Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

The Joker - Phan Hồn Nhiên

Sau cái chết đột ngột của người bạn gái, Huy cảm thấy vô cùng bất an và nghi vấn, anh quyết định dấn thân tìm sự thật. Bắt đầu từ những manh mối nhỏ nhất, bằng sự khéo léo và kiên định, Huy đã khám phá những bí mật đằng sau cái chết và những uẩn khúc trong cuộc đời bất hạnh của cô gái. "The Joker" là cuộc "rượt đuổi" căng thẳng về trí tuệ giữa các nhân vật. Đó cũng là một thể nghiệm viết mới của nhà văn Phan Hồn Nhiên: giải mã những bí mật tâm lý để qua đó hình thành một câu chuyện ly kỳ, gay cấn... *** - Ổn cả chứ? Chốc nữa, anh có cần tôi đưa lên nhà không? - Tôi sẽ tự đi được! - Huy lẩm bẩm, như thể đang nói với một người xa lạ, không liên quan, chứ chẳng phải kẻ đã ra tay nện mình nhừ tử. Luồng khí lạnh từ máy điều hòa chiếu thẳng vào ngực áo lấm ướt khiến anh run nhẹ, đề nghị - Nếu tăng nhiệt độ lên một chút thì tốt! Hơn 12 giờ đêm. Những xe tải và container chở hàng như bầy thú khổng lồ nối nhau kéo vào thành phố. Đoạn rẽ ở một ngã ba, xe đổ vào càng đông đúc. Phát lái chậm hẳn, giữ chiếc xe nhỏ chạy với tốc độ 50km/h. Thảng hoặc, Huy ngỡ như có một bóng người đang kiên trì bám theo, cố gắng nhìn anh qua cửa kính. Nhưng, chỉ là vài vệt đèn sáng từ chiếc xe nào đó lướt nhanh trên cánh cửa phía bên anh ngồi. - Đôi khi tôi lại hành động như một kẻ mất kiểm soát. Nói theo kiểu của Minh, là dấu vết của tuổi niên thiếu bị bỏ mặc, lạc lõng và mất phương hướng - Phát giải thích chầm chậm, đột nhiên mỉm cười. Nụ cười biến gương mặt anh ta thành cái đầu sọ kiệt sức, nỗ lực bày tỏ xúc cảm cuối cùng - Nhưng, giá như anh đừng dò xét, đừng bới tung những thứ đã được sắp xếp đúng chỗ, thì tôi không tốn công sức gây ra những rắc rối như thế này đâu... Mắt vẫn mở to, nhìn thẳng về phía trước, Huy im lặng. Gương mặt anh cứng đờ. Các khối cơ tê dại. Lớp da trên mặt đã biến mất, trở thành cái mặt nạ trơ lỳ, bất động. Toàn bộ con người anh chia làm hai phần rõ rệt. Phần thân thể nhức nhối, bị sợi dây bảo hiểm ràng qua ngực như sắp thắt chặt buồng phổi. Vai và gáy anh đau đến mức tựa nhẹ vào lòng ghế da mềm cũng trở thành cực hình. Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, đầu óc anh vô cùng sáng suốt. Đến mức mọi hình ảnh, từ ngữ khi dội đến đều hiện ra với ý nghĩa thật của nó. Bàn tay với những ngón tay dài mảnh đặt hờ trên vô-lăng, Phát vẫn nói, giọng đều đều, không ngưng nghỉ. Dường như anh ta chỉ chờ đến lúc này đây, chọn chính kẻ mà anh vừa bạo hành, không còn sức cựa quậy, để phơi bày một góc sự thật con người anh ta bấy lâu nay giấu kín: Một cậu con trai hời hợt. Các mong muốn dễ dàng được đáp ứng. Những ngày tháng sống nhàn tản, chẳng buồn bận tâm bất cứ điều gì bên ngoài bản thân. Rồi Minh xuất hiện, trong thời gian ngắn ngủi bẻ ngoặt chuỗi niềm tin ngây thơ trong đầu anh ta qua một hướng khác. Phát hiện về một thứ cảm xúc lớn lao mà cô ta có thể đem tới, lớn hơn cả dục vọng. Nó gần giống như sự che chở của một người mẹ, thứ tình cảm anh ta không biết đến từ khi còn nhỏ. Nhưng những ngày đẹp đẽ ấy không kéo dài. Sau đó, một vài xung đột tầm thường của hai người yêu nhau cứ liên tục kéo đến, không sao kiểm soát. Cái chết tình cờ của cô gái quỷ quyệt ấy khiến anh ta sợ hãi, nhưng cũng thật nhẹ nhõm khi ngỡ rằng đã được giải thoát hoàn toàn... Quá nhiều ngôn từ. Quá nhiều hành động không rõ mục đích. Hồ như tất cả những con người chung quanh đều nỗ lực chuyển động. Chuyển động cuồng loạn mà cũng không dám đoan chắc đích đến. Mỗi kẻ hành động đều có lý do chết tiệt nào đó. Không ai quan tâm ai cả. Và rốt cuộc, điều cuối cùng mà người ta có thể nhận ra, như Huy lúc này nhận ra, là quá nhiều thương tổn thương không thể cứu chữa được nữa. Cơn mưa li ti rơi xuống, không tiếng động. Tránh chiếc xe du lịch ngược chiều phóng như điên, cỗ xe tải ở ngay phía trước xe của Phát đánh mạnh tay lái về bên phải. Đám đất cát chất cao có ngọn trong thùng xe chuồi xuống một góc, tung tóe thành lớp bụi đỏ dày đặc, bao phủ đoạn đường phía sau. Bụi và nước mưa mau chóng biến thành lớp bột nhão loang lổ trên lớp kính. Trái với phán đoán của Huy, người điều khiển xe bỗng nhiên tăng tốc đột ngột. Như một con vật mù lòa điên cuồng, cỗ xe nhỏ màu đen lao về phía trước, lách giữa khoảng đường hẹp hiện ra lờ mờ giữa hai làn đường. Trong tích tắc, Huy thấy đuôi chiếc container xám bạc hiển hiện sát ngay trước mặt. Chỉ một phần mười giây thôi, cả chiếc xe con sẽ trôi tuồn tuột, lọt thỏm vào dưới gầm xe, chắc chắn. Đúng khi tấm kính trước mặt họ chỉ cách cạnh dưới của cái hộp sắt khổng lồ chưa đầy nửa mét, Phát đạp thắng, đột ngột. Nếu không có dây bảo hiểm, cả cơ thể Huy đã vọt thốc về phía trước, xuyên qua kính như một viên đạn. Cái cảm giác vừa tiếp xúc với cái chết, quá gần, khiến Huy buồn nôn kinh khủng. Để trấn áp nó, anh ngoảnh sang người bên cạnh, hỏi thẳng: - Anh làm gì vậy? - Anh đã nếm được cảm giác khiếp hãi thật sự, đúng không? Giống hệt như cảm giác anh đã gây ra, khi dai dẳng bám theo tôi, hỏi han về nguyên nhân cái chết của Minh. - Nếu anh không liên quan trực tiếp vụ việc đó, vì lẽ gì nó ám ảnh, khiến anh phải tốn quá nhiều mưu mẹo? - Huy lạnh nhạt. - Anh muốn tôi nhắc lại sự thật bao nhiêu lần nữa đây? - Người cầm lái nhếch môi. Dù anh ta tỏ ra hờ hững nhất, thì Huy vẫn cảm thấy anh ta đang tìm cách che đậy một thứ gì đó, mơ hồ, nhưng không phải không có thật. Đèn đỏ. Dòng xe dừng hẳn. Bảng hiệu giao thông vươn ra tận giữa lòng đường. Các vệt đèn điện tử hắt xuống chùm tia màu đỏ sẫm, vuông góc với lớp kính chắn gió. Chúng kết hợp với bùn đất và nước mưa loang lổ trên kính như một thứ máu đặc sánh ri rỉ. Bấm nút điều khiển cần gạt, các ngón tay Phát vuốt nhẹ gương mặt hốc hác: - Tôi căm ghét Minh. Căm ghét các trò diễn quái quỷ của cô ta. Căm ghét tình thế lố bịch cô ta đẩy tôi vào. Cô ta lấy đi của tôi tất cả những gì tôi từng tin là đáng giá nhất. Tôi ngáng đường anh, vì tôi không muốn chung quanh biết được bí mật tồi tệ giữa tôi và cô gái ấy. Sự thật chỉ có vậy. Anh hài lòng rồi chứ? - Quỳnh thì sao? Anh từng gặp gỡ cô ta, đúng không? - Đúng. Nhưng chẳng có gì đáng kể. Tôi bám theo cô ta, để hỏi thăm và gắng liên lạc với Minh. Nhưng cô ta lại ra sức bảo vệ chị họ. Một cô gái cứng đầu. Trò thách thức của cô ta cũng đáng căm ghét như thái độ tự phụ của chị họ cô ta vậy! - Được rồi. Bây giờ thì cho tôi biết rõ hơn một chút về bí mật tồi tệ giữa anh và Minh đi! Nhưng Phát không nói gì nữa. Suốt quãng đường còn lại, anh ta hoàn toàn chú mục vào tay lái. Chiếc xe lướt trên mặt đường nhựa trơn mượt, lao về phía đầu kia thành phố. Huy nhắm mắt, thở nhẹ. Bằng trực giác, đột nhiên, anh nhận ra người ngồi cạnh bên đang khóc. Không có âm thanh nào. Đơn giản là nước mắt ứa ra, ràn rụa, không cách gì ngăn lại. Điều hòa không khí trong xe tắt. Cửa kính hai bên cửa hạ xuống. Gió đêm thốc vào. Lạnh. Mạnh. Trong sạch. Xe dừng dưới chân chung cư Huy sống. Họ vẫn ngồi im trong xe, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng biệt. Cả hai đều biết rõ, câu hỏi và câu trả lời buộc phải đưa ra, nếu một trong hai người lên tiếng đề cập. Nhưng, Huy hiểu, tốt nhất là không nói thêm gì nữa. Đừng mong thông tin kiếm được dễ dàng từ miệng kẻ khác. Nếu có được, cũng chỉ là thứ tin tức sai lạc. Cuối cùng, người ta chỉ có thể trông cậy vào chính bản thân mình. Tháo dây bảo hiểm, anh đưa tay kéo chốt cửa. Ánh đèn vàng bật sáng tức khắc nhúng mọi thứ trong xe vào dòng sáng hổ phách. Gương mặt đã khô lạnh của Phát hướng thẳng về Huy. Con ngươi trong mắt anh ta giãn rộng. Không phải là vẻ ân hận, mà là sự bàng hoàng kinh sợ không sao hiểu nổi. Rồi anh ta mấp máy môi, thì thào, như nói với chính mình: "Bỏ qua hết đi... Vì tất cả chúng ta đều cô độc!". Tình thế kỳ dị. Không tìm được câu hỏi nào khả dĩ, Huy nhặt chiếc phong bì vàng, lẳng lặng xoay lưng. Ngay khi đế giày mềm chạm xuống mặt đường, một phản chiếu thoáng qua trong kính chiếu hậu khiến anh tê dại. Huy đã hiểu, vì sao Phát lại khiếp sợ như thế khi nhìn rõ mặt anh. Toàn bộ gương mặt anh giờ đây là hình ảnh lặp lại của một hình ảnh có sẵn. The Joker. Suốt phần còn lại của đêm, Huy ngồi trước máy tính. Anh mở chiếc phong bì, xem kỹ các chi tiết cần chỉnh sửa, sau đó bắt tay vào các việc cần làm. Càng vẽ, đầu óc anh càng tỉnh táo. Trong khi chỉnh các đường viền mới cho lưng chiếc ghế gỗ, anh nhìn thấy lại mối quan hệ giữa Minh và Quỳnh. Thoạt đầu là sự trấn áp. Con thú tinh ranh và trải nghiệm dẫn dắt con thú nhỏ hơn, khờ khạo hơn bước theo con đường nó đã đi qua. Tuy nhiên, vào lúc không ngờ nhất, con thú nhỏ đã chống cự, vùng chạy. Vì dù yếu ớt và sợ hãi, nó vẫn biết rõ nó sẽ phải đi con đường của riêng mình. Đây chính là lời giải tốt nhất, cho thái độ yêu quý, tìm hết cách để che chắn, bảo vệ cho chị họ, nhưng đồng thời cũng vẫn gửi đi một thông điệp âm thầm cho anh biết không bao giờ là bản sao của Minh nữa, từ Quỳnh. Đặt lại các cánh cửa đã thay đổi số đo vào khung xương tủ, Huy nhìn thấy rành mạch sự gắn kết giữa Minh và Phát. Anh đã bị đánh lạc hướng bởi sai lầm ngay từ đầu, khi tin rằng giữa hai người ấy là tình yêu. Chẳng có tình yêu nào hết. Anh ta chỉ là một tấm chắn. Thông qua Phát, Minh tiếp cận một người khác. Người đã theo dõi anh khi anh đột nhập nhà trọ của Minh. Chủ nhân thật sự của chiếc mô-tô, kẻ đã tấn công anh hầu chiếm lại chiếc USB chứa đựng bí mật nguy hiểm. Người bị ghi hình, khi tàn nhẫn đánh đập Minh. Cũng chính là người giờ đây khiến Quỳnh khiếp sợ, phải lẩn trốn... Bất giác, anh nhìn ra cánh cửa lớn. Chờ đợi tiếng gõ nhẹ. Nhưng không ai cả. Giống như một bài toán hình không gian, khi anh nối các điểm đã xác định được, những hình ảnh dần hiện ra. Huy đứng dậy, bước đến tủ lạnh, rót một cốc nước đầy và uống cạn. Đột nhiên, anh nhớ quãng thời gian hồi chín tuổi, hoặc nhỏ hơn, anh từng ốm một trận rất nặng. Đến mức anh tin mình sẽ chết. Điều ấy làm anh khổ sở ghê gớm. Nhưng sau cơn mê sảng khiến thân thể muốn vỡ tung ra như các mảnh gỗ ghép lại, anh lại nghĩ thật tuyệt nếu được chấm dứt tất cả. Đó là ý nghĩ kỳ dị với một đứa trẻ nhỏ, anh biết, nên không nói với ai cả. Ngay cả khi cơn ốm qua khỏi một cách kỳ diệu, thì mãi mãi sau này, anh vẫn không quên trải nghiệm có những thời khắc người ta rất thèm được buông xuôi, được thua cuộc. Rồi trí nhớ trôi dạt của anh lại hướng về Quỳnh. Hoàn toàn không đúng lúc, hiện ra hình ảnh cô khỏa thân hoàn toàn. Không có gì che chắn. Yếu ớt. Khoảng vai hẹp nhô lên. Đường cong nhẹ của khoảng ngực gầy. Tấm lưng bầm tím. Gương mặt lạc lõng, xa cách ngay với thân thể của chính mình... Nếu lúc khác, hẳn anh đã tự trách mình bởi các tưởng tượng tồi tệ. Nhưng giờ đây, ngược lại, anh bấu víu vào những hình ảnh ấy. Có thật cô ấy cần anh không hay là anh tự vẽ ra? Có thật là từng có giây phút, cô ấy tin cậy, trao cho anh tất cả con người cô, chẳng ngại ngần? Cái buổi sáng kỳ dị ấy, có thật không hay là anh tưởng tượng nên? Nếu là mơ, thì nó quá đẹp và sinh động. Nhưng nếu là thật, thì vì sao anh lại một mình đứng đây, đứt lìa mọi liên lạc với cô gái lạ lùng? Các cánh cửa đều mở. Ngoài âm thanh rù rì của máy vi tính, căn phòng trống rỗng. Gió đã biến mất. Những rèm cửa phẳng lặng. Nhiệt độ quanh anh không thay đổi. Anh đứng im, nhìn ra khoảng trời đêm. Vệt đèn sáng nhấp nháy bên dưới chiếc trực thăng đang bay qua bầu trời thành phố như một con mắt nhìn anh từ trên cao, mệt và buồn, nhưng thấu hiểu. Cảm giác tổn thương, nỗi sợ hãi, sự giận dữ lâu nay tích tụ trong anh chầm chậm đổ sụp xuống. Anh dựa lưng vào tường, run rẩy, nhìn vào đống đổ nát hỗn loạn bên trong chính mình. Kiệt sức. Nhưng, ít nhất, anh đã chiến đấu, không bỏ cuộc. Ít nhất, anh đã chống cự lại sự mục ruỗng của mong muốn thỏa hiệp. Ít nhất, trong cuộc săn đuổi con quái vật vô hình, anh đã không biến thành một con quái vật mới, vô cảm, thô bạo và lạnh lẽo. Dưới ánh sáng của ngọn đèn néon trắng, cái bóng anh trên mặt sàn mỗi lúc thêm sẫm lại, như một người khác, cũng đang lặng lẽ quan sát anh. Huy vào phòng tắm, mở nước lớn. Vài vệtmáu dưới mũi và quanh miệng anh đã khô. Dưới làn nước mạnh, chúng trôi đi mộtcách dễ dàng. Anh tắt vòi nước đột ngột, ngẩng lên. Trong gương, làn da trắngsáp của cái mặt nạ vẫn còn phảng phất. Một chỉ dẫn kỳ dị, nhưng không thể rõràng hơn. Khi hàng loạt suy nghĩ, phỏng đoán không tìm ra câu trả lời, thì vớimột hình ảnh tình cờ của gã hề gây rối loạn, mọi thứ bỗng xếp đúng vị trí. Manhmối cuối cùng đã được tìm thấy. Anh sẽ đến tìm gặp kẻ cần gặp ấy, ngay khi trờisáng. ... Mời các bạn đón đọc The Joker của tác giả Phan Hồn Nhiên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhật Ký Của Một Cha Xứ Miền Quê
Nguyên tác: Journal d'un curé de campagne (1936) Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp 1936 Dịch giả: Lê Hồng Sâm, Phùng Đệ, Nguyễn Dương Khư NXB: Hội nhà văn Năm XB: 1999 Đây là một dạng tiểu thuyết cổ điển: đơn giản, đẹp, buồn và hứng khởi. Một vị linh mục trẻ tuổi đầy lý tưởng tại một ngôi làng hẻo lánh ở nước Pháp vẫn ngày đêm viết nhật ký mô tả về sự chịu đựng không có gì là anh hùng cho lắm và những mâu thuẫn vặt trong giáo xứ của mình. Điều này trông có vẻ như nhạt nhẽo đối với một cuốn tiểu thuyết, thế nhưng với "Nhật ký một cha xứ vùng quê" của George Bernanos, thì nó vẫn còn là một trong những hình thức gợi hứng sống động nhất ở thế kỷ thứ 20 về một đời sống thánh thiện. Lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1936, "Nhật ký một cha xứ vùng quê" của Bernanos mô tả về cảm nghiệm thất bại của một người có đầy đức tin. Trong nhật ký của mình, vị linh mục viết lại hết những cảm tưởng thấp kém và nỗi buồn mà ông không thể diễn tả được cho các giáo dân của mình. Và khi cận kề cái chết vì bệnh ung thư, tính thánh thiện của vị linh mục vẫn chưa mấy rõ ràng lắm đối với ông, thế nhưng nó lại trở thành một điều không thể nào chối cãi được đối với các độc giả. *** Nhận xét của Cao Việt Dũng về tác giả:   Lần đọc này mới thấy Bernanos là một nhà văn lớn đến như thế nào, một văn chương rung động sâu thẳm, một buổi chiều cũng có thể kêu vo ve và ánh trăng vàng thì biết run rẩy. Lịch sử văn chương toàn chuyện quái đản: những nhà văn tiền phong và tiến bộ thường xuyên chạy thẳng vào sọt rác, trong khi các nhà văn phát xít, các pháo đài bảo thủ hạng nặng lại thường xuyên là những nhà văn lớn. Bernanos là một người Thiên chúa giáo (các tiểu thuyết của Bernanos chỉ xoay quanh các ông thầy tu và giáo dân địa phận), thù người Do Thái, lại là một người bảo hoàng, từng rất thân cận với lãnh tụ nhánh bảo hoảng Charles Maurras. Không cần thực sự đọc thì nhiều người cũng biết đến Georges Bernanos: ngay thập niên 50 Nhật ký một cha xứ vùng quê đã được dựng thành phim. *** Xứ đạo của tôi là một xứ đạo như mọi xứ khác. Mọi xứ đạo đều giống nhau. Các xứ đạo ngày nay, dĩ nhiên rồi. Hôm qua tôi đã nói điều ấy cùng Cha xứ Norenfontes: tại đó cái thiện và cái ác hẳn phải cân bằng với nhau, duy có trọng tâm ở dưới thấp, rất thấp. Hoặc nếu nói cách khác thiện ác cái nọ chồng lên cái kia mà không hòa trộn, như hai chất lỏng có tỷ trọng khác biệt. Cha xứ đã cười vào mũi tôi. Đó là một linh mục tốt, rất nhiều hảo ý, rất nhân từ, thậm chí tòa tổng giám mục coi cha là một đầu óc không tín giáo, hơi nguy hiểm. Các câu khôi hài của cha gây hoan hỉ trong các ngôi nhà linh mục, cha còn nhấn thêm bằng một cái nhìn mà cha những muốn là sắc sảo, song tôi thấy thực ra nó rất mòn mỏi, rất chán ngán, làm tôi muốn khóc. Xứ đạo của tôi bị nung nấu bởi nỗi buồn chán, vấn đề là thế đấy. Như bao xứ đạo khác! Nỗi buồn chán tiêu hủy nó trước mắt chúng tôi mà chúng tôi chẳng làm gì được hết. Có lẽ một ngày nào đó chúng tôi sẽ bị truyền nhiễm, chúng tôi sẽ phát hiện ở mình khối ung thư ấy. Người ta có thể sống rất lâu với cái đó. Ý nghĩ này nảy ra trong tôi hôm qua trên đường cái. Trời mưa, một thứ mưa nhỏ mà người ta nuốt vào đầy phổi, nó xuống tận ruột bạn. Từ dốc Saint-Vaast, làng đột ngột hiện ra trước tôi, thật dúm dó, thật khốn khổ dưới bầu trời gớm guốc tháng Mười một. Nước, bốc hơi khắp chốn, bên trên làng, và làng có vẻ nằm phục xuống đó, trong cỏ ướt đầm đìa, như một con vật tội nghiệp kiệt sức. Một thôn làng, sao mà bé nhỏ! Và làng ấy là xứ đạo của tôi. Đó là xứ đạo của tôi, nhưng tôi chẳng làm được gì cho nó, tôi buồn bã nhìn nó chìm vào bóng tối, mất hút… Vài khoảnh khắc nữa, rồi tôi sẽ không còn thấy nó. Chưa bao giờ tôi cảm nhận một cách ác nghiệt đến thế sự cô quạnh của nó và của tôi. Tôi nghĩ đến những gia súc mà tôi nghe tiếng khục khặc trong sương mù, mà em bé chăn dắt, đi học về, tay cắp cặp, lát nữa sẽ dẫn qua các đồng cỏ đẫm nước, về chuồng trại ấm nóng, thơm tho… Và nó, thôn làng, hình như cũng đang đợi – chẳng hy vọng nhiều – sau bao đêm trong bùn lầy, một người chủ để theo đến chốn nương náu nào đó không tưởng tượng được, không chắc đã có. Ôi! tôi biết rõ đó là những ý nghĩ điên rồ, thậm chí tôi không thể coi là thực hoàn toàn, những mơ mộng… Các thôn làng chẳng đứng dậy trước tiếng nói của em học sinh nhỏ, như các gia súc. Có hề gì! Tối qua, tôi nghĩ rằng một vị thánh đã gọi nó. Vậy tôi tự nhủ là thế gian bị nung nấu bởi nỗi buồn chán. Dĩ nhiên, phải suy ngẫm đôi chút mới nhận ra, điều ấy không nắm bắt được ngay tức khắc. Đó là một loại bụi. Bạn đi đi lại lại mà chẳng nhìn thấy nó, bạn hít thở nó, bạn ăn nó, uống nó, và nó mịn quá, tinh vi quá đến mức chẳng lạo xạo trong miệng nữa. Nhưng bạn chỉ dừng lại một giây thôi, là nó phủ đầy mặt, đầy tay bạn. Bạn phải không ngừng quẫy cựa để rũ đám mưa bụi ấy. Vậy là, thế gian quẫy cựa rất nhiều. Có lẽ người ta sẽ bảo rằng từ lâu thế gian đã quen với nỗi buồn chán, và buồn chán là thân phận thực sự của con người. Có thể là hạt giống buồn chán đã gieo rắc khắp chốn và nảy mầm đây đó, trên mảnh đất nào thuận lợi. Nhưng tôi tự hỏi liệu con người đã bao giờ biết sự lây nhiễm buồn chán, cái bệnh hủi đó? Một nỗi tuyệt vọng bất thành, một hình thái xấu xa của tuyệt vọng, có lẽ giống như sự lên men của một Cơ đốc giáo bị phân giải. Dĩ nhiên, đó là những tư tưởng mà tôi giữ riêng cho mình. Tuy thế, tôi không hổ thẹn vì chúng. Thậm chí tôi nghĩ tôi sẽ làm mọi người hiểu tôi rất rõ, có lẽ quá rõ cho sự bình an của tôi – ý tôi muốn nói sự bình an của lương tâm tôi. Niềm lạc quan ở các bề trên đã chết hẳn. Những ai còn giáo huấn điều này chỉ dạy dỗ theo thói quen, mà không tin ở nó. Hơi bị phản bác, là các vị ban cho bạn những nụ cười am hiểu, xin dung tha. Các linh mục già chẳng nhầm đâu. Bất kể bề ngoài, và nếu như vẫn trung thành với một cách nói năng nhất định, vả chăng nó là bất biến, thì các chủ đề thuyết giảng chính thức không như cũ, các bậc đàn anh không còn thừa nhận chúng. Thí dụ, trước đây, theo truyền thống rất lâu đời, một bài diễn giảng của chủ giáo chẳng khi nào kết thúc mà không có sự ám chỉ thận trọng – đầy niềm tin chắc, dĩ nhiên, song thận trọng – về sự ngược đãi sắp tới và máu của những người tử vì đạo. Ngày nay những dự báo đó ít hơn nhiều. Chắc là vì sự thực hiện có vẻ kém chắc chắn. Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Của Một Cha Xứ Miền Quê của tác giả Georges Bernanos.
Người Đàn Bà Bị Hủy Diệt
Người đàn bà bị hủy diệt là một trong những tác phẩm cuối cùng của SIMONE DE BEAUVOIR và được coi là mang đậm tính văn chương hơn cả của bà. Người Đàn Bà Bị Hủy Diệt là ba câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà với sự thanh xuân đã qua của họ và sự đương đầu với những khủng hoảng bất ngờ. Trong câu chuyện mang tựa đề của cuốn sách, cuộc sống thanh bình của nữ nhân vật chính đã bị đảo lôn khi biết được chồng mình ngoại tình. Trong tuổi biết khôn, một nữ giáo sư thành đạt, có cuộc sống gia đình hạnh phúc, ngày một đau khổ vì đứa con trai duy nhất say mê người vợ trẻ với những giá trị trần tục của cô ta. Trong Kịch một vai, người đàn bà giàu có, hư hỏng, ở nhà một mình trong đêm giao thừa, đã trút ra sự giận dữ và thất vọng của cả một đời người bằng những lời lẽ độc địa. Tình tiết hấp dẫn cộng với những hiểu biết tâm lý phụ nữ của tác giã khiến cho Người Đàn Bà Bị Hủy Diệt được xem như là cuốn sách hay nhất của nữ văn sĩ vào hàng danh tiếng nhất ở mọi thời đại. *** Simone de Beauvoir, nữ văn sĩ Pháp (1908 – 1986), sinh tại Paris trong một gia đình tiểu tư sản. Năm 21 tuổi bà đậu thạc sĩ triết và dạy triết học tại các trường đại học ở Marseille, Roen và Paris. Năm 27 tuổi, gặp Jean-Paul Sartre, nhà văn, nhà triết học Pháp; người từ chối giải thưởng Nobel (1964) và được coi là cha đẻ của chủ nghĩa hiện sinh, bà trở thành môn đệ rồi sau đó, thành bạn đời của ông. Năm 35 tuổi, Simone de Beauvoir bỏ nghề dạy học để theo nghiệp văn chương với tác phẩm đầu tay Người khách đàn bà (1945). Tiếp theo bà lần lượt cho ra mắt các tác phẩm Pyrrhus et Cinéas, Những cái miệng vô ích, Máu của người khác… Hai tác phẩm quan trọng nhất của bà là: Giới thứ 2 (1949) và Các đại trí thức (1954) trong đó Các đại trí thức đã mang lại cho bà giải thưởng Goncourt, giải thưởng văn học quan trọng nhất của Pháp. Ngoài văn chương, Simone de Beauvoir còn viết nhiều tác phẩm triết học và hồi ký, đều tuân theo khuynh hướng hiện sinh của chồng. Người đàn bà bị hủy diệt là một trong những tác phẩm cuối cùng của SIMONE DE BEAUVOIR và được coi là mang đậm tính văn chương hơn cả của bà. TRUNG NGUYÊN *** Phải chăng đồng hồ của tôi đã chết? Không. Nhưng dường như những chiếc kim của nó không còn chuyển động nữa. Hãy đừng để ý đến chúng. Hãy nghĩ về những chuyện khác – bất kỳ cái gì đó khác hơn; về ngày hôm qua chẳng hạn, một ngày yên ổn, dễ dàng, dù có sự căng thẳng vì chờ đợi. Sự dịu dàng thức tỉnh. André nằm trong một tư thế kỳ quặc trên giường, người cuộn tròn, mắt bịt dải băng, một tay tỳ vào tường tựa như đứa trẻ. Giấc ngủ có hỗn độn và mệt mỏi, anh cần phải vượt qua nó để chứng tỏ sự bền vững của thế giới. Tôi ngồi xuống bên mép giường, đặt tay lên vai anh. - Tám giờ rồi. Tôi mang bữa sáng vào phòng sách, lấy ra cuốn đang đọc dở hôm trước, đã được một nửa. Thật buồn tẻ, tất cả là do thiếu giao tiếp. Nếu bạn thực sự muốn có sự giao tiếp, bạn phải hành động, không cách này thì cách khác. Tất nhiên không phải gặp gỡ với tất cả mọi người nhưng ít nhất cũng là hai hoặc ba người. Đôi khi tôi không cho André biết về tâm trạng, sự buồn rầu, những lo lắng vu vơ của tôi, anh cũng không nghi ngờ về những bí mật nho nhỏ đó, nhưng nhìn chung chúng tôi biết tất cả mọi chuyện của nhau. Tôi rót trà ra chén, trà Trung Quốc trong bình nóng và rất đặc. Chúng tôi uống trà và nhìn nhau xa xăm, mặt trời tháng Bảy tràn ngập căn phòng. Không biết đã bao lần chúng tôi cùng nhau ngồi bên chiếc bàn này, đối diện, cũng với bình và những tách trà nóng, rất đặc, đặt trước mặt? Và có lẽ chúng tôi sẽ còn ngồi với nhau như vậy vào ngày mai, suốt năm, và cả chục năm nữa… Vào thời điểm đó, không khí dịu dàng ngọt ngào của kỷ niệm và niềm vui của một lời hứa hẹn nào đó luôn ngự trị. Chúng tôi ba mươi hay đã sáu mươi tuổi? Tóc André bị bạc từ khi anh còn trẻ; những ngày còn trẻ, mái tóc trắng này làm nổi bật làn da trắng mịn, trông anh càng bảnh bao. Giờ đây, mái tóc đó trông vẫn rất đẹp. Dù làn da đã nhăn nheo – dấu hiệu của tuổi tác – nhưng nụ cười trên miệng và trong đôi mắt anh vẫn lấp lánh. Bất cứ cuốn album nào của anh tôi cũng thấy sự nhất quán này, những bức ảnh thời trẻ không khác chút nào so với khuôn mặt bây giờ đây; tôi đã không thể nhận ra dấu vết của tuổi tác trong chúng. Một cuộc sống với đầy tiếng cười, nước mắt, cãi vã, say đắm, thú tội, im lặng và những cơn bột phát của trái tim đã không thể xóa đi bởi thời gian. Tương lai vẫn còn chưa thể xác định đầy đủ. Anh đứng dậy. - Anh hy vọng công việc của em tốt đẹp, – anh nói. - Anh cũng thế chứ? – Tôi đáp. Anh không trả lời. Đối với sự nghiên cứu, có những lúc không thể tránh khỏi, người ta không đạt được tiến bộ nào trong công việc; nhưng anh không chấp nhận điều đó dễ dàng. Tôi mở cửa sổ. Paris oi ả dưới ánh mắt thiêu cháy của mùa hè, mùi nhựa đường và dấu hiệu của những cơn bão sắp đến. Mắt tôi dõi theo André. Có thể lúc này, khi tôi canh chừng sự biến mất của anh, thì anh lại tồn tại hiển hiện nhất, rõ ràng nhất; vóc dáng cao lớn nhỏ dần, mỗi bước chân vạch ra con đường mà anh sẽ quay lại; nó biến mất và đường phố dường như trống vắng; nhưng thực tế nó sẽ đưa anh trở về với tôi, như trở về với nơi cư trú tự nhiên của anh. Tôi thấy điều đó là chắc chắn, thậm chí còn trước cả sự hiện diện của anh. Tôi đứng trên ban công một lúc lâu. Từ tầng bảy, Paris trải dài trước mắt tôi với những đàn bồ câu bay lượn trên những mái nhà lợp đá trông tựa như những lọ hoa ống khói lò sưởi. Những chiếc cần cẩu màu đỏ, hoặc vàng, đang vươn những cánh tay thép lên bầu trời: năm chiếc, bảy chiếc, mười chiếc. Tôi đếm được mười chiếc cần cẩu như vậy; xa hơn về bên phải tôi bắt gặp một bức tường cao vút với đầy các lỗ nhỏ – một khối nhà máy, tôi cũng có thể nhìn thấy những tòa nhà đang được xây dựng – dáng dấp như những tháp cao hình lăng trụ. Không biết từ khi nào đã có những chiếc ôtô đỗ ở phần đường nhánh của đại lộ Edgar – Quinnet? Tôi quan sát, phát hiện những nét mới mẻ của thiên nhiên; giờ thì tôi không thể nhớ nổi trước đây khung cảnh như thế nào. Tôi đã muốn có hai bức ảnh để cạnh nhau, trước đây và hiện nay, để tôi có thể thấy được sự khác nhau. Không, rõ ràng là không. Thế giới bản thân nó đang tồn tại trước mắt tôi như một hiện tại vĩnh cửu, tôi đã thích ứng với nó nhanh đến mức không nhận thấy có gì thay đổi. Những thẻ tra cứu tài liệu và trang giấy trắng trên bàn thôi thúc tôi làm việc; nhưng từ ngữ cứ nhảy múa trong đầu khiến tôi không thể tập trung suy nghĩ được. Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Bị Hủy Diệt của tác giả Simone de Beauvoir.
Lời Nói Dối Thứ Ba
Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Tôi ngồi tù tại cái thành phố nhỏ thời thơ ấu. Không phải là một nhà tù thực sự, đó là một phòng giam trong ngôi nhà của cảnh sát địa phương, một tòa nhà hai tầng như biết bao những nhà khác của thành phố. Phòng giam của tôi xưa kia là một xưởng giặt, cửa và cửa sổ trông ra sân. Những chấn song cửa sổ đã được gắn vào bên trong để cho không ai có thể chạm vào và đập vỡ kính. Một góc vệ sinh được che sau một cái riđô. Giáp với một bức tường, có một cái bàn và bốn cái ghế gắn chặt xuống đất, giáp với bức tường phía trước có bốn cái giường có thể gập xuống. Ba cái đã được gập. Chỉ có một mình tôi trong phòng giam. Trong thành phố này có rất ít tội phạm, và khi có, người ta lập tức đưa đến thành phố bên, thủ phủ của vùng này cách đây hai mươi cây số. Tôi không phải là tội phạm. Tôi ở đây là do giấy tờ của tôi không hợp lệ, hộ chiếu của tôi hết hạn. Với lại tôi cũng có nợ tiền. Buổi sáng, người coi tù mang đến cho tôi bữa sáng, sữa, cà phê, bánh mỳ. Tôi uống chút cà phê rồi tôi đi tắm. Người coi tù ăn nốt bữa sáng của tôi và quét dọn phòng giam. Cửa để mở, tôi có thể ra sân nếu tôi muốn. Đó là một cái sân có tường cao phủ dây trường xuân và nho dại bao quanh. Đằng sau một bức tường, ở phía trái khi ra khỏi phòng giam là một cái hành lang có mái che của một trường học. Tôi nghe tiếng trẻ con cười, đùa, la hét trong giờ ra chơi. Khi tôi còn bé, trường học đã ở đó rồi, tôi nhớ, dù tôi không bao giờ đến trường, nhưng nhà tù thì hồi đó lại ở nơi khác, tôi cũng nhớ bởi vì tôi đã đến đó một lần. Buổi sáng một giờ, và buổi tối một giờ, tôi đi bộ ngoài sân. Đó là thói quen tôi đã có từ thuở nhỏ, khi tôi mới lên năm, tôi đã buộc phải tập đi. Điều này khiến người coi tù khó chịu, vì lúc đó tôi không nói và không nghe một câu hỏi nào. Mắt nhìn xuống đất, tay chắp sau lưng, tôi bước đi, tôi đi vòng quanh dọc theo các bức tường. Mặt đất có lát đá, nhưng cỏ vẫn mọc giữa các kẽ đá. Cái sân gần như vuông, chiều dài mười lăm bước, chiều rộng mười ba bước. Giả sử bước chân của tôi dài một mét thì diện tích cái sân là một trăm chín mươi lăm mét vuông. Nhưng chắc chắn bước chân của tôi ngắn hơn. Giữa sân có một cái bàn tròn và hai cái ghế, và giáp với bức tường cuối vườn là một cái ghế dài bằng gỗ. Ngồi xuống ghế dài đó tôi có thể nhìn thấy một phần lớn bầu trời thuở nhỏ của tôi. Từ hôm đầu, bà chủ hiệu sách đã đến thăm tôi và mang đến cho tôi các đồ dùng cá nhân và một món xúp rau. Bà tiếp tục đến hàng ngày vào giờ trưa với món xúp rau của bà. Tôi bảo bà rằng ở đây tôi được nuôi dưỡng tốt, người coi tù mang đến cho tôi một ngày hai bữa đầy đủ từ nhà hàng trước mặt, nhưng bà ấy tiếp tục mang xúp đến. Tôi ăn một chút để giữ lễ, rồi tôi đưa cái xoong cho người coi tù ăn nốt. Tôi xin lỗi bà chủ hiệu sách vì sự lộn xộn tôi đã để lại trong căn hộ của bà. Bà nói: - Có quan trọng gì đâu. Tôi và con gái tôi đã dọn dẹp cả rồi. Chỉ có rất nhiều giấy. Tôi đã đốt những tờ giấy nhàu nát và những tờ ném vào sọt. Những tờ khác, tôi đã đặt lên bàn, nhưng cảnh sát đã đến và lấy đi. Tôi im lặng một lát, rồi nói: - Tôi còn thiếu bà hai tháng tiền nhà. Bà ấy cười: - Tôi đã đòi ông quá đắt cho căn hộ nhỏ đó. Nhưng nếu ông muốn thì ông có thể hoàn lại cho tôi khi ông được về. Có lẽ là sang năm. - Tôi không nghĩ là sẽ về. Người được ủy thác của tôi sẽ thanh toán cho bà. Bà ấy hỏi tôi có cần gì không, tôi nói: - Có, tôi cần giấy và bút chì. Nhưng tôi không còn tiền. - Đáng lẽ tôi đã phải tự nghĩ ra. Hôm sau, bà ấy trở lại với món xúp, một gói giấy kẻ và nhiều bút chì. Mời các bạn đón đọc Lời Nói Dối Thứ Ba của tác giả Agota Kristof.
Bằng Chứng
Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Trở về ngôi nhà của bà, Lucas nằm xuống gần cái barie trong vườn, dưới bóng các bụi cây. Anh đợi. Một chiếc xe quân đội dừng trước tòa nhà bộ đội biên phòng. Vài chiến sĩ xuống xe và đặt xuống đất một cái xác bọc trong vải bạt ngụy trạng. Một viên trung sĩ ra khỏi tòa nhà, làm hiệu cho các chiến sĩ mở tấm bạt. Viên trung sĩ huýt sáo : - Muốn nhận dạng không phải dễ dàng gì đâu! Thật là ngu xuẩn mới đi vượt cái biên giới khốn kiếp này giữa ban ngày ban mặt. Một chiến sĩ nói: - Lẽ ra chúng ta phải biết rằng làm thế là không thể được. Một chiến sĩ khác nói: - Mọi người ở đây đều biết điều đó. Chính những người ở nơi khác đến mới ngu thế. Trung sĩ nói: - Thôi được, ta hãy đến gặp cái thằng ngốc ở kia xem sao. Có lẽ nó biết chút ít gì đó chăng. Lucas vào nhà. Anh ngồi trên chiếc ghế trong nhà bếp. Anh cắt bánh mì, đặt một chai rượu vang và pho mát sữa dê lên bàn. Có tiếng gõ cửa. Viên trung sĩ và một người kính bước vào. Lucas nói: - Tôi đang đợi các ông đây. Mời các ông dùng rượu vang và pho mát chứ. Người lính nói: - Rất sẵn sàng. Hắn lấy bánh mì và pho mát, Lucas rót rượu. Trung sĩ hỏi: - Cậu đang đợi chúng tôi à? Tại sao vậy? - Tôi nghe thấy có tiếng nổ. Sau tiếng nổ, nhất định thế nào cũng có người đến hỏi xem tôi có nhìn thấy ai đó không. - Thế cậu có nhìn thấy ai không? - Không. - Như mọi lần? - Vâng, như mọi lần, chẳng có ai đến báo cho tôi biết ý định vượt qua biên giới cả. Viên trung sĩ cười, rồi hắn cũng dùng rượu và pho mát: - Lẽ ra cậu phải thấy một kẻ nào đó lảng vảng quanh đây hoặc trong rừng chứ. - Tôi không hề trông thấy ai cả. - Nếu cậu trông thấy kẻ nào đó thì cậu có nói không? - Nếu tôi có nói cho ông biết thì ông cũng không tin tôi. Viên trung sĩ lại cười: - Đôi khi tôi tự hỏi tại sao người ta lại gọi cậu là thằng ngốc.- Tôi cũng tự hỏi như vậy. Chả là thời niên thiếu, trong chiến tranh tôi bị thần kinh do một chấn thương. Người lính hỏi: - Đó là bệnh gì vậy? Ý cậu muốn nói gì? Lucas giải thích: - Các cuộc ném bom đã làm cho cái đầu của tôi trục trặc. Điều đó xảy ra với tôi khi còn nhỏ. Trung sĩ nói: - Pho mát của cậu rất ngon. Cảm ơn, cậu hãy đi với chúng tôi. Lucas đi theo họ. Chỉ cái xác, trung sĩ hỏi: - Cậu có biết người đàn ông này không? Cậu đã trông thấy hắn bao giờ chưa? Lucas ngắm nhìn cái xác tan tác của bố anh: - Nó hoàn toàn biến dạng rồi. Trung sĩ nói: - Có thể nhận ra một người nào đó nhờ quần áo, giày dép hoặc nhờ bàn tay, hoặc tóc của người đó. Lucas nói: - Tôi thấy rõ là người này không ở thành phố chúng ta. Quần áo của hắn không phải của vùng này. Trong thành phố chúng ta không ai mặc quần áo lịch sự như vậy. Trung sĩ nói: - Cảm ơn cậu. Tất cả cái đó, chúng tôi cũng không ngu đâu. Tôi chỉ muốn hỏi xem cậu có nhìn thấy hoặc thoáng thấy hắn ở đâu đó không thôi. - Không, không thấy ở đâu cả. Nhưng tôi thấy móng tay của hắn bị dứt ra. Hắn đã ngồi tù. - Nhà tù của chúng tôi không tra tấn ai cả. Có điều lạ là trong túi của hắn hoàn toàn trống rỗng, ngay cả một tấm ảnh, một cái chìa khóa hoặc một cái ví cũng không có. Tuy nhiên để vào được khu biên giới hắn phải có thẻ căn cước và giấy thông hành chứ. - Chắc là hắn đã vứt trong rừng rồi. - Tôi cũng nghĩ vậy. Hắn không muốn bị nhận dạng. Tôi tự hỏi hắn muốn bảo vệ ai. Nếu tình cờ trong khi đi hái nấm cậu có tìm được cái gì khác thì cậu hãy mang đến cho chúng tôi nhé. - Hãy tin tôi đi, thưa trung sĩ. ° Lucas ngồi trên ghế dài trong vườn, tựa đầu vào bức tường trắng của ngôi nhà. Mặt trời làm anh chói mắt. Anh nhắm mắt lại: - Làm thế nào bây giờ? - Như trước kia thôi. Phải tiếp tục thức giấc buổi sáng, đi ngủ buổi tối, và làm cái phải làm để mà sống. - Sẽ lâu đấy. - Có lẽ là suốt đời. Tiếng kêu của gia súc đánh thức Lucas. Anh đứng dậy và đi chăm sóc chúng. Anh cho lợn, gà, thỏ ăn. Anh đi tìm dê bên bờ sông, đưa chúng về và vắt sữa, rồi mang vào nhà bếp. Anh ngồi xuống ghế và ở đó cho đên khi trời tối. Rồi anh đứng dậy, ra khỏi nhà, và đi tưới vườn. Đêm trăng rằm. Khi trở vào nhà bếp, anh ăn một chút pho mát và uống rượu vang. Anh nghiêng người nôn qua cửa sổ. Anh dọn lại bàn, vào buống bà và mở cửa sổ cho thoáng khí. Anh ngồi trước bàn trang điểm và soi mình trong gương. Một lát sau Lucas mở cửa buồng. Anh nhìn cái giường to, đóng cửa lại và đi ra thành phố. Phố xa vắng tanh. Lucas bước nhanh. Anh dừng chân trước một cửa sổ mở và có ánh đèn. Đó là một nhà bếp. Một gia đình đang dùngbuwax tối, có một bà mẹ và ba đứa con chung quanh bàn, hai đứa trai và một bé gái. Họ ăn súp khoai tây. Người cha không có đó, Có lẽ hắn đi làm, hoặc ngồi tù hoặc trong trại tập trung. Hoặc nữa hắn đã không trở về sau chiến tranh. Lucas đi ngang các quán rượu ồn ào mà cách đây không lâu, đôi khi anh đã từng chơi kèn harmonica. Anh không vào mà tiếp tục đi. Anh theo cái phố tối tăm dẫn đến nghĩa trang. Anh dừng lại trước mộ ông và mộ bà. Bà chết năm ngoái sau một trận tai biến não thứ hai. Ông thì chết đã lau lắm rồi. Người trong thành phố kể rằng ông đã bị vợ đầu độc. Cha Lucas hôm nay chết khi cố vượt biên giới, và rồi Lucas sẽ không bao giờ biết được nấm mộ của ông. Lucas về nhà. Bằng một sợi thừng, anh leo lên buồng áp mái. Trên đó có một ổ rơm, một cái chăn nhà binh cũ, một cái hòm. Lucas mở hòm, anh lấy ra một quyển vở học sinh và viết vào đó vài dòng. Anh đóng quyển vở lại, nằm xuống ổ rơm. Mẹ và em gái Lucas chết vì đạn trái phá, cách đây năm năm, chỉ vài ngày trước khi chiến tranh kết thúc, tại đây, trong vườn nhà bà. ° Lucas ngồi trên chiếc ghế dài trong vườn, mắt nhắm, Một chiếc xe tải ngựa kéo dừng trước nhà. Tiếng động làm Lucas thức giấc. Joseph, người trồng rau đi vào vườn. Lucas nhìn ông: - Bác Joseph, bác cần gì vậy? - Tôi cần gì ư? Hôm nay là phiên chợ. Tôi đã đợi cậu đến tận bây giờ. Lucas nói: - Cháu xin lỗi bác. Cháu quên mất hôm nay là phiên chợ. Nếu bác muốn thì chúng ta có thể nhanh chóng chất hàng lên xe. - Cậu không đùa chứ? Hai giờ chiều rồi. Tôi đến không phải để chất hàng, mà để hỏi xem cậu có còn muốn tôi bán hàng cho cậu không. Nếu không thì phải bảo tôi. Tôi thì thế nào cũng xong. Tôi làm thế chỉ là để giúp cậu tôi. - Tất nhiên là thế, bác Joseph. Chỉ là cháu quên mất phiên chợ. - Không chỉ có hôm nay cậu quên. Cậu còn quên cả tuần trước và tuần trước nữa kia. - Ba tuần kia ư? Cháu không nhận ra đấy.   Mời các bạn đón đọc Bằng Chứng của tác giả Agota Kristof.