Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vùng Đất Xannhicôp

Vùng Bắc Băng Dương có nhiều đảo lớn và nhỏ bao quanh, còn khu trung tâm không có đảo. Các đảo thường có băng, tuyết phủ, chỉ trừ một số ít đảo không có băng tuyết trong một thời gian ngắn về mùa hè. Biển bao quanh các đảo cũng thường xuyên đóng băng. Vùng trung tâm không có đảo thường có những lớp băng dày, lâu năm, nước và gió thường xô đẩy những tảng băng ở đây về nhiều hướng. Bất chấp những điều kiện khó khăn, các nhà thám hiểm dũng cảm đã đến vùng Bắc cực, từng bước nghiên cứu vùng này và đã từng sống ở những đảo đó. Người ta đã cố gắng lợi dụng các tảng băng di chuyển để đi vào vùng Bắc Băng Dương, nơi còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Sự khám phá các đảo mới được bắt đầu từ lâu và ngày nay cũng đang được tiếp tục; chẳng hạn các đảo nhỏ Gianet, Ghenriet, Bennet ở phía đông-bắc quần đảo Nôvôsibirơxcơ đã được phát hiện vào năm 1881; quần đảo lớn mang tên Vùng đất bắc ở phía bắc bán đảo Taimưrơ được phát hiện vào năm 1913; tiếp theo đó, các đảo nhỏ ở vùng biển Carơxkôie cũng được phát hiện. Dù sao, người ta cũng không thể khẳng định là các đảo ở vùng Bắc cực đã được phát hiện hết. Bởi vì ở nơi mà băng di chuyển nhiều, còn có thể có những hòn đảo khác, nếu đi bằng đường biển thì không đến các đảo này được, còn đi theo các tảng băng di chuyển cũng rất khó tới. Nhờ sử dụng máy bay, người ta có thể đến được những nơi trong vùng Bắc cực mà đi bằng đường biển hoặc đi theo băng di chuyển cũng không thể đến được. Song, cho đến ngày nay, người ta vẫn chưa khám phá được các hòn đảo ở vùng Bắc cực, mà những truyền thuyết về chúng được tồn tại đã gần một thế kỷ rưỡi nay rồi. Những người thợ săn dũng cảm đã từng đến các hòn đảo gần lục địa châu Á để kiếm lông thú và ngà voi ma-mút, cả những nhà thám hiểm phương bắc, trong những ngày đẹp trời hiếm có ở phương bắc, đã thấy được các hòn đảo đó từ những điểm cao, nhưng họ không sao đi đến được. Hòn đảo ở về phía bắc quần đảo Nôvôsibirơxcơ được đặt tên là Vùng đất Xannhicôp, do Iacôp Xannhicôp là người đầu tiên trông thấy nó ở tận phía chân trời giữa vùng bằng. Cuốn sách này miêu tả việc những người tù chính trị bị đi đày ở lưu vực sông Indihiroca đi tìm Vùng đất Xannhicôp. Cuốn tiểu thuyết này thuộc loại khoa học viễn tưởng, bởi vì tác giả mô tả một vùng đất tưởng tượng, miêu tả thiên nhiên và dân cư của vùng đất này theo các giả thuyết khoa học. Bạn đọc sẽ làm quen với những hòn đảo Bắc cực, với các điều kiện thám hiểm giữa vùng băng, với thiên nhiên và dân cư ở một vùng đất có thể có được mà chưa ai biết, nếu nó tồn tại theo các giả thuyết mà tác giả nêu lên. Trong chương “Vài lời cuối cùng” bạn đọc sẽ có được lời giải đáp về các giả thuyết nói về vùng đất Xannhicôp, và làm quen chút ít với những phát minh mới mẻ của các nhà khoa học nghiên cứu vùng Bắc cực của Liên Xô, làm sáng tỏ một phần nào về sự bí hiểm của Vùng đất Xannhicôp. *** Nửa đầu cuộc họp trọng thể của hội các nhà bác học để nghe thông báo của các nhân viên trong đoàn thám hiểm đi tìm bá tước Tôn và những người cùng đi với ông ta bị mất tích, đã sắp kết thúc. Trên diễn đàn, cạnh bức tường có trang trí các chân dung lớn của những người bảo trợ có chức tước và các vị chủ tịch của hội, là một sĩ quan hàng hải. Ông này đã từng dũng cảm vượt Bắc Băng Dương trên một con thuyền độc mộc, từ quần đảo Nôvôsibirơxcơ đến đảo Bennet, đây là nơi cuối cùng mà bá tước Tôn dừng lại, và không thấy trở về. Chiếc chao đèn màu xanh hắt bóng mờ lên khuôn mặt rắn rỏi, dầu dãi phong sương của người đang nói, rọi ánh sáng lên bản báo cáo đặt trên diễn đàn và lên bộ đồng phục hàng hải có khuy và huân chương bằng vàng của ông ta. Các ủy viên Hội đồng của hội đang ngồi sau một chiếc bàn dài phủ khăn xanh đặt ở phía trước diễn đàn. Họ đều là những nhà bác học lỗi lạc và những nhà du hành nổi tiếng, hiện đang sinh sống tại thủ đô phía bắc1. Vị chủ tịch ngồi ở giữa. Mắt ông nhắm nghiền, hình như giọng nói nhẹ nhàng của diễn giả đã làm cho ông ta thiu thiu ngủ. Căn phòng nhỏ chật ních người. Báo cáo viên đã miêu tả bước đường của đoàn thám hiểm đi cứu nạn, cuộc hành trình khó khăn khi họ phải dùng những xe trượt tuyết do chó kéo để chở chiếc thuyền độc mộc nặng nề từ lục địa đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ, vượt qua vùng băng giá ven Bắc cực. Ông tả lại mùa hè trên đảo Côtennưi trong lúc chờ phá băng, việc đi dọc theo bờ biển rất gian khổ, và vượt qua biển để đến đảo Bennet một cách táo bạo. Ông nêu lên đặc điểm của hòn đảo ảm đạm, quanh năm phủ đầy băng tuyết đó và kể lại việc tìm thấy căn lều nhỏ của Tôn và những vật mà Tôn đã để lại trong lều cùng với tài liệu ghi chép về đảo kết thúc bằng những dòng chữ: “Hôm nay chúng tôi đang lên đường về phương nam. Có đủ thức ăn cho khoảng 15 đến 20 ngày. Tất cả đều khỏe mạnh.” - Như thế là - báo cáo viên cao giọng tuyên bố - ngày 26 tháng 10 năm 1902, bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Vatxili Gôrôkhôp, người Iacut, và Nhicolai Điacônôp, người Tunggut đã rời đảo Bennet vượt qua băng tuyết đi về phương nam, theo hướng quần đảo Novôxibirơxcơ. Nhưng họ không bao giờ tới đích. Chúng tôi biết vậy, bởi vì chúng tôi không tìm ra một dấu vết nào cả. Thế thì điều gì đã xảy ra đối với các nhà du hành can trường ấy? Không còn nghi ngờ gì nữa, họ đã chết trên đường đi. Vào cuối tháng mười, trên các vĩ tuyến ấy, ban ngày không có ánh sáng trời chỉ sáng mờ mờ vào khoảng hai ba giờ lúc ban trưa. Băng giá tới 40 độ; hay có bão tuyết dữ dội. Nhưng mặt biển chưa hoàn toàn bị bao phủ bởi băng giá và có nhiều hồ nước. Các nhà du hành có thể rơi vào một trong những hồ nước mới đóng băng ấy giữa lúc có bão tuyết rồi mất hút. Hoặc họ có thể chết vì kiệt sức, hay lả đi vì đói, và vì băng giá trong khi phải chống chọi với các tảng băng. Vì không có chó, họ buộc phải kéo lê những xe trượt tuyết nặng trĩu, xuồng và đồ đạc. Hoặc cuối cùng, gặp một cơn bão, họ chết đuối trong đêm đen Bắc cực giữa lúc cố gắng vượt qua vùng biển chưa đóng băng trên những chiếc xuồng mỏng manh, Bằng cách nào thì họ cũng yên giấc ngàn thu dưới đáy Bắc Băng Dương, còn như tôi đã cố gắng chứng minh cho các vị: Vùng đất Xannhicôp mà Tôn đi tìm từ lâu nay, thực ra không có. Người nói bước khỏi diễn đàn. Câu kết luận của ông ta đã làm cho những người nghe ngán ngẩm. Bỗng người ta nghe thấy một giọng nói to từ phía hàng ghế cuối vọng lên; Dầu sao - tôi bảo là - nó vẫn có! Cả gian phòng náo động. Người ta nghe thấy những câu hỏi: - Ai thế? Sao kỳ quặc vậy? Vị chủ tịch nghiêm nghị nhìn quanh và rung chuông. Khi trật tự đã trở lại, ông ta nói giọng oai nghiêm. - Tôi muốn rằng toàn thể hội nghị và các vị khách, chúng ta hãy đứng dậy mặc niệm những nhà du hành gan dạ đã sống trọn đời cho khoa học: bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Gôrôkhôp và Điacônôp. Mọi người đứng cả dậy. - Tôi tuyên bố nghỉ giải lao mười lăm phút. Những người ngồi gần cửa vội vàng tuồn ra ngoài. Các ủy viên của Hội đồng vây lấy người nói, trong khi đó người ta thấy một hội viên có thân hình đẫy đà, viện sĩ Sencơ, đang lách qua đám đông đến những hàng ghế cuối. Ông ta là nhà thám hiểm nổi tiếng, người tổ chức và là cố vấn của đoàn thám hiểm của bá tước Tôn. Giữa sự ồn ào của tiếng ghế xô đấy, tiếng trò chuyện của đám đông, vang lên giọng nói to của ông ta: - Tôi xin mời vị nào đã quá tin rằng Vùng đất Xannhicôp là có thật, nói chuyện với tôi. Đáp lời mời này, một người trẻ tuổi mặc áo choàng dài màu đen, tách khỏi đám đông thính giá. Khuôn mặt ngăm đen của anh ta đầy những vết nhăn nhỏ xíu, kết quả của nắng hè, băng giá mùa đông và những cơn gió bão. - Tôi nói vậy và nếu cần, tôi sẽ nhắc lại một lần nữa,- anh ta tuyên bố sau khi tiến lại gần Sencơ. - Ta hãy đến thư viện; không thể nói chuyện trong tình trạng hỗn độn này được,- Sencơ vừa nói vừa nhìn người trẻ tuổi hăng hái bằng con mắt xoi mói ẩn dưới đôi lông mày rậm, Khoác tay người lạ mặt, Sencơ dẫn anh ta qua cửa bên đi đến những phòng ở phía sau của thư viện. Đây là văn phòng của hội. Trong phòng im ắng và trống rỗng. Viện sĩ ngồi lên ghế của thư ký rồi ra hiệu cho người cùng đi với mình ngồi sang ghế bên. Ông châm một điếu thuốc và nói: - Tôi nghe đây. Tôi muốn nghe điều ông biết về Vùng đất Xannhicôp. - Điều đầu tiên là hãy cho phép tôi nói với ông tôi là ai, - anh ta nói. - Đã năm năm, tôi là một tù chính trị, bị đày biệt xứ ở một làng tên gọi Cadatric tại cửa sông Iana, trong xứ sở của gấu, hay nói cho đúng hơn là của những con gấu Bắc cực. Ở đó tôi đã làm quen với những thợ săn địa phương. Theo cách nhìn văn hóa của thủ đô thì họ là những con người cục cằn và dốt nát, nhưng họ tốt bụng và dũng cảm. Mỗi năm xuân đến, khi ngày trở nên dài hơn và băng vẫn rắn, họ quả cảm đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ để lùng ngà voi ma-mút, ở đây có rất nhiều... Một số thợ săn đã thấy rõ ràng Vùng đất Xannhicôp và tin chắc rằng nó có thật. - Điều đó cũng chưa đủ để thuyết phục! - Sencơ nhận xét. - Ông biết chứ, diễn giả đã bảo rằng những ngọn núi mà Xannhicôp và Tôn đã thấy chỉ là những dãy núi băng khổng lồ. Để có thể đứng ở đảo Côtennưi nhìn thấy được những ngọn núi của vùng đất tưởng tượng ấy thì chúng phải cao ít nhất là hai nghìn hai trăm năm mươi mét. Khó mà tin rằng có những ngọn núi cao như thế ở Bắc Băng Dương. - Đó chỉ là điều phỏng đoán chứ không phải là sự thật! - Hơn nữa, trước khi đặt chân lên đảo Bennet, Tôn đã uổng công đi tìm vùng đất ấy trên chiếc du thuyền “Rạng đông” chở ông ta, đi gần chỗ mà người ta cho là vùng đất. - Điều này chỉ chứng tỏ rằng vùng đất ở xa hơn về phương bắc chứ không gần đảo Côtennưi như Xannhicôp và những người khác đã tưởng, họ thấy nó nhưng không ước lượng được khoảng cách một cách chính xác, - người trẻ tuổi cãi lại. - Ông nói đúng! - Sencơ nói... - Nhưng sự thật, ngoài những chứng cứ này ra, ông sẽ đồng ý với tôi rằng đây chỉ là những chứng cứ bấp bênh, chúng ta không có gì khác, hay nói đúng hơn, không có gì xác thực để xét, ngoài việc những đàn chim di cư về một nơi nào đó ở phương bắc. - Tại sao ông nghĩ rằng dấu hiệu đó lại không đầy đủ tính chất xác thực? - người trẻ tuổi ngạc nhiên hỏi, - Vranghen đã viết về điều này, Maiden xác nhận nó, còn nhân dân địa phương chỉ rõ rằng vào mùa hè có hàng đàn chim sống trên bờ biển phía bắc của Xibiri, trừ hai nơi: nơi thứ nhất nằm giữa sông Khrôma và sông Ômôlôi, nơi thứ hai bắt đầu khoảng năm mươi cây số về phía tây của mũi Tacan và kéo dài đến mũi Riacaipi2. Trong những nơi này, số lượng chim không đáng kể, nhưng nhân dân ở đây thấy có những con chim bay về phương bắc. - Từ dải đất ở phía tây, chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ, trong khi từ dải đất ở phía đông, chim bay đến đảo Vranghen, - Senco bác lại. - Trước kia người ta nghĩ thế, nhưng thực ra không phải như vậy. Đảo Vranghen rất cao, lởm chởm đá và hầu như cả mùa hè tuyết phủ. Cũng có một số ít nơi trên đó các loài chim như ngỗng và vịt có thể làm tổ. Nhưng chúng ta chú ý nhiều hơn đến dải đất phía tây. - Phải rồi, từ đây, bầy chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ.   Mời các bạn đón đọc Vùng Đất Xannhicôp của tác giả Vlađimia Ôbrutrep.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngang Qua Thị Trấn Ngàn Mây
“Trong lòng đa số người, quê hương sau này sẽ trở thành một chấm màu đen, như hòn đảo lẻ loi ngàn đời không thay đổi.” Lưu Thập Tam sinh ra và lớn lên ở thị trấn Ngàn Mây – nơi có một tiệm tạp hóa với đống hàng hóa chồng chất theo năm tháng và những con người đã để lại vô vàn dấu ấn không sao xóa nhòa trong ký ức cậu. Cả một tuổi thơ sôi nổi và êm đềm, cậu đều trải qua bên bà ngoại ở nơi đây. Con người ta chỉ biết trân trọng những thứ mìnhy có khi nó dần tan biến. Rời khỏi thị trấn, bước chân trên con đường “trưởng thành”, Lưu Thập Tam mới dần thấu hiểu: những hồi ức đẹp đẽ nơi trấn nhỏ chính là một thứ vô cùng quý giá – là mái ấm, là góc nhỏ bình yên trong lòng cậu, để mỗi lần đối mặt với gian nan, mệt mỏi, thất bại và tuyệt vọng đến sức cùng lực kiệt, Lưu Thập Tam biết, vẫn luôn có một nơi gọi là “quê hương” che chở cho cậu khi trở về. Đây là một câu chuyện dành tặng cho những bi thương, vất vả, những giọt nước mắt tủi vô thức nơi khóe mắt mỗi chúng ta khi bước trên đường đời, cũng chính là những hy vọng và tia sáng không bao giờ tắt dẫn lối cho ta tiến về phía “trưởng thành”. *** NÚI RỪNG, GỐC ĐÀO, VƯƠNG OANH OANH “Bà ơi, sao trời cao thế?” Bà đáp: “Con có thấy mây không? Đó là cánh của trời đấy.” Đầu hè, dưới mái hiên, Lưu Thập Tam cắn hết vốc hạt dưa, bảo bà ngoại: “Con cảm thấy có người đang nhớ bà cháu mình.” Bà đáp: “Nhớ có ích gì, sao không cho tiền ấy.” Cát cánh nở đầy thị trấn, bồ công anh bay vượt qua tán lựu, dạt vào ruộng lúa dưới chân núi. Trong lòng đa số người, quê hương sau này sẽ trở thành một chấm đen, như hòn đảo lẻ loi ngàn đời không thay đổi. Bà ngoại nói, tổ tiên đời đời chôn cất ở đây, nên gọi là quê hương. Thị trấn nhỏ trong núi, tựa như đội đất chui lên. Từ khi đỗ đại học rồi rời quê, ngoài những dịp lễ Tết ra, Lưu Thập Tam chẳng bao giờ trở lại. Bà ngoại tên đầy đủ là Vương Oanh Oanh, mở quán tạp hóa tại nhà đã mấy chục năm. Bà mặc áo ngắn tay hoa nhí, mái tóc bạc phơ vấn thành búi, cánh tay giấu trong bao tay áo, tất bật chạy qua chạy lại. Trời ấm dần lên, bia bán chạy như tôm tươi, bà chồng từng két bia lên rồi hổn hển lau mồ hôi, “Mày có phụ một tay không, không làm bà giết.” Lưu Thập Tam rầu rĩ đáp: “Con không ở mãi xó rừng rú này được đâu.” Bà hỏi: “Bán bảo hiểm thế nào rồi, có kiếm được không?” Lưu Thập Tam thở dài, “Tiền không quan trọng, con đang khởi nghiệp mà.” Trong sân trồng một cây đào, bà đứng dưới gốc cây, cầm chổi quét sân, liếc xéo cậu: “Hay thế này, bà bán quách nhà đi, cho mày tiền khởi nghiệp nhé?” Lưu Thập Tam ôm chầm lấy bà, “Con yêu bà nhất.” Bà đá cậu ra, “Thôi thôi, tránh ra đi.” Lưu Thập Tam hỏi: “Trưa nay ăn gì ạ?” Bà châm điếu thuốc, đáp: “Ai rỗi hơi lo cơm cho mày, đi kiếm tiền đi.” Tháng Sáu, ve đã râm ran từ lâu, kêu ra rả không dứt, khi gần khi xa, ong ong như cơn ù tai khi vừa thức dậy. Bà ngoại thò đầu vào cửa giục: “Kiếm nhiều tiền vào, tối nay bà mời cơm, uống hai chén.” Hai chén rượu với Vương Oanh Oanh chẳng thấm vào đâu. Tối qua bà ít nhất phải uống đến hai chục chén, ngà ngà mắng cậu: “Thất tình có gì mà buồn, yêu đứa khác đi!” Lưu Thập Tam chống chế: “Nhưng con chưa quên được cô ấy.” Bà ngoại xót xa ôm lấy cậu, dịu dàng dỗ: “Mày xấu nên người ta bỏ là phải. Người ta xinh nên mày không quên được là đúng. Muốn khóc thì cứ khóc đi, bà thương mày, bà xui xẻo.” Lưu Thập Tam khẽ cựa mình, phát hiện bà ôm rất chặt, bèn quờ lấy bình rượu tu cạn rồi thiếp đi trong lòng bà. Chắc bà chẳng nhớ chuyện tối qua, nên vẫn hăng hái như thường. Lưu Thập Tam bị đá ra cửa, ngoái lại trông thấy nửa thân đào cao vượt khỏi tường vây, bảng hiệu cũ kỹ của quán tạp hóa treo lủng lẳng trên cửa, có mây trắng núi xanh xa xa làm nền. Lưu Thập Tam thật sự bó tay hết cách. Mấy hôm trước, cậu còn đang nai lưng đi làm ở thành phố, cuối cùng vừa thất tình vừa thất nghiệp, đau lòng khôn tả. Vương Oanh Oanh xách hai chai rượu gạo đến chỗ cậu ở, chuốc cho cậu say mèm rồi lôi về. Bà cụ bảy mươi tuổi lái máy kéo cả đi cả về hai trăm cây số, trói thằng cháu ngoại say bí tỉ trong thùng xe. Bà than thở: “Đường xóc quá, thằng ngốc này thì nôn liên tục như đứa thiểu năng. Hơi một tí lại phải xuống xe lau cho nó. Khổ quá đi mất.” Lưu Thập Tam tỉnh lại, trợn tròn mắt nhận ra mình đang nằm trong căn nhà nhỏ giữa núi. Khó khăn lắm mới rời khỏi quê, quyết tâm làm nên sự nghiệp, nào ngờ lại bị Vương Oanh Oanh lái máy kéo tới, lôi về thị trấn Ngàn Mây. Ngôi nhà này lưu giữ tuổi thơ của Lưu Thập Tam. Mỗi khi tan học, cậu lại lẽo đẽo bám lấy bà ngoại hỏi đủ thứ chuyện. Thằng bé hỏi: “Bà ơi, sao trời cao thế?” Bà đáp: “Con có thấy mây không? Đó là cánh của trời đấy.” Chẳng biết từ lúc nào, rất nhiều chuyện đã rất nhiều năm. Từ nhỏ đến lớn đều là bà đóng học phí cho cậu, mà thu nhập của bà chủ yếu bắt nguồn từ quán tạp hóa Oanh Oanh. Từ khi cậu hiểu chuyện, bà đã ngậm điếu thuốc, lái máy kéo rong ruổi khắp núi rừng, hàng hóa chất thành đống trong thùng xe. Thuở bé, Lưu Thập Tam giận bà vì vô số việc, nhưng chủ yếu là ba chuyện: Một, cho ít tiền tiêu vặt. Hai, chơi mạt chược quá nhiều. Ba, không tôn trọng mơ ước của cậu. Mỗi lần cậu nói: “Bà chơi ít thôi, dành tiền cho con này, để con thực hiện ước mơ.”, bà ngoại lại nghi ngờ hỏi: “Mày mới học lớp Bốn, mơ mộng cái gì?” Lưu Thập Tam đáp: “Đỗ vào Thanh Hoa, Bắc Đại, rời khỏi Vương Oanh Oanh, đến thành phố lớn.” Nghe vậy bà liền vơ dao đuổi cậu chạy khắp phố. Lưu Thập Tam trèo tót lên cây, nghiêm trang nói vọng xuống: “Bà ngoại, con nói cho bà biết, bà phải tôn trọng mơ ước của con.” Bà đáp: “Không thích ở với bà, định học theo mẹ mày, lẳng lặng bỏ đi đấy phải không?” Lưu Thập Tam đáp: “Con không học theo mẹ, con gửi tiền cho bà, tám vạn mười vạn đều vô tư!” Bà bổ dao vào gốc cây, “Bà đợi thế nào được đến lúc ấy, mày cứ đưa tiền mừng tuổi năm ngoái ra đây đã.” Lưu Thập Tam ngớ người rồi òa khóc thảm thiết, “Xấu hổ lắm! Con không học tiểu học nữa đâu! Con thi luôn vào Thanh Hoa, Bắc Đại, lấy vợ sinh con thôi!” Mười bốn năm trước, bà ngoại nhận được một bức thư. Bà không biết chữ, nhưng cũng không đưa cho Lưu Thập Tam đọc mà cất vào hộp bánh quy thiếc cùng mấy món trang sức. Bấy giờ Lưu Thập Tam tò mò lục ra xem rồi lén lút viết một bức thư trả lời, gửi theo địa chỉ ghi trên đó. Cậu viết rất đơn giản: Xin chào, con tên Lưu Thập Tam, cháu ngoại bà Vương Oanh Oanh, hai bà cháu sống rất chật vật, gửi cho ít tiền đi. Từ đó, cậu còn háo hức chờ hồi âm hơn cả bà. Giữa con phố chính của thị trấn là cửa hàng mậu dịch cũ, về sau sửa thành nhà thờ. Trước cửa hàng có một hòm thư, đối diện quán bánh bao. Lưu Thập Tam đeo túi chéo, hỏi bác Trần bưu tá: “Có thư của cháu không? Có thì nhớ đưa cho cháu, đừng đưa cho bà Vương Oanh Oanh.” Bác hỏi lại: “Sao vậy?” “Bác già rồi hỏi nhiều thế làm gì, cháu chia hoa hồng cho bác nhé?” Lưu Thập Tam đợi suốt cả học kỳ, đến Tết, nhân lúc bà ngoại uống say, cậu mới dám dò hỏi người kia rốt cuộc là ai, liệu có gửi tiền không? Đột nhiên bà ngoại bật khóc nức nở, khiến Lưu Thập Tam phát hoảng, cuống quýt lau nước mắt cho bà, “Bà ngoại, bà đừng khóc nữa, đợi con lớn lên ra thành phố sẽ gửi tiền cho bà.” Sau khi bác Trần qua đời, chẳng có bưu tá mới đến, hộp thư cũng biến mất, mọi người hiếm khi viết bằng bút máy. Bất kể ai trải giấy ra, viết ba chữ “anh yêu em”, đều có thể trở thành bức thư tình cuối cùng của thế kỷ 21. Lưu Thập Tam cũng viết một bức, kẹp vào sách Ngữ văn của cô bạn Trình Sương ở lớp học thêm hè năm lớp Bốn, vỏn vẹn mấy chữ: Tớ thấy cậu xinh hơn cả cô La, ăn ô mai không? Cô La là chủ nhiệm lớp, đồng thời cũng là dì của Trình Sương, mới ngoài hai mươi, tuổi xuân phơi phới. Hôm sau lên lớp, cô xách tai Lưu Thập Tam lôi vào phòng giáo viên, dịu dàng hỏi: “Em thấy cô có xinh không?” Lưu Thập Tam quả quyết: “Xấu như ma cấu.” Cả phòng giáo viên cười ồ lên, cô Vu dạy Toán ghé sang hỏi: “Còn cô thì sao?” Lưu Thập Tam phân vân giây lát rồi đáp: “Chắc cô La định đánh em đấy, cô cứu em với.” Cô Vu nói: “Cô ấy đánh là dĩ nhiên, giờ chỉ xem cô có đánh em không thôi.” Lưu Thập Tam trả lời: “Cô trẻ hơn cô ấy nên xấu vừa vừa thôi.” Cô Vu ra lệnh: “Ra hành lang, đứng dựa vào tường đến khi tan học.” Lưu Thập Tam hỏi lại: “Cô không hỏi em thấy hiệu trưởng thế nào à?” Mọi người trong phòng giáo viên vội ngừng công việc, bao nhiêu con mắt như đèn pha đổ dồn vào cậu. Cậu bĩu môi, “Thầy ấy chẳng ra sao, học thêm hè mà huy động từng này người thì khác gì học chính?” Kết quả cậu bị đưa từ phòng giáo viên sang phòng hiệu trưởng. Hiệu trưởng rót một chén trà, Lưu Thập Tam vội bưng ngay lên uống, khiến thầy ngạc nhiên ra mặt, “Thầy rót cho thầy cơ mà.” Lưu Thập Tam thổi lá trà, nhấp một ngụm rồi tặc lưỡi, “Đắng ngắt, có tiền người ta đã uống nước quýt cho ngọt rồi.” Hiệu trưởng gõ xuống bàn, “Thập Tam viết thư tình dở ẹc.” Lưu Thập Tam khinh khỉnh liếc thầy, “Em đọc hết sách trong thư viện trường rồi, thầy dựa vào cái gì mà nghi ngờ năng khiếu văn học của em?” Hiệu trưởng mỉm cười đưa cho cậu một quyển sách cũ nát, trang bìa lốm đốm mấy vết cháy sém, viết bốn chữ Khải: Nhân gian từ thoại*. Lưu Thập Tam lật qua lật lại, đầu ong lên, đã văn ngôn* lại còn đọc theo hàng dọc. Hiệu trưởng nói: “Mấy hôm nữa tôi sẽ kiểm tra em.” Trong đầu Thập Tam nhảy số thật nhanh, đáp ngay: “Năm 1997, Hồng Kông trở về với Đại lục.” Hiệu trưởng hỏi: “Em nhắc tới chuyện này làm gì?” Lưu Thập Tam nghiêm trang dõng dạc: “Hồng Kông được trả về, thế giới đại đồng, tàn dư phong kiến nhà thầy còn đọc chữ phồn thể, định phản động à?” Hiệu trưởng lẳng lặng đặt chén trà xuống, để cuốn sách vào lòng Lưu Thập Tam, xoa đầu cậu rồi nghiêm nghị nói: “Em đọc đi, đọc kỹ vào, thằng oắt con, đọc không hiểu thì liệu hồn đấy, cút ra.” Mời bạn đón đọc Ngang Qua Thị Trấn Ngàn Mây của tác giả Trương Gia Giai & Tố Hinh (dịch).
Sau Màn Sương Lạnh - Trần Hữu Tòng
Sau Màn Sương Lạnh là tiểu thuyết phản gián viết về giai đoạn quân và dân ta ở vùng biên giới phía Bắc chống lại âm mưu, thủ đoạn thâm độc của người "bạn" lớn. *** Trần Hữu Tòng sinh năm 1938 ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Tháng 4/1954, ông nhập ngũ khi mới vừa tròn 16 tuổi và là một trong những người đầu tiên xẻ núi, mở rừng xây dựng Đồn biên phòng Cầu Treo. Dẫu sau này, ông có hơn 15 năm làm phóng viên Báo Công an nhân dân vũ trang, 20 năm là phóng viên báo Quân đội nhân dân, 5 năm đảm nhận chức vụ Cục trưởng Cục Văn hóa Thông tin cơ sở - Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, được đi đến nhiều miền đất của Tổ quốc, thì cái tên Nước Sốt - Cầu Treo vẫn là một vùng ký ức sâu đậm trong cuộc đời. Cũng chính vì xuất thân từ một người lính biên phòng, tác phẩm đầu tiên cũng được ra đời nơi biên viễn, thế nên chủ đề về biên giới và hình tượng người lính biên phòng cứ bền bỉ gắn với những trang viết của Trần Hữu Tòng trong suốt khoảng thời gian dài bằng cả đời người. Đến nay, nhà văn Trần Hữu Tòng đã xuất bản gần 30 tác phẩm gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn mà không có tác phẩm nào vắng bóng người chiến sĩ biên phòng. Với hàng chục tác phẩm về đề tài biên giới và người chiến sĩ biên phòng như: "Ngôi sao biên cương", "Dấu vết để lại", "Tín hiệu bình yên", "Bên dòng Păng Pơi", "Cơn lốc rừng thông", "Bầy cọp núi", "Cánh rừng và hai vầng trăng", "Bếp lửa đêm rừng", "Phiên gác trăng tà", “Sau màn sương lạnh”, “Bóng núi” cùng nhiều giải thưởng văn học có giá trị trong hành trình sáng tác của mình, có thể nói rằng với nhà văn Trần Hữu Tòng ký ức của một thời trai trẻ, về những miền đất xa xôi nơi biên ải, nơi những người lính trẻ như ông thuở nào đang làm nhiệm vụ canh giữ biên cương cho Tổ quốc, chắc hẳn vẫn luôn tươi mới và là nguồn cảm hứng dồi dào cho ngòi bút của ông.   Mời các bạn đón đọc Sau Màn Sương Lạnh của tác giả Trần Hữu Tòng.
Giải Khăn Sô Cho Huế - Nhã Ca
TỰA NHỎ : VIẾT ĐỂ CHỊU TỘI Tôi được sinh ra ở Huế, lớn lên với Huế, nhưng khi trưởng thành, đã rời gia đình, bỏ thành phố và ra đi biền biệt. Hồi trước Tết Mậu thân, hôm 23 tháng chạp năm mùi, đang cùng chồng con cúng ông táo, tôi bỗng nhận được điện tín từ Huế : về ngay, ba hấp hối. Với một gói hành lý vội vàng, đứa con hư hỏng của gia đình và thành phố là tôi, đã trở lại Huế để chụi tang người cha thân yêu. Và rồi như bao người khác, đã phải chịu luôn cái tang lớn cho cả thành phố, khi biến cố tết Mậu Thân bùng nổ. Sau cả tháng dài lạn lọn trong địa ngục Huế, khi sống sót trở về Sàigòn, tôi đã thao thức mãi về việc phải thất một giải khăn sô cho Huế, phải viết một hồi ký về những ngày giờ hấp hối của Huế. Nhưng thời sự những ngày sau biến cố Tế Mậu Thân ồn ào quá, bên cạnh cơn khóc than vật vã của Huế, người ta còn bận bịu với việc khai thác những chi tiết ly kỳ của chiến cuộc, những thành tích chiến thắng trên tro tàn, thật chưa phải là lúc viết ra những sót sa, tủi nhục, tuy tầm thường nhất, nhưng cũng lại là sâu sác nhất của một thành phố hấp hói. Chính vì vậy mà sau khi phác họa một vài nét đại cương trên nhật báo Sông hồi ấy, mặc dù được tòa soạn yêu cầu tiếp tục và sau đó được nhiều nhà xuất bản thúc dục, tôi cũng đã cố gắng ngưng lại. Phải ngưng lại, để nếu không nghiền ngẫm được kỹ hơn, thì ít ra cũng tách rời được khỏi những hậu ý xô bồ của thời cuộc, để chờ đợi một giây phút yên lặng hơn, trầm tĩnh hơn, khi viết về Huế. Cái thời gian chờ đợi ấy, đến nay, đã gần hai năm qua, Hai năm, hài cốt cả chục ngàn dân Huế bị tàn sát, vùi nông ở bờ bụi, vứt bỏ xuống đáy sông đáy suối, đã được thu nhặt dần. Những nấm mồ tập thể đã tạm thời xanh cỏ. Những nền nhà đổ nát đã tạm thời dựng lại. Cơn khóc than vật vã của Huế, những tiếng nói xô bồ về Huế, như vậy, cũng đã bớt ồn ào. Đây, chính là lúc chúng ta có thể cùng nhau chít lại giải khăn sô, đốt lại nén hương nhỏ trong đêm tối mênh mông của chiến tranh và tang tóc, để hồi tưởng về Huế. Có nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã nổ và đã tàn phá Huế. Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chụi trách nhiệm. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàigòn, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dát súng lục bên hong, hâng hái đi lùng người này, bắc người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loặt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu tý, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc : - Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm... Hồ chủ tịch muôn năm. Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có từng đoàn người, hàng trăm người, cha có, sư có, già có, con trẻ có, mỗi người cầm một lá cờ trắng để ra dấu đầu hàng bất cứ phe nào, đi thất thểu trong một thành phố đầy lửa cháy. Cứ như thế chạy ngược chạy xuôi, cho đến khi gục ngã gần hết. Cũng chính trong thời đại chúng ta, ngày thứ hai mươi mấy trong cơn hấp hối của Huế, đã có một con chó nhỏ kẹt giữa hai lằn đạn, chạy ra sủa bâng quơ ở bên bờ sông Bến Ngự. Con chó thành mục tiêu đùa rỡn cho những mũi súng hờm rẵn từ bên kia sông. Họ bắn cho con vật khốn khổ sợ hãi rơi xuống sông. Rồi lại bắn vào những bờ sông mà con chó nhỏ đang lóp ngóp bơi vào. Những phát súng đùa cợt không có tình bắn chết con chó nhỏ, mà chỉ có trêu chọc cho con chó chới với giữa giòng nước, để có chuyện đùa chơi với máu lửa. Thành phố Huế, và có lẽ cả quê hương khốn khổ của chúng ta nữa, có khác gì thân phận của con chó nhỏ đã chới với giữa giồng nước ấy. Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà còn phải chịu tội với Huế, với quê hương nữa. Gần hai năm đã qua, hôm nay, nhân ngày giỗ thứ hai của biến cố tàn phá Huế sắp trở lại, tôi xin viết và xin gửi tới người đọc tập giải khăn sô cho Huế này như một bó nhang dèn góp giỗ. Xin mời bạn, chúng ta cùng thấp đèn, châm nhang, chịu tội với quê hương, với Huế.   Sàigon, năm Dậu. NHã CA ***   Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Giải Khăn Sô Cho Huế của tác giả Nhã Ca.
Đường Tự Do - Sài Gòn - Nhã Ca
Một đầu, dòng sông Saigon lấp lánh. Một đầu khác, tượng Đức Mẹ trắng toát trước Vương Cung Thánh Đường. Lòng đường hẹp mà vỉa hè rộng. Con đường ấy, một thời ngắn ngủi thôi, mang tên là Tự Do. Tên cũ của nó, thời Pháp: Catinat. Tên mới, thời sau 1975: Đồng Khởi. Không biết đã hoặc sẽ còn những tên nào khác nữa? Với tôi, mãi mãi, con đường ấy mang tên là Tự Do. Đủ loại gót giày, từ Nam chí Bắc, từ năm châu bốn biển, đã nện trên vỉa hè Tự Do. Không chỉ giày dép đâu, mà con người, cả tôi nữa, khi đi đứng, hít thở, hòa mình vào sinh hoạt ở trên con đường này, đã hòa hợp với mạch sống của mọi thời đại, mọi hoàn cảnh. Bắt đầu từ một buổi trưa nắng sau khi Saigon đã thay tên đổi đời... ***   Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Đường Tự Do - Sài Gòn của tác giả Nhã Ca.