiểu thuyết của chính ông. Các minh họa phù thế thảo tử của ông được yêu thích và nhiều nhà phê bình đánh giá khá cao. Chưa hết, Saikaku còn là một nhà thư pháp có tiếng. Do thành công của cuốn truyện đầu tay, Saikaku tiếp tục viết tiểu thuyết. Từ đó, đến cuối đời, cứ trung bình mỗi năm ông cho ra hai tác phẩm. Đặc biệt, vào năm 1688 sức sáng tạo của ông lên đến tuyệt đỉnh, hoàn thành tất cả 5 tác phẩm dài. Như vậy, viết tiểu thuyết trong khoảng 10 năm cuối đời, ông đã có không dưới 25 bộ sách. Saikaku mất vào tuổi 51. Trước đó ông soạn bài haiku từ biệt thế gian: “Vầng trăng phù thế Hai năm dài tôi đã Dõi đôi mắt nhìn theo.” Di cốt tro tàn của Ihara Saikaku được chôn cất trong chùa Seigan ở Osaka. Saikaku theo sự mô tả của thời ấy có một mái đầu thanh tú và lãng mạn, một dáng dấp trẻ trung. Chân dung ông do nhà thơ Haga Issho đương thời vẽ cho thấy một con người có vóc dáng nhỏ bé đầu cạo trọc, ngồi trầm tư trên sàn với tấm áo choàng truyền thống, đôi tai mở lớn như đang chăm chú nghe, đôi mắt đang nhìn chăm chú một điều gì đó, đôi bàn tay đặt lên nhau trên đầu gối thì rất nhỏ nhưng gân guốc. Toàn thể chân dung ấy toát lên một tính cách mãnh liệt, tràn trề sinh lực, một cái nhìn sắc sảo tinh anh, một hài hước sành đời và một lòng bao dung đầy hiểu biết. Đó là chân dung của một vầng trăng trầm lặng nhưng nồng nàn. Sự trộn lẫn giữa bóng tối và ánh sáng. CHỦ ĐỀ ĐA TÌNH Tiểu thuyết của Saikaku có thể chia làm hai đề tài lớn: Sắc dục và tiền tài. Trước hết là các tác phẩm về sắc tình, gọi là Koshokubon (Hiếu sắc bản). Thứ hai là các tác phẩm về đời sống thực tiễn hàng ngày của thị dân gọi là Choninmono (Đinh nhân vật) hầu như lúc nào cũng liên quan đến tiền tài. Tiểu thuyết những năm đầu thường tập trung vào đề tài sắc dục. Càng về sau Saikaku càng chú ý đến đời sống kinh tế của thị dân. Đa tình, hay “hiếu sắc”, là chủ đề đặc biệt đã làm nên danh tiếng của Saikaku và cũng là yếu tố từng làm cho người ta loại trừ ông trong một thời gian dài. Những tác phẩm hiếu sắc – gọi như thế vì chữ Koshoku (hiếu sắc) được Saikaku đưa vào nhan đề nhiều tiểu thuyết ban đầu của ông: ▪ Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko: Hiếu sắc nhất đại nam, 1682) ▪ Người đàn bà đa tình/ Đời du nữ (Koshoku ichidai onna: Hiếu sắc nhất đại nữ, 1686) ▪ Năm người đàn bà đa tình (Koshoku gonin onna: Hiếu sắc ngũ nhân nữ, 1686) Và ngay cả những tác phẩm mà nhan đề không có chữ “Koshoku” thì trong thời kì đầu ấy vẫn xoay quanh đề tài sắc tình. “Koshoku” ám chỉ tình yêu lẫn sắc dục trong mọi phương diện của nó, có khi bao gồm cả những mối quan hệ yêu đương đồng tính – Các nhân vật ấy thường đa tình đến cực điểm, cả nam lẫn nữ. Hiếu sắc có thể là lần lượt có nhiều người tình khác nhau trong cuộc đời. Nhưng hiếu sắc cũng có thể là chung tình đến cực điểm, có thể cùng nhau chết (tự sát đôi) để bảo vệ tình yêu. Hiếu sắc có thể là nỗi đam mê với trần gian muôn màu, niềm vui sống (Joie de vivre) lúy túy trào dâng. Thế gian xuất hiện trước mắt Saikaku là một thế gian đa tình. Hay trong ông là cả thế gian ấy, là cả người đàn ông, là cả người đàn bà. Con người trở thành nhan sắc của chính cuộc đời chứ không phải chỉ có vẻ đẹp của hoa đào, hoa mơ, hay trăng, nước. Ngắm hoa ư? Được. Ngắm trăng ư? Được. Nhưng con người, đó chính là hoa, là trăng của thời đại mới. Ngắm đi. Nâng niu đi. Ôm ấp đi. Phố xá bỗng nhiên trở thành những bài thơ mới và con người trở thành những bức tranh mới. Một truyện ngắn của Saikaku bắt đầu như thế này: “Tôi chán những đám mây hoa đào đến độ xa lánh kinh đô suốt cả mùa xuân”. Xưa nay, với người Nhật chẳng có gì đẹp bằng hoa anh đào. Thế mà ở đây, chẳng những nó mất hết vẻ quyến rũ mà còn gây buồn phiền khó chịu. Không phải Saikaku tấn công vào hoa đào và thiên nhiên. Nhưng ông thấy rõ thời đại của “hoa” đang nhường lại ngôi vị ưu tiên cho thời đại của “người” với tất cả cái đẹp và cái xấu của nó. Sau chiến tranh, con người đang tận hưởng tự do và những lạc thú mới. Họ trở nên phóng đãng, lao vào sắc dục như những con thiêu thân. Và cái gì quá độ mà chẳng có nguy cơ lố bịch. Saikaku thấy rõ thời đại mới đã đánh mất các cảm thức tinh tế của ngày xưa, thấy rõ sự dung tục đang lan tràn trong lối sống thị dân. “Người ta đến rừng mơ ở Kitano hay viếng hoa tử đằng ở Otani nhưng không phải để ngắm hoa mà để vò xé nó. Người ta nhìn làn khói hùng vĩ tuôn trào từ đỉnh Toribe để chỉ thấy nó không khác nào khói ống điếu!” Trích đoạn trên nằm trong Người đàn ông đa tình. Đó là câu chuyện về cuộc đời phóng đãng của một chàng trai tên là Yonosuke, có nghĩa là “con người của thế gian”. Đứa con trần thế ấy có mặt trong tất cả các chương sách với những phiêu lưu tình ái. Nó theo đúng số chương sách của Truyện Genji do nữ sĩ Murasaki viết từ đầu thế kỷ XI dù nó là một cuốn tiểu thuyết ngắn chứ không phải một tác phẩm trường thiên như kiệt tác cổ điển kia. Và khác với Truyện Genji, nó thuộc vào một thời đại mà người ta bộc lộ nhục cảm một cách táo bạo. Nhục cảm koshoku đã thay thế cho niềm bi cảm aware thời cổ điển. Đúng ra, cái gọi là tình ái ở đây chỉ là những cuộc ăn chơi phóng đãng qua các thành phố Edo, Osaka, Kyoto… và cái đó gọi là “tự do”: “Hơn bất kỳ điều gì khác trên đời, Yonoseko yêu tự do”. Như thế, Yonoseko là một mẫu người dục tính, khác với Hoàng tử Genji là con người lãng mạn. Con người lãng mạn đi tìm cái đẹp, cứu vớt cái đẹp và sáng tạo cái đẹp. Cỏ hoa, bóng trăng, nhan sắc và tâm hồn được tái tạo và huyễn hóa. Con người dục tính thuộc về thế gian này, khoảnh khắc này, nhục thể này. Nó tìm kiếm hoan lạc khắp nơi. Nó lấy thực làm mộng, nó không vỡ mộng nhưng lại làm vỡ thực tại với dục vọng của mình. Và khi con người dục tính làm “tiên tri” thì nó chỉ có thể là tiên tri giả. Yonoseko từng đóng vai một nhà tiên tri thần đạo mà hát to trên đường rằng “ngọn gió thiêng sẽ thổi và tàn sát tất cả các cô gái nào ở tuổi mười bảy đôi mươi mà vẫn còn trinh trắng”! Vậy mà Người đàn ông đa tình vẫn còn chút ít màu sắc lãng mạn nếu đem so sánh với tiểu thuyết viết sau đó bốn năm là Người đàn bà đa tình, tức Đời du nữ. Nhân vật trung tâm lần này là một du nữ và đây là câu chuyện của thân xác nàng. Đó là một thân xác liên kết mọi biến cố trong đời nàng và vì vậy trở nên một thân xác “có tính cách”. Nàng là nhân vật tiểu thuyết được tạo dựng sinh động nhất của Saikaku, một chân dung mang nhiều màu sắc hiện thực tâm lý nhất của văn học Nhật Bản đương thời. Các chương của tác phẩm kể theo ngôi thứ nhất trong truyền thống “Sám hối vật ngữ” (Zange monogatari) tức loại truyện tự thú, tự bạch. Tên thật của nhân vật không hề được nêu lên. Xuất thân từ một gia đình tử tế, nàng làm thị nữ cho một phu nhân ở triều đình. Nhưng sau đó bị đuổi đi vì tội vụng trộm tình ái lúc mới 12 tuổi. Không bao lâu, gia đình nàng sa sút, nàng bị bán vào “thành phố không đêm” Shimabara ở Kyoto. Những thành phố không đêm (Fujajo: bất dạ thành) là các khu vực vui chơi thời ấy. Vừa là chốn ăn chơi, vừa là trung tâm của đời sống xã hội nghệ thuật. Đó là các khu phố Yoshiwara ở Edo, Shimabara ở Kyoto và Shinmachi ở Osaka. Những khu phố ấy bao gồm các thanh lâu, nhà tắm, lữ quán, sân khấu… chứa đựng đông đảo các du nữ, vũ nữ, vai hề, diễn viên cùng với những người hầu, phục vụ và buôn bán. Chính các thị tứ của lạc thú ấy đóng một vai trò quan trọng làm nên văn hóa thời Tokugawa (1600 – 1868). Bởi vì là nguồn đề tài bất tận cho nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia, họa sĩ và cả thơ. Nhân vật chính của các thành phố không đêm là du nữ (Yujo: gái làng chơi, các ả đào). Họ đàn hay, múa giỏi và nghệ thuật ứng xử, trò chuyện khéo léo… Những thị tứ như vậy được gọi là Yukaku (du quách). Shimabara chính là một Yukaku, ở đó bắt đầu cuộc đời lưu lạc khắp xứ của người đàn bà đa tình. Nàng lần lượt là du nữ, là tình nhân của một nhà sư, là thầy dạy viết thư, hầu phòng, hầu gái, ca nữ, gái nhà tắm, trà thất và khi xuống tận đáy, làm cả gái điếm đường. Có một số yếu tố khách quan từ hoàn cảnh gia đình và xã hội nhưng vẫn không mạnh bằng bản chất “Koshoku” (hiếu sắc) ở nàng. Nàng không hề là một nhân vật lãng mạn. Nàng đến với đàn ông bằng thân xác chứ không bằng tình yêu và giấc mơ. Nàng tống khứ cả tôn giáo ra khỏi ngày lễ của nó, ra khỏi tâm hồn một sư già đang mặc tăng bào, cầm kinh khí tượng A di đà. Có lúc nàng hóa thành lang thang trên đường và hát theo vũ khúc xưa: “Ta cần một người đàn ông! Ta cần một người đàn ông!”. Về già, khi không còn có thể tìm thấy lạc thú nào nữa, đứng trước dãy tượng Ngũ Bách La Hán ở chùa Đại Vân nàng vẫn đầy ắp trong tâm cuộc sống hoan lạc cũ. “Khi đứng yên lặng ngắm nhìn năm trăm vị Phật này, Tôi cảm thấy rằng từng vị một gợi cho tôi nhớ đến mỗi người đàn ông mà tôi đã từng giao hoan trong quá khứ.” Ngay cả Phật cũng không thoát khỏi sự cảm nhận của nàng bằng thân xác là đàn ông, là nam và nàng là người nữ, dường như đó là điều nàng quan tâm trong suốt cuộc đời. Về cuộc đời, nàng ngỡ rằng mình đã thoát khỏi “những đám mây ảo vọng của chính mình”. Nàng lầm. Người đàn bà đa tình là nàng, là du nữ trong bản chất, là cư dân vĩnh viễn của những thành phố không đêm. CON ĐƯỜNG CỦA THỊ DÂN Đề tài thứ hai mà tiểu thuyết của Saikaku thường khai thác là tiền tài. Biết sử dụng tiền tài là một trong những yếu tố của Chonindo (Đinh nhân đạo). Những câu chuyện về thị dân và tiền tài thuộc về chủ đề Choninmono (Đinh nhân vật) mà Saikaku bắt đầu với bộ Kho tàng vĩnh cửu (Nippon Eitaigura: Nhật Bản vĩnh đại tàng, 1688). Đó là một tập sách gồm 30 truyện diễn tả các phương cách kiếm tiền và tiêu phí nó của thị dân. Cuốn sách được xem là bộ cẩm nang làm giàu và vì thế đã trở thành kinh thánh của thế kỷ XVIII. Giá trị của Kho tàng vĩnh cửu chính là bức tranh hiện thực về thế giới thị dân dưới ảnh hưởng của tiền tài. Saikaku có lẽ là tác giả đầu tiên ở Nhật đề cập đến đời sống kinh tế một cách cụ thể, linh hoạt và đầy đủ đến như vậy. Saikaku cũng là nhà văn đầu tiên vạch ra đường lối sống của thị dân, có thể gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo), khác với tính cách cứng nhắc của võ sĩ đạo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ông đồng tình với việc làm giàu bằng mọi giá. “Những cách làm tiền bỉ ổi” bị ông vạch ra trong Kho tàng vĩnh cửu với lời kết luận như sau: “Chỉ người nào mưu sinh bằng những phương tiện đàng hoàng mới đáng gọi là người. Đời sống của con người có lẽ chỉ là giấc mơ, nhưng dù chỉ kéo dài độ năm mươi năm thì chọn một công việc tử tế trong thế gian này hẳn là cũng tìm được thôi”. Ảnh hưởng của tiền tài trong đời sống thị dân còn có thể tìm thấy trong nhiều tác phẩm khác của Saikaku, đáng kể hơn cả là cuốn sách ấn hành vào khoảng cuối đời, mang tên Nợ nần thế gian (Seken Munesanyo, 1692). Đây cũng là tập truyện ngắn. Những câu chuyện xoay quanh ngày cuối năm, thời điểm phải lo thanh toán mọi nợ nần. Đời sống tối tăm đầy lo buồn của những thị dân hiện lên trên các trang sách này khác hẳn với đời sống xa hoa của những nhân vật mà Saikaku phác họa trong thời kỳ đầu. Không phải là những cá nhân đào hoa mà là những tập thể lầm than. Cũng không còn vấn đề làm giàu như trong Kho tàng vĩnh cửu nữa mà chỉ còn là vấn đề trả nợ trong địa ngục năm tàn. “Mùa cuối năm đầy những chuyện mà người đứng ngoài cũng thấy nát lòng!”. Ở đây hầu hết các nhân vật không có tên mà chỉ có những danh từ chung để chỉ các quan hệ xã hội: ông chủ, bà chủ, người thâu tiền, thư ký, người nghèo, người vợ, người con… Ngoài hai chủ đề trên, Saikaku còn viết các tạp thoại bao gồm những truyện truyền kỳ, truyện võ đạo và cả truyện trinh thám. Nổi bật trong loại này là Truyện các xứ (Shokoku banashi, 1685). Qua Truyện các xứ, Saikaku muốn thám hiểm “cuộc đời trong tất cả chiều rộng của nó”. Nó gọi ta nhớ đến Truyện mười ngày của Boccaccio vào thời Phục hưng ở Ý. Vẻ đẹp và thói xấu của con người trong các tác phẩm ấy đều có vẻ lý thú. Đó chính là hình ảnh con người như “hiện thân ma quái”. Đó là con người trong một thế gian có muôn màu kỳ diệu, có hoan lạc, có đau khổ, có bất trắc, có bình an… nghĩa là một thế gian đa sự, đa tình. Cái hiện thực căng đầy ở Saikaku thường đi đôi với sự trào lộng. Như chính cuộc đời, ngay cả trong những cảnh bi đát, Saikaku vẫn để lóe lên tia sáng nghịch thường. Theo Hibbett đó là “nghệ thuật đan xen ánh sáng và bóng tối” của Saikaku và cho rằng: “Bằng cách trộn lẫn trào tiếu với trang nghiêm, Saikaku đã sáng tạo ra một phong cách hiện thực châm biếm đầy chất thơ để có thể miêu tả cả phương diện vui thú lẫn buồn phiền của cõi phù thế”. Tính chất hiện đại của Saikaku đã làm dậy lên một phong trào khôi phục ông vào cuối thế kỷ XIX sau khi ông bị lãng quên gần hai thế kỷ. Người ta chợt nhận ra rằng, hóa ra ngay từ thế kỷ XVII, văn học Nhật đã biết đến một chủ nghĩa hiện thực tràn trề sự sống. Với Saikaku, “những con người phù thế khám phá ra rằng các câu chuyện kể về những rồ dại và mê cuồng của họ cũng hứng thú như bất kỳ truyện kể nào nhập từ Trung Quốc sang hay của ngày xưa truyền lại. Gái hồ ly, võ sĩ và các tiểu thư vẫn còn là thời thượng văn chương đấy nhưng đã có vẻ sáo mòn, khác với các nhân vật phù thế như chàng tuổi trẻ phóng đãng, như các du nữ tài sắc quyến rũ hoặc người vợ bướng bỉnh ngang tàng” (Hibbett, The Floating in Japanese Fiction, Tokyo 1992). Những gì Saikaku sáng tạo vào cuối thế kỷ XVII giữa một xứ Phù Tang đóng kín đến nay vẫn còn tràn đầy một niềm vui sống say nồng. Con người thời đại, cho dù ở xa Nhật Bản, vẫn tìm thấy hình bóng mình trong các tác phẩm của Saikaku, cả vẻ đẹp lẫn thói xấu, cả sắc lẫn tình, cả chơi đùa và bán buôn, cả trang trọng và khôi hài. Và nhất là đọc ông, ta chợt nhận ra thế gian quanh ta đa tình biết mấy! NHẬT CHIÊU *** Thời đại Edo (1603 – 1867) dưới sự lãnh đạo của Mạc phủ Tokugawa kéo dài 264 năm có thể xem là một trong những thời kỳ êm đềm nhất trong lịch sử Nhật Bản. Với chính sách bế quan tỏa cảng, người Nhật dựa vào nội lực của chính mình để phát huy đặc tính văn hóa trên tất cả lĩnh vực từ cá tính dân tộc, tay nghề, mỹ thuật… Giai cấp samurai được khuyến khích coi trọng văn hơn võ; giai cấp thương gia ngày càng trở nên giàu có. Thêm vào đó nhờ vào sự phổ cập các trường tư thục, trường dạy trong chùa (terakoya 寺子屋) và kỹ thuật in ấn phát triển, sách in bằng bản khắc gỗ ra đời nên dân thường có điều kiện tiếp xúc với văn chương. Văn học được đại chúng hóa và văn hóa trở thành văn hóa của thị dân (Chonin bunka 町人文化). Sinh vào đầu thời Edo, Ihara Saikaku (Tỉnh Nguyên Tây Hạc 井原西鶴) (1642 – 1693) là nhà thơ haiku và tác gia tiêu biểu cho dòng tiểu thuyết “phù thế thảo tử”. Phần lớn cuộc đời ông viết về cuộc sống thị dân Edo với những mối quan tâm về tiền bạc và sắc tình. Với khả năng quan sát nhạy bén và tài năng đa dạng, Saikaku đã khắc họa tinh tế bản chất con người trong một xã hội của kim tiền và sắc dục. Những tác phẩm của ông vẫn còn có giá trị cho đến ngày hôm nay vì cho dù có văn minh đến đâu nhưng tâm lý con người ngàn năm nay vẫn không hề thay đổi. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là “Năm người đàn bà si tình” (Hiếu sắc ngũ nhân nữ 好色五人女). Ueda Akinari (Thượng Điền Thu Thành 上田秋成) (1734 – 1809) vốn là con hoang của một kỹ nữ, sau được một thương nhân nhận nuôi để nối nghiệp nhưng cuối cùng lại chuyển sang nghề y. Ueda có niềm tin sâu sắc về những truyện huyền bí. “Vũ nguyệt vật ngữ” (雨月物語 Truyện kể trong mưa và trăng) đúng như tên gọi được viết xong vào đêm mưa tạnh trăng mờ năm 1768. Tuy viết về chuyện yêu ma quỷ quái nhưng lại ẩn chứa rất nhiều bài học về thế thái nhân tình. Hai tác phẩm tiêu biểu “Năm người đàn bà si tình” và “Vũ nguyệt vật ngữ” đặt song song và tương chiếu với nhau giúp chúng ta thấy được cuộc sống và quan niệm nhân sinh của người dân Nhật Bản thời Edo một cáchsống động và chân thực và từ đó có thể rút ra bài học cho chính mình trong cuộc đời hôm nay. Đặc biệt là lời cảnh tỉnh về sắc dục và ái tình. Từ xưa đến nay đã có biết bao nhiêu tấn tuồng đời diễn ra với mùi vị của kim tiền. Chính tiền bạc và sắc dục đã biến con người trở thành yêu ma, yêu ma vì tình mà trả thù người, người và yêu ma lẫn vào nhau, chung sống với nhau. Như xà tinh trong truyện “Con rắn tà dâm” vì tình mà uổng phí công tu luyện ngàn năm, nhà sư trong truyện “Chiếc khăn trùm đầu màu xanh” của “Vũ nguyệt vật ngữ” vì tình yêu với chú tiểu mà biến thành một con yêu quái. Chính Ueda Akinari cũng thừa nhận: “Trên núi ái tình mà bản thân Khổng Tử cũng trượt ngã, người đời dễ quên đi nghĩa vụ của mình và cả bản thân mình nữa”[1]. Còn truyện “Năm người đàn bà si tình” thì kết thúc hầu hết là bi thương, nhân vật chính không chết thì cũng đi tu. Ái tình đã biến thành nghiệp chướng. Cả hai tác phẩm này đều đã có bản dịch tiếng Việt dù không đầy đủ. “Năm người đàn bà si tình” của Ihara Saikaku được Phạm Thị Nguyệt dịch, Nhà xuất bản Tiền Giang ấn hành năm 1988. Còn “Vũ nguyệt vật ngữ” được Nguyễn Trọng Định dịch với tên “Hẹn mùa hoa cúc” do Nhà xuất bản Kim Đồng in năm 2000. Những trích dẫn trong bài của chúng tôi là lấy từ hai bản dịch này. ... Mời các bạn đón đọc Đời Du Nữ của tác giả Ihara Saikaku.