Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bọn Rợ Rình Trước Cổng: Mua Lại Có Đòn Bẩy Và Thương Vụ Đình Đám RJR Nabisco

Cuốn sách Bọn rợ rình ở cổng là câu chuyện có thật về cuộc chiến giành quyền kiểm soát công ty bánh quy và Mỹ – RJR Nabisco – nhà sản xuất bánh quy Oreo và RJ Reynolds. Nội dung chính nói về việc mua lại có đòn bẩy (LBO) của tập đoàn RJR Nabisco với nhịp độ nhanh chóng và chi tiết, bao gồm cả những cuộc hội thoại riêng cũng như trong phòng họp giữa các CEO của các công ty. Cuốn sách thể hiện lòng tham đáng kinh ngạc của các chủ ngân hàng đầu tư, nhà quản lý công ty, nhà đầu tư cổ phần tư nhân, các cổ đông… Việc mua lại diễn ra được mở đầu bằng một cuộc chiến đấu thầu giữa ban lãnh đạo (do CEO Ross Johnson dẫn đầu), KKR, công ty cổ phần tư nhân lâu đời, và một số người chơi “nhỏ hơn”. Việc mua lại có đòn bẩy thường khiến công ty bị mua lại phải gánh rất nhiều nợ, đòi hỏi các nhà quản lý phải cắt giảm chi phí (thường bao gồm cả nhân sự) – đó là lý do tại sao những điều này không được nhân viên, công chúng và giới báo chí ưa chuộng. Khoản mua lại trị giá 25 tỷ đô la này, mà cuối cùng KKR đã giành được bởi cũng không khác gì, đặc biệt vì đây là LBO lớn nhất tại thời điểm đó. Những người phản đối nỗ lực mua lại công ty của Johnson, Henry Kravis và anh họ của ông ta là George R. Roberts, là những người tiên phong trong việc mua lại có đòn bẩy (LBO). Kravis là người đầu tiên mà Johnson nói chuyện về việc thực hiện LBO và cảm thấy bị phản bội sau khi biết rằng Johnson muốn thực hiện thỏa thuận với một công ty khác, bộ phận Shearson Lehman Hutton trước đây của American Express. Ted Forstmann và công ty mua lại Forstmann Little của ông cũng đóng một vai trò quan trọng. Khi lên nắm quyền điều hành RJR Nabisco và thấy giá cổ phiếu của công ty đang trì trệ, Ross Johnson đã tìm cách để có được giá trị lớn hơn cho các cổ đông của mình và cuối cùng đã được các cố vấn ngân hàng đầu tư (của Lehman Brothers) thuyết phục rằng ông nên thực hiện một vụ mua lại có đòn bẩy. Và ngay sau khi giá thầu được công bố, các nhà thầu cho công ty đã xuất hiện. KKR đã trở thành con mồi đầu tiên của LBO. Hầu như tất cả các ngân hàng đầu tư lớn đều tham gia với tư cách là cố vấn cho thương vụ này. Một số nhân vật quan trọng trong giới tài chính xuất hiện. Bruce Wasserstein, CEO của Lazard đã tham gia, cùng với Joe Perella, Eric Gleacher, Tom Hill.   Sau khi Kravis và Johnson không thể dung hòa được sự khác biệt của họ, một cuộc chiến đấu thầu đã diễn ra mà cuối cùng Johnson sẽ thua. Tác dụng phụ đáng tiếc của việc tăng giá mua đối với các cổ đông là tạo ra mức nợ đáng lo ngại cho công ty. Cuốn sách bắt đầu chậm rãi với hơn 300 trang xây dựng bối cảnh cho các nhân vật chính và mô tả lịch sử của RJR Nabisco. Sau đó, nó đẩy nhanh tốc độ và sự kịch tính qua các cuộc hội thoại, thời gian và giọng điệu của nhân vật.   Đánh giá của chuyên gia, tổ chức uy tín về cuốn sách cùng các giải thưởng  “Một trong những cuốn sách kinh doanh tuyệt vời nhất từng được biết tới…” — Joe Nocera, New York Times “Một tác phẩm xuất sắc, tái hiện câu chuyện với quy mô ấn tượng… Lối viết hoa mỹ… bố cục chặt chẽ từ đầu đến cuối.” — Scot J. Paltrow, Los Angeles Times Book Review “Nội dung rất ấn tượng… bối cảnh đặc sắc… một tác phẩm có chất liệu điện ảnh nhưng cũng là cuốn sách được viết cực kỳ công phu.” — KeN auletta, New York Daily News “Thật khó để hình dung ra một cuốn sách hay hơn, lột tả hết bản chất của bối cảnh kinh tế những năm 1980… và cũng khó tưởng tượng ra một ai đó có tài viết lách hơn Burrough và Helyar.” — Bill BarNhart, Chicago Tribune *** Hẳn là nhiều người vẫn còn nhớ đến cuộc chiến giành quyền kiểm soát công ty bánh kẹo và thuốc lá Mỹ – RJR Nabisco – nhà sản xuất bánh quy Oreo và thuốc lá RJ Reynolds gây rúng động Phố Wall hơn 30 năm về trước. Việc sáp nhập bắt đầu với quyết định thực hiện mua lại có đòn bẩy (LBO - Leveraged Buyout) của CEO Ross Johnson và kết thúc với chiến thắng trị giá 25 tỷ đô la của công ty cổ phần tư nhân lâu đời KKR, LBO lớn nhất tại thời điểm đó. Toàn bộ những diễn biến của thương vụ đình đám này được Bryan Burrough và John Helyar tái hiện một cách hết sức chân thật trong cuốn tiểu thuyết kinh doanh kinh điển Bọn Rợ Rình Trước Cổng. Đây là cuốn sách đầu tiên cho chúng ta thấy rõ thực hư về những sự kiện gây chấn động một thời, nó đã được chuyển thể thành phim chiếu trên kênh HBO vào năm 1993 và phim tài liệu chiếu trên kênh History vào năm 2002.  Bằng sự chuyên nghiệp và thấm nhuần các chuẩn mực về tính thời sự, tính chính xác khi làm việc cho tờ Wall Street Journal, hai tác giả đã không bỏ sót bất cứ chi tiết nào dù là nhỏ nhất, bao gồm cả những cuộc hội thoại riêng cũng như những bí mật trong phòng họp giữa các CEO của các công ty. Bắt đầu chậm rãi với hơn 300 trang xây dựng bối cảnh cho các nhân vật chính và mô tả lịch sử của RJR Nabisco, sau đó đẩy nhanh tốc độ và sự kịch tính qua các cuộc hội thoại, thời gian và giọng điệu của nhân vật, cuốn sách này sẽ khiến chúng ta phải kinh ngạc vì những mánh khóe, thủ đoạn, lòng tham không đáy của các chủ ngân hàng đầu tư, nhà quản lý công ty, nhà đầu tư cổ phần tư nhân, các cổ đông…  Được New York Times Book Review đánh giá là “Một trong những bản tường thuật hay nhất, hấp dẫn nhất về những gì đã xảy ra với các công ty Mỹ và Phố Wall vào những năm 1980”, qua cuốn sách, độc giả sẽ hiểu rõ hơn về các rủi ro khi thực hiện LBO, những sai lầm có thể khiến cả doanh nghiệp lớn sụp đổ trong nháy mắt. Từ đó, rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Không những vậy, thất bại của CEO Ross Johnson và hàng loạt nhân vật tiếng tăm trong giới kinh doanh đã trở thành những tấm gương, những bài học đắt giá về cái tâm, cái tầm của các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới. Bài học thứ nhất: Bất kỳ thành quách kiên cố nào cũng đều có thể bị phá huỷ từ bên trong, và người dễ dàng làm điều đó nhất, ít bị đề phòng nhất chính là lãnh đạo, chỉ huy của tòa thành ấy. Việc trao quyền cho nhầm người khi không có cơ chế kiểm soát đủ hiệu quả sẽ là nguy cơ tiềm ẩn khôn lường cho doanh nghiệp. Bài học thứ hai: Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự sa đọa tuyệt đối. Khi người lãnh đạo có được những thứ mình muốn quá dễ dàng thì sẽ dễ bị lạc hướng, chìm vào trong những mưu toan, thủ đoạn trục lợi. Vì thế cuốn sách này sẽ bài học về quản trị nhân sự, tuyển dụng nhân tài sao cho vừa phù hợp, vừa hiệu quả, vừa bền vững. Bài học thứ ba: Thành công của một lãnh đạo không chỉ là xây dựng và phát triển một đội ngũ đủ sức đạt được những thành tích xuất sắc trong nhiệm kỳ của mình mà còn phải tạo ra những người lãnh đạo kế nhiệm đủ tầm khác. Bài học thứ tư: Văn hóa của một doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng cho sự phát triển và trường tồn trong một doanh nghiệp. Câu chuyện về văn hóa doanh nghiệp của Reynolds là một ví dụ không thể thuyết phục hơn. Bài học thứ năm: Cần hơn nữa những ý thức và cam kết với các giá trị cốt lõi và bổ sung thường xuyên của những động lực phát triển mới cho doanh nghiệp. Bọn Rợ Rình Trước Cổng - Bài học đắt giá giành cho những nhà quản lý Đây không chỉ là cuốn sách khiến người đọc phải ngạc nhiên, tò mò với những thủ thuật tài chính, mua bán sáp nhập hiện đại và nguy hiểm, mà còn là cuốn sách những người lãnh đạo doanh nghiệp đang trăn trở về cách thức quản trị tổ chức hiệu quả nhất định không thể bỏ qua.  *** Bryan Burrough là đặc phái viên của Vanity Fair và cựu phóng viên của The Wall Street Journal, ông đã báo cáo về nhiều chủ đề, bao gồm các sự kiện dẫn đến cuộc chiến ở Iraq, sự mất tích của Natalee Holloway và vụ Anthony Pellicano. Bryan còn là tác giả của nhiều bài phê bình sách và bài báo trên The New York Times, Los Angeles Times và Washington Post. John Helyar là một nhà báo và tác giả người Mỹ. Ông tốt nghiệp Đại học Boston và đã làm việc cho The Wall Street Journal, Fortune, ESPN.com, ESPN The Magazine và Bloomberg News. Bài viết của ông và Bryan Burrough về RJR Nabisco đã mang về cho cả hai giải thưởng danh giá Gerald Loeb. *** LỜI GIỚI THIỆU cho bản tiếng Việt 1 Bất kỳ thành quách hay pháo đài kiên cố nào cũng đều có thể bị phá hủy từ bên trong. Và người thuận lợi nhất, dễ dàng nhất, ít bị đề phòng nhất để phá hủy lại chính là người lãnh đạo của cái pháo đài ấy. Đây không chỉ là cuốn sách để người đọc ồ à ngạc nhiên, tò mò với những thủ thuật tài chính, mua bán sáp nhập hiện đại và nguy hiểm, mà còn là cuốn sách khiến những người lãnh đạo doanh nghiệp như chúng ta nhức nhối và trăn trở về cách thức quản trị tổ chức hiệu quả (corporate governance). Trăm năm là rất dài. Nhưng trăm năm dường như vẫn là chưa đủ để tích lũy độ dày cần thiết giúp cái vỏ trứng mong manh có thể chống chọi được những sự phá hoại từ bên trong. Những câu chuyện “chất như nước cất” về quá trình khởi nghiệp, tạo dựng và phát triển của các đế chế hàng đầu thế giới như Reynolds trong ngành thuốc lá hay Nabisco trong ngành bánh kẹo có lẽ sẽ là động lực hừng hực cho những chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhưng câu chuyện về sự sụp đổ nhanh chóng của những đế chế trăm năm ấy chỉ trong một thời gian rất ngắn có thể làm cho lãnh đạo của những tập đoàn lớn nhiều nghìn tỷ chúng ta lạnh lưng rợn gáy. Việc cho phép những công cụ tài chính nguy hiểm được hoạt động thiếu kiểm soát lại là trách nhiệm và bài học nhức nhối cho những người quản lý nhà nước. Nhưng trao quyền nhầm người trong khi không có cơ chế kiểm soát đủ hiệu quả có lẽ là nguyên nhân lớn nhất. 2 Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự sa đọa tuyệt đối. Có lẽ với một số độc giả, Ross Johnson cũng sẽ là một nhà quản lý hiệu quả nếu được sử dụng ở đúng vai trò, vị trí và kèm với một số cơ chế kiểm soát phù hợp. Khi trái ngọt đến quá dễ dàng thì người ta sẽ dễ bị lạc hướng, chìm vào những thủ đoạn chính trị nội bộ, những mua chuộc dối trá và những ê kíp đoàn kết nhất trí ru ngủ… Cuốn sách này vì thế cũng là một bài học về quản trị nhân sự. Tuyển dụng và phát triển nhân tài như thế nào để vừa phù hợp, vừa hiệu quả và bền vững không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật. Không phải cứ nhanh hơn là hay hơn. Không phải cứ trao quyền là tốt hơn. Không hẳn cứ trọng dụng là tiến bộ hơn. Đúng người (Who), đúng việc (What) nhưng còn phải đúng cách (How) nữa. Và cũng vì thế nên trách nhiệm quản trị nhân sự không phải là của trưởng phòng hay giám đốc nhân sự. Trách nhiệm ấy là của Ban điều hành, Hội đồng quản trị và cả Đại hội đồng cổ đông. Đặc biệt là với những nhân sự nòng cốt. 3 Thành công của một lãnh đạo không chỉ giới hạn trong việc xây dựng, phát triển và lãnh đạo đội ngũ đủ sức đạt được những kết quả hoạt động mong đợi trong nhiệm kỳ của mình. Thành công của lãnh đạo còn được đánh giá bởi kết quả của sự chuẩn bị lực lượng kế thừa đủ chất lượng, đủ sức lãnh đạo tổ chức thành công trong các nhiệm kỳ tiếp theo. Trách nhiệm của người lãnh đạo không phải là tạo ra những người đi theo: Họ cần tạo ra những người lãnh đạo đủ tầm khác. Nhìn từ góc độ này, những người lãnh đạo tiền nhiệm của Ross Johnson tại các doanh nghiệp liên quan đều là những người lãnh đạo tồi, cho dù tính cách và phong cách lãnh đạo của mỗi người đều rất khác nhau. 4 Muốn hủy diệt một quốc gia, hãy lấy hết đất đai của họ. Nhưng muốn hủy diệt một dân tộc, chỉ cần làm ô nhiễm hay pha loãng văn hóa của họ. Trong doanh nghiệp cũng vậy. Văn hóa của một doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng cho sự phát triển và trường tồn của doanh nghiệp ấy. Cuốn sách chia sẻ những câu chuyện tuyệt vời về sức mạnh vô địch của văn hóa doanh nghiệp. Không có một văn hóa đủ mạnh thì chắc là cả Nabisco lẫn Reynolds đã sớm chìm vào dòng lịch sử chứ không thể sừng sững với thời gian như vậy. Văn hóa của một tổ chức không phải là thứ mà họ tuyên bố hay tuyên truyền. Văn hóa ấy được bắt nguồn từ những người lãnh đạo cao nhất và thấm nhuần vào suy nghĩ, hoạt động cũng như hành vi hằng ngày của tất cả các cấp lãnh đạo và nhân viên của tổ chức ấy. Văn hóa ấy không nhất thiết phải là “tốt” dưới con mắt của cộng đồng xã hội. Nhưng nhất thiết phải phù hợp với đặc tính ngành nghề, bổ trợ cho sự phát triển của tổ chức và tăng cường gắn kết với những người quan trọng cần thiết cho sự thành công của tổ chức: cổ đông, nhân viên và khách hàng. Câu chuyện về văn hóa doanh nghiệp ở doanh nghiệp thuốc lá Reynolds là một ví dụ không thể thuyết phục hơn. 5 Kết cục đau thương cho những thương hiệu hàng đầu trong câu chuyện đặt ra câu hỏi nhức nhối về công thức truyền thừa của các tổ chức: Làm sao để trường tồn? Văn hóa mạnh: Đúng rồi. Nhưng sẽ đến lúc chính văn hóa ấy cản trở doanh nghiệp thay đổi và phát triển. Lãnh đạo tâm - tầm - tài: Đúng rồi. Nhưng lãnh đạo nào rồi cũng sẽ ra đi, mà có phải lãnh đạo nào cũng minh mẫn suốt đời đâu. Có lẽ sẽ cần hơn nữa những sự cảm nhận và thôi thúc sứ mệnh, những ý thức và cam kết với các giá trị cốt lõi và sự bổ sung thường xuyên của những động lực phát triển mới cho doanh nghiệp. Nhưng khổ nỗi, tất cả những điều ấy đều đến từ hay bị điều chỉnh bởi lãnh đạo. Làm sao để kiểm soát được lãnh đạo, hoặc ít nhất để lãnh đạo tự kiểm soát được chính mình, thì chỉ có những người tạo ra lãnh đạo trả lời được mà thôi. Vài dòng tâm tư khi đọc cuốn sách Bọn rợ rình trước cổngtrong chuyến đi cứu trợ miền Trung năm 2020. Trần Bằng Việt Chuyên gia tư vấn cao cấp Chủ tịch Giải pháp Phát triển Đông A *** LỜI TÁC GIẢ Năm 1989, chúng tôi viết Bọn rợ rình trước cổng kể về các sự kiện đang diễn ra; bây giờ mọi thứ đã trở thành dĩ vãng. Một số cuốn sách có vòng đời dài hơn các cuốn khác. Chúng tôi nghĩ rằng cuốn sách này là một trong số đó. Nó vẫn được dùng để giảng dạy về nhiều chủ đề cho sinh viên trong các trường đào tạo kinh doanh lớn, từ đạo đức kinh doanh đến nghiệp vụ ngân hàng đầu tư. Năm 1993, cuốn sách được chuyển thể thành phim và chiếu trên kênh HBO. Năm 2002, 14 năm sau khi gây chấn động, cuộc chiến RJR lại được chuyển thể thành một bộ phim tài liệu chiếu trên kênh History. Sự đón nhận này của công chúng là những gì chúng tôi chưa từng dám nghĩ tới khi bắt tay viết cuốn sách. Trên thực tế, mục tiêu chính của chúng tôi chỉ đơn giản là kiểm tra năng lực của chính mình, xem liệu chúng tôi có thể tự viết một cuốn sách hay không; cả hai chúng tôi đều chưa từng thử viết sách. Bọn rợ rình trước cổng cũng không phải là cuốn sách được các nhà xuất bản tranh giành. Trên thực tế, trong số hơn chục nhà xuất bản chúng tôi đã tiếp xúc, chính xác chỉ có nhà xuất bản Harper & Row (nay là nhà xuất bản Harper Collins) tỏ ra quan tâm một chút. Mọi người đã chán ngấy với các câu chuyện xuất hiện nhiều tuần trên những mặt báo về RJR. Còn ai muốn đọc thêm nữa? Là phóng viên của tờ Wall Street Journal, chúng tôi đã cố gắng làm cho Bọn rợ rình trước cổng thấm nhuần các chuẩn mực về tính thời sự và tính chính xác mà chúng tôi đã nắm vững khi viết báo. Thật sự, Bọn rợ rình trước cổng sẽ không thể ra đời nếu không có sự khích lệ mà hai biên tập viên của cuốn sách này, Norman Pearlstine và Paul Steiger, dành cho chúng tôi. Không chỉ vậy, chúng tôi còn được nghỉ phép không lương trong tám tháng để thực hiện cuốn sách này. Tháng 10 năm đó, khi câu chuyện về RJR bùng nổ, tôi là phóng viên của Wall Street Journal, tờ báo đầu tiên đưa tin về vụ sáp nhập và mua lại đình đám ở Phố Wall; còn John, sống tại Atlanta, phụ trách viết bài về công ty. Chúng tôi đã cùng nhau viết về mọi ngóc ngách của trận chiến RJR kéo dài sáu tuần. Chỉ đến khi trận chiến kết thúc, chúng tôi mới thống nhất cùng nhau viết sách, thế là chúng tôi gặp nhau. John giơ một cuốn tạp chí Timelên, trên trang bìa là bức ảnh đáng hổ thẹn của Ross Johnson, để tôi có thể nhận ra anh ở sân bay Atlanta. Chúng tôi thường có chút ngại ngùng khi thừa nhận đã nghiên cứu và viết Bọn rợ rình trước cổng trong tám tháng ngắn ngủi, từ tháng Một đến tháng Tám năm 1989. Đó là quãng thời gian buồn vui lẫn lộn với chúng tôi. Tôi sống trong một căn hộ không có điều hòa ở khu phố Park Slope, quận Brooklyn. Tôi đi tàu điện ngầm đến Manhattan để thực hiện sáu cuộc phỏng vấn mỗi ngày; chúng tôi nhất trí với nhau rằng tất cả các cuộc phỏng vấn nên được thực hiện trực tiếp. Buổi tối, tôi trở về nhà, kiểm tra, đối chiếu thông tin và viết lại những ghi chú trong buổi phỏng vấn. Đôi khi, vì trời mùa hè quá nóng, tôi chỉ mặc chiếc quần bơi và áo phông. John phải di chuyển rất nhiều, qua lại giữa Atlanta, Bắc Carolina và New York để khớp nối các câu chuyện về con đường tiến thân đến đỉnh cao quyền lực của Ross Johnson. Chúng tôi làm việc độc lập, trừ khi có các cuộc phỏng vấn quan trọng với chính Johnson, đã có các cuộc phỏng vấn dài không chính thức ở Atlanta và Manhattan, có thêm bánh pizza và nước ngọt. Khi đang viết sách, chúng tôi đã lo rằng câu chuyện về RJR sẽ bị lu mờ bởi một số thương vụ đình đám hơn, khắc nghiệt hơn. Giữa những kẻ tập kích công ty, các nghệ sĩ LBO và những nhà tài phiệt đầu tư vào trái phiếu rác, toàn bộ giới kinh doanh của những năm 1980 như phát điên. Những cuộc đột kích man rợ diễn ra sau Bọn rợ rình trước cổng có thể làm cho trận chiến RJR từ bản anh hùng ca chỉ còn là vài dòng chú thích. (Đó là lý do tại sao Harper muốn ra mắt cuốn sách thật nhanh.) Chúng tôi đã sẵn sàng cho ngày đen tối đó, nhưng nó không bao giờ đến. Hóa ra cuộc chiến giành RJR vừa xác lập và kết thúc một kỷ nguyên. Trong gần một thập kỷ sau đó, vụ trúng thầu trị giá 25 tỷ đô-la của KKR vẫn được xem là thương vụ lớn nhất mọi thời đại. Có một số yếu tố kết hợp với nhau làm giảm quy mô của các giao dịch trong vài năm. Cỗ máy kiếm tiền siêu đẳng đằng sau LBO - trái phiếu rác - đã ngắc ngoải, và có lúc gần như dừng hoạt động. Mike Milken bị bắt giam; Drexel Burnham phá sản, và trong thời kỳ suy thoái đầu thập niên 1990, các công ty ốm yếu sử dụng đòn bẩy quá mức đã gây tiếng xấu cho LBO. Henry Kravis thôi không nhòm ngó các cuộc chơi lớn nữa. Ông ta còn bận với việc chăm sóc sức khỏe và ăn uống - cũng như chuyện nợ nần của RJR. Những ngôi sao khác của Phố Wall trong thập niên 1980, những kẻ từng chinh chiến để giành lấy RJR đã kiêu ngạo quá mức và trở nên quá đỗi nhạt nhòa. John Gutfreund bị hất cẳng vào năm 1991, khi đang là chủ tịch của Salomon Brothers, sau một vụ bê bối giao dịch trái phiếu kho bạc. Chủ tịch Tom Strauss cũng phải từ chức. Ông này từng tham gia với Peter Cohen trong vụ nhập nhèm ở một quỹ phòng hộ. Những người khác cũng chuyển sang các công ty quản lý quỹ, bao gồm Tom Hill ở tập đoàn Blackstone và Steve Waters ở một quỹ đầu tư tư nhân của châu Âu có tên Compass Partners. Nhân vật duy nhất nổi lên như một ngôi sao trong vụ Bọn rợ rình trước cổng là Steve Goldstone. Vị luật sư từng làm cho Ross Johnson cuối cùng đã trở thành CEO của RJR Nabisco. Nhưng ngay cả việc Goldstone leo lên được vị trí này cũng chủ yếu nhờ sự sụp đổ của công ty hùng mạnh một thời. Năm 1999, ông bán Nabisco cho Phillip Morris, thoái vốn khỏi hoạt động kinh doanh thuốc lá quốc tế của RJR, và đưa công ty trở lại điểm xuất phát: một công ty thuốc lá Mỹ có trụ sở tại Winston-Salem, Bắc Carolina. Kohlberg Kravis đã rời khỏi RJR ngay sau đó, với những khoản lợi nhuận khiêm tốn. Nhưng ngay khi những sát thủ Phố Wall của thập niên 1980 lặng lẽ lùi dần vào sau ánh hoàng hôn, họ đã mở ra buổi bình minh của thập niên 1990 thậm chí còn hỗn độn hơn. Ban đầu, các CEO của Mỹ bị sốc và kinh hoàng bởi những gì bọn rợ đã làm, nhưng cuối cùng lại theo chân họ. Từ vụ RJR, họ đã hiểu những gì mà những kẻ giàu sụ dễ dàng kiếm được. Họ bắt đầu lao vào giành lấy phần của mình. “CEO của các tập đoàn đã học được hai điều từ các vụ LBO,” Dick Beattie, người vẫn tiếp tục với các thỏa thuận lớn cho đến những năm 1990, nói. “Trước tiên, cách để có một khối tài sản kếch xù là thông qua sở hữu cổ phần, chứ không phải là dựa vào tiền lương và tiền thưởng, và thứ hai, anh không cần phải làm LBO mới có trong tay cổ phiếu. Anh có thể cho mình quyền mua bán cổ phiếu. Với cách làm phổ biến đó, các CEO của những năm 1990 đã thu về bộn tiền khiến Ross Johnson phải bối rối và lây lan tính tham lam trên cả Phố Main* lẫn Phố Wall. Tính tham lam đó thậm chí còn lây lan đến cả những công ty kế toán vốn ù lì, nay biến thành các công ty tổ chức sòng bạc hơn là làm công việc kiểm toán. “Lỗi là ở các nhân viên ngân hàng đầu tư,” Paul Volcker gào lên. Ông là cựu Chủ tịch Fed, người đã rất nỗ lực giải cứu Arthur Andersen nhưng bất thành trong một vụ bê bối gây nhiều tranh cãi. Lúc ông mới đến Phố Wall vào đầu năm 2002, những tay đầu cơ cổ phiếu ở đây đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đám đông nhân viên kiểm toán thường đội mũ lưỡi trai màu xanh lá cây để che nắng này*. Volcker kể lại: “Các kế toán viên cảm thấy thế này: ‘Chúng ta cũng giỏi như bọn họ, và chúng ta đang làm mọi việc.’ Bầu không khí bao trùm nơi đây là: ‘Tiền ở đó, đến mà lấy.”’ Hãy gọi đó là “chiến thắng của bọn rợ” cho đó là lý do để cuốn sách này vẫn mãi liên hệ đến những con người của hiện tại. Các CEO khét tiếng ngày nay như Dennis Kozlowski và Bernie Ebbers thực sự là những phiên bản Ross Johnson thời hiện đại. Họ đã phát triển những gì mà ông tiên phong: CEO chỉ là những kẻ tư lợi, không phải là người của công ty. Các CEO như những tay giang hồ liều lĩnh và là những kẻ trơ tráo tước đoạt tài sản của công ty. Chỉ khác là các thương vụ họ thực hiện ở quy mô, tầm vóc lớn hơn, trong thị trường bò (bull market) và thời kỳ bong bóng công nghệ của những năm 1990, khi số cổ phiếu và lượng tiền chiếm đoạt lớn hơn rất nhiều. Ngay cả những kẻ bất tài như Henry Samueli và Henry Nicholas, đồng chủ tịch của một công ty có tên Broadcom, cũng thu về mỗi người 800 triệu đô-la lợi nhuận. Họ bán cổ phiếu thưởng lấy tiền mặt khi ngành viễn thông vẫn còn đang “nổi”. So với số tiền đó, chiếc dù vàng đáng xấu hổ một thời trị giá 53 triệu đô-la của Ross Johnson vẫn còn là ít. Nhưng ngay cả khi có các thương vụ đã vượt qua Bọn rợ rình trước cổng về quy mô tiền mặt, chúng cũng không được dựng thành phim. Và nguyên nhân không nằm ở tài năng của các tác giả, có Chúa mới biết. Đó là vì trong sáu tuần chinh chiến vào năm 1988 đó, khi một nhóm các ông trùm kinh doanh mới phất lên giành giật quyền sở hữu một công ty lớn và trở thành những ông chủ lớn thống trị Phố Wall, trật tự hoàn hảo của thế giới mới đã được thiết lập. Hệ tư tưởng của một thời đại đã được thể hiện đầy đủ trong cuộc chiến giành RJR: những cảm xúc thô thiển xung đột kịch liệt với tính tự cao tự đại: cốt truyện không hề bị méo mó và các nhân vật lại càng không. Các tác giả khác đã cùng viết nên những cuốn sách đáng tự hào, những thiên tiểu thuyết về kinh doanh. Cuốn Indecent Exposure (tạm dịch: Để lộ âm tàng) của David McClintick là khuôn mẫu cho tất cả chúng ta, nhưng không có cuốn sách nào lại đặc biệt với nhiều tư liệu rùng rợn đến vậy. Chúng tôi viết về những nhân viên ngân hàng đầu tư vừa nuốt vội bánh Milk Bone, vừa chạy như bay đến khu trung tâm Manhattan, hạ giá thầu vào phút cuối. Chúng tôi viết về một CEO, người có con chó được sắp xếp bay trên một chiếc máy bay phản lực với khẩu hiệu sống: “Cứ mỗi giây qua đi, vài triệu đô-la lại trở thành quá khứ xa vời.” Chúng tôi mãi mãi biết ơn họ đã cho chúng tôi nguồn tư liệu quý để viết nên cuốn sách này. Bạn không thể cảm nhận được điều đó đâu. Mời các bạn đón đọc Bọn Rợ Rình Trước Cổng: Mua Lại Có Đòn Bẩy Và Thương Vụ Đình Đám RJR Nabisco của tác giả Bryan Burrough & John Helyar & Hoàng Thị Ngọc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cư Kỉnh
Văn học nghệ thuật của một đất nước thì mang những đặc trưng riêng của đất nước đó. Tuy nhiên trong quá trình phát triển văn học nghệ thuật cũng chịu những tác động của các yếu tố bên ngoài, vì thế khi thì nó phát triển theo con đường đúng đắn, có khi lại đi lệch hướng. Và sự lệch lạc đó trong văn học nghệ thuật nó cũng gây những tác động tiêu cực tới nếp sống và cách suy nghĩ của con người. Trong tiểu thuyết “Cư kỉnh” tác giả Hồ Biểu Chánh đã nói lên được thực tế đó ở Việt Nam thời gian đầu thế kỷ XX. Nhân vật Chí Cao trong “Cư kỉnh” là một điển hình cho sự băng hoại đạo đức của một bộ phận trí thức thế kỷ XX. Chí Cao – một tiểu thuyết gia tên tuổi được nhiều độc giả biết tới, nhưng anh đã lợi dụng văn chương để làm u muội và lừa gạt tình cảm độc giả của mình. Cuối cùng anh đã phải trả giá cho những việc không tốt mà anh đã gây ra. Với cách hành văn giàu chất Nam Bộ, lối nói nhẹ nhàng thủng thỉnh, ngôn từ giản dị, trong khoảng hơn năm mươi trang nội dung Hồ Biểu Chánh đã cho ta thấy được phần nào sự phát triển văn học Việt Nam thời kỳ đầu của thế kỷ XX và sự suy đồi nhân cách của một bộ phận trí thức thời kỳ đó. Tiểu thuyết giàu giá trị phê phán đồng thời cũng giúp ta sáng tỏ một chân lý sống: Gieo nhân nào thì hái quả đó, gieo gió thì phải gặp bão. Vì thế mà Chí Cao lừa gạt tình cảm của cô Túy đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Tiểu thuyết của ông, gồm hơn 60 quyển, chủ yếu xoay quanh các vấn đề đạo đức, nhân nghĩa, tình đời bị cuốn trôi, bị xen lẫn, phải vùng vẫy trong làn hương mê muội của tiền bạc. Đọc về Nam Bộ xưa là tiếp xúc với những ngôn từ có phần chân quê, lạ lẫm thêm cách nói chuyện hưỡn đãi, nhưng cũng không kém phần tinh tế vì những khía cạnh của một câu chuyện tưởng như chân chất bình thường lại được xoáy vào ở mọi góc cạnh, và bất giác khiến ta giật mình khi những gai góc của nó lộ ra. Đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, cũng là một bước nhìn lại quá khứ, không phải của tôi, mà là của con người, của thiên hạ, đế thấy con tạo xoay vần, nhân gian biến đổi, nói thiệt, không khỏi có chút chạnh lòng. *** Chủ bếp hầu đang ngồi lim dim ngoài cửa, trông cho mau được về trại ăn cơm, thình lình tên Tú bước vô đưa phong thơ của ông Huyện và mượn trình liền cho quan lớn. Chủ bếp thấy quan lớn đang viết nên lấp ló không dám vô. Cách một hồi, quan Chủ quận ngước lên thấy chú bếp thì hỏi: - Muốn chi đó, chú bếp? - Bẩm quan lớn, có thơ của ông Huyện hàm dặn đưa gấp cho quan lớn. - Đem vô đây. Quan Chủ quận lấy thơ mở ra xem, thì thấy thơ như vầy: "Kính bẩm quan lớn, Tôi kính bẩm cho quan lớn rõ: tôi mới nghe dường như trong nhà tôi có manh mối xa gần về vụ án mạng mà quan lớn đương tra xét đó. Tiếc vì tôi không có thể hỏi mà phân manh mối ấy được, vậy tôi cúi xin quan lớn vui lòng dời gót đến nhà tôi đặng tra xét tường tất cho ra chơn lý. Cúi xin quan lớn nhậm lời Huyện Hàm TÂN Kính bái thơ" Quan Chủ quận đọc thơ rồi ngài lắc đầu thở ra, thủng thẳng xếp thơ bỏ vào hộc tủ rồi đứng dậy bước ra cửa mà đi, không nói cho bà lớn hay, mà cũng không dạy bếp hầu đi theo. Bước vào cửa ngõ của ông Huyện Hàm Tân, quan Chủ quận thấy ông đương thơ thẩn trong vườn hoa, thì đi riết vô. Ông Huyện thấy quan Chủ quận đi một mình thì cũng bươn bả đón rước. Chủ khách chào nhau và dắt nhau đi vô nhà. Ông Huyện thấy một tên bạn làm vườn đang lui cui nhổ cỏ gần đó thì kêu mà biểu nó đi mời Hương quản. Quan chủ quận thì nghiêm nghị, còn ông Huyện thì tư lự, cử chỉ ấy làm cho cuộc hội diện chiều nay đã không vui vẻ, mà còn có không khí nặng nề khó chịu. Quan chủ quận vừa ngồi, thì bà Huyện ở trong bước ra chào, nét mặt quyết đoán chớ không có vẻ buồn lo. Quan Chủ quận không nói tới việc ngài mới đọc trong thơ, có ý nhường cho ông Huyện khởi đầu, đặng dọ coi việc nhà của ông Huyện chuyển biến ra thể nào. Công việc đến đây, dường như ông Huyện hối ngộ sự ông viết thơ mời quan Chủ quận. Ông ngó bà với cặp mắt buồn hiu và ngồi im lìm không nói chi hết. Biết chủ nhà khó mở miệng, và quyết đem sự tín nhiệm để thay sự ngần ngại ấy, quan Chủ quận mới chẫm rãi hỏi ông Huyện: - Ông Huyện nghe việc chi mà ông nói vụ án mạng dường như có manh mối? Câu hỏi ấy dường như xô đẩy ông Huyện bước tới, lại cũng chặn đường không cho ông thối lui, bởi vậy ông ngó bà rồi thủng thẳng nói: - Bẩm quan lớn, việc đó như vầy: hồi sớm mơi nầy tôi nghe người ta nói kín cho tôi biết lúc vợ chồng tôi đi Sài Gòn ở trển 10 bữa, thì ở nhà một đêm nọ, lối 10 giờ, có bóng người mặc đồ trắng, không rõ đàn ông hay đàn bà, ở phía sau vườn tôi vạch rào chỗ đám trầu mà qua bên vườn Chí Cao rồi hơn một giờ sau cái bóng ấy trở lại. Đêm sau cũng thấy như vậy nữa, mà lần nầy bên vườn Chí Cao lại có thêm một cái bóng nữa, hai bóng lần lần đi vô nhà Chí Cao, đến gần sáng mới trở ra tới rào, rồi một cái đi qua bên vườn của tôi.    Mời các bạn đón đọc Cư Kỉnh của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Đứa Con Gái Hoang Đàng
"Tiếp nối cuốn tiểu thuyết nổi tiếng HAI SỐ PHẬN về William Kane và Abel Rosnovski, Đứa con gái hoang đàng là một câu chuyện được chắp bút của thế hệ tiếp theo. Câu chuyện đầy trớ trêu, trắc trở nhưng đầy nhân văn. TƯƠNG LAI CỦA CÔ LÀ THAM VỌNG Florentyna Rosnovski – con gái Abel – với một ý chí sắt đá di truyền từ người cha, cô quyết tâm theo đuổi mục tiêu và lý tưởng của mình, đó là trở thành nữ Tổng thống Mỹ đầu tiên. Tuy thế, cuộc đời của cô, cũng giống như người cha của mình, cũng gặp vô cùng nhiều trắc trở mà người phụ nữ tham vọng này nhất định phải vượt qua. Với hình tượng được lấy cảm hứng từ những nhân cách lớn như “bà đầm thép” Margaret Thatcher, Golda Meer, hay Indira Gandhi, Jeffrey Archer đã trả lời cho độc giả những câu hỏi về cuộc đời và số phận, về ý nghĩa của cuộc sống này. Vượt qua cơn giông tố, vươn đến những vì sao chính là thông điệp mà cây bút tài ba muốn truyền tải." 3. Ý NGHĨA NHAN ĐỀ Tiểu thuyết Đứa con gái hoang đàng được dịch từ tên gốc The Prodigal Daughter. Cái tên này được Jeffrey Archer đặt theo một Dụ ngôn trong Kinh Thánh – The Prodigal Son. Ở Việt Nam, tích này được biết đến với cái tên Người con hoang đàng, hay Đứa con hoang đàng trở về. Cách đặt tên này tạo ra một sự kết nối chặt chẽ vói phần 1 – Hai số phận. Tiểu thuyết Hai số phận với tên gốc là Kane and Abel – vốn dĩ cũng là một biến thể của Cain and Abel – một Dụ ngôn khác trong Kinh Thánh. 4. SỨC HẤP DẪN CỦA CUỐN SÁCH ĐỐI VỚI ĐỘC GIẢ “Một trong mười nhà văn có tài kể chuyện hay nhất thế giới.” – Los Angeles Times “Mạch truyện nhanh và lôi cuốn.” – Library Journal “Một bậc thầy trong việc pha trộn các yếu tố quyền lực, chính trị và danh vọng vào trong một cuốn tiểu thuyết.” – Entertainment Weekly “Một người kể chuyện ở đẳng cấp của Alexander Dumas, với kỹ năng vượt trội, Archer khiến độc giả không ngừng tự hỏi điều gì đang đón đợi phía trước.” – Washington Post *** THÔNG TIN VỀ SERIES “KANE VÀ ABEL” Series về Kane và Abel của Jeffrey Archer xoay quanh những nhân vật của gia đình Rosnovski và Kane. Phần một với nhan đề Kane and Abel được xuất bản với tên tiếng Việt Hai số phận đã và đang là một cuốn sách bán chạy bậc nhất tại Việt Nam. Cuốn sách nói về William Kane và Abel Rosnovski – hai người anh em nhưng lại sinh ra ở hai hoàn cảnh trái ngược; cuốn sách là một câu chuyện cảm động về hành trình đi lên và vượt qua những thử thách. Đứa con gái hoang đàng (The Prodigal Daughter) tiếp nối câu chuyện giữa hai gia đình, có thể nói đây là phần hậu truyện của Hai số phận, cuốn sách nói về cuộc đời và số phận của thế hệ thứ hai, cụ thể hơn là Florentyna Rosnovski – con gái của Abel, khi gia đình Rosnovski đã định cư tại Mỹ. Và cuối cùng là phần 3 – Bà Tổng Thống Trước Họng Súng (Shall we tell the President), tiếp nối câu chuyện dang dở của Đứa con gái hoàng đàng. *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/4/1940) là một tiểu thuyết gia người Anh, cựu chính trị gia và là người tiên phong trong làng tiểu thuyết Anh Quốc. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ông ghi dấu ấn với rất nhiều tiểu thuyết nổi tiếng, có thể kể đến : Hai số phận, Đứa con gái hoang đàng và các cuốn cùng series Biên niên Clifton: Chỉ thời gian có thể cất lời, Tội lỗi của người cha, Bí mật sâu kín nhất… Ông được mệnh danh là một trong những nhà văn có tài kể chuyện hay nhất. Tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Kẻ Mạo Danh - Jeffrey Archer Ấn Tượng Sai Lầm - Jeffrey Archer Quyền Lực Thứ Tư - Jeffrey Archer Bước Ngoặt Trong Câu Chuyện - Jeffrey Archer Hai số phận - Jeffrey Archer Luật Giang Hồ - Jeffrey Archer Điều Lệnh Thứ 11 - Jeffrey Archer Vượt Lên Hàng Đầu - Jeffrey Archer Chỉ Thời Gian Có Thể Cất Lời Tội Lỗi Của Người Cha Không Hơn Một Xu Không Kém Một Xu Bà Tổng Thống Trước Họng Súng ... *** Nếu đã yêu thích “Hai Số Phận”, chắc chắn bạn cũng sẽ yêu thích phần hai mang tên “Đứa Con Gái Hoang Đàng”. Bởi nó cũng cuốn hút và hấp dẫn như tập truyện trước đó, cũng như có cả những sắc thái riêng. Hai Số Phận là một trong những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng và được yêu thích của nhà văn Jeffrey Archer. Câu chuyện xoay quanh William Kane và Abel Rosnovski, hai con người có cùng ngày tháng năm sinh, nhưng xuất phát điểm khác nhau. Nếu William Kane sinh trưởng trong sự giàu có, thì Abel Rosnovski lớn lên trong nghèo khổ. Cuộc đời của họ vô tình mà đan xen lẫn nhau, với bao hạnh phúc và thăng trầm, oán thù và lòng biết ơn, mang đến bao cảm xúc mạnh mẽ dội thẳng vào người đọc cho đến tận trang cuối cùng. Đứa Con Gái Hoang Đàng được biết đến là phần tiếp theo của Hai Số Phận. Nhân vật chính của phần này là Florentyna Rosnovski, cô con gái của Abel Rosnovski. Cũng giống như cha mình, cuộc đời của Florentyna trải qua nhiều thử thách, thăng trầm trắc rở, ngay cả khi tuổi thơ của cô ấm no hơn của cha mình. Có lẽ đó là số phận của những người sẽ leo lên tới đỉnh, ai cũng phải trèo qua rất nhiều trở ngại để đến được đích. Được nói đến là phần tiếp theo của Hai Số Phận, Đứa Con Gái Hoang Đàng gợi nhớ đến tinh thần của cuốn tiểu thuyết trước đó, đặc biệt là qua sự kế thừa giấc mơ và ý chí của Florentyna từ người cha Abel. Nhưng ngay cả khi chưa đọc Hai Số Phận, người đọc cũng sẽ nắm được cốt truyện của Đứa Con Gái Hoang Đàng. Jeffrey Archer không hổ danh là một trong những nhà văn có tài kể chuyện hay nhất. Kết cấu cuốn tiểu thuyết chặt chẽ, đầy ắp các tình tiết, những chi tiết nhắc lại và những chi tiết mở rộng được sắp xếp mượt mà để độc giả mải cuốn theo chúng. Và rồi khi đang mải mê như thế, Jeffrey Archer sẽ tạo ra những cú rẽ khiến người ta không thể không sửng sốt, bất ngờ, cảm thán nhưng không thể ngừng đọc. Theo dõi từng trang Đứa Con Gái Hoang Đàng là theo dõi từng bước chân của Florentyna Rosnovski. Khi Florentyna còn bé, cô từng có một chú gấu bông Franklin D. Roosevelt - cựu Tổng thống Mỹ, bập bẹ từ đầu tiên là “Tổng tống” (“Tổng thống” - cô bé lúc này vẫn phát âm chưa rõ). Và rồi khi lớn lên, cô muốn trở thành chú gấu bông đó, trở thành một Tổng thống. Jeffrey Archer dành nhiều bút lực để miêu tả cuộc đời của Florentyna từ lúc mới sinh ra, trở thành thiếu nữ, cho đến ngày cô theo đuổi giấc mơ trở thành Tổng thống. Vẫn là một nhân vật giàu ý chí và nghị lực, nhưng khác với câu chuyện của cha mình là Abel, câu chuyện của Florentyna mang dáng dấp của nữ quyền - nơi giới tính không quyết định ý chí và sức mạnh của người mang một giấc mơ lớn. Ở Florentyna, độc giả thấy hình ảnh của những “bà đầm thép” như Margaret Thatcher - cựu Thủ tướng Anh hay Indira Gandhi - cựu Thủ tướng Ấn Độ… nhưng đồng thời vẫn khá gần gũi. Không chỉ có những giấc mơ lớn cùng ý chí đáng ngưỡng mộ, Đứa Con Gái Hoang Đàng còn mang đến những mảnh ghép khác của cuộc đời Florentyna. Đó là mái ấm gia đình đầy vững chãi - dù không thể tránh được những lúc bất đồng, đó là sự thấu hiểu và chắp cánh của một cô gia sư tận tụy. Và tình bạn - bắt đầu từ tranh đua, rồi trở thành sẻ chia hỗ trợ; dĩ nhiên không thể thiếu tình yêu - điều đã khiến Florentyna thăng hoa, thậm chí đau khổ, nhưng chưa bao giờ ngừng hạnh phúc. *** “Tổng thống Hoa Kỳ.” Cô gái nhắc lại. “Ba có thể nghĩ ra một lí do đáng giá hơn cho việc tự làm mình phá sản đấy.” Người cha vừa nói vừa tháo chiếc gọng kính nửa vầng trăng trên đầu mũi và nhìn chăm chú cô con gái từ phía trên tờ báo đang đọc. “Ba đừng phi lý vậy chứ. Tổng thống Roosevelt đã chứng minh với chúng ta rằng không có sự cống hiến nào vĩ đại hơn việc phục vụ cộng đồng đó thôi.” “Điều duy nhất mà Roosevelt đã chứng minh là...” Người cha cất lời, rồi ông ngừng lại và quay trở về với tờ báo của mình khi nhận ra cô con gái có thể nghĩ lời nhận xét của ông là đùa giỡn. Cô gái tiếp tục câu chuyện bởi rất muốn biết điều gì đang diễn ra trong đầu cha mình. “Con nhận thấy là mọi việc sẽ vô nghĩa nếu con theo đuổi những đam mê như thế mà không được ba ủng hộ. Vấn đề giới tính của con đã thừa đủ rắc rối mà không cần thêm sự bất lợi bởi việc có xuất thân là người Ba Lan đâu.” Tờ báo ngăn giữa người cha và cô con gái đột ngột bị hạ xuống. “Đừng bao giờ nói một cách khinh thường như vậy về người Ba Lan.” Ông nói. “Lịch sử đã chứng minh chúng ta là một dân tộc đáng tự hào với những con người chưa bao giờ nuốt lời. Ba của ta từng là một Nam tước...” “Vâng, con biết. Đó cũng là ông nội của con còn gì, nhưng ông làm gì có ở đây để giúp con trở thành Tổng thống.” “Điều đó lại càng đáng tiếc hơn” cha cô thở dài, “bởi vì ông chắc chắn sẽ trở thành một nhà lãnh đạo tuyệt vời cho cộng đồng chúng ta.” “Thế sao cháu gái ông lại không nên làm điều đó cơ chứ?” “Chẳng tại sao cả.” Abel nói và nhìn xoáy vào đôi mắt màu xám kim loại của đứa con độc nhất. “Vậy thì ba à, ba sẽ ủng hộ con chứ? Bởi vì con không hi vọng thành công nếu không có sự hỗ trợ tài chính của ba.” Người cha lưỡng lự đôi chút trước khi trả lời. Ông đặt gọng kính lên mũi và chậm rãi gập tờ Chicago Tribune1 lại. “Ba sẽ có một thỏa thuận với con, con yêu xét cho cùng thì chính trị cũng chính là những chuyện như vậy. Nếu kết quả của cuộc bầu cử cơ sở tại New Hampshire chuyển sang hướng có lợi, cha sẽ ủng hộ con hết khả năng. Ngược lại, con phải dẹp bỏ ngay ý tưởng đó đi.” “Ba định nghĩa hướng có lợi là thế nào?” Ngay lập tức cô con gái đáp lời. Một lần nữa, người đàn ông lại do dự, cân nhắc những lời nói của mình. “Nếu con thắng cuộc bầu cử cơ sở, hoặc giành được hơn 30% số phiếu bầu, ba sẽ đi với con đến vòng bầu chọn nội bộ Đảng cho vị trí ứng viên Tổng thống, ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc ba sẽ khánh kiệt.” Cô gái thả lỏng người lần đầu tiên trong suốt cuộc nói chuyện. “Cảm ơn ba. Con không đòi hỏi gì hơn thế được nữa.” “Không, tất nhiên là không rồi” ông đáp lại. “Giờ thì ba có thể quay lại với việc tìm hiểu xem làm thế nào mà The Cubs2 lại có thể để thua trận thứ bảy trong mùa giải bởi The Tigers3 được chưa?” “Họ là đội yếu nhất, không còn nghi ngờ gì nữa, với cái kết quả thua tận 9-3.” “Quý cô trẻ tuổi à, con có thể cho rằng mình biết một, hai điều gì đó về chính trị, nhưng ba có thể khẳng định với con là con chẳng biết chút gì về bóng chày cả.” người đàn ông nói trong khi mẹ cô gái bước vào phòng. Ông quay thân hình nặng nề của mình về phía vợ. “Con gái chúng ta muốn chạy đua vị trí Tổng thống Hoa Kỳ đấy. Em thấy điều đó thế nào?” Cô gái ngẩng lên nhìn mẹ, háo hức đợi câu trả lời. “Em sẽ nói cho anh điều em nghĩ nhé” người mẹ trả lời. “Em nghĩ là đã quá giờ đi ngủ của con bé rồi, và đấy là lỗi của anh vì đã cho phép nó thức khuya như vậy.” Abel nhìn đồng hồ. “Em nói đúng.” Ông thở dài. “Về giường ngủ thôi, bé con.” Cô gái đến bên cạnh cha, hôn lên má ông và thì thầm. “Con cảm ơn ba.” Ánh mắt người đàn ông dõi theo bước chân của cô con gái mười một tuổi lúc cô bé rời khỏi phòng và ông nhận thấy những ngón tay trên bàn tay phải của cô đang nắm lại với nhau, tạo thành một nắm đấm nhỏ và chặt, một điều mà cô bé luôn làm khi tức giận hoặc quyết tâm. Ông tin rằng cô đang có cả hai cảm xúc đó lúc này, nhưng ông biết là sẽ vô ích nếu cố gắng giải thích cho Zaphia – người vợ của mình – rằng đứa con duy nhất của họ không phải người tầm thường. Abel lâu nay đã từ bỏ cố gắng làm cho vợ có cùng đam mê với mình, và ít nhất hãy cảm ơn Chúa là bà ấy cũng không can thiệp sâu vào sở thích của con gái họ. Ông quay lại với tin tức về đội bóng Chicago Cubs cùng thất bại của họ ở mùa giải này, và phải thừa nhận đánh giá của con gái ông có lẽ là đúng trong chủ đề này. Florentyna Rosnovski không đề cập đến cuộc đối thoại ngày hôm đó thêm một lần nào nữa trong suốt hai mươi hai năm sau, nhưng khi cô nhắc lại chuyện này, cô cho rằng cha mình sẽ thực hiện phần của ông trong thỏa thuận giữa họ. Xét cho cùng, như cách ông luôn nhắc nhở cô, người Ba Lan là một dân tộc đáng tự hào với những con người chưa bao giờ nuốt lời. Mời các bạn đón đọc Đứa Con Gái Hoang Đàng của tác giả Jeffrey Archer.
Hai Đời Chồng
Quảng Ninh trời trở lạnh, tôi đi con xe máy cà tàng về đến sân nhà mà toàn thân cũng run như cầy sấy. Vừa bước đến cửa đã nghe tiếng mẹ tôi rít lên: - Hôm nào cũng như hôm nào, đi đĩ hay sao mà khuya khoắt giờ này mới về, tiền tháng này có tăng được xu nào không mà bày đặt đi sớm về khuya? Tôi mím chặt môi, những câu chửi từ một người mẹ sao tàn nhẫn như mũi kim đâm vào tim mà dù đã quen thuộc tôi vẫn không khỏi xót xa. Mẹ thấy tôi không nói, đập mạnh chén trà xuống dưới bàn ném cả chùm chìa khoá vào mặt tôi rồi dậm chân thình thịch bước lên cầu thang. Tôi đứng nhìn mẹ đi khuất sau mới dám đóng cửa nhẹ nhàng sau đó bước xuống bếp. Trong bếp lạnh tanh, chỉ có chút cơm nguội và vài ba con cá khô còn không được đạy lại cẩn thận. Nhìn vào thùng rác, lòng tôi khẽ nhói lên, xương gà, vài sợi miến rớt rơi cũng đủ hiểu hôm nay cả nhà có bữa ăn thịnh soạn thế nào. Sống mũi tôi cay cay, cầm bát cơm khô khốc mà nuốt cũng không trôi. Đột nhiên đằng sau có tiếng động nhẹ, vừa quay lại chợt thấy chị Linh cầm chiếc đùi gà luộc ấn vào bát cơm của tôi khẽ nói: - Ăn đi, chị giấu mãi mới không bị phát hiện đấy. Sao hôm nay về muộn thế? Chị Linh là chị gái ruột tôi, chị đang học đại học năm cuối, từ nhỏ đã được ba mẹ xem như bảo bối. Nhiều lúc tôi cũng rất ganh tỵ, cũng thường tự hỏi vì sao cùng là con mà chị được yêu thương, được đi học đại học, được sống như một cô công chúa còn tôi lại bị mẹ ghét đến vậy. Thế nhưng có nói thế nào cũng không thể phủ nhận rằng trong nhà này chỉ có chị là thương tôi. Trước kia bà nội còn ở đây, bà rất hay bênh tôi có điều bà và mẹ tôi khắc khẩu, sau một trận cãi vã lớn bà đã về quê sống. Chị Linh thấy tôi ngây người liền đẩy đẩy nhẹ vai tôi: - Này ăn đi chứ muộn quá rồi đấy hay định đợi đêm mới ăn? Tôi bật cười nhận lấy miếng đùi gà gặm khẽ hỏi lại: - Chị về từ lúc nào đấy? Lần này chị về lâu không? - Chị về từ trưa rồi mà xe hôm nay đi chậm quá hơn năm tiếng mới đến nhà, lần này về thực tập sáu tháng cơ. Mà sao em đi làm muộn thế? Đông khách lắm à? - Dạ vâng, trời trở lạnh mà nhà hàng lại mới có thêm món nướng lẩu nên đông lắm. - Làm gì thì làm nhớ chú ý giữ gìn sức khoẻ đấy. Chị lên phòng trước đây, ăn xong thì lên tắm rồi lên ngủ nhé. Tôi gật đầu, nhìn theo bước chị rồi nhanh chóng ăn vội phần cơm, rửa bát sau đó bước vào phòng tắm. Bình nóng lạnh được mẹ tôi quy định chỉ bật đến tám giờ tối, cũng may nước lúc này vẫn hơi ấm, tôi tắm vội rồi đi lên tầng. Bên trong phòng ngủ của ba mẹ có tiếng mẹ tôi cằn nhằn, chửi rủa. Dù đã quen nhưng sao hôm nay tâm trạng tôi lại có chút xót xa. Có lẽ trời lạnh, chút dư vị đầu đông khiến tôi yếu đuối đến vậy. Lên đến phòng chị Linh đã ngủ, tin nhắn của Thắng gửi cho từ tối tôi chưa kịp đọc lúc này mới mở ra. Thế nhưng khi vừa chạm tay vào mình hình điện thoại Thắng đã gọi, tôi vội mở cửa nhà vệ sinh bước vào, đầu dây bên kia trọng trầm ấm cất lên: - Em về đến nhà chưa? Xin lỗi em hôm nay anh có cuộc họp về muộn quá không đưa đón em được. Nghe giọng áy náy của Thắng tôi bật cười đáp: - Xin lỗi gì chứ, ai cũng có công việc mà, vả lại anh đừng coi em là trẻ con như vậy. Em cũng đi làm hai năm rồi có ít đâu. - Thì trong mắt anh lúc nào em cũng trẻ con mà, Phương! Anh nhớ em quá, cuối tháng này anh sẽ đứa em về ra mắt ba mẹ nhé. Câu nói cuối cùng của Thắng khiến tim tôi như ngừng lại, mặc dù yêu nhau cũng đã hơn một năm nay, vậy mà mỗi lần anh nói lời ngọt ngào tôi lại như đứng cả tim. Chỉ có điều, trong lòng tôi lại dấy lên một nỗi bất an mơ hồ, một sự tự ti mà dù Thắng đã nói rất nhiều lần tôi vẫn không thể xua tan đi được. Thấy tôi im lặng, anh lại cất lời: - Sao vậy? Em không nhớ anh hả? - Em… em có… - Vậy nói với anh rằng em nhớ anh đi. - Em… em nhớ anh. Thắng bật cười, điệu cười nghe thôi cũng thấy ấm áp trong cái tiết trời lạnh lẽo này. - Phương, xong dự án này anh rảnh hơn rất nhiều, anh tính cả rồi. Năm sau em hai mươi mốt tuổi rồi, cưới về rồi anh sẽ mở cho em một nhà hàng nho nhỏ, em nấu ăn ngon như vậy, nhất định nhà hàng sẽ thành công. Sống mũi tôi đột nhiên cay xè, hai mươi mốt tuổi còn quá trẻ để lấy chồng nhưng với một đứa như tôi lại cảm thấy quá đỗi bình thường. Thắng vẽ tương lai đẹp quá, đẹp đến mức tôi cũng muốn gạt bỏ mọi thứ mà sống một lần vì bản thân. Phải rồi, Thắng không chê tôi cớ sao tôi lại cứ tự ti, cớ sao lại cứ phải sợ hãi, bất an? Đây không phải lần đầu Thắng đề nghị đưa tôi về ra mắt người lớn, trước kia mỗi lần anh nói ra tôi đều từ chối vì chưa đủ can đảm, nhưng có lẽ đến giờ tôi đã nhận ra mình nên có một gia đình nhỏ riêng rồi. Đêm hôm ấy tôi và anh nói chuyện rất lâu, đến gần sáng khi chị Linh dậy đi vệ sinh tôi mới vội vàng tắt máy rồi đi ngủ. Vừa bước vào giường chị Linh đã cất tiếng: - Người yêu gọi à? - À… - Sao? Đến chị mà em cũng giấu nữa hả? Khai đi, hắn ta làm gì? Bao nhiêu tuổi? Yêu em gái của chị phải vượt qua được bài kiểm tra của chị đấy. Tôi cười gượng gạo nhìn chị không đáp, chị thấy vậy cũng không hỏi thêm gì mà kéo chăn bấu nhẹ tôi một phát. Suốt đêm ấy tôi không chợp mắt nổi, nghĩ đến việc ra mắt ba mẹ Thắng lại hồi hộp vô cùng. Sáng hôm sau khi tôi vừa tỉnh dậy chị Linh cũng dậy đi nộp hồ sơ. Tôi vội vàng vệ sinh cá nhân rồi khoác chiếc áo mỏng đi xuống dưới. Bên phòng mẹ tôi có tiếng the thé cất lên: - Nấu ăn sáng cho cả nhà rồi đi đâu thì đi. Cả ngày đi hầu thiên hạ, chẳng được cái tích sự gì. Tôi không đáp xuống nấu một nồi bánh đa cua rồi lại tất tưởi lấy đồ đi làm. Khi vừa ra cổng chợt thấy Thắng bên kia đường chờ, thế nhưng không phải mình tôi nhìn thấy mà cả chị Linh cũng vừa hay bước ra. Thắng không để ý mà gọi tên tôi: - Phương! Chị Linh hơi dừng lại ở anh còn tôi đỏ mặt xấu hổ, dù sao nếu sau này lấy thì cũng phải biết nhưng lúc này tôi thật sự chưa đủ tự tin giới thiệu anh với gia đình. Tôi còn ngỡ chị Linh sẽ trêu tôi, thế nhưng không, chị hơi mỉm cười rồi bước lên con xe taxi đi thẳng. Thắng phóng xe lại gần đội chiếc mũ bảo hiểm lên đầu cho tôi khẽ hỏi: - Chị gái mà em hay nhắc đến đấy à? Mấy lần anh đến mà chưa gặp bao giờ nhỉ? - Chị ấy đi học đại học trên Hà Nội ít về, thôi đi đi không tí lại muộn giờ đấy anh. Thắng gật đầu, phóng chiếc xe thẳng đến nhà hàng của tôi làm rồi mới đến công ty. Tôi thay bộ quần áo rồi nhanh chóng bước vào trong. Công việc của tôi hằng ngày đều là dọn dẹp, đến trưa thì phụ bếp nấu nướng cho khách sau đó nghỉ một lát đến chiều lại tiếp tục như vậy. Nhà hàng này rất đông khách, lương cũng tương đối cao, tuy vất vả nhưng bù lại hàng tháng đều có thưởng cho nhân viên. Tôi vào lau lại cho sạch bàn ghế vừa nhìn ra tiết trời lạnh lẽo bỗng dưng tôi nghĩ đến Thắng, tôi và anh gặp nhau cũng ở nơi này, trong một lần anh cùng đối tác ăn cơm ở đây thế rồi không hiểu sao anh có số điện thoại của tôi mà gọi điện nhắn tin làm quen. Mãi sau này anh mới nói, khi anh đến nhìn thấy tôi đã như bị sét đánh không kìm được liền vội xin số từ cô bé nhân viên khác. Tôi cũng không hiểu sao anh thích tôi, tuy rằng tôi nhận thức được rằng mình cũng khá xinh xắn, thanh tú nhưng với một phó phòng nhân sự như anh... thực lòng mà nói tôi và anh có chút không tương xứng. Thắng tốt nghiệp đại học kinh tế Quốc Dân, nghe đâu bố anh làm bộ đội, mẹ anh làm giáo viên. Anh thực sự rất giỏi, ra trường mới chỉ ba năm đã được đề bạt lên phó phòng nhân sự. Trước kia khi mới yêu anh tôi rất tự ti, nhưng dần dần tôi nhận thấy việc bằng cấp cũng không quan trọng đối với anh, anh chưa bao giờ chê bai, coi thường tôi, thậm chí còn luôn động viên an ủi tôi rằng việc tôi bươn trải, đi làm sớm mà không học đại học không hề là con đường tồi tệ, xã hội hiện đại, nhiều người vẫn khởi nghiệp và giàu có mà không có bằng cấp. Mỗi lần anh nói vậy, tôi lại cảm thấy bản thân may mắn và tự tin hơn rất nhiều. Những ngày tiếp theo tôi vẫn đi sớm về khuya như vậy, mãi đến thứ hai tuần sau đó tôi được về sớm một hôm do có người thay ca của mình nên nhắn tin cho Thắng không cần đón. Thế nhưng khi chạy ra ngoài đã thấy anh chờ sẵn. Anh không đưa tôi thẳng về nhà mà lòng vòng vào một con hẻm nhỏ rồi đột nhiên ôm chặt lấy tôi khẽ thì thầm: - Phương, anh yêu em. Tôi nghe trong gió có mùi rượu hơi thoảng nhẹ, anh càng siết chặt, hơi thở có phần gấp gáp: - Mai anh đi công tác Đà Nẵng một tuần. Thực sự anh sợ nhớ em không chịu nổi mất. - Bình thường anh vẫn đi công tác đấy thôi, sao hôm nay lại yếu đuối thế? - Tôi vừa cười vừa vòng tay qua bờ ngực rắn chắc của anh Thắng cúi xuống, hôn lên môi tôi, gió rít từng cơn nhưng nụ hôn lại nóng bỏng khiến toàn thân tôi cũng không còn cảm nhận được hơi lạnh. Anh như điên như dại, đôi tay bất chợt mân mê luồn vào chiếc áo rồi chạm khẽ lên ngực tôi. Khi còn đang say đắm trong nụ hôn ngọt ngào, tôi chợt bừng tỉnh kéo tay anh ra lắp bắp: - Anh... nhỡ có người - Vậy... mình... mình đi nhà nghỉ nhé. Anh... anh muốn chúng ta là của nhau, đừng từ chối anh nữa được không? Đằng nào chúng mình cũng cưới nhau mà. Tôi nhìn ánh mắt cầu khẩn của Thắng, chợt thấy có lỗi, đấy là lần thứ en nờ anh đề nghị chuyện này. Có điều... lúc này đây bản thân tôi vẫn chưa đủ sẵn sàng cúi đầu áy náy đáp: - Em chưa sẵn sàng. - Sao lúc nào em cũng chưa sẵn sàng thế? Người ta yêu nhau còn chửa trước, đằng này chỉ là cho nhau thứ quý giá nhất, mai anh đi công tác cả tuần, chẳng lẽ em không chiều anh một chút được sao? Hay em không thực sự yêu anh? Không muốn lấy anh - Không phải, em chỉ muốn dành thứ tốt đẹp nhất đến đêm tân hôn. - Nếu thật sự yêu nhau, nếu thật sự xác định đến với nhau đêm nào chẳng là đêm tân hôn? Tôi ngước đôi mắt lên nhìn Thắng, trong một giây lát tưởng chừng mình sẽ mềm lòng cuối cùng tôi vẫn kiên định đáp: - Thắng! Em thực sự chưa đủ sẵn sàng, nếu thật sự yêu nhau thì chờ một chút cũng được mà đúng không anh? Thắng thở dài rồi nói: - Ừm! Lên xe đi anh đưa em về. Tôi biết anh còn chút giận tôi, suốt đoạn đường trên xe anh không nói với tôi thêm câu nào dù tôi hỏi anh rất nhiều, đến khi xuống xe anh cũng vội phóng đi luôn. Thực lòng tôi không trách anh, anh đã từng nói bọn trẻ giờ mười bảy mười tám đã đi nhà nghỉ ầm ầm, không phải tôi không có dục vọng, mà bởi tôi từng hứa với bà nội, hứa với bản thân rằng thứ quý giá nhất của đời con gái sẽ để dành trọn vẹn đêm tân hôn. Cả đêm ấy Thắng cũng không gọi cho tôi thêm cuộc nào, nhắn tin anh đã xem mà không trả lời. Tôi có chút buồn bã, trái tim lại khẽ nhói lên, anh là mối tình đầu của tôi, là người đàn ông duy nhất đối xử tốt với tôi liệu rằng tôi như vậy có cứng nhắc quá, liệu rằng tôi có sai hay không? Sáng hôm sau khi tôi vừa tỉnh dậy chợt thấy chị Linh không còn ở bên cạnh liền vội chạy xuống nhà. Có tiếng mẹ tôi oang oang cất lên: - Đấy ông xem, con Linh vừa đi thực tập là đã được sếp cho đi công tác, tôi nói rồi hai đứa con ông chỉ có con Linh là có tương lai thôi còn cái thứ báo cô kia thì làm được cái tích sự gì? Tôi không nghe được ba tôi trả lời cũng không muốn chấp mấy lời của mẹ mà kéo vội chiếc áo rồi xuống bếp nấu đồ ăn sáng. Cả ngày hôm ấy tôi như kẻ mất hồn chờ đợi một tin nhắn từ người yêu. Thế nhưng một giờ, hai giờ ba bốn giờ rồi đến một ngày, hai ngày, ba bốn ngày trôi qua Thắng vẫn không hề nhắn tin cho tôi. Dù biết bản thân nên giữ sĩ diện nhưng tôi vẫn không kìm được mà mỗi ngày đều đặn nhắn hỏi thăm anh. Vậy nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng, im lặng đến bản thân tôi cũng cảm thấy bất an mơ hồ. Trước kia khi tôi từ chối chuyện ấy anh cũng chưa từng lạnh nhạt với tôi như bây giờ, tôi đã cố tự nhủ là do anh bận nhưng những suy nghĩ rối ren cứ hiển hiện lên trong đầu. Thế nhưng cũng may cuối tuần Thắng gọi điện cho tôi, anh nói cả tuần nay anh bận dự án với đối tác nên không liên lạc được. Giọng anh hồ hởi như chưa từng có chuyện gì khiến tôi cũng cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Buổi tối hôm ấy Thắng lại đón tôi về nhà, còn mua cho tôi chút đồ ăn sau đó chở tôi về nhà. Có điều không hiểu sao tôi cứ thấy anh có chút khác khác mà không thể hiểu khác ở đâu. Những ngày tiếp theo Thắng bận bịu với công việc, tôi cũng vậy. Cuối tháng tôi nhận lương, định cùng anh đi ăn một bữa nhưng anh họp nên tôi lại trở về nhà. Vừa vào đến nơi mẹ tôi đã ngồi trên ghế bóng gió với ba tôi: - Cũng cuối tháng rồi ông nhỉ, tiền điện tiền nước hết cả triệu bạc, rồi ăn uống chi tiêu... Tôi hiểu ý mẹ, rút tập phong bì đưa cho bà nói nhỏ: - Tiền đóng góp tháng này của con, với lại tháng này con được thưởng cao hơn một chút nên con biếu ba mẹ một triệu, tuy ít... Khi còn chưa nói dứt lời mẹ tôi đã rít lên: - Biếu thì cũng vào phần ăn của chị, nghe biếu mà cứ như tôi bòn rút tiền ý nhỉ. Tôi sợ hãi nhìn mẹ, cứ tưởng tháng này dư thêm chút tiền thưởng biếu bà bà sẽ vui không ngờ lại nổi giận như vậy. Ba tôi thấy thế liền xua xua tay: - Thôi, bà cứ nghiêm trọng hoá vấn đề lên làm gì? Muộn rồi để nó vào ăn cơm. - Tôi nói không thiên hạ lại bảo tôi thế nọ thế kia... - Thiên hạ nào nói bà vậy chứ, bà cứ tự nghĩ tự suy diễn thế. Thôi con vào ăn cơm dọn dẹp đi Mẹ tôi không thèm nhìn, cầm một triệu với chiếc phong bì nhét vào túi rồi bỏ lên gác. Tôi khẽ thở dài, ăn uống tắm táp xong lên tầng nằm vật ra. Chị Linh hôm nay chưa về, tôi nằm chợt thấy tủi thân đến đau lòng. Rốt cuộc là tại sao mẹ luôn như vậy với tôi, cùng là con sao mẹ lại ghét bỏ tôi đến thế? Từ nhỏ mẹ chưa từng ôm tôi, chưa từng một lần nói mẹ yêu tôi, mỗi lần chị Linh sà vào lòng mẹ đều vuốt ve mái tóc chị, còn tôi tại sao mẹ lại đẩy ra xa? Đến lớn lên rồi tôi vẫn không hiểu, tôi đã làm gì sai với mẹ, rốt cuộc tôi có phải máu mủ ruột thịt mà mẹ sinh ra hay không? Sống mũi tôi cay xè nhưng rồi lại chẳng thể rơi nổi một giọt nước mắt nào, có lẽ khi còn nhỏ đã khóc quá nhiều, giờ đây tôi không còn thể rơi nước mắt vì những chuyện này nữa rồi. Càng ở đây càng ngột ngạt, tôi càng muốn được thoát khỏi căn nhà này, muốn được vẫy vùng. Những ngày tiếp theo Thắng vẫn chưa hết bận, cả ngày gần như anh không nhắn cho tôi một cái tin. Nỗi bất an trong lòng càng lúc càng lớn, mong muốn được cùng anh đường đường chính chính nên vợ nên chồng để ra khỏi căn nhà của chính mình cũng càng mãnh liệt. Thế nhưng tôi không thấy anh nhắc thêm gì đến việc ra mắt ba mẹ anh vào cuối tháng nữa, hỏi thì năm lần bảy lượt anh gạt đi nói rằng anh chưa sắp xếp được thời gian. Tôi tuy không học hành cao, nhưng không phải quá ngốc mà không nhận ra dường như sau lần từ chối của mình Thắng lạnh nhạt với tôi rất nhiều. Sau vài lần như vậy, cuối cùng tôi quyết định gặp anh để nói, lần này không còn như mọi khi, tôi vừa đề nghị anh liền nói: - Em muốn được gặp ba mẹ anh lắm à? Trước kia anh tưởng em ngại gặp họ chứ? - Không phải muốn hay không, mà anh nói cưới em thì cũng nên để em ra mắt chứ anh. Trước kia là do em chưa sẵn sàng nhưng giờ em sẵn sàng rồi. Thắng nhìn tôi rất lâu, anh đẹp trai thế này, giỏi giang thế này... tôi thực sự rất sợ mất anh. Tôi sợ rằng nếu cứ kéo dài tình cảm này sẽ bị nguội lạnh mất. Thắng cúi xuống khuấy li cafe rồi đáp: - Được, vậy em chuẩn bị đi, thứ bảy anh sẽ đưa em về nhà. Nói rồi Thắng chở tôi ra ngoài, trời tối, anh lại đưa tôi vào hẻm nhỏ. Lần này anh không đụng chạm mà nói luôn: - Anh muốn chúng ta là của nhau được chứ? Tôi nhìn anh, nếu tôi từ chối anh thêm lần nữa liệu anh có chán tôi không? Tôi thực sự rất sợ, tôi đã muốn gật đầu, đã muốn chiều anh, vậy mà giây phút cuối cùng tôi vẫn khẽ lắc. Thắng không nói gì chỉ cười nhạt kêu tôi lên xe chở tôi về nhà. Gương mặt anh không chút cảm xúc khiến tôi chênh vênh vô cùng. Không! Nhất định anh không phải là kẻ chỉ biết tình dục, nhất định anh yêu tôi là thật nếu không anh đã không chịu đưa tôi về ra mắt. Nghĩ vậy tôi cũng thấy lòng dễ chịu hơn. Sáng thứ bảy, tôi xin nghỉ việc một ngày, vì là nhân viên mẫn cán nên tất nhiên chủ cũng không làm khó dễ. Tôi mặc bộ quần áo sơ mi, trang điểm nhẹ nhàng rồi khoác thêm chiếc áo khoác cho đỡ lạnh. Vừa định bước ra cửa chị Linh liền hỏi: - Hôm nay em không đi làm mà đi đâu hả? Tôi nhìn chị Linh, mấy lần chị bắt gặp tôi với Thắng nên cũng không muốn giấu nữa mà đáp: - Hôm nay em về ra mắt người yêu. Chị Linh hơi khựng lại, đôi lông mày cong vút chau lại nhưng rồi chị bật cười nói: - Nhanh thế cơ à? Vậy mà không nói gì với cả nhà nhỉ? - Từ từ em sẽ nói mà, thôi em đi đây nha. Chị Linh gật đầu, xua tay ra hiệu tôi mau đi. Hôm nay Thắng không đón tôi, tôi tự bắt một chiếc xe ôm đến hàng hoa quả sạch mua một giỏ thật bắt mắt rồi theo địa chỉ đến nhà anh. Nhà Thắng ở trung tâm thành phố, cách nhà tôi không xa nhưng nhộn nhịp và sầm uất hơn rất nhiều. Thắng chờ tôi sẵn bên ngoài đầu ngõ rồi dẫn tôi vào, anh không nói gì nhiều chỉ đi trước, lần đầu tiên ra mắt thật khiến tôi hồi hộp đến nghẹt thở. Thế nhưng mấy lần trước Thắng đều nói ba mẹ anh rất hiền nên tôi cũng đỡ lo. Nhà Thắng không quá to nhưng sạch sẽ, đồ đạc lại bày trí rất đẹp. Tôi cầm giỏ hoa quả tháo giày rồi bước vào trong, ba mẹ anh ngồi trên ghế, vẻ mặt rất nghiêm trang, nghiêm trang đến mức tôi chào lớn họ cũng không đáp. Thắng nhìn ba mẹ rồi nói: - Dạ, đây là Phương, bạn con ạ. Ba anh kéo cặp kính lên, nhìn tôi chằm chằm, còn mẹ anh lạnh nhạt cầm tách trà hừ nhẹ một tiếng. Trong trí tưởng tượng của tôi ba mẹ anh ắt hẳn rất dễ gần, vui vẻ, hay nói thế nhưng bỗng dưng gặp thái độ này... tôi hụt hẫng như rơi từ trên tầng mây thứ mười tám xuống. Tôi khẽ đặt giỏ hoa quả lên bàn nhỏ nhẹ: - Dạ, lần đầu cháu đến cháu có chút hoa quả... Còn chưa kịp đặt lên bàn mẹ anh đã hắng giọng nói: - Ngồi đi Tôi hơi giật mình, buông vội giỏ hoa quả rồi ngồi xuống trước mặt bà. - Nghe nói cháu là người yêu thằng Thắng? - Dạ vâng thưa bác - Năm nay bao nhiêu tuổi? - Dạ cháu gần hai mốt tuổi ạ. - Không đi học đại học? Câu hỏi của mẹ Thắng khiến tôi đột nhiên lạnh toát người, chuyện không bằng cấp vốn dĩ tôi tưởng gia đình anh không coi trọng... nhưng giọng điệu này của bà khiến tôi có chút sượng sùng. Bà lại tiếp lời: - Trả lời đi chứ? - Dạ vâng... cháu học xong cấp ba thì đi làm luôn thưa bác. - Làm gì? - Cháu... cháu làm nhân viên phục vụ nhà hàng. - Cháu biết thằng Thắng là thủ khoa đại học Kinh Tế Quốc Dân chứ? - Dạ... cháu biết ạ. - Phương này! Không phải nhà bác khó tính khắt khe gì, nhưng một đứa con gái học hết cấp ba, lại chỉ làm nhân viên phục vụ nhà hàng, cháu xem... cháu có điểm gì xứng với con bác? Tôi không ngờ mẹ anh có thể nói thẳng như vậy, thẳng đến mức tôi chơi vơi gần như không còn nói thêm gì. Bao nhiêu câu chuẩn bị ở nhà đến giờ bỗng ứ lại ở cổ, quay sang Thắng cầu cứu nhưng anh chỉ dửng dưng nhìn tôi. Mẹ anh thấy vậy khoé môi lại nhếch lên nói tiếp: - Gia đình bác không thể chấp nhận cháu làm dâu. - Nhưng... nhưng cháu với anh Thắng yêu nhau là thật bác ạ. - Cháu còn trẻ, cháu có thể tìm một người xứng với mình và thằng Thắng cũng vậy. - Bác à, thực sự bằng cấp nếu quan trọng lấy nhau rồi cháu có thể đi học một trường nào đó, giờ học đại học không còn khó... Mẹ Thắng đặt tách trà mạnh xuống bàn khiến nước văng tung toé giận dữ rít lên: - Phương! Đây là lần đầu bác gặp cháu, chưa nói đến bằng cấp thì cách nói chuyện của cháu bác cũng không thể chấp nhận được. - Cháu... cháu nói gì sai sao thưa bác? Mẹ Thắng nhìn tôi, gằn giọng: - Kể cả cháu học đại học, kể cả cháu có bằng cấp thì gia đình bác cũng không thể chấp nhận. Gia đình bác không chấp nhận một đứa con dâu đã có một đời chồng, huống hồ... lại còn làm nhân viên nhà hàng, một phó phòng nhân sự, cháu nghĩ sao có thể hợp được? Cháu có thể không nghĩ cho cháu nhưng cháu nên nghĩ đến thằng Thắng. Bác là mẹ nó, bác không muốn ác độc chia cắt tình yêu của con trai bác, nhưng nếu tình yêu đó là địa ngục là nấm mồ chôn tương lai của nó thì bằng giá nào bác cũng sẽ không chấp nhận. "Một đời chồng", tôi ù cả tai, hai tay bấu chặt vào quần lắp bắp nói: - Bác à... bác nghe cháu giải thích được không? Thực ra đúng là năm mười tám tuổi cháu có... Thế nhưng chưa kịp nói hết bà đã quay sang Thắng hất hàm: - Con đưa Phương về đi, mẹ mệt rồi. Tôi quay sang Thắng, bấu bấu tay anh, chuyện bằng cấp anh có thể không nói đỡ được, nhưng chuyện này tôi vẫn hi vọng anh sẽ giải thích giúp tôi. Mẹ Thắng thấy vậy liền ôm đầu, nhăn nhó gắt lên: - Thắng, con không nghe thấy mẹ nói gì hả? Con đưa bạn con về đi, hay con muốn mẹ tăng xông mà chết đây? Thắng kéo tôi dậy khẽ nói: - Phương mẹ anh mắc chứng rối loạn tiền đình, để anh đưa em về đã... Tôi nhìn Thắng, không thể ngờ rằng ngày ra mắt gia đình anh lại chóng vánh đến vậy, nhưng... điều quan trọng hơn... tôi chợt thấy bản thân thất vọng về anh vô cùng. Mẹ anh nói tôi sao cũng được, ba anh hiểu nhầm tôi thế nào cũng không sao, còn anh, từ đầu đến cuối anh chỉ ngồi yên như bù nhìn, những lời ngọt ngào anh từng nói với tôi khác gì gió thoảng mây trôi? Tôi hất tay Thắng, mím chặt môi cố giữ phép lịch sự tối thiểu chào ba mẹ anh rồi xin phép đi về. Bên ngoài trời đổ mưa, Thắng cũng không đuổi theo, tôi bật cười chua chát, trong tim như có hàng ngàn chiếc kim nhọn hót đâm vào. Mời các bạn đón đọc Hai Đời Chồng của tác giả Phạm Vũ Anh Thư.