Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát

Sáu triệu bản bán ra trên toàn thế giới 58 tuần trong danh sách bán chạy của New York Times Dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019 Trong nhiều năm, những tin đồn về "Cô gái đầm lầy" đã ám ảnh Barkley Cove, một thị trấn yên tĩnh trên bờ biển Bắc Carolina. Vì vậy, khi nơi này rúng động với cái chết đầy bí ẩn của Chase Andrew, người dân địa phương ngay lập tức đổ dồn nghi ngờ vào cô. Nhưng Kya Clark – cô gái hoang dã ấy có phải là thủ phạm? Thông minh và nhạy cảm, cô đã sống sót sau nhiều năm cô đơn trong đầm lầy, trú ẩn trong lòng mẹ thiên nhiên, kết bạn với mòng biển và học những bài học đắt giá trên bờ cát. Khi trái tim tuổi mới lớn mở ra, cô cũng chạm vào yêu thương với hai chàng trai, bắt đầu một cuộc sống mới cho đến khi điều bất ngờ xảy đến… “Một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên với một cú ngoặt chết người.” — REFINERY29 “Đầy chất thơ… Sức hấp dẫn của cuốn sách đến từ sự liên kết sâu sắc giữa Kya với vùng đất đã là nhà cô, và với mọi sinh vật của vùng đất đó.” — BOOKLIST *** Cuốn sách "Xa ngoài kia nơi loài tôm hát" của Delia Owens là một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên đẹp đẽ và đau đớn. Cuốn sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát (Tên gốc: Where the Crawdads Sing) lấy bối cảnh những năm 1950 về cô gái trẻ Kya Clark ở Bắc Caroline, nước Mỹ. Kya được biết với cái tên "Cô gái đầm lầy" bởi cô sống một mình giữa thiên nhiên, chỉ kết nối với một vài người. Nhưng khi một vụ án mạng xảy ra, tất cả đổ dồn vào cô bé hoang dã và đơn độc ấy. Lấy vụ án làm trung tâm cuốn sách, tác giả Delia Owens dẫn dắt người đọc khám phá vùng ngập nước hoang sơ và vắng vẻ của bờ Bắc Carolina qua đôi mắt của một đứa trẻ bị bỏ rơi. Đây là tiểu thuyết đầu tay của Delia Owens, được xuất bản lần đầu năm 2018, nhưng đã nhanh chóng chiếm được sự yêu mến của đông đảo độc giả. Cuốn sách đạt được 6 triệu bản bán ra trên thế giới, liên tục đứng trong danh sách bán chạy của New York Times suốt 58 tuần và dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019. Trên Goodreads, cuốn sách nhận được gần một triệu đánh giá khi 88% độc giả nói rằng mình yêu thích cuốn sách. Trên Amazon, tác phẩm của Delia Owens cũng nhận được hơn 111.000 đánh giá, trong đó có hơn 86.000 đánh giá 5 sao. Delia Owens sinh năm 1949, là tác giả, nhà động vật học người Mỹ. Bên cạnh cuốn tiểu thuyết Xa ngoài kia nơi loài tôm hát, bà còn cùng chồng cũ viết ba cuốn sách về thế giới hoang dã tại châu Phi. Tại Việt Nam, Xa ngoài kia nơi loài tôm hát được dịch giả Trương Hoàng Uyên Phương chuyển ngữ. Theo cô, việc chuyển ngữ tựa đề của cuốn sách là một thách thức lớn, khó nhất là làm sao để người đọc hình dung được một không gian hoang vu và xa vắng, văng vẳng âm thanh rất nguyên sơ của các loài hoang dã. Cuốn sách được viết bằng thứ văn phong đặc biệt, đầy sức sống và hoang dại như tự nhiên, nhưng cũng đầy chất thơ và có sức gợi mãnh liệt. Từ chính nội dung tuyệt đẹp đó, tên sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát đã được ra đời. Dịch giả Uyên Phương cũng đánh giá cuốn sách nổi bật nhất với hai điểm: Cuộc sống khắc nghiệt mà cũng đầy chất thơ của Kya ở đầm lầy và bí ẩn vụ án mạng. Vì Kya gần như phải đơn độc sinh tồn nơi hoang dã, tự nhiên đã trở thành người bạn, người mẹ, người thầy của cô bé. Đó là một thiên nhiên rất đẹp, tráng lệ và huyền bí, trù phú mà khắc nghiệt, tàn nhẫn nhưng lại dịu dàng. Người đọc sẽ dễ dàng bị cuốn hút, ngỡ ngàng, rung động và có lúc rùng mình với những bài học từ thiên nhiên đó. Còn về vụ án mạng trong cuốn sách, dịch giả bật mí rằng, có lẽ độc giả sẽ phải suy nghĩ rất lâu về định kiến cũng như sự phán xét của con người. *** MỞ ĐẦU 1969 Đồng lầy chẳng phải đầm lầy. Đồng lầy là một không gian tràn ánh sáng, nơi cỏ vươn lên trong nước, và nước trôi vào trong bầu trời. Dòng chảy chầm chậm quanh co, mang theo quả cầu mặt trời ra đến biển, và lũ chim chân dài lêu nghêu cất mình vụt lên với sự uyển chuyển không ai ngờ đến – thân hình chúng dường như không được tạo ra để bay lượn – trên nền âm thanh cả ngàn con ngỗng tuyết kêu ran. Rồi trong chính đồng lầy, ở đó đây, đầm lầy đích thực len lỏi vào những vùng trũng thấp, ẩn khuất giữa ẩm ướt đại ngàn. Nước đầm lầy tĩnh lặng và tối tăm, nuốt chửng ánh sáng trong cổ họng bùn nhớp nháp. Trong cái hang đó, cả những loài chuyên lẩn lút về đêm cũng hoạt động ban ngày. Nơi đây cũng có tiếng động, tất nhiên, nhưng so với đồng lầy thì đầm lầy tĩnh mịch hơn hẳn vì sự phân hủy là hoạt động chế ngự tất cả. Sự sống mục nát, bốc mùi và trở về thứ mùn thối rữa; một chốn trầm mình sầu bi của cái chết cho sự sống vươn lên. Vào buổi sáng ngày 30 tháng Mười năm 1969, xác của Chase Andrews nằm trong đầm lầy, cái đầm hẳn sẽ nuốt chửng nó dần dần, lặng lẽ. Vĩnh viễn che giấu nó. Đầm lầy tường tận mọi điều về cái chết, và không nhất thiết coi đó là thảm kịch, chắc chắn chẳng phải là tội ác. Thế nhưng buổi sáng này, hai cậu bé từ ngôi làng đạp xe đến chỗ tháp phòng cháy cũ, và từ chỗ ngoặt thứ ba trên cầu thang đã trông thấy chiếc áo khoác denim của cái xác kia. *** 1952 Sáng ngày hầm hập cái nóng trời tháng Tám, hơi thở ẩm ướt của đồng lầy giăng màn sương mờ lên những nhánh sồi với cành thông. Trảng cây cọ đứng im đến lạ lùng, chỉ có tiếng vỗ cánh trầm trầm, chậm chạp của lũ diệc cất mình lên từ phá nước. Và rồi Kya, bấy giờ chỉ mới sáu tuổi, nghe tiếng cửa lưới sập lại. Đứng trên chiếc ghế cao, con bé ngừng cọ bợn cháo ngô bám trên nồi và để nồi xuống bồn đầy bọt xà phòng đã xẹp. Chẳng còn tiếng động nào nữa ngoài tiếng thở của con bé. Ai vừa ra khỏi lán vậy nhỉ? Không phải má. Má có bao giờ để cửa sập lại đâu. Ấy vậy mà khi chạy ra hiên, Kya lại thấy má trong bộ váy dài nâu, những nếp xếp li nhịp nhịp víu vào mắt cá khi bà bước xuôi dải đường cát trong đôi giày cao gót. Đôi giày mũi bầu giả da cá sấu. Đôi duy nhất để bà mang ra ngoài. Kya muốn gọi to nhưng biết khôn hồn thì chớ có đánh thức ba dậy, vậy là nó mở cửa ra đứng trên bậc thềm gạch ván. Từ chỗ đó, con bé thấy chiếc vali nhỏ màu xanh lam má xách theo. Mọi ngày thì với sự tin tưởng của một chú chó con, Kya biết má sẽ quay về với chút thịt gói trong giấy nâu dính mỡ hoặc một con gà, đầu lủng lẳng chúc xuống. Thế nhưng bà chưa bao giờ mang đôi giày da cá sấu, chưa bao giờ xách theo hành lý cả. Má luôn luôn nhìn lại từ chỗ lối đi nhỏ gặp đường mòn, một tay giơ lên cao, lòng bàn tay trắng nõn nà vẫy vẫy trước khi bà quay lưng bước tiếp, len lỏi qua những khu rừng đầm lầy cùng phá nước khin khít cỏ đuôi mèo, rồi có lẽ nếu con nước gia ơn, cuối cùng bà sẽ ra đến phố. Thế nhưng hôm nay bà không ngoảnh lại mà cứ dấn bước, loạng choạng giữa những vết lún trên đường. Dáng vóc cao của bà thỉnh thoảng hiện ra qua những lỗ hổng giữa rừng, cho đến khi chỉ còn thấy thấp thoáng màu trắng chiếc khăn choàng qua kẽ lá. Kya vụt chạy đến chỗ nó biết con đường sẽ lộ ra; chắc chắn má sẽ dừng lại vẫy tay từ đó, nhưng tới nơi, con bé chỉ kịp thoáng thấy màu lam của chiếc vali trước khi nó mất hút – cái màu sao mà chỏi giữa cánh rừng mướt rượt màu xanh lục. Một cảm giác nặng nề dày đặc như bùn gòn đen chèn lên ngực con bé khi nó quay lại đợi ở bậc thềm. Kya là đứa nhỏ nhất trong đám anh em nhà này, mấy anh chị lớn hơn nó nhiều, mặc dù sau này con bé không nhớ tuổi của họ nữa. Bọn trẻ sống với ba và má, chen chúc nhau như bầy thỏ nhốt chuồng, trong cái lán thô sơ tạm bợ, hàng hiên có lưới che lỏ mắt dòm ra dưới những tán sồi. Jodie, thằng anh gần Kya nhất nhưng vẫn lớn hơn nó bảy tuổi, bước từ trong nhà ra và đứng sau con bé. Jodie có cùng cặp mắt và mái tóc đen của em gái; thằng nhỏ đã dạy con bé bài hát của lũ chim, tên gọi những vì sao và cách lái thuyền qua đám cỏ răng cưa. “Má sẽ về thôi,” thằng anh nói. “Em hông biết. Má mang đôi dày cá sấu đó.” “Một bà má hông bỏ mấy đứa con nhỏ đâu. Điều đó hông nằm trong bản tính của họ.” “Anh kể với em là cáo cái bỏ con của nó mà.” “Ừ, nhưng con cáo đó bị toạc hết chân rồi. Nó xẻ chết đói nếu cố nuôi cả mình dới bầy con nhỏ. Tốt hơn là nó bỏ đám này, dưỡng thương cho lành lại, rồi đẻ thêm khi có thể nuôi tụi nhóc ra hồn. Má thì đâu có đói, má sẽ quay lại.” Jodie không chắc chắn như nó ra vẻ thế, nhưng vẫn nói vậy vì Kya. Cổ họng nghèn nghẹn, con bé thì thầm, “Nhưng má xách theo cái vali xanh như xắp đi xa lắm.” Cái lán nằm tựa vào trảng cọ lùn, vô số cụm cọ mọc rải rác, tỏa khắp bãi cát tới chỗ chuỗi những phá nước xanh, và ở xa xa là toàn bộ vùng đồng lầy sau đó. Hàng dặm lưỡi cỏ cứng cáp đến độ chúng mọc lên cả trong nước mặn, chỉ bị ngắt quãng bởi những thân cây uốn cong đến nỗi chúng mang hình hài cơn gió. Rừng sồi dồn lại quanh những phía khác của cái lán nhỏ, bao bọc lấy phá nước gần đó nhất, nơi mặt nước giàu sự sống đến sục sôi. Bầu không khí trĩu muối và bài ca mòng biển tràn qua hàng cây dạt tới từ biển cả. Từ thế kỷ 16, việc khẳng định quyền sở hữu một vùng lãnh thổ chẳng thay đổi gì mấy. Những khu đồng lầy có chủ rải rác đó đây không được mô tả trên giấy tờ pháp lý, chỉ được vạch ranh giới tự nhiên – một cây sồi chết ở kia, một con lạch đằng này – bởi những kẻ trốn chạy. Người ta đâu có tự dưng dùng cọ dựng chốn nương thân ở đầm lầy, trừ phi đang trốn kẻ nào đó hay đã cùng đường tận lối. Đồng lầy được bao bởi một đường bờ biển bị xé nham nhở, mà những nhà thám hiểm ngày trước gán cho cái tên “Nghĩa địa của Đại Tây Dương” vì dòng chảy rút xa bờ, những luồng gió dữ và bãi cạn sẽ đánh cho tàu thuyền vỡ nát như mấy chiếc nón giấy dọc vùng bờ sẽ trở thành bờ Bắc Carolina. Nhật ký một thủy thủ viết, “vòng quanh bờ biển… nhưng không thấy lối vào… một cơn bão dữ dội ập tới… chúng tôi buộc phải quay ra để giữ cho mình và con tàu được an toàn, và bị xô đẩy dồn dập bởi một cơn sóng dữ… Đất liền… toàn đồng lầy nối đầm lầy, chúng tôi quay về tàu… Làm nản lòng tất cả những ai sau này tìm tới đây cư ngụ.” Những người tìm đất an cư bỏ qua chốn này, và vùng đồng lầy nổi tiếng đây trở thành một tấm lưới, vớt lên một mớ lộn xộn những tay thủy thủ nổi loạn, nạn nhân đắm tàu, con nợ và bọn người trốn chạy khỏi chiến tranh, thuế má hay luật lệ mà họ không ưa. Những kẻ mà bệnh sốt rét không giết chết hay đầm lầy không nuốt chửng sinh ra một bộ lạc người rừng thuộc nhiều chủng tộc và nền văn hóa, mỗi người có thể đốn trụi một khu rừng nhỏ với một cái rìu và vác một con hươu đi hàng dặm. Như lũ chuột sông, mỗi người có riêng một lãnh thổ, nhưng họ phải hòa nhập với cảnh sống ngoài rìa hoặc đơn giản là một ngày biến mất trong đầm tối. Hai trăm năm sau, nhóm này kết nạp thêm những nô lệ bỏ trốn vào đồng lầy và các nô lệ được trả tự do, không xu dính túi và cùng quẫn, tản mát vào vùng đất ngập nước vì chẳng còn bao nhiêu lựa chọn khác. Có lẽ đó là vùng hiểm ác, nhưng không một tấc đất nào nghèo. Tầng tầng lớp lớp sự sống – cua rù rì ngoe nguẩy, tôm hùm đất sủi bùn, hằng hà chim nước, cá, tôm, sò, hươu béo xị, ngỗng mập núc – chất chồng trên đất hay trong nước. Kẻ không ngại lùng sục tìm bữa ăn sẽ không đời nào chết đói được. Bấy giờ là năm 1952, nên đã bốn thế kỷ liền vùng đất bị giành quyền sở hữu bởi một chuỗi rời rạc những người không có sổ sách nào ghi lại. Hầu hết là trước cuộc Nội chiến. Một vài kẻ khác đến chiếm dụng đất gần đây, đặc biệt là sau hai cuộc chiến tranh thế giới, khi những người đàn ông trở về trong tan nát và túng quẫn. Đồng lầy không giam giữ mà định nghĩa con người họ, và như tất cả những vùng đất linh thiêng, chúng giữ cho bí mật của họ được vùi sâu. Họ chiếm đất mà chẳng ai quan tâm vì không ai thèm muốn nó. Dù sao, nó cũng chỉ là thứ bãi lầy hoang. Cũng như cách họ làm lậu rượu whiskey, cư dân đồng lầy đặt ra luật lệ của riêng mình – không giống kiểu luật khắc vào đá hay ghi lên giấy, mà là thứ luật sâu xa hơn, in hằn trong gen họ. Tự nhiên và cổ xưa, như nở ra từ trứng diều hâu với bồ câu. Khi bị dồn vào đường cùng, bí bách, tuyệt vọng hay bị cô lập, con người trở lại với thứ bản năng nhằm thẳng tới sinh tồn. Nhanh gọn và đích đáng. Chúng luôn là những lá chủ bài vì được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thường xuyên hơn loại gen hiền. Đó chẳng phải đạo lý gì, chỉ là phép toán đơn giản. Giữa đồng loại, bồ câu cũng đánh nhau thường xuyên chẳng kém diều hâu. Hôm đó má không về. Chẳng ai đả động gì tới chuyện đó. Ba lại càng không. Bốc mùi cá và nước dùng, ông khua nắp nồi loảng xoảng. “Bữa tối có gì hả?” Mắt cụp xuống, mấy anh chị em chúng nó nhún vai. Ba chửi thề rồi khập khiễng đi ra, trở vào rừng rậm. Đã có nhiều vụ cãi cọ trước đó; má thậm chí đã bỏ đi một hai lần, nhưng lần nào bà cũng quay về, vơ lấy bất kỳ đứa nhỏ nào để ôm ấp. Hai cô chị lớn nấu bữa tối gồm bánh ngô với đậu đỏ, nhưng không đứa nào ngồi vào bàn ăn như chúng sẽ ngồi với má. Mỗi đứa xúc vội đậu từ nồi, trút đại bánh ngô lên trên, rồi lảng đi ăn ở góc của chúng trên thảm trải sàn hay cái sô-pha sờn cũ. Kya không ăn được. Nó ngồi trên bậc thềm trước hiên nhìn xuống con đường. Người cao so với tuổi, gầy trơ xương, con bé có nước da rám thẫm và mớ tóc đen, thẳng, dày như cánh quạ. Màn đêm buộc nó ngừng trông ngóng. Tiếng ếch ồm ộp sẽ vùi đi tiếng bước chân; dẫu vậy, con bé vẫn nằm trên cái giường ngoài hiên, dỏng tai nghe ngóng. Mới sáng hôm đó, nó hãy còn thức dậy trong tiếng mỡ lợn xèo xèo trên chảo sắt và mùi bánh mì sạm nâu trong lò. Kéo cái quần yếm lên người, con bé xộc vào bếp để bày dĩa và nĩa. Nhặt mấy con mọt trong cháo bỏ ra. Hầu như sáng nào cũng vậy, tươi cười, má sẽ ôm lấy nó – “Chào buổi sáng, con gái đặc biệt của má” – và hai má con sẽ làm hết việc này tới việc nọ, thoăn thoắt như múa. Thỉnh thoảng má còn cất giọng hát dân ca hay đọc vài đoạn thơ cho con trẻ: “Chú heo nhỏ đi chợ lon ton.” Hoặc má sẽ đẩy đưa Kya theo điệu jitterbug nhịp dồn, chân họ giẫm bùm bụp lên sàn gỗ dán cho đến khi tiếng nhạc từ cái radio chạy pin dần tắt ngỏm, nghe như nó đang tự hát cho mình nghe dưới đáy một cái thùng tròn. Vào những buổi sáng khác, má lại nói mấy chuyện người lớn mà Kya không hiểu, nhưng con bé đoán rằng lời nói của má cần có chỗ để thoát ra, nên nó thấm lấy từng lời qua da, trong khi tay nhét thêm củi vào lò. Gật gù làm như hiểu rõ. Sau đó là cái nhốn nháo ngược xuôi khi mọi người thức dậy và ăn sáng. Ba không ở đó. Ông chỉ có hai chế độ: im lặng và gào thét. Nên cũng tốt khi ông cứ ngủ, hoặc không về nhà. Thế nhưng sáng nay, má im lặng; nụ cười đánh mất, mắt đỏ hoe. Bà cột thấp ngang trán một cái khăn màu trắng theo kiểu hải tặc, nhưng cái viền thâm tím vàng của một vết bầm vẫn lộ ra. Ngay sau bữa sáng, trước khi chén dĩa được rửa sạch, má đã cho vài món tư trang vào vali và theo lối nhỏ mà đi mất. Sáng hôm sau, Kya lại tới chỗ cũ của nó trên bậc cửa, cặp mắt đen hun hút xoáy xuống con đường như một đường hầm đợi tàu qua. Đồng lầy phía xa bị màn sương bao phủ, sương sà thấp đến nỗi cái gót mềm của nó chạm hẳn xuống bùn. Chân trần, Kya nhịp nhịp ngón chân, xoay xoay ngọn cỏ chọc vào đám ấu trùng kiến sư tử, nhưng một đứa nhỏ sáu tuổi nào có ngồi yên được, chẳng mấy chốc con bé đã la cà tới bãi triều, tiếng nước vỗ liếm láp ngón chân nó. Ngồi xổm bên rìa nước, con bé dõi theo lũ cá tuế vọt qua vọt lại giữa chỗ nắng với chỗ có bóng râm. Jodie cất tiếng gọi Kya từ đám cọ lùn. Con bé nhìn chăm chăm; có lẽ anh nó tới đưa tin mới. Nhưng trong lúc thằng anh len lỏi qua mấy tán lá đầy gai, con bé nhìn dáng đi lững thững của anh và biết má không có ở nhà. “Em muốn chơi thám hiểm hông hả?” Jodie hỏi. “Anh nói anh quá tuổi chơi hám hiểm rồi mà.” “Đâu, anh nói vậy thôi. Hông bao giờ quá tuổi cả. Đua đi!” Hai đứa ùa chạy qua bãi triều, băng rừng cây lao ra bờ biển. Kya ré lên khi thằng anh vọt qua mặt nó và cười nắc nẻ cho tới khi chúng chạy đến chỗ cây sồi lớn chìa ra trên cát những cánh tay khổng lồ. Jodie và anh cả Murph đã đóng vài miếng ván lên cành cây làm đài quan sát và phòng thủ. Giờ thì hầu hết ván gỗ đã sụp xuống, đong đưa một cách nguy hiểm, chỉ dính vào thân cây nhờ mấy cây đinh sét. Thường ngày, nếu Kya có được cho chơi đoàn thám hiểm thì nó cũng phải đóng vai nô lệ, đưa tới cho các anh bánh mì còn nóng lén lấy từ chảo của má. Thế nhưng hôm nay Jodie nói, “Em có thể làm thuyền trưởng.” Kya giơ cao tay phải trong tư thế xông lên. “Đuổi bọn Tây Ban Nha đi!” Hai đứa nhỏ bẻ cây làm kiếm, xộc qua những bụi mâm xôi um tùm, hét váng lên và đâm kẻ thù lia lịa. Rồi – màn tưởng tượng chợt đến chợt tan – Kya bước lại chỗ một khúc cây phủ đầy rêu và ngồi xuống. Im lặng, Jodie đến ngồi cạnh em. Thằng bé muốn nói gì đó để đứa em gái thôi nghĩ về má, nhưng từ ngữ tắt nghẹn, thế là hai đứa lặng ngắm cái bóng loang loáng bơi bơi của lũ gọng vó. Sau khi quay về, Kya trở lại chỗ bậc thềm và đợi thật lâu, nhưng trong lúc nhìn đăm đắm về phía cuối đường, nó không hề khóc. Gương mặt nó bất động, môi mím lại thành một đường mỏng dưới đôi mắt khắc khoải kiếm tìm. Nhưng ngày hôm đó má cũng không trở lại. Mời các bạn đón đọc Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát của tác giả Delia Owens & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Cuộc Hôn Thú Man Dại
Những Cuộc Hôn Thú Man Dại là câu chuyện một đứa trẻ vô tội bị nguyền rủa vì kẻ đáng nguyền rủa đã thành vô tội. Đây là câu chuyện thuơng tâm của lòng con yêu mẹ, một nỗi niềm mẫu tử. Con người có thể lưa chọn được mọi thứ, nhưng không ai lựa chọn được dòng giống để sinh ra. Đầu thai vào cõi người, dù trong hoàn cánh nào di nữa, chú bé Ludôvic củng phải được đối xử bình đẳng như mọi thành viên khác của xã hội. Phẩm chất người của Ludôvic quả có phần hoang dã mông muội vì nó không đuợc nền văn minh của xã hội khai thác phát triển, nó là chất người uyên nguyên sơ khởi mà tính trội là yêu thương và ham muốn hòa đồng. Vậy mà tâm hồn chú bé đã bị đánh rất đau vào chính hai mối người cơ bản đó: chú bị ghét bỏ ngay lúc còn là cái mồm trong bụng mẹ và suốt đòi chú bị dây vào cô đơn, biệt lập. *** "Con người có thể lựa chọn được mọi thứ, nhưng không ai lựa chọn được dòng giống để sinh ra. Đầu thai vào cõi người, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, chú bé Ludôvic cũng phải được đối xử bình đẳng như mọi thành viên khác của xã hội. Phẩm chất người của Ludôvic quả có phần hoang dã mông muội vì nó không được nền văn minh của xã hội khai thác phát triển, nó là chất người uyên nguyên sơ khởi mà tính trội là yêu thương và ham muốn hòa đồng. Vậy mà tâm hồn chú bé đã bị đánh rất đau vào chính hai mối người cơ bản đó: chú bị ghét bỏ ngay lúc còn là cái mầm trong bụng mẹ và suốt đời chú bị đẩy vào cô đơn, biệt lập. Đây là câu chuyện một đứa trẻ vô tội bị nguyền rủa vì kẻ đáng nguyền rủa đã thành vô tội. Đây là câu chuyện thương tâm của lòng con yêu mẹ, một nỗi niềm mẫu tử." Vũ Quần Phương giới thiệu​ *** Tóm tắt Câu chuyện bắt đầu khi Ludovic, một cậu bé sinh ra với hình dạng kỳ lạ, bị chính mẹ ruột của mình ruồng bỏ. Ludovic bị coi là một đứa trẻ con lai giữa người và thú, và bị mọi người trong làng xa lánh, ghẻ lạnh. Mẹ Ludovic, bà Marie, là một người phụ nữ xinh đẹp và sang trọng. Bà đã kết hôn với một người đàn ông giàu có và quyền lực, nhưng cuộc hôn nhân của họ không hạnh phúc. Bà Marie đã ngoại tình với một người đàn ông nghèo khổ, và Ludovic là kết quả của mối quan hệ này. Bà Marie đã cố gắng che giấu sự tồn tại của Ludovic khỏi chồng và gia đình mình. Nhưng khi Ludovic được sinh ra, bà Marie đã không thể chịu đựng được sự xấu hổ và đã bỏ rơi cậu bé. Ludovic được một người đàn ông nghèo khổ tên là Jean nhận nuôi. Jean yêu thương Ludovic và coi cậu như con đẻ của mình. Nhưng Ludovic vẫn phải chịu đựng sự kỳ thị và phân biệt đối xử của mọi người xung quanh. Ludovic lớn lên trong cô đơn và đau khổ. Cậu bé luôn khao khát được yêu thương và được chấp nhận. Nhưng cậu bé biết rằng điều đó là không thể. Một ngày nọ, Ludovic gặp gỡ một cô gái tên là Marie-Christine. Marie-Christine là một người con gái xinh đẹp và tốt bụng. Cô bé không quan tâm đến ngoại hình của Ludovic, và cô bé yêu cậu bé vì chính con người của cậu. Ludovic và Marie-Christine đã yêu nhau và họ quyết định kết hôn. Cuộc hôn nhân của họ đã gây ra một cuộc tranh cãi lớn trong làng. Nhưng Ludovic và Marie-Christine không quan tâm đến những lời chỉ trích của người khác. Họ chỉ muốn được ở bên nhau. Cuối cùng, Ludovic và Marie-Christine đã tìm thấy hạnh phúc. Họ đã sinh ra một đứa con gái, và họ sống hạnh phúc bên nhau. Review "Những Cuộc Hôn Thú Man Dại" là một câu chuyện cảm động về tình yêu, lòng dũng cảm và sự chấp nhận. Cuốn sách đã lên án sự kỳ thị và phân biệt đối xử, và ca ngợi sức mạnh của tình yêu. Cuốn sách được viết theo lối kể chuyện tự sự, với giọng văn nhẹ nhàng và sâu lắng. Tác giả Yann Queffélec đã khắc họa thành công hình ảnh của những nhân vật trong truyện, đặc biệt là Ludovic và Marie-Christine. Cuốn sách mang đến cho người đọc những bài học ý nghĩa về cuộc sống. Chúng ta cần học cách chấp nhận sự khác biệt của người khác, và chúng ta cần yêu thương và trân trọng những người xung quanh. Đánh giá "Những Cuộc Hôn Thú Man Dại" là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những giây phút lắng đọng và suy ngẫm về cuộc sống. Một số nhận xét của độc giả: "Cuốn sách rất cảm động và ý nghĩa. Tôi đã khóc khi đọc đến đoạn Ludovic và Marie-Christine gặp nhau." "Cuốn sách đã mang đến cho tôi một cái nhìn mới về sự khác biệt. Chúng ta cần học cách chấp nhận những người khác, bất kể họ là ai." "Cuốn sách được viết rất hay. Tôi đã bị cuốn hút bởi câu chuyện và các nhân vật." Mời các bạn mượn đọc sách Những Cuộc Hôn Thú Man Dại của tác giả Yann Queffélec.
Người Đẹp Phi Châu
Nhà văn Henri Vernes tên thật là Charles-Henri Dewisme, sinh ngày 16/10/1918 tại Ath, thuộc vùng nói tiếng Pháp của Wallonia (Bỉ). Ông là người đã sáng tạo nên nhân vật nhà thám hiểm người Pháp Bob Morane - người đã xuất hiện trong 200 cuốn tiểu thuyết, bán được 40 triệu bản trên toàn thế giới. Ông Jacky Legge - phụ trách tại Bảo tàng Văn hóa Dân gian ở Tournai, nơi có một gian trưng bày cố định về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Henri Vernes, cho biết ông rất thán phục trí nhớ siêu phàm, cách nắm bắt và đặc tả chi tiết, cùng niềm đam mê kể chuyện của nhà văn Vernes. Tác phẩm: Bảy Cây Thánh Giá Bằng Chì Pho Tượng Thần Kâli Người Đẹp Phi Châu ... *** Tóm tắt Câu chuyện bắt đầu khi Bob Morane đang thực hiện một chuyến thám hiểm ở vùng rừng rậm Congo. Anh gặp gỡ một cô gái trẻ tên là M'Bona, người đang bị một nhóm thổ dân săn đuổi. Bob Morane đã giúp M'Bona thoát khỏi tay thổ dân và đưa cô đến một ngôi làng gần đó. Tại ngôi làng, Bob Morane biết được rằng M'Bona là một người con gái của một bộ tộc cổ đại. Bộ tộc này đã bị một nhóm kẻ xấu hãm hại và buộc phải sống ẩn náu trong rừng rậm. Bob Morane quyết định giúp M'Bona tìm lại bộ tộc của mình và trả thù cho những kẻ đã hãm hại họ. Review "Người đẹp Phi Châu" là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu hấp dẫn, với những tình tiết gay cấn và những nhân vật thú vị. Bob Morane là một nhân vật nhà thám hiểm tài giỏi và dũng cảm, luôn sẵn sàng giúp đỡ những người gặp khó khăn. M'Bona là một cô gái trẻ xinh đẹp và thông minh, với trái tim nhân hậu và gan dạ. Cuốn sách cũng mang đến cho người đọc những kiến thức thú vị về văn hóa và lịch sử châu Phi. Henri Vernes đã dành nhiều thời gian nghiên cứu để khắc họa chân thực và sinh động hình ảnh của châu Phi trong tác phẩm của mình. Đánh giá "Người đẹp Phi Châu" là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu đáng đọc, phù hợp với mọi lứa tuổi. Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những giây phút giải trí thú vị và những bài học ý nghĩa về tình yêu, lòng dũng cảm và tinh thần nhân đạo. Một số nhận xét của độc giả: "Cuốn sách rất hấp dẫn và kịch tính. Tôi đã rất hồi hộp khi theo dõi Bob Morane và M'Bona vượt qua nhiều thử thách để tìm lại bộ tộc của mình." "Cuốn sách mang đến cho tôi những kiến thức thú vị về văn hóa và lịch sử châu Phi." "Cuốn sách có một thông điệp ý nghĩa về tình yêu, lòng dũng cảm và tinh thần nhân đạo." Mời các bạn mượn đọc sách Người Đẹp Phi Châu của tác giả Henri Vernes.
Kể Xong Rồi Đi
Những khi ta còn sống, còn thở, ta thường nghĩ về cái chết như là một điều gì xa xôi lắm. Và cái điều xa xôi ấy chắc phải “chừa mình ra” độ vài chục năm nữa. Nhưng cuộc đời có ai lường trước được chữ “ngờ”? Có điều, cái chết cũng chẳng đợi đến khi ta “ngờ” xong. Chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp điều đó trong tiểu thuyết mới của nhà văn Nguyễn Bình Phương - tiểu thuyết Kể xong rồi đi. Tiểu thuyết là lời kể của Phong - cậu cháu bồ côi bồ cút mắt lác của vị đại tá về hưu. Cậu kể chuyện với một con chó tên Phốc, về những sự kiện xảy ra từ khi đại tá đột quỵ, nằm viện, được đưa về nhà và đi tới cái chết. Lấy điểm nhìn từ góc độ cái chết, tiểu thuyết đưa ra một bức tranh đầy đủ hơn về cõi nhân quần bề bộn. Phong không chỉ kể về cái chết của ông mình, mà còn kể về cái chết của những người xung quanh. Những cái chết đến mỗi ngày, trong bệnh viện mà Đại Tá nằm, tưởng như bất chợt, nhưng cũng lại là một lẽ tự nhiên. Các nhân vật chết theo nhiều cách khác nhau: vì chiến tranh, thù hận, tai nạn, bất đắc kỳ tử…  Chú Khoa chết vì đánh nhau với tay Voong người Hoa… Chú Khoa chết lúc tảng sáng, trước khi chết hay nói hoảng, van vỉ cầu xin đổ nước vào miệng mình vì thấy lửa hun rần rật trong người. Nhưng tớ chưa kịp mang bi tới thì thằng Tuấn đã chết. Nó chết đúng lúc lũ từ mạn ngược tràn về dìm lút cả vùng Tuyệt Sơn… Những thần chết tưởng như luôn chờ đến khi ta sống hết cuộc đời dài mới tới đón lại bất thình lình lao vào giữa cuộc sống của ta mà không một lời báo trước. Dù biết vậy, nhưng cuộc đời con người vẫn luôn xoay quanh những tranh cãi, hơn thua, những tư lợi tầm thường. Khi chết đi ai cũng chỉ còn bộ xương trắng, còn nắm tro tàn, vậy cớ sao lúc sống lại cứ phải cố tranh giành? Giọng văn Nguyễn Bình Phương trong Kể xong rồi đi có gì đó như hững hờ, bình thản lại ma mị huyền bí. Lời kể của nhân vật Phong - đại diện cho tác giả có đôi chút trẻ con, nhưng đôi khi lại ẩn chứa những triết lí sâu xa về người, về đời và về cái chết. Phong nhận ra mọi góc tối luôn được che đậy kĩ càng xung quanh mình, nhưng kì lạ là Phong cũng không can thiệp. Phong im lặng, quan sát, ghi nhớ và bàng quan như một người ngoài cuộc. Đó phải chăng cũng chính là thái độ của chính Nguyễn Bình Phương giữa chốn hỗn độn xô bồ này? Đây là một câu trả lời mà không ai có thể giải đáp ngoài chính bản thân tác giả. Phong cách của Nguyễn Bình Phương vốn luôn là như thế. Tác giả không lớn tiếng chỉ trích, không thẳng thắn phê bình; tác giả lặng lẽ giữ những ưu tư của mình trên trang chữ, chờ người đọc phân giải. Một cuốn sách thành công, là một cuốn sách khơi gợi được những suy ngẫm từ chính bản thân người đọc. Và đó cũng là lý do Kể xong rồi đi được chúng tôi lựa chọn. Cuốn sách khơi gợi ở người đọc những suy tư sâu lắng về điều “vô thường” trong cuộc đời bình thường, về cuộc sống mà chúng ta đang sống, và thậm chí có thể là về cả thái độ sống của mỗi người. Nhà thơ, nhà văn Nguyễn Bình Phương sinh năm 1965 tại một làng quê ở Thái Nguyên. Tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du, Nguyễn Bình Phương bắt đầu viết văn từ năm 1986. Anh đã trải qua những năm tháng rèn luyện trong quân đội nên có một vốn sống rất phong phú.  Là nhà văn quân đội, Nguyễn Bình Phương vẫn không ngừng sáng tác, anh còn làm thơ. Dĩ nhiên, nhà xuất bản thơ của anh cũng cảnh báo trong lời nói đầu với độc giả: thơ của Nguyễn Bình Phương không phải dễ đọc. Nhưng người yêu thơ có thể tìm thấy trong đó, những vần thơ thoáng buồn, không như thế giới rờn rợn trong tiểu thuyết của anh. *** Nguyễn Bình Phương sinh tại Thái Nguyên từng nhiều năm công tác tại biên giới phía Bắc. Từng biên kịch tại đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị, biên tập văn học tại Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hiện công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội.  Nguyễn Bình Phương xuất thân lính. Thi đậu trường viết văn Nguyễn Du khóa 4 anh vẫn mang quân phục lính. Ra trường chuyển về đoàn kịch quân đội, và sau đó là Nhà Xuất bản QÐND. Ở cương vị này Nguyễn Bình Phương là bà đỡ cho nhiều nhà văn với mảng văn học chiến tranh.  Những năm 90, “Những đứa trẻ chết già” là một bước tiến vượt bậc của Nguyễn Bình Phương nhưng giới văn chương tiếp nhận dè dặt, cánh phê bình im tiếng. Chỉ khi Phương thành danh với một loạt tiểu thuyết không lẫn vào ai thì họ mới ào ạt tiếp cận với đủ chủng loại lý luận gán vào thậm chí là phong thánh cho tác giả một mình một ngựa một con đường này. Sau “Những đứa trẻ chết già”, Phương tiếp tục cho ra đời một loạt tiểu thuyết cùng một phong cách không lẫn vào người khác như “Người đi vắng”, “Thoạt kỳ thủy”, “Ngồi”…và mới nhất là cuốn tiểu thuyết có số phận kỳ lạ, “Mình và họ”. Ðây là cuốn tiểu thuyết được Phương viết xong năm 2010 nhưng bị các nhà xuất bản trong nước từ chối in ấn và nó được xuất bản ở Mỹ dưới cái tên “Xe lên xe xuống”. Mãi đến năm 2014 nó mới được nhà xuất bản Trẻ chấp nhận. Ngay lập tức “Mình và họ” nhận được hoan nghênh hưởng ứng của giới văn chương và độc giả.  Mời các bạn mượn đọc sách Kể Xong Rồi Đi của tác giả Nguyễn Bình Phương.
Wittgenstein Của Thiên Đường Đen
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Wittgenstein Của Thiên Đường Đen của tác giả Maik Cây. Cuộc sống này tiếp diễn như thế nào? Những chuyện đau thương diễn ra, mầm sống mới ra đời, hoa nở trên đống hoang tàn, người ta chết rồi yêu nhau, người ta dạt vào đời nhau rồi tạm biệt. Một cậu trai giỏi giang nhưng nhạy cảm với những nỗi đau và mất mát trong đời, một đứa trẻ không có tuổi thơ vẹn nguyên khiến nó cả đời lang bạt, một nhà khoa học tài năng cực đoan với quan niệm cuộc đời của mình, một ông lão với những ám ảnh quá khứ lựa chọn cách mãi mãi im lặng... tất cả dạt vào nhau thành một gia đình kỳ lạ nhưng không thiếu tình yêu, giữa thiên đường đen chết chóc - khu cấm địa sau một vụ nổ hạt nhân. *** Câu chuyện kể về Bô, một thanh niên tuyệt vọng sau cái chết của người anh yêu thương nhất. Từ hố sâu đen tối đối mặt với nỗi đau của sự chia lìa, anh bơi qua biển để đến với thành phố Lê, một khu cấm địa hoang tàn sau vụ nổ hạt nhân kinh thiên động địa, nơi dành cho những kẻ muốn cả thế giới bị hủy diệt, nơi dành cho những ai muốn chết. Tới Lê, Bô không những không thể chết mà còn gặp được gia đình của mình. Ở đó có Mẹ, nhà khoa học viện trưởng Viện Nghiên cứu Lai tạp Sinh học Cấp tiến của thành phố Lê, sau vụ nổ bom, thế giới quanh bà trở lại con số 0 tròn trĩnh khi cô con gái 19 tuổi, rồi cả chồng và cả chó cưng đều rời bỏ bà để ra đi về miền miên viễn. Có Lúk, cậu em trai mang trong mình nhiều vết sẹo của tuổi thơ bất hạnh và thời niên thiếu lang bạt kỳ hồ, người đã vớt Bô từ biển cả và mang Bô về nhà bên Mẹ. Có Bố, một cụ già câm nhỏ thó, đen đúa, “hôi rình” được Bô và Luk “nhặt” được từ trong mớ đổ nát của thành phố, lúc nào cũng cười “ơ hơ i khi” trong chuỗi ký ức của riêng mình. Tất cả bọn họ, đều là những tâm hồn “cô độc tuyệt đối, đau khổ tuyệt đối, những kẻgối đã mỏi, chân đã chùn, mắt đã nhàu và tim đã rã, sống nương nhờ vào nhau, vô thức chọn bãi lầy nguyên tử này làm nơi dừng chân cuối cùng”. Rồi một ngày, đến cả tổ ấm nơi Thiên đường đen cũng mất   Đó là ngày mà mọi người nhận được thư thông báo dời đi, vì chính quyền sẽ làm một cuộc san bằng tất cả thành tro bụi để chuẩn bị cho một cuộc tái thiết mới. Người Mẹ, sau tất cả mọi sự cố chấp và lời thề sẽ trụ mãi với thành phố Lê, đã quyết định bước lên chiếc thuyền của những ni cô già. Quyết định của Mẹ để lại trong lòng Bô những câu hỏi lớn, cả sự tổn thương và mất mát vì phải chia lìa thêm lần nữa, những xúc cảm tưởng như đã biến mất sau cái chết của Che, người anh yêu hơn tất cả chính ai khác trong quá khứ. Tạm biệt và vĩnh biệt, những cuộc chia ly cứ thế đến, không ngăn được như điều tất yếu. Những cuộc chia ly mang theo trong lòng nó những vết thương khó lành. Có người chọn sống với chuỗi hồi ức, có người gạt hết để làm lại, có người tìm đến cái chết và sự siêu thoát. Cũng có người buông xuôi để mặc thân thể cho biển cả cuốn đi. Cuối cùng, điều còn lại vẫn chính là dòng hồi ức đẹp đẽ và miên viễn. Mà suy cho cùng, hồi ức cũng chính là thứ nhân vật vẽ ra chính lúc này, ngay bây giờ, là mọi kỷ niệm yêu thương và tất thảy những gì khiến người ta nhớ đến, là kết quả của cuộc sống hiện tại, chứ không phải là của một cái chết nhẹ nhàng quá dễ dàng để chấm dứt tất cả. “Tôi từng tuyệt vọng, còn giờ thì không, tôi chỉ thấy trống hoác và thanh thản. Thế giới vẫn khét mùi tàn bạo, nhưng ta hoàn toàn có thể chọn quên thế giới.” Đằng sau những trang văn gai góc, là chuỗi suy tư về tuổi trẻ và cuộc đời Đằng sau những được và mất, tuổi trẻ còn lại gì? Có phải tất cả đều là ảo ảnh, như màn sương đêm bao phủ lấy tất cả nhân vật, giơ tay ra là bóng tối, là đại dương rộng lớn đen ngòm. Đến chúa tể của đại dương giờ cũng chỉ còn lại là một cái xác thối rữa, nằm chơ vơ trên bờ biển và trở thành bữa đại tiệc cho hàng ngàn sinh vật phù du khác. Thế nhưng, cảm thức được sống vẫn vô cùng mãnh liệt trên từng trang văn. Những sự tái sinh, những lần hạnh ngộ. Nơi thiên đường đen chết chóc, trẻ con đã cất tiếng khóc chào đời, mầm sống vẫn lên xanh rờn như sức trẻ của chú bê con Tô Tô mỗi lần rúc tìm vú mẹ. Lần đầu tiên, Bô sống được nhờ những điếu thuốc Mẹ đưa, nhờ thứ hợp chất nicotin để lãng quên mọi mất mát. Lần thứ 2, sau khi tưởng chết chìm giữa đại dương, hai anh em Bô và Lúk thực sự hạnh phúc với đôi cây xúc xích và túi trà chanh, mớ đồ ăn “giản dị như một con thỏ nhảy trên bãi cỏ”. Và giấc ngủ say buông bỏ hết mọi đau đớn của quá khứ, như đứa trẻ ở Niết bàn, bên gia đình mà Bô hằng yêu mến. Suy cho cùng, tình thân vẫn là thứ có sức mạnh vô biên, nó khiến người ta tồn tại và phải tồn tại, cho dù đang ở trong mõm trống hoác đen ngòm của cá voi hay nơi tận cùng thế giới. “Chúng tôi sẽ chết. Nhưng  chúng tôi sẽ sống vĩnh hằng. Nếu không thể từ chối luân hồi, thì đành vui lòng mà buông xuôi theo dòng chảy sâu thẳm của vũ trụ mà thôi.” *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết Wittgenstein Của Thiên Đường Đen của tác giả Maik Cây kể về câu chuyện của Bô, một thanh niên tuyệt vọng sau cái chết của người anh yêu thương nhất. Anh bơi qua biển để đến với thành phố Lê, một khu cấm địa hoang tàn sau vụ nổ hạt nhân kinh thiên động địa. Tại đây, anh gặp được gia đình của mình, bao gồm Mẹ, Lúk và Bố. Tất cả bọn họ đều là những tâm hồn cô độc, đau khổ, nhưng họ đã tìm thấy nhau và cùng nhau tạo dựng nên một gia đình nhỏ trong thế giới đổ nát. Tuy nhiên, rồi một ngày, đến cả tổ ấm nơi Thiên đường đen cũng mất. Mọi người nhận được thư thông báo dời đi, vì chính quyền sẽ làm một cuộc san bằng tất cả thành tro bụi để chuẩn bị cho một cuộc tái thiết mới. Quyết định của Mẹ để lại trong lòng Bô những câu hỏi lớn, cả sự tổn thương và mất mát vì phải chia lìa thêm lần nữa. Cuối cùng, Bô và gia đình anh đã rời khỏi Thiên đường đen. Họ mang theo những kỷ niệm đẹp đẽ về nơi đây, về những người đã yêu thương họ, và về những gì họ đã học được. Review Wittgenstein Của Thiên Đường Đen là một tác phẩm có nhiều điểm nhấn. Thứ nhất, tác phẩm có một cốt truyện hấp dẫn, với những tình tiết bất ngờ và lôi cuốn. Thứ hai, tác phẩm có những nhân vật được xây dựng rất thành công, với những tâm lý và tính cách phức tạp. Thứ ba, tác phẩm có những thông điệp sâu sắc về cuộc sống, về tình yêu và về sự mất mát. Về mặt cốt truyện, tác phẩm có thể được chia thành hai phần chính. Phần đầu của tác phẩm kể về cuộc sống của Bô tại Thiên đường đen. Phần thứ hai của tác phẩm kể về cuộc sống của Bô và gia đình anh sau khi rời khỏi Thiên đường đen. Phần đầu của tác phẩm khá hấp dẫn, với những tình tiết bất ngờ và lôi cuốn. Người đọc sẽ bị cuốn theo câu chuyện của Bô, từ lúc anh bơi qua biển đến Thiên đường đen, đến lúc anh gặp được gia đình mình, và đến lúc anh phải đối mặt với sự chia ly. Phần thứ hai của tác phẩm cũng có nhiều điểm nhấn. Người đọc sẽ được theo dõi cuộc hành trình của Bô và gia đình anh, từ khi họ rời khỏi Thiên đường đen, đến khi họ tìm được một nơi mới để sống. Về mặt nhân vật, tác phẩm có những nhân vật được xây dựng rất thành công. Bô là một nhân vật phức tạp, với những tâm lý và tính cách mâu thuẫn. Anh là một người thông minh, nhạy cảm, nhưng cũng rất cô đơn và đau khổ. Mẹ là một người phụ nữ mạnh mẽ, nhưng cũng rất yếu đuối. Lúk là một người anh trai yêu thương Bô, nhưng cũng rất phức tạp và khó hiểu. Bố là một người đàn ông trầm lặng, nhưng cũng rất ấm áp và yêu thương gia đình. Những nhân vật trong tác phẩm đều có những câu chuyện riêng của mình, những nỗi đau riêng của mình. Những câu chuyện và nỗi đau của họ đã tạo nên một bức tranh đa chiều về cuộc sống. Về mặt thông điệp, tác phẩm mang đến cho người đọc những thông điệp sâu sắc về cuộc sống, về tình yêu và về sự mất mát. Tác phẩm cho thấy rằng cuộc sống là một hành trình đầy thử thách, nhưng cũng đầy hy vọng. Tình yêu là thứ có sức mạnh vô biên, có thể giúp con người vượt qua mọi khó khăn. Sự mất mát là một phần tất yếu của cuộc sống, nhưng nó cũng là cơ hội để con người trưởng thành và mạnh mẽ hơn. Đánh giá cá nhân Tôi đánh giá cao cuốn tiểu thuyết Wittgenstein Của Thiên Đường Đen. Đây là một tác phẩm có nhiều điểm nhấn, với một cốt truyện hấp dẫn, những nhân vật được xây dựng rất thành công và những thông điệp sâu sắc. Tôi đặc biệt ấn tượng với những câu chuyện và nỗi đau của các nhân vật trong tác phẩm. Những câu chuyện và nỗi đau của họ đã tạo nên một bức tranh đa chiều về cuộc sống, về tình yêu và về sự mất mát. Tôi nghĩ rằng cuốn tiểu thuyết này sẽ là một lựa chọn phù hợp cho những ai yêu thích văn học Việt Nam đương đại. Mời các bạn mượn đọc sách Wittgenstein Của Thiên Đường Đen của tác giả Maik Cây.