Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Nơi Để Nhớ - Anthony Grey

D ưới ách thống trị của người Pháp, năm 1925 Việt Nam bị chia làm ba phần. Nam phần gồm cả Sài Gòn và vùng đồng bằng sông Cửu Long được gọi là Nam kỳ. Trung phần kể cả kinh đô của nhà vua ở Huế cùng các vùng phía Bắc khu vực này dưới quyền bảo hộ của người Pháp là Annam hay Trung Kỳ. Bắc phần cũng thuộc quyền bảo hộ của Pháp với thủ phủ Hà Nội là Bắc Kỳ. Hoàng Đế đang thời của Việt Nam là vua Khải Định. Trên lý thuyết hoàng đế Annam cai trị hai vùng Bắc và Trung Kỳ dưới sự bảo hộ của người Pháp, trong khi đó Nam Kỳ bị chi phối bởi các luật lệ trực tiếp từ Paris, nhưng trên thực tế thì cả ba kỳ đều là thuộc địa của người Pháp. Ngoài các bộ lạc người thiểu số sống rải rác tại các miền rừng núi xa xôi, hẻo lánh, đại đa số dân chúng Việt Nam đều có cùng chung một chủng tộc. Ngày nay họ là người Việt Nam, nhưng thời bấy giờ, thế giới bên ngoài chỉ biết đến họ là người Annam hay Annamites mà thôi. Theo tài liệu lịch sử cho biết thì người Việt Nam trước kia là người Trung Hoa bỏ nước ra đi, di cư tới các quần đảo thuộc vùng ven biển Thái Bình Dương và họ tự gọi mình là Nam Việt. Sau này, khi người Tàu đem quân sang xâm lăng và chiếm cứ vùng đất này suốt mười thế kỷ dài, người Trung Hoa cũng gọi dân bản xứ là người Annam. Trong suốt thời gian bị người Trung Hoa đô hộ, dân chúng ở đây đã hấp thụ sâu đậm nền văn minh và văn hóa của người Tàu trong đó các thể chế vua chúa cũng như các triết thuyết Khổng, Mạnh được dân chúng địa phương áp dụng mãi về sau này. Khi nhà Tần bên Trung Hoa suy sụp thì tại đây người Annam cũng dành lại được sự Tự Do cho đất nước của họ. Họ sửa đồi quốc hiệu của mình nhiều lần bằng nhiều niên hiệu khác nhau. Đại Nam, Đại Việt... Họ đã đẩy lui được quân Mông Cổ và nhiều lần đập tan mọi âm mưu xâm lược của các triều đại nhà Nguyên, nhà Minh và nhà Thanh của Trung Hoa. Đến thế kỷ thứ XIX, họ không có đủ sức mạnh để chống lại với quân đội Âu Châu. Thời bấy giờ, người Pháp sau ròng rã hai thế kỷ dài liên tục đưa các giáo sĩ và các thương nhân đến đây giao dịch, cuối cùng họ quyết định cho áp đặt một chính sách cai trị lên phần đất này chung với hai quốc gia láng giềng là Ai Lao vào Cao Miên bằng võ lực và đặt ba quốc gia này thành một liên bang Đông Pháp. Pháp đã dùng mười sáu ngàn binh sĩ của họ để đàn áp mười lăm triệu dân bản xứ một cách vô cùng dã man, và chính quyền Annam phải đành chấp nhận thua thiệt. Pháp cho bổ nhiệm các viên chức cai trị của họ tới cấp thấp nhất trong guồng máy xã hội khiến cho người dân nơi đây không còn một chút quyền hành nào cho chính họ, và đây là một điều sỉ nhục mà người dân Annam phải gánh chịu ngay trên phần đất của mình. Gạo, than đá và cao su được đem bán ra nước ngoài để đem lợi tức về cho các tay có cổ phần ở Âu Châu trong khỉ đó người dân bản xứ bị đày ải đi làm việc tại các hầm mỏ cũng như tại các đồn điền với đồng lương không đủ sống. Đối với tầng lớp nông dân cũng vậy, họ bị tước đoạt hểt đất đai, ruộng vườn mà không có được một lý do nào cả để đem chia cho các kiều dân Pháp cùng một số ít người bản xứ chịu đứng ra hợp tác với người Pháp. Trong khi một mặt thẳng tay chiếm đoạt đất đai và tài sản của dân chúng, mặt khác người Pháp lúc nào cũng rêu rao, tuyên bố với công luận là họ đến Đông Dương này với nhiệm vụ “Khai Hóa Văn Minh” nhằm giúp đỡ các quốc gia nhược tiễu bước vào ánh sáng văn minh của thế kỷ XX. Các học giả thức thời, các quan chức cao cấp người Annam biết rõ âm mưu giả nhân, giả nghĩa này của ngưởỉ Pháp ngay từ lúc đầu. Họ từ chối không chịu hợp tác với những chủ nhân ông, người ngoại lai này, họ cổ động dân chúng bày tỏ sự bất đồng của mình trước thái độ xâm lăng của người Pháp. Một số người yêu nước đứng ra tổ chức các nhóm chống đối, nhưng không mang lại một kết quả nào. Cũng như tại các thuộc địa khác của mình trên khắp thế giới, người Pháp cho rằng dân chúng người Annam là những người thuộc giai cấp thấp hèn so với người Âu Châu, và vào năm 1925 này, người Pháp đã biểu lộ rõ ràng thái độ và hành động của mình theo quan niệm trên đối với dân chúng tại quốc gia này hàng ngày trên mọi bình diện từ kinh tế đến chính trị, từ xã hội cho đến ngay cả vấn đề luyến ái nữa. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Một Nơi Để Nhớ của tác giả Anthony Grey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thư Tình - Iwai Shunji
“Thư tình” tác phẩm văn học Nhật Bản của tác giả Iwai Shunji và sau này cũng được chính ông chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh cùng tên. “Thư tình” được coi là tác phẩm vốn được viết ra để dựng thành phim. Cuốn sách xoay quanh những lá thư trao đổi giữa hai cô gái, Watanabe Hiroko và Fujii Itsuki. Watanabe Hiroko ban đầu tưởng viết cho hôn phu Fujii Itsuki ở trên thiên đường nhưng sau đó thì nhận ra mình đang viết cho cô bạn cùng lớp cấp II của vị hôn phu và cũng là mối tình đầu của anh này. Cậu học trò cấp II đem lòng thương nhớ cô bạn cùng lớp trùng họ trùng tên. Chẳng dám thổ lộ tình cảm ấy, cậu chỉ biết viết tên cô, và cũng là tên cậu, vào tấm thẻ mượn của những cuốn sách chẳng bao giờ được ai đụng tới trong thư viện, nơi cô và cậu được phân công làm cán sự. Giống như rất nhiều mối tình học trò đơn phương khác, cô gái không hề nhận ra tình cảm của cậu. Ngay cả “bức thư tình”cuối cùng trên thẻ mượn mà cậu viết cho cô trước khi chuyển trường cũng không được cô biết tới. Một chuyện tình học trò giản dị, được tái hiện một cách tình cờ qua các bức thư trao đổi giữa hai cô gái không quen biết. Và bí mật về “tình yêu từ cái nhìn đầu tiên” những tưởng được chôn vùi theo người đã khuất dần được hé lộ. *** Hai năm trôi qua kể từ sau cái chết của Fujii Itsuki. Và là cái giỗ thứ hai vào ngày mùng 3 tháng Ba. Hôm ấy vào ngày lễ dành cho các bé gái, Kobe đổ tuyết bất thường. Tuyết chôn vùi cả khu nghĩa trang công cộng nằm trên đồi, những hạt trắng bám lấm tấm lên màu đen của những bộ đồ tang. Hiroko ngước lên nhìn trời. Tuyết trắng rơi không ngớt từ bầu trời không màu trông đẹp dung dị. Chắc hẳn bầu trời mà anh ấy nhìn thấy lần cuối trước khi chết trên núi tuyết cũng tựa như lúc này. “Như thể thằng bé đang gửi tuyết xuống ấy nhỉ?” Người lên tiếng là bà Ashiro, mẹ của Itsuki. Người lẽ ra đã là mẹ chồng Hiroko. Đến lượt cô thắp nhang. Chắp hai tay trước mộ, chính Hiroko cũng ngạc nhiên khi có thể thanh thản đối mặt với anh. Thời gian là thế chăng. Nghĩ đến đó, tâm trạng Hiroko có phần xáo trộn. (Xin lỗi anh vì em là người con gái bạc tình.)  Nén nhang Hiroko thắp mới tỏa ra làn khói mỏng trong giây lát thì một hạt tuyết chạm vào đầu nhang và dập tắt ngọn lửa. Hiroko thấy như đó là trò đùa của anh. Ngực cô thắt lại. Nhân thể lễ dành cho các bé gái, rượu ngọt nóng được đem ra thết đãi trong lúc chờ tàn canh hương. Khách đến viếng bỗng ồn ào hẳn lên, hâm nóng người bằng chén rượu và bắt đầu sôi nổi với những câu chuyện thế nhân nhàm chán. Hầu hết trong số đó là người nhà Itsuki. Ngoài ra có cả những người bạn chẳng còn giữ ký ức đầy đủ về anh. Họ đứng trước mộ anh nhưng gần như chẳng có chuyện gì để nói. Kể ra với bản chất kiệm lời và khó gần của anh thì điều này cũng không phải là không có lý. Còn trẻ mà đã vậy đấy. Đối với họ, anh là một cố nhân chỉ có ngần ấy chuyện để kể. “Tôi không uống được đồ ngọt. Không có đồ cay sao? Rượu cay ấy!” “Tôi cũng thích rượu cay.” Đáp lại yêu cầu ngang ngạnh của cánh đàn ông, ông Seiichi - bố Itsuki gọi bà Ashiro. ... Mời các bạn đón đọc Thư Tình của tác giả Iwai Shunji.
Người Ăn Chay - Han Kang
Người ăn chay là một cuốn tiểu thuyết ba phần về câu chuyện của Yeong-hye, một người vợ hiếu thảo Hàn Quốc, được thúc đẩy bởi một giấc mơ, quyết định một ngày để trở thành một người ăn chay. Hành động thay đổi này đã gây ra một số xung đột trong cuộc sống gia đình cô và được xem như một cuộc nổi loạn của Yeong-hye. Cô ngày càng kỳ lạ và đáng sợ, các mối quan hệ dường như bình thường trở thành những hướng bạo lực, xấu hổ và mong muốn. Nhận xét về cuốn sách, tờ báo The Guardian cho biết: “Qua ba phần, chúng tôi đang áp chặt vào cấu trúc linh hoạt nhất của một xã hội – những kỳ vọng của hành vi, hoạt động của các tổ chức – và chúng tôi xem họ thất bại từng người một. Đó là một sự giằng xé nội tâm muốn thoát ra khỏi những dây trói ngày thường của một phụ nữ hiện đại. Ngoài ra tác phẩm còn mang đến sự gợi cảm, khiêu khích và bạo lực, cùng với hình ảnh mạnh mẽ, màu sắc đáng ngạc nhiên và những câu hỏi đáng suy ngẫm”. *** Ba truyện ngắn hay, độc lập nhưng cũng có thể gộp gọi tiểu thuyết (bản gốc không định rõ). Bởi vì cũng những con người đó, nền tảng, xuất xứ đó, nhưng tác giả xây dựng thông qua cái nhìn của các nhân vật khác nhau theo từng sự chuyển biến của câu chuyện. Han Kang giải mã những vùng tăm tối nhất trong con người họ, bắt đầu từ những khao khát bình thường hay đặc biệt, dần dần trở thành những chấn thương không thể nào chữa được. Các nhân vật đi tìm những ảo ảnh, hình bóng chập chờn cho quên đi nỗi đau, để rồi cuối cùng biến mất theo chúng. Mời các bạn đón đọc Người Ăn Chay của tác giả Han Kang.
Câu Chuyện Dòng Sông - Hermann Hesse
Tất cả tác phẩm của Hermann Hesse đều nói lên niềm cô đơn tâm linh của con người thời đại, nỗi thao thức triền miên của những tâm hồn khát khao đi tìm một chân trời mới cho mình và nhất là những nỗ lực vô hạn để vươn lên mọi ràng buộc của thân phận làm người. Trọn tác phẩm của ông là lới thánh ca bay vút lên chín tầng trời, vọng lên nỗi đau đớn vô cùng của kiếp sống và lòng hướng vọng nghìn đời của con người... Câu chuyện dòng sông là cuốn tiểu thuyết mang tính cách ngôn của Hermann Hesse kể về hành trình tâm linh của một người Ấn Độ tên là Siddhartha trong thời đại của Tất-đạt-đa Cồ-đàm. Đây là tiểu thuyết thứ chín của Hesse, được viết bằng tiếng Đức, trong một ngôn ngữ đơn giản nhưng có vần điệu. Cuốn sách kể lại chuyện xảy ra ở Ấn Độ vào thời cổ đại vào khoảng thời gian của Phật (thế kỷ thứ 6 TCN). Truyện bắt đầu khi Siddhartha, con của một Brahmin, bỏ nhà ra đi để tham gia những nhà tu khổ hạnh cùng với người bạn thân là Govinda. Cả hai đều ra đi để tìm sự khai sáng. Siddhartha đã đi qua một chuỗi các thay đổi và tự nhận thức khi anh cố gắng đạt được mục đích này. *** Cạnh những con thuyền, dưới ánh nắng ven sông, trong bóng cây cổ thụ và trong khu rừng vàng nhạt, Tất Đạt, người con trai Bà La Môn đĩnh ngộ ấy đang lớn lên cùng bạn chàng là Thiện Hữu. Nắng nhuộm màu “bồ quân” đôi vai thon đẹp khi chàng tắm lễ “thánh tẩy”. Mắt chàng thoáng những nét trầm tư mỗi lúc chàng dạo chơi trong khu rừng xoài, khi nghe mẹ hát, trong những buổi học với cha, hay khi chuyện trò cùng những người thức giả. Tất Đạt từ lâu đã sớm dự phần trong các cuộc đàm luận của những bậc tri thức, thường tranh biện với Thiện Hữu và cùng bạn thực tập suy tư quán tưởng. Chàng có thể đọc tiếng “Om”* trong im lặng – nói tiếng ấy trong tâm khi thở vào và thở ra, với tất cả tâm hồn, vầng trán chàng chói ngời tia sáng trí tuệ. Cha chàng rất sung sướng vì con thông minh và khát khao hiểu biết. Ông tin tưởng chàng sẽ lớn lên thành một học giả, một mục sư, một hoàng tử trong giới Bà La Môn. Mẹ chàng đầy kiêu hãnh khi nhìn con đi, đứng, khoẻ mạnh, xinh đẹp, dẻo dai. Tất Đạt chào mẹ với một dáng điệu nho nhã. Và mỗi khi Tất Đạt dạo bước qua phố phường, với vầng trán cao, đôi mắt vương giả, dáng điệu thanh tao, thì những cô gái Bà La Môn bỗng nghe lòng rộn lên một niềm yêu thương rào rạt. Thiện Hữu bạn chàng, con một người Bà La Môn, yêu chàng hơn ai hết. Chàng yêu đôi mắt và giọng nói trong trẻo của Tất Đạt. Chàng yêu dáng đi của Tất Đạt, cử động của chàng. Chàng yêu tất cả những điều Tất Đạt làm và nói, và trên tất cả, chàng yêu kiến thức của Tất Đạt, những tư tưởng đẹp đẽ và đầy nhiệt tình, ý chí mạnh mẽ và thiên tính cao vời của chàng. Thiện Hữu biết rằng chàng trai kia sẽ không trở thành một người Bà La Môn tầm thường, một người hành lễ tế thần biếng nhác, một kẻ ham nói phù chú, một người hùng biện khoác lác, một mục sư xảo quyệt, hay chỉ một con chiên ngoan ngớ ngẩn giữa đàn chiên đông. Không, và chính chàng, Thiện Hữu cũng không muốn trở thành một Bà La Môn như trăm ngàn Bà La Môn khác. Chàng muốn theo Tất Đạt, con người khả ái tuyệt vời kia. Vì nếu Tất Đạt có ngày trở thành một vị chúa tể, nếu có một ngày chàng bước vào cõi quang minh, thì lúc ấy Thiện Hữu muốn theo chàng như bạn chàng, như người tôi tớ của chàng, như cái bóng của chàng. Mọi người đều yêu quí Tất Đạt như thế. Chàng làm cho họ vui vẻ hạnh phúc. Nhưng chính chàng, Tất Đạt, lại không hạnh phúc. Lúc lang thang dọc những con đường hồng trong vườn, khi ngồi trầm tư trong bóng xanh nhạt của cụm rừng, khi rửa đôi chân trong buổi thánh tẩy với tư thái đầy trang nghiêm, đâu đâu chàng cũng được mọi người quí trọng và là nguồn vui cho tất cả. Tuy thế thâm tâm chàng lại không được yên vui. Mộng ảo và những suy tư khắc khoải dồn vào tâm tưởng chàng từ khúc sông cuồn cuộn, từ những vì sao lấp lánh, từ ánh mặt trời chan hoà. Mộng tưởng và vọng động xâm chiếm chàng, dâng lên từ làn khói của những cuộc tế thần, phát ra từ những thánh thi tuôn tràn từ những giáo lý của các vị Bà La Môn. Tất Đạt bắt đầu thấy những hạt giống khổ đau trong chàng. Chàng bắt đầu cảm thấy tình thương của song thân cũng như tình thương của Thiện Hữu không thể cho chàng hạnh phúc bình an, không thể thoả mãn chàng. Chàng bắt đầu ngờ rằng phụ thân đáng kính của chàng và các sư phụ khác, những vị Bà La Môn thông thái đã truyền hết cho chàng những tri kiến của họ rồi, tất cả kiến thức của họ đã trút vào túi khôn của chàng rồi. Nhưng túi khôn không đầy, trí năng chàng không thoả mãn, linh hồn chàng không bình yên và con tim không an nghỉ. Nước tịnh thuỷ tắm hàng ngày thật tốt, nhưng đây cũng chỉ là nước, không thể rửa sạch tội lỗi, không làm vơi bớt khổ đau của tâm hồn. Những cuộc tế thần và khấn nguyện cùng Thượng đế thật là tuyệt diệu, nhưng đấy phải chăng là tất cả... Và thần linh ấy là gì... Có phải thật là đấng sáng tạo ra thế giới... Không phải rằng linh hồn duy nhất đã tạo ra vũ trụ hay sao... Và thần linh phải chăng là những hình thái được tạo dựng như tôi và người, những sinh vật phù du... Và như thế phải chăng rất nên dâng lễ cho các thần linh... Và ta phải dâng cúng lễ vật cho ai nữa, phải kính nể ai nữa nếu không phải thần linh. Linh hồn duy nhất... Và linh hồn ở đâu, trái tim bất diệt ở đâu, nếu không phải Tự ngã, trong phần thâm sâu, bất diệt mà mỗi người đều mang sẵn... Nhưng đâu là Tự ngã ấy, phần thâm sâu ấy... Đấy không phải là thịt xương, cũng không phải tư tưởng hay ý thức. Những người trí thức đều dạy chàng như thế. Vậy thì nó ở đâu... Đi tìm Tự ngã, Linh hồn ấy, có nơi nào khác đáng đặt chân không... Không ai chỉ đường, vì không ai biết, từ cha chàng, thầy chàng, những bậc thức giả cho đến những bài thánh thi. Những người Bà La Môn và những thánh kinh của họ biết hết về mọi sự, họ đã đi sâu vào mọi vấn đề - sự tạo thiên lập địa, nguồn gốc của ngôn ngữ, thức ăn, hơi thở vào, thở ra, sự sắp đặt của những giác quan, hành động của những thần linh. Họ thông thạo vô số vấn đề - nhưng có bỏ công không, nếu họ không thấu hiểu vấn đề quan trọng độc nhất... Mời các bạn đón đọc Câu Chuyện Dòng Sông của tác giả Hermann Hesse.
Phục Sinh - Lev Tolstoy
Phục sinh là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Nga Lev Tolstoy. Tác phẩm phản ánh con đường trăn trở đi tìm chân lý của tác giả, đồng thời cũng là một bản án kết tội chế độ nông nô và Giáo hội Nga. Phục Sinh là câu chuyện kể về tình yêu đầu đời nông nổi, bồng bột và không ít sai lầm của chàng quý tộc trẻ tuổi Nêkhliuđốp và cô hầu trong trắng, xinh đẹp Cachiusa. Thời gian trôi qua, cùng với sự xa cách và những suy nghĩ sai lệch, chàng Nêkhliuđốp  đã bỏ rơi Cachiusa tội nghiệp, đẩy cô vào kiếp sống long đong, vất vả và tù tội. Một lần, vô tình gặp lại người yêu cũ, trước tình cảnh của Cachiusa, chàng đã dằn vặt, đấu tranh và quyết định sẽ thay đổi cách sống. Chàng quan tâm, giúp đỡ đến mọi người, hết lòng bù đắp cho Cachiusa. Và cuối cùng, tình yêu của họ đã được phục sinh. Hãy sống tốt đẹp luôn quan tâm đến mọi người xung quanh và mang trong mình tình yêu, niềm tin tưởng...Đó chính là thông điệp mà tác phẩm muốn gửi tới bạn đọc. *** Dù cho mấy chục vạn con người chen chúc nhau trong một vùng chật hẹp, có tàn huỷ đến mấy mảnh đất họ đang giầy xéo dưới chân; dù cho họ có lấy đá lát kín đi để không một mầm non nào hòng trồi lên được; dù cho họ vặt kỳ hết từng ngọn cỏ mới nhú; dù cho họ phạt trụi cây cối đuổi hết chim muông, mặc, mùa xuân vẫn cứ là mùa xuân, ngay cả trong thành phố. Trời nắng ấm, cỏ sống lại mọc xanh rờn ở khắp những nơi không bị giẫy, chẳng riêng gì ở các thảm ven đại lộ, mà cả trong kẽ những tấm đá lát mặt đường. Những cây phong, cây dương, cây anh đào vươn ra những chùm lá thơm tho, bóng nhẫy, những cây bồ đề, búp nõn cương lên chỉ những muốn trổ mầm. Quạ, sẻ, bồ câu gặp tiết xuân về, lại ríu rít làm tổ; đàn ruồi, được hơi nắng ấm, vo ve bay nhộn trên các đầu tường. Tất cả đều hớn hở, tươi vui, từ cây cỏ, chim chóc, sâu bọ đến trẻ con. Duy chỉ có người ta - những người lớn, những người đã trưởng thành mà vẫn cứ dối mình, lừa người, làm tội thân mình và hành hạ người khác. Cái buổi sáng mùa xuân kia, cái đẹp thần tiên Trời ban cho muôn loài kia, cái đẹp nhủ ta quay về với thuận hoà, tương thân tương ái kia, họ không coi là thiêng liêng và trọng đại. Cái họ coi là thiêng liêng và trọng đại lại là những trò họ bày ra để đè đầu cưỡi cổ lẫn nhau. Tại phòng giấy nhà lao một tỉnh lỵ kia cũng vậy, cái được coi là thiêng liêng và trọng đại không phải là niềm vui tươi trìu mến Chúa xuân ban cho muôn vật và con người, mà lại là việc họ mới nhận được chập tối hôm qua một tờ trát có ghi số, có tiêu đề, có đóng dấu son, tờ trát đòi vào hồi chín giờ sáng hôm nay, 28 tháng Tư, phải áp giải lên toà ba bị can hậu cứu - một nam, hai nữ; trong hai người phụ nữ, một bị coi là phạm tội nặng, cần phải áp giải riêng. Và đây, theo đúng lệnh đó, hồi tám giờ sáng ngày 28 tháng Tư, viên quản ngục bước vào dãy hành lang tối tăm, hôi hám của khu giam phụ nữ. Theo sau lão là một người đàn bà mặt mày tiều tuỵ, tóc quăn đã bạc, mặc áo chẽn, ống tay có đính lon, lưng thắt đai viền xanh. Đó là mụ cai ngục. ... Mời các bạn đón đọc Phục Sinh của tác giả Lev Tolstoy.