Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hai làng Tà Pình và Động Hía

“Hai làng Tả Phình và Động Hía” kể về tình bạn của một cậu bé người Mán và một cậu bé người Mèo ở vùng cao Tây Bắc vào những năm 1950. Hai làng có mối hiềm khích không sao hóa giải, nhưng tình bạn trong sáng của tuổi thơ đã kết nối tình thân giữa các gia đình, dân tộc anh em trong những năm tháng kháng chiến. Đây là tác phẩm nổi tiếng một thời được nhà văn Bắc Thôn viết trước ngày lên đường ra mặt trận. Đây cũng là tặng vật gửi tặng bạn độc nhỏ tuổi của người chiến sĩ – liệt sĩ, với ước muốn các em thêm hiểu, thêm yêu đất nước, quê hương. *** Hôm nay, tôi kể cho các bạn thân mến câu chuyện Tà Pình và Động Hía. Trước khi vào chuyện, tốt hơn hết là tôi kể ngay cho các bạn một đoạn cần thiết của câu chuyện. Trên các miền rừng núi, người Mèo và người Mán thường ở rất cao. Mãi tận đỉnh núi hay mãi tít mây xanh cũng được. Người ta gọi đó là những rẻo cao hẻo lánh của Tổ quốc chúng ta. Hồi nước ta chưa độc lập, giặc Pháp còn cai trị, nhân dân các bản ít giao thiệp với nhau. Phần vì đường xa lắm dốc, phần vì cũng chẳng có chợ búa, phố phường gì mà buôn bán, trao đổi. Người Mèo với người Mèo đã như vậy. Người Mèo và người Mán lại càng xa nhau hơn nữa. Thường có những chuyện thù hằn hàng mấy đời để lại. Có khi làm lễ ăn thề cúng ma rừng ma núi mà nguyền rủa lẫn nhau. Tà Pình và Động Hía cũng như vậy. Hai làng cách nhau nào có bao xa. Chỉ bốn khoảnh đồi cỏ là đến. Một con ngựa của người Tà Pình thả ra ăn cỏ thuận chân hoặc chú ngựa mải ăn một tí, chỉ một tí thôi là nhảng vó sang đất Động Hía của người Mán. Làng Mèo Tà Pình và làng Mán Động Hía cũng giống như các làng Mèo làng Mán khác, thường có những người cầm đầu. Người cầm đầu làng Mèo gọi là thống lý. Người cầm đầu động Mán thường là dòng họ Lý, họ Triệu, làm vua các người Mán khắp nơi. Trước khi xảy ra câu chuyện tôi sắp kể vào khoảng hai ba đời gì đó, có một con ngựa của nhà thống lý họ Hoàng. Con ngựa này đẹp thật. Trước kia nó không phải là giống ngựa nhà thống lý họ Hoàng. Nó là của một gia đình họ Vừ. Anh ta có con ngựa đẹp nhưng lại không phải là thống lý nên khó giữ ngựa ở trong nhà. Một hôm, ngựa của anh đi qua nhà thống lý họ Hoàng. Thống lý họ Hoàng đang đứng phanh bụng ở trước cửa. Chòm tóc của lão ta đã bạc nhưng người còn rất khoẻ. Lão ta đứng chống háng, ngậm cái tẩu thuốc bào dài dằng dặc, vừa hút thuốc vừa nheo mắt nhìn con ngựa. Thế là ngày mai, lão ta cho người sang “xin”. Anh họ Vừ bụng tiếc của nhưng miệng vẫn phải cười, dắt ngựa sang nhà thống lý họ Hoàng. Lão gật gật gù gù làm ra chiều đon đả, vui mừng. Thống lý trả cho chén tống muối đem về. Từ đó thống lý rất chăm chuốt con ngựa. Chú ngựa tốt số sang nhà thống lý ngày một khoẻ đẹp. Lông hồng mượt như nhung. Thống lý quý con ngựa như vàng. Một hôm con ngựa được thả ra ăn cỏ. Ngựa lững thững, vẫy đuôi. Đầu nó cúi xuống gặm cỏ soàn soạt. Dáng nó cũng đủng đỉnh như con nhà quan vậy. Ngựa ăn cỏ non ngon miệng đi quá cả gốc cây bứa làm ranh giới chia hai làng Tà Pình và Động Hía. Ngựa đạp bừa, nhai nát nương dưa của vua Mán họ Lý ở Động Hía. Cũng là lúc mẹ vua Mán họ Lý đi thăm nương, thấy vậy đỏ mắt lên. Cái mặt nhăn nheo của người già dúm lại. Con mắt quắc lên như nảy lửa. Mẹ vua Mán rút con dao rừng đeo ở cạnh sườn, chém liền hai nhát vào đầu gối vó ngựa sau. Con ngựa co một chân lọc xọc chạy về tàu. Đầu nó gác lên một gióng gỗ nhưng chân không hạ xuống được nữa, máu chảy ròng ròng. Con trai thống lý thấy ngựa bị người chém què, tiếc ngựa khóc lên hu hu. Hắn ta bảo vợ lấy cái nỏ và mũi tên thuốc độc, giắt lên mang tai lần theo vết máu ngựa mà tìm. Lúc bấy giờ mẹ vua Mán chém con ngựa xong cũng chẳng buồn dọn lại dưa, quay về. Chẳng may có chị con gái nhà thường dân ở Động Hía đi hái chè trong rừng vừa tới nơi thì gặp con trai thống lý bên kia cây bứa. Con trai thống lý tì nỏ vào bụng, dán dây và bật tách một cái trúng ngay ngực chị con gái Mán. Chị ta nghiến răng vừa chạy về vừa rút mũi tên ra. Thuốc độc ngấm trong máu, chạy vào tim. Tới khe nước đầu động, chị uống một hụm, rồi cố chạy được tới động thì lảo đảo ngã gục xuống, tay còn nắm chặt mũi tên của người Mèo. Thế là hai làng thù nhau từ đời này qua đời khác chỉ vì cái chuyện giữa nhà thống lý Mèo và nhà vua Mán mà thôi. Cây bứa lâu đời vẫn chưa đổ, giờ nó già cỗi cao chon von. Cho tới năm 1948. Giặc Pháp chiếm dưới chân núi, bắn súng cối lên nương người Mán, nương người Mèo. Có lần liền mấy nương dưa của người Mán bị đạn phá tung lên hỏng cả. Nương thuốc phiện của người Mèo đẹp như những cánh đồng hoa cũng bị nát. Cả hai làng Tà Pình và Động Hía đều không thích thằng Pháp. Mấy lần liền, cán bộ Cụ Hồ lên dạy người Mán đánh giặc giữ làng, tăng gia sản xuất. Thiếu niên Mán tổ chức thành một đội liên lạc. Cán bộ biết câu chuyện thù hằn giữa Tà Pình và Động Hía, đem ra giải thích, khuyên dân Mán nên đoàn kết với người Mèo. Người Mán mới đầu không nghe, sau dần dần cán bộ nói: Cụ Hồ bảo: Kinh, Thổ, Thái, Mán, Mèo, Mường là anh em một nhà. Câu chuyện thù hằn kia không tốt. Đáng lẽ là việc của hai nhà thống lý Mèo và vua Mán là chính, sao lại liên lụy đến dân hai làng. Chồng nghe được cho là phải, về nói với vợ, vợ về nói với con cái. Thiếu niên nghe được cũng đem ra nói với nhau. Ai cũng khen cán bộ nói phải. Làng Mán đã muốn làm lành với làng Mèo, nhưng họ nhà vua Mán không bằng lòng. Người Mán có người nghĩ rằng: Nếu cán bộ vào được làng Mèo mà nói, thì người Mèo cũng hiểu được như người Mán. Rồi sau đó, cán bộ từ làng Mán sang làng Mèo cũng làm như vậy. Nhưng thống lý dòng dõi họ Hoàng lắc đầu quầy quậy. Hắn hút cái tẩu thuốc lá dài, mắt lim dim, nói: - Mán Động Hía mang cán bộ về, sau này cán bộ đem bộ đội lên bênh nó giết người Mèo ta đó. Có lần hắn nói: - Cán bộ khinh người Mèo, đến với người Mán trước. Người ta bàn tán: - Không biết ông thống lý nói có thật không? Hắn nheo mắt, đập cái trôn chén xuống sàn. - Bảo sao? Bảo sao? Thế là mọi người lại im và quá tin lời thống lý, người Mèo lại đuổi cán bộ, chưa muốn làm lành với người Mán. Câu chuyện tôi bắt đầu sau đây, các bạn ạ, nó vào giữa lúc đó. Và, đây mới thật là câu chuyện mà các bạn cần biết kỹ, nó mới là câu chuyên chính mà tôi kể cho các bạn nghe. Mời các bạn đến Tà Pình trước. * * * Buổi sáng. Mặt trời lên ửng đỏ trên các ngọn núi trước mặt. Nhưng ngọn đồi cỏ lau ngút đầu và con đường đá dăm đất đỏ còn ẩm sương sớm. Vừ A Sình tỉnh dậy. Cậu bé mở hai con mất ra đã nghe thấy tiếng xay ngô ù ù. Cậu nhảy tót ra ngoài cửa, lấy tay hứng vòi nước đắp lên mặt. Bỗng nhiên một đàn chim từ mái nhà bay vù vù về phía Động Hía. Vừa bay vừa hót “Chà chích, chà chích”. Sình khoanh tay trước ngực, đứng phưỡn cái bụng phệ trắng hếu ra nhìn. Sình nói một mình: - Nhiều con chim. Sao nó không ở Tà Pình mà lại bay về phía Động Hía? Tao bắt được một con thì thích quá. Nói một mình như vậy, cậu nâng vạt áo lên lau mặt. Nghĩ một lát, cậu vò chỏm tóc như một chiếc áo búp đa nằm trên đầu, chạy thụt ngay vào trong nhà. Mẹ cậu đang xay ngô. Cái váy hàng trăm nếp của bà rung rinh. Bà thấy con đang xách cái lồng chim từ trên vách xuống. Đó là một cái lồng bẫy. Bên trong con chim mồi nhảy lách cách, lách cách. Bà hét lên cho to hơn tiếng cối xay: - Mày đi chơi à, lại bắt con chim à? Sình vừa sửa cái lồng vừa trả lời mẹ: - Tôi đi bắt con chim chứ! - Dề. Mày bắt chim, Tây nó lên mày chạy sao kịp, Sình à? - Tôi chạy kịp chứ. Nó đến Mán Động Hía trước chứ. - Ờ, mày đi cho gần cũng có con chim đấy. Mày đừng sang quá đất Tà Pình. Mán Động Hía nó giết chết đấy. Nó chém cho đấy. Sình chưa nghe hết lời mẹ, cậu xách cái lồng chạy ton ton về phía có đàn chim bay. Bà mẹ buông tay cối, lật đật ra cửa. Thấy con chạy về phía Động Hía, bà dang thẳng hai tay lên trời, cúi gập người xuống, chân giậm bành bạch, bà hét lên: - Sang phía rừng ăn măng này này. Mày sang Mán nó chém chết. Cậu bé nghe mẹ hét, lảng vảng, đi từ từ sang phía rừng măng. Bà mẹ thấy vậy mới yên tâm quay vào, lại xay ngô ù ù. Cậu bé thấy mẹ vào rồi thì len lén, co chân lên thật cao, rón rén quay lại rồi ù té chạy về phía Động Hía. Bà mẹ cứ tưởng con đi về phía rừng ăn măng nên không nhìn ra nữa. Sình chạy khuất một khoảnh đồi. Cậu yên trí đi từ từ. Miệng cậu chúm lại hót sáo theo tiếng chim. Con chim mồi trong lồng cành cạch nhảy hót theo. Đi được một quãng thì đã vắng tanh. Bờ cỏ lặng lẽ như một nơi bỏ hoang từ lâu đời. Con chim hú hò nào bỗng dưng kêu bạn giữa ban ngay làm cho cậu bắt đầu sợ. Cậu lẩm bẩm một mình: - Thằng Mán nó chém tao thì tao chết à? Tiếng chim trong lồng lại hót lên “chà chích, chà chích”. Tiếng chim trong vắt như khêu gợi làm cho cậu chúm mồm hót theo. Rồi cậu lẩm bẩm: - Tao thấy nó thì tao chạy chứ. Con chim nó bay về phía ấy mà. Nó chỉ ở gần vườn chè của thằng Mán thôi. Thế là Sình lại đi. Cây bứa đã sờ sờ trước mắt. Cây bứa từ mấy đời trước là cái mốc ngăn cách hai láng Tà Pình và Động Hía bây giờ vẫn còn. Cậu bé dừng ngay lại, nhìn quanh. Mấy cây thâm thấp ngay cạnh đường là chỗ Sình có thể treo lồng chim được rồi. Cậu chuẩn bị lạt và buộc lồng chim lên một cành cây. Cậu mở ngăn bẫy ra, rồi thử mấy cái. Cửa lồng vẫn tốt. Cậu liền ngồi núp vào một bụi cây dại. Mồm hót sáo theo tiếng chim. Con chim mồi cũng hót theo. Mấy con chim nghe thấy tiếng hót, từ trên cành cao nhảy dần xuống thấp. Trống ngực Sình đập thình thình. Nhưng lũ chim chẳng vào lồng cho. Chúng cứ nhảy loanh quanh. Bỗng dưng “cách” một cái. Không phải lũ chim dại dột đã mắc cạm của Sình mà chính con chim mồi đã nhoi ra từ lúc nào. Sợi dây buộc chân làm vướng cánh nên nó chỉ nhảy chứ không bay được. Con chim nhảy xuống mặt đường, cố vươn cánh lên mà bay. Cái chân nó chỉ bổng lên chút ít rồi lại sà xuống. Cậu bé Mèo hoảng hốt. Từ trong bụi cây, cậu nhảy xổ ra đuổi con chim. Mấy lần cậu lao cả thân cậu xuống bờ cỏ mà đuổi nhưng con chim chưa bị nắm trong tay cậu. Nó vẫn loạng choạng chưa cất nổi cánh. Cậu vừa đuổi vừa vồ, vừa nói một mình: - Mày bay à, tao bắt mày, tao bắt được mày. Con chim thoắt chốc bỗng lao sang bên kia cây bứa. Thôi thế là đất Động Hía rồi. Sình bỗng dưng thừ người ra. Cậu xoa xoa cái bụng: “Tao sang bắt chim à? Thằng Mán nó chém tao chết. Tao mất chim thì tao tiếc lắm.” Sình định bước bạo sang. Nhưng rồi cậu không dám: Con chim bay loạng choạng vài khúc nhỏ, rồi nằm nép mình trong một bụi cây. Mời các bạn đón đọc Hai làng Tà Pình và Động Hía của tác gải Bắc Thôn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuổi 17 - German Matveev
Tuổi mười bảy (tiếng Nga: Семнадцатилетние) là một cuốn tiểu thuyết dành cho lứa tuổi mới lớn của nhà văn German Matveyev, ra đời năm 1954. "Tuổi mười bảy” của German Matveev là câu chuyện kể về lớp học nữ sinh ở thành phố Leningrad (thuộc Liên Xô cũ) thời kỳ sau chiến tranh Thế giới thứ hai.  Nhân vật chiếm số đông trong tác phẩm là các cô nữ sinh đang bước vào lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời, tuổi 17 đầy mộng mơ, trong sáng.  Đó là Catia Ivanova – cô bí thư đoàn yêu thích môn hóa học; là cô gái xinh xắn học giỏi nhưng lại thích trở thành công nhân Svetlana; là Lida Versinina –cô gái xinh đẹp có nhiều bạn trai hâm mộ, hay Valia Belova-một nữ sinh học giỏi nhưng lại xấu tính, ích kỷ… Bên cạnh đó còn có cả những nhân vật lớn tuổi như: thầy giáo chủ nhiệm tận tâm Constantin Sergheevich, cô giáo hiệu trưởng Natalia Zakharovna, cô giáo Marina Leopoldovna... Những con người trẻ tuổi,với những tính cách khác nhau lại sống trong cùng môi trường đã tạo nên những câu chuyện về tình bạn, tình yêu với nhiều tình tiết hấp dẫn, bất ngờ. *** Ông Sergei Ivanovich đi dự dạ hội nhân dịp năm mới về và thấy Lida nằm trên giường, hai mắt đỏ hoe. - Lida, con làm sao thế? Con ốm à? - Không, không sao... Ba để con yên... - Lida khó nhọc nói. Ông sờ vào cái trán nóng hổi của con gái và ngồi xuống bên cạnh. - Con có bị đau gì không? Nhiệt độ có cao không? Hay con bị sốt?... Lida? - Ông bảo con gái. - Sao con không trả lời ba? Hay có gì xảy ra với con? Lida... Con có nghe thấy ba hỏi gì không? - Ba ơi, con xin ba, ba để cho con yên... - Cô khẽ nói và quay mặt đi. Ông bố lo lắng, đến đánh thức bà Pasa và nhờ bà giúp cho con gái ông thay áo đi ngủ. Đêm hôm ấy, mấy lần ông vào phòng con gái lắng nghe hơi thở đều đều của đứa con gái đang ngủ. Sáng hôm sau Lida thấy dễ chịu hơn. Cô không còn khóc nữa, tuy rằng cô vẫn cho mình là đứa bất hạnh với “trái tim tan nát”. Cô thấy trong người hơi yếu và nhức đầu nên có lý do để nằm trên giường. Suốt buổi sáng cô nằm trên giường gần như bất động, mắt đăm đăm nhìn bâng quơ vào một khoảng không xa thẳm. Gần mười hai giờ thì bác Vaxili Igomatievich đã đến. Vừa bước vào ông đã kêu lên như mọi lần: - Ồ, thật là mới mẻ! Cháu đã nghĩ ra được cái trò gì vậy! Ốm thật là đúng lúc... Cháu đang nghỉ đông cơ mà, cô gái xinh đẹp của bác. Phải ra ngoài trời để hít thở không khí, phải đi trượt băng! - Ông nói và ngồi xuống cạnh cô gái. - Nào đau ở đâu? Ốm gì? Thè lưỡi bác xem nào! Người ta bảo hôm qua các cháu ăn hàng thùng kem cơ mà... ... Mời các bạn đón đọc Tuổi 17 của tác giả German Matveev.
Nổi Loạn - Đào Hiếu
Dây là một tác phẩm đã bị kết án tử hình. Nó đã bị bắn nhiều loạt đạn, một ngàn mũi tên tẩm thuốc độc, bị chém bởi những lưỡi dao cùn… Trong một thời gian dài, tác phẩm đã bị mấy tờ báo quốc doanh lên án nào là đồi trụy, phản động, nào là nhảm nhí không có chút giá trị văn chương nào. Họ hùa nhau như đám hôi của, đám cơ hội, hò hét, nhảy múa, xỉa xói. Và cuối cùng là chém ngang lưng, tru di tam tộc. Nhưng tác phẩm vẫn sống. Bởi vì nó quá mãnh liệt, nó đầy ắp những chất liệu sống hung hãn và độc đáo. Không một trí tường tượng nào có thể nghĩ ra được các tình huống, các chi tiết đã được người trong cuộc “bứng” từ trong mảnh đất thực tế đời mình đem trồng vào tác phẩm và được nhà văn vun đắp gọt tỉa thành một chuyện tình, một tác phẩm văn học đầy lửa và đầy tro tàn, vừa cháy bỏng vừa lạnh giá, vừa lung linh vừa u ám ngậm ngùi. Nổi Loạn đơn giản chỉ là một chuyện tình. Nổi Loạn không có tham vọng đặt ra những “vấn đề chính trị”, những “phê phán đạo đức” hay những “tố cáo xã hội”. Những thứ vặt vãnh ấy đã bị sức nóng của câu chuyện tình này đẩy lùi ra tận phía sau hậu trường, trở thành những phông màn nám khói, mờ nhạt, cũ kỹ. Đọc Nổi Loạn để xem các nhân vật yêu nhau điên rồ, liều lĩnh như thế nào, và xem họ đã dẫn dắt chuyện tình của mình đến bờ vực nào? Có lẽ đó là điều duy nhất tác giả muốn mô tả trong tác phẩm. NGUYỆT HẠ *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** Chung Quanh Tác Phẩm “Nổi Loạn" Cuộc phóng vấn do tác giả Đoàn Giao Thủy, Báo “Diễn Đàn Paris” thực hiện và đăng trên số 28 phát hành tháng 3/1994 tại Pháp. Trong sáu tháng cuối năm 1993, cuốn tiểu thuyết NỔI LOẠN của Ðào Hiếu đã nổi lên như một sự kiện văn học ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Trong chừng mực nào đó: có thể gọi “vụ án NỔI LOẠN”, bởi vì đã có lời buộc tội đăng trên báo chí, cuốn sách đã bị tịch thâu và tác giả đã bị bắt giam và truy tố. So với các vụ án văn nghệ trước kia, đây chỉ là một vụ án nhỏ, song nhìn chung không có gì thay đổi về phương pháp của nhà cầm quyền dùng để triệt hạ một tác phẩm: tác phẩm bị kết án, tác giả bị đi tù, song tác giả không được quyền giải thích công khai về tác phẩm của mình. Chỉ có một điều là ở cuối thể kỷ thứhai mươi này việc bỏ tù một nhà văn vì tác phẩm của họ không còn dễ dàng như xưa nữa! Trong lần về thăm Việt Nam vừa qua tôi có dịp nói chuyện với nhà văn Ðào Hiếu cũng như nhiều người có thẩm quyền trong giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn về cuốn sách và các sự kiện chung quanh nó. Khi đó khả năng anh bị bắt giam đã được nêu ra. Trở lại Âu châu được tin anh bị bắt thật, tôi tự thấy có trách nhiệm giới thiệu những lời trao đổi với anh mà tôi ghi được. Như một chứng từ! Như quyền trả lời của một người bị buộc tội. Phải nói ngay rằng đây không phải là một phân tích về nội dung cuốn sách: xin dành phần đó cho bạn đọc hay các nhà chuyên phê bình văn học. Trước khi đi vào phần trao đổi, có lẽ cần nói đôi điều về tác giả cũng như bối cảnh của vụ án.   Mời các bạn đón đọc Nổi Loạn của tác giả Đào Hiếu.
Chuyến Thư Miền Nam - Antoine De Saint-Exupéry‎
'Chuyến thư miền Nam' là tự truyện của người phi công (cũng của chính tác giả Antoine de Saint-Exupéry) như những thước phim tài liệu trữ tình chứa đựng những suy tư về chủ nghĩa anh hùng cùng nỗi cô độc luôn đeo bám. Lối văn đầy chất thơ và bút pháp ẩn dụ của tác giả cuốn tiểu thuyết 'Hoàng tử Bé', hẳn sẽ khiến độc giả hài lòng. Chuyến thư miền Nam được xuất bản năm 1929 là tiểu thuyết đầu tay của ông, lấy chất liệu từ truyện ngắn L’Aviateur (Người phi công). Thông qua nhân vật Jacques Bernis, Saint-Exupéry kể về chính cuộc đời mình cùng những suy tư và cảm xúc của người phi công. Cuốn tiểu thuyết là tự truyện của người phi công và thước phim tài liệu trữ tình chứa đựng những suy tư về chủ nghĩa anh hùng, cùng nỗi cô độc hiện lên như người bạn đường trung thành của ông trong những tháng ngày đầu đời làm phi công. Một mình lèo lái cỗ máy bất kham và khó lường, mang theo những cánh thư hướng tới Nam bán cầu, bay qua những vùng trời khắc nghiệt nơi mỗi sự cố đều có thể đồng nghĩa với cái chết, hoặc bởi một cú hạ cánh thất bại hoặc bởi những phát súng trường hay nhát gươm sắc lẹm của bộ lạc du mục chốn sa mạc. Cuộc đời phi công đầy bất trắc và cô đơn ấy chỉ được cứu rỗi bằng ánh sáng của tình yêu, từ mối tình phiêu lưu với những trìu mến xa xôi, tựa nguồn nước mát lành hóa giải cơn khát, tựa kho báu bao năm chôn sâu dưới đất ngầm nay được mở ra. Một lần nữa, chúng ta sẽ gặp lại ở tiểu thuyết đầu tay của Saint-Ex lối văn đầy chất thơ và bút pháp ẩn dụ đã làm nên thành công rực rỡ cho kiệt tác Hoàng tử Bé. Antoine de Saint-Exupéry hay gọi tắt là Saint-Ex (sinh ngày 29 tháng Sáu năm 1900 - mất tích ngày 31 tháng Bảy năm 1944) là một nhà văn và phi công Pháp nổi tiếng. Saint-Exupéry được biết tới nhiều nhất với kiệt tác văn học Hoàng tử Bé (Le Petit Prince). Tác phẩm của Saint-Exupéry tập trung vào đề tài phi công hoặc lấy cảm hứng từ những chuyến bay của chính tác giả. Do mất tích khi mới 44 tuổi và cũng dành rất nhiều thời gian để thực hiện các chuyến bay, số lượng tác phẩm của Saint-Exupéry không nhiều, nhưng đa phần đều đặc sắc. *** Cùng lúc là tự truyện của người phi công và thước phim tài liệu trữ tình chứa đựng những suy tư về chủ nghĩa anh hùng cùng nỗi cô độc hiện lên như người bạn đường trung thành của ông trong những tháng ngày đầu đời phi công. Một mình lèo lái cỗ máy bất kham và khó lường, mang theo những cánh thư hướng tới Nam Bán cầu, bay qua những vùng trời khắc nghiệt nơi mỗi sự cố đều có thể đồng nghĩa với cái chết, hoặc bởi một cú hạ cánh thất bại hoặc bởi những phát súng trường hay nhát gươm sắc lẹm của bộ lạc du mục chốn sa mạc. Cuộc đời phi công đầy bất trắc và cô đơn ấy chỉ được cứu rỗi bằng ánh sáng của tình yêu, từ mối tình phiêu lưu với những trìu mến xa xôi, tựa nguồn nước mát lành hóa giải cơn khát, tựa kho báu bao năm chôn sâu dưới đất ngầm nay được mở ra. Một lần nữa, chúng ta sẽ gặp lại ở tiểu thuyết đầu tay của Saint-Ex lối văn đầy chất thơ và bút pháp ẩn dụ đã làm nên thành công rực rỡ cho kiệt tác Hoàng tử bé. Mời các bạn đón đọc Chuyến Thư Miền Nam của tác giả Antoine De Saint-Exupéry‎.
Những Người Tạo Ra Hiện Thực Tập 2 - Olivier Lockert
"Người biết tự làm cho mình hạnh phúc với một ảo tưởng đơn giản khôn ngoan hơn nhiều lần so với người tuyệt vọng với thực tại." - Alphonse Allais Thôi miên nhân văn là một nhánh tiếp cận mới mẻ và tràn đầy ánh sáng của ngành Thôi miên có lịch sử lâu đời. Với hướng trị liệu hướng đồng thời vào bên trong và ra ngoài, vừa “ở đó” lại vừa “ở đây”, cá thể kết nối với toàn thể, thôi miên nhân văn kết nối với Ma trận, với Toàn thức, với Core Gem, thôi miên nhân văn luôn tỏa ra sức cuốn hút huyền bí không những trong giới nghiên cứu mà còn có tác động trên diện rộng. Tiếp tục thể hiện dưới dạng tiểu thuyết, Những người tạo ra hiện thực (Tập 2) của Olivier Lockert dẫn người đọc bước vào chuyến du hành không gian đến thung lũng Kamchatka, nơi có các nhân vật quen thuộc: Marc, Lehya, Jonathan và Elean, ông già thông thái Khayr và anh bạn chuyên gia tâm lý Lou White. Bắt đầu từ hình ảnh trái-bom-người phát nổ, Những người tạo ra hiện thực (Tập 2) đan xen trong suốt toàn bộ mạch truyện là phương pháp trị liệu bằng thôi miên nhân văn được lồng ghép mà không có bất cứ ai trong trạng thái đờ đẫn. Trên nền giọng văn như thôi miên, cuộc trò chuyện của các nhân vật diễn ra trong ánh sáng nhận thức và chân thực nhưng tác động đến tâm thức sâu xa trong lòng mỗi người. Với cốt truyện tưởng như trừu tượng, Những người tạo ra hiện thực (Tập 2) đã làm ngạc nhiên rất nhiều thân chủ và nhà chuyên môn từ khắp nơi trên thế giới về độ hiệu quả cao và vẻ đẹp của cách tiếp cận thôi miên nhân văn. *** “Mỗi người là một phần của cái tổng thể mà chúng ta gọi là “Vũ trụ”... một phần giới hạn trong thời gian và trong không gian. Ta trải nghiệm chính ta, những suy tư và những cảm xúc của ta cứ như thể tách biệt với phần còn lại – là một kiểu ảo tưởng của nhận thức của nó. Ảo tưởng này như một nhà tù giam ấy, giới hạn ta trong những mong cầu cá nhân, và khiến ta chỉ yêu thương một vài con người gần gũi nhất với ta. Nhiệm vụ của chúng ta là tự giải phóng mình khỏi ngục tù ấy bằng cách trải rộng lòng yêu thương của ta, để ôm trọn tất cả những sinh vật, toàn bộ thiên nhiên và vẻ đẹp của tất cả.” - Albert Einstein - “Hôm nay Thế giới đổi thay! Tôi không nói về thời đại của chúng ta, mà chính xác là nói về ngày hôm nay, về bây giờ. Chuyện đó đã bắt đầu rồi. Bạn có cảm nhận được không? Bạn đang cầm quyển sách này trong tay và Thế giới, và cuộc đời bạn vừa có một bước ngoặt. Hãy nhìn ra bên ngoài... ngay cả không trung cũng có vẻ khác đi, dường như trong trẻo hơn. Nó rung động khác đi. Nhưng bạn đang nhận thức về điều gì vậy?... Về căn phòng quanh bạn ư? Về những âm thanh?... Thoảng qua về những suy nghĩ của chính mình... Và trong lúc này chuyện gì đang xảy ra trong những ngôi nhà lân cận? Và ở thành phố kề bên?... Bên kia địa cầu, có chuyện gì có tầm quan trọng quyết định đang xảy ra không... và ở trong chính bạn? Thế giới thay đổi, bạn biết điều đó. Và bạn biết nhiều hơn là những gì bạn hiểu nãy giờ, vì bạn biết nhiều hơn những điều bạn biết... Đó là sự thật! Vậy thì nếu bạn chờ đợi đọc thấy lại ở đây những điều bạn đã biết, lại nữa, bạn sẽ thất vọng. Ngược lại, nếu những suy nghĩ của bạn tự do, nếu bạn sẵn sàng tin... Nhưng, thật ra thì bạn sẵn sàng đến mức nào để tìm lại... ký ức? Cuộc phiêu lưu lại tiếp tục. Và Anh hùng lần này... là chính bạn! Tiến lên thôi. Cuộc đời không đợi đâu.” ... Mời các bạn đón đọc Những Người Tạo Ra Hiện Thực Tập 2 của tác giả Olivier Lockert.