Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Nam Châm - Bí Mật Của Luật Hấp Dẫn - Jack Canfield & D. D. Watkins
Sách Nói Người Nam Châm - Bí Mật Của Luật Hấp Dẫn - Jack Canfield & D. D. Watkins   Cuốn sách viết về cách hoạt động của Luật hấp dẫn trong cuộc sống của bạn, từ đó bạn có thể hiểu nhiều hơn về bản thân mình - thực ra bạn là ai và tại sao bạn lại ở đây. Cuốn sách này chính là chìa khóa của bạn. Nó có thể mở cánh cửa tới tương lai như bạn mong ước và đưa bạn tới con đường có nhiều niềm vui, sung túc và giàu có hơn. Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ thấy mình được truyền cảm hứng vì bạn nhận ra rằng bạn có thể tạo ra cuộc sống mà bạn khao khát, và bạn sẽ được trao quyền khi sử dụng những công cụ, những chiến lược và những khái niệm cơ bản được chuyển tải trong những trang sách này. *** Những trích dẫn đặc sắc / Những lời nhận xét đặc biệt về sách Bạn là năng lượng Tinh khiết và đơn giản. Bạn được tạo ra từ những thứ giống như mặt trời, mặt trăng và những vì sao. Bạn là tập hợp của một luồng sinh khí có trí tuệ, biết đi, biết nói và tồn tại dưới dạng một cơ thể con người. Bạn được tạo nên từ những tế bào, những tế bào này lại được tạo ra từ các nguyên tử, và các nguyên tử này được tạo ra từ những hạt nhỏ hơn nguyên tử. Những hạt nhỏ hơn nguyên tử đó là gì? Xin thưa, đó chính là NĂNG LƯỢNG! Vạn vật đều là năng lượng. Năng lượng không được tạo ra, cũng không thể phá hủy. Tự nó đã mang tính nhân quả. Nó hiện diện như nhau ở mọi lúc, mọi nơi. Năng lượng chuyển động vĩnh hằng và không bao giờ ngừng nghỉ. Nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, luôn luôn như vậy. SUY NGHĨ SINH RA NĂNG LƯỢNG. Trong vũ trụ này không có gì là thừa cả. Mỗi người có mặt trên cõi đời này vì họ cần lấp đầy một khoảng trống nào đó, và tất cả các mảnh nhỏ đều phải vừa khít với chỗ của nó trong tấm xếp hình khổng lồ của vũ trụ. Deepak Chopra  Bạn được kết nối Bạn được kết nối với vạn vật và với tất cả mọi người. Bạn là một thể độc nhất vô nhị, một thể hoàn chỉnh, một mảnh ghép không thể thiếu trong toàn thể vũ trụ bao la này. Bạn là một trái bóng năng lượng trong một trường năng lượng rộng lớn hơn. Bạn là một phần của nguồn năng lượng lớn lao hơn; bạn là một phần của Chúa. Sự thông thái của cả vũ trụ cũng là của bạn, nếu bạn yêu cầu. Hãy nghĩ tới mạng internet. Bạn không thể nhìn thấy, cũng không thể chạm vào nó, nhưng bạn biết nó có tồn tại. Nó có thực. Nó là một nguồn năng lượng vô hình kết nối tất cả chúng ta với nhau. Bạn cũng được kết nối với mọi người và mọi vật, mọi việc theo cách tương tự như vậy. Đã bao giờ bạn nhận thấy với những người bạn thường xuyên gần gũi, thỉnh thoảng bạn có thể tiếp lời họ, hoặc cả hai bạn có thể nói một câu cùng lúc hay chưa? Đó không phải là sự ngẫu nhiên, mà là sự gắn kết! Đây là ví dụ điển hình cho thấy thật ra chúng ta được kết nối với những người xung quanh mình như thế nào. Tất cả chúng ta, ai cũng từng trải qua chuyện như thế này: khi chúng ta vừa mới bắt đầu nghĩ tới một người mà có thể chúng ta đã không nhìn thấy, hoặc không nói chuyện trong nhiều năm liền thì bỗng vài phút sau chuông điện thoại reo, và họ - người mà chúng ta vừa mới nghĩ tới - đang ở đầu dây bên kia. “Mình vừa mới nghĩ tới cậu xong!”, chúng ta thốt lên kinh ngạc. Thật ra chúng ta đã xuất hiện trong ý định gọi cho chúng ta của họ trước cả khi họ biến ý định đó thành hành động. Suy nghĩ của chúng ta di chuyển qua không gian và thời gian với một vận tốc đáng ngạc nhiên. Thông qua sự kết nối của mình, bạn có thể bắt được nguồn năng lượng từ suy nghĩ và ý định của họ trước khi họ bấm số, mà cũng có thể chính suy nghĩ của bạn về họ đã kích thích họ gọi cho bạn. Nhờ có Luật Hấp dẫn, mỗi người trong chúng ta giống như một thỏi nam châm có sức hút lớn, hấp dẫn được nhiều hơn những gì chúng ta cảm nhận được vào một thời điểm nhất định nào đó. Esther và Jerry Hicks Bạn là một thỏi nam châm Bạn là một thỏi nam châm sống. Bạn hút, theo đúng nghĩa đen của từ này, người, vật, ý tưởng và các tình huống có tần số năng lượng rung động và cộng hưởng như của bạn về phía mình. Trường năng lượng của bạn thường xuyên thay đổi, nó phụ thuộc vào suy nghĩ và cảm xúc của bạn, và vũ trụ giống như một chiếc gương phản chiếu chính xác nguồn năng lượng mà bạn đã tạo ra. Suy nghĩ và cảm xúc của bạn mãnh liệt bao nhiêu thì lực hút sẽ mạnh bấy nhiêu. Quá trình này không đòi hỏi bất kì một sự nỗ lực thật sự nào; nam châm không phải “cố” hút vật - mà đơn giản, nó có đặc tính hút vật. Và bạn cũng vậy! Bạn vẫn luôn trong quá trình hút thứ gì đó vào cuộc sống của mình. Bạn có nhận ra rằng cuộc sống hiện tại của bạn chính là kết quả của mọi thứ mà bạn đã từng nghĩ, từng làm, từng tin tưởng hoặc từng cảm nhận cho tới tận bây giờ hay không? Ngay lúc này, bạn có thể bắt đầu chủ động hấp dẫn, và hấp dẫn một cách trí tuệ, bất cứ thứ gì bạn khao khát trong cuộc sống này. Bằng việc sử dụng Luật Hấp dẫn, bạn có thể hấp dẫn con người, niềm vui, tiền bạc, ý tưởng, chiến lược và cả tình huống - tất cả mọi thứ bạn cần để có thể mang lại cho mình một cuộc sống như bạn mơ ước. Cả con người chúng ta đều là kết quả của những gì chúng ta nghĩ. Đức Phật Bạn có quyền năng Bạn có quyền năng hơn nhiều so với những gì bạn vẫn nghĩ. Bạn đang tạo ra mọi thứ trong cuộc sống của chính bản thân mình. Một khi bạn hiểu thấu đáo điều này và chịu trách nhiệm về nó, bạn có thể làm bất cứ điều gì bạn đặt ra. Bạn là tác giả cuộc đời mình và bạn có thể chọn cho nó bất kì con đường nào bạn thích. Bạn có khả năng thay đổi cuộc sống của bạn. Bạn có khả năng kiến tạo tương lai như bạn mong ước. Tài năng của bạn là vô hạn! Một khi bạn đưa ra quyết định, vũ trụ sẽ hiệp lực với bạn để biến điều đó thành hiện thực. Ralph Waldo Emerson *** Những nội dung khác Jack Canfield là nhà đồng sáng lập, đồng thời là đồng tác giả của seri sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn: Chicken Soup for the Souls gồm 146 câu chuyện đã bán được hơn 100 triệu bản với hơn 47 thứ tiếng trên thế giới. Ông cũng đã phát hành các cuốn sách The Success Principle: How to Get from Where You Areto Where You Want to Be, The Power of Focus và The Aladdin Factor. Mời các bạn đón đọc Người Nam Châm - Bí Mật Của Luật Hấp Dẫn của hai tác giả Jack Canfield & D. D. Watkins.
Dám Ước Mơ - Florence Littauer
Sách Nói Dám Ước Mơ   Rất nhiều người ngỡ rằng ước mơ là những gì xa xôi, ngoài tầm tay với; là những viễn cảnh xa rời thực tại; là kết quả của sự thăng hoa từ cảm xúc và trí tưởng tượng của những người có tâm hồn lãng mạn. Thậm chí, có người còn cho rằng ước mơ chỉ là suy nghĩ viển vông của những ai không có động lực phấn đấu, của những người ngồi đung đưa trên chiếc xích đu ở cổng nhà mà cứ ngỡ mình đang rong chơi cùng các vì sao, của những kẻ xem bói với hy vọng được nghe những điều phán tốt lành cho tương lai, của những người sống trong mộng ảo khi luôn phân tích và tin vào số phận của mình qua những giấc mơ, hoặc của những người mua vé số và mòn mỏi đợi đến ngày con số may mắn kia được xướng lên trong bản tin chiều... Có vẻ như ước mơ không phải là bạn đồng hành thân thiết của chúng ta, mà lại sánh đôi cùng sự Mơ Tưởng hoặc niềm May Mắn. Liệu ước mơ có chút liên quan nào đến những con người trong thế giới thực tại - những người không lãng mạn cùng các vì sao, mây trời; không sống trong tháp ngà của những câu chuyện cổ tích; mà là người luôn phải bôn ba với cuộc sống, nỗ lực tìm kiếm những điều rất thực tế như sự vững chắc trong sự nghiệp, sự thành công trong kinh doanh, niềm hạnh phúc với mái ấm gia đình? Thật ra, ước mơ trong đời thực chính là những mục tiêu mà bạn khao khát đạt được trong cuộc sống của mình. Tuy nhiên, vẫn có một chút khác biệt giữa mục tiêu và ước mơ. Mục tiêu thường cụ thể và rõ ràng. Mục tiêu có thể theo dõi và đánh giá. Mục tiêu có thể kiểm tra và thẩm định quá trình tiến triển. Còn ước mơ sẽ làm tăng thêm cảm xúc sáng tạo cho mục tiêu, mở rộng tầm nhìn cho những định hướng và làm chúng ta thêm hy vọng ở tương lai. Ước mơ sẽ làm cho thực tế cuộc sống thêm phần tốt đẹp và sinh động hơn. Đó cũng là nội dung của cuốn sách Dám Ước Mơ của nữ tác giả Florence Littauer. Cuốn sách được dẫn dắt xuyên suốt bằng câu chuyện về cuộc đời và sự thành công của một phát thanh viên - em trai tác giả. Hy vọng với cuốn sách này, những ai chưa từng ước mơ sẽ nhanh chóng tìm thấy ước mơ của riêng mình; những ai đang nuôi dưỡng ước mơ sẽ củng cố thêm quyết tâm để biến ước mơ trở thành hiện thực; và những ai đã hoàn thành, đã chinh phục được ước mơ của mình sẽ tiếp tục cuộc hành trình tìm kiếm một ước mơ mới. - First News *** Như thường lệ, vào lúc 6 giờ sáng mỗi ngày, phát thanh viên Ron Chapman xuất hiện trên đài phát thanh KVIL và bắt đầu chương trình của mình bằng những câu chuyện hài hước trước khi điểm thông tin, sự kiện trong ngày. Đã hơn 20 năm qua, thính giả ở thành phố Dallas vẫn duy trì được thói quen thức dậy vào lúc 6 giờ, lắng nghe chương trình buổi sáng với Ron Chapman để được khích lệ tinh thần và tìm kiếm sự phấn khởi trước khi bắt đầu một ngày mới. Nhưng buổi sáng ngày 31 tháng 3 năm 1988 thì khác hẳn. Một chương trình phát thanh không giống bất cứ chương trình nào trước đó. Ngay lời mở đầu, Ron đã nói với thính giả của mình rằng: “Tôi muốn mọi người hãy gửi ngay cho tôi 20 đô-la!”. Chỉ một câu thông báo ngắn gọn như thế. Không hứa hẹn! Không giải thích! Cũng không lặp lại nhiều lần! Thoạt đầu, Ron nghĩ chỉ có một vài người gửi tiền, nhưng chính anh cũng không ngờ rằng sáng hôm sau đã có 4.000 chi phiếu và thêm 5.000 nữa vào ngày tiếp theo. Sang ngày thứ ba, anh lên sóng phát thanh và nói với thính giả: “Tôi đã nhận được đủ rồi! Xin các bạn đừng gửi thêm tiền cho tôi nữa. Chúng tôi thậm chí không biết phải làm gì với số tiền này!”. Mặc dù đã thông báo như thế nhưng nhiều người vẫn tiếp tục tìm mọi cách gửi tiền cho Ron. Một số gửi đến địa chỉ nhà riêng của Ron, hoặc năn nỉ nhân viên bảo vệ chuyển giúp số tiền này. Dường như có một sự thôi thúc khiến mọi người cho đi 20 đô-la mà không cần biết lý do. Không biết rõ lý do của Ron nhưng tận trong thâm tâm, những người gửi tiền biết rằng nếu Ron Chapman yêu cầu gửi tiền, thì họ muốn được là một phần trong dự án của anh. Chỉ trong vòng một tuần, Ron đã nhận đến 12.156 chi phiếu với tổng giá trị gần một phần tư triệu đô-la. Lúc đầu, Ron đã nghĩ sẽ trả lại tiền cho mọi người kèm theo một món quà cảm ơn nào đó. Nhưng khi thấy số tiền nhận được ngày càng nhiều, Ron bắt đầu cân nhắc đến các phương án sử dụng số tiền quyên góp này. Sự kiện này đã thu hút giới truyền thông đua nhau vào cuộc. Báo chí và các trạm phát thanh từ khắp mọi miền đất nước bắt đầu liên hệ để được trực tiếp gặp Ron. Điều mà tất cả mọi người đều muốn biết là: “Từ đâu anh nghĩ ra ý tưởng này? Làm sao anh có đủ can đảm đề nghị người khác gửi tiền cho mình mà không nêu bất kỳ lý do chính đáng nào cả?”. Ron kể lại rằng trong một cuộc họp với ban điều hành mới được bổ nhiệm của đài phát thanh KVIL, anh đã trình bày cho họ nghe về những thành tựu trong sự nghiệp trước đây của mình. Họ đã bật cười khi nghe anh nói: “Chúng tôi đã xây dựng KVIL trở thành đài phát thanh được yêu thích nhất tại thành phố Dallas này. Lòng tin mà mọi người dành cho KVIL là rất lớn, đến mức nếu tôi lên sóng KVIL và đề nghị mỗi thính giả gửi cho tôi 20 đô-la, tôi tin rằng nhất định mọi người sẽ làm ngay”. Sự nghi ngờ của ban điều hành chính là thách thức khiến Ron quyết tâm phải thực hiện buổi phát sóng đó, dẫn đến sự kiện quyên góp tiền qua sóng phát thanh vào ngày 31 tháng 3 mà mọi người đã biết. Các đài phát thanh cạnh tranh không khỏi ngạc nhiên trước uy tín của KVIL đối với thính giả. Làm thế nào mà KVIL có thể tạo ra tầm ảnh hưởng sâu rộng đến thế? Giám đốc một trạm phát thanh đối thủ đã phải thừa nhận: “Nếu việc quyên góp này nằm trong kế hoạch quảng bá thì đây quả là một chương trình quảng bá tuyệt vời. Tôi không chắc là mình sẽ gửi cho ai đó 20 đô-la mà không biết lý do cụ thể. Trong suốt nhiều năm làm công việc phát thanh, tôi chưa từng thấy trường hợp nào tương tự”. Ngay cả những tờ báo và tạp chí ở nước ngoài cũng đăng những bài viết đặc biệt về người phát thanh viên đã huy động được 240 ngàn đô-la mà không cần nêu lý do. Thời báo Dallas Times Herald gọi Ron là “Phát thanh viên hàng đầu ở Dallas, huyền thoại của ngành công nghiệp phát thanh, người luôn đem đến niềm vui cho mọi người và là ông vua của chương trình buổi sáng”. Vậy Ron Chapman là ai và đã làm thế nào để đạt được ước mơ của mình? Tôi sẽ kể cho các bạn nghe chi tiết câu chuyện về người đàn ông này, bởi tôi là chị của Ron và là người luôn bên cạnh Ron ngay từ khi em mới sinh ra. Tôi vẫn còn nhớ mẹ tôi đã khóc khi sinh ra em: “Lại thêm một miệng ăn nữa rồi!”. Lúc ấy không ai trong gia đình tôi nghĩ rằng sẽ có một ngày, “cái miệng ăn” ấy có thể đem lại niềm vui cho hàng ngàn người vào mỗi buổi sáng và còn có thể kiếm được nhiều tiền hơn mẹ tôi từng ao ước. Ron đã đem đến những “điều kỳ diệu” không chỉ cho cuộc sống của gia đình tôi, mà còn cho tất cả những ai có cơ duyên được biết đến em. - Florence Littauer Mời các bạn đón đọc Dám Ước Mơ của tác giả Florence Littauer.
Con Người 80/20
Sách Nói Con Người 80/20   Ngày nay những cá nhân sáng tạo và tập thể của họ đang là nguồn động lực mới cho sự phát triển kinh tế, mang đến sự thịnh vượng cho các công ty và các quốc gia. Ở cuốn sách này Richard Koch nêu ra 9 điểm cốt lõi của nguyên lý 80/20 mà mỗi người cần nắm bắt để thành con người 80/20, để thành công trong công việc. Đó là cách để nhận ra sự sáng tạo của bản thân, những ý tưởng mới xuất sắc, những yếu tố sống còn để biến ý tưởng thành nguồn lợi nhuận…Con người 80/20 là những người biết nhận ra những nơi, những điểm của bản thân cần tập trung để chỉ cần nỗ lực 20% nhưng đạt được 80% kết quả và có được cuộc sống hạnh phúc thành đạt. Một nguyên tắc bất ngờ trong kinh doanh và trong xã hội - một vấn đề quan trọng với mỗi cá nhân, lần đầu tiên được khám phá. Con Người 80/20 là tập tiếp theo trong loạt kinh điển bán chạy nhất "Nguyên Lý 80/20" của Richard Koch, lần đầu tiên tập trung vào mối liên hệ giữa sự trổi dậy của các cá nhân và nguyên lý 80/20 - làm thế nào để thành công nhiều hơn với công sức ít hơn. Cách thức cũ là các nhà quản lý làm trung tâm kết hợp, tạo nên tài sản và cơ cấu quản lý. Theo cách thức mới 80/20, những thành phần trung bình được tách ra, các cá nhân sẽ tập trung vào những nhỏ trong hệ thống, những thành phần có quyền năng đặc biệt dẫn đến thành công. Rõ ràng và đơn giản, Richard Koch sẽ hướng dẫn bạn cách làm thế nào để trở thành một con người 80/20 và đạt được những gì bạn luôn luôn mong muốn trong cuộc sống. Ông giải thích chín yếu tố cốt lõi của thành công 80/20 - từ cách làm thế nào để nhận ra bản năng sáng tạo và giàu tưởng tượng của bạn cho đến nhận định những ý tưởng tốt nhất cho doanh nghiệp bạn, từ những yếu tố cần thiết để phát sinh siêu lợi nhuận cho đến làm thế nào để phát triển doanh nghiệp một cách sáng tạo nhằm phát huy toàn bộ tiềm năng của nó.   Koch đưa ra 60 ví dụ thực tế về "những con người 80/20" - một số là những nhân vật nổi tiếng thế giới, một số là những người mà ông quen biết. Tất cả họ đều đã tạo ra một cái gì đó giá trị và có khả năng kiểm soát cuộc sống của chính mình. Đa số họ đều sử dụng hai công cụ: vốn và tập đoàn, nhưng những tập đoàn này làm việc cho các cá nhân chứ không phải ngược lại. Tất cả những con người 80/20 đều hiểu rõ một ý tưởng tuyệt vời nào đó và họ biến đổi nó theo một cách mới độc nhất vô nhị, để lập nên một tổ chức chuyên môn hay một doanh nghiệp lợi nhuận cao, làm giàu bản thân họ và làm phong phú hơn cả thế giới này. *** “Khi việc kinh doanh thay đổi, cá nhân chính là người đem công cụ đến cho công ty”. Philip Harris, CEO, PJM Interconnection “Ngày nay, gần như những bác thợ rèn ở các làng mạc trên thế giới cũng có thể đóng các trục xe ở sân nhà, gắn chúng với nhau và cạnh tranh với General Motors. Và đó là những gì đang diễn ra theo đúng nghĩa đen. Chúng ta có thể chứng minh điều đó qua hệ điều hành Linux”. Paul Maritz, Phó Chủ tịch, Microsoft “Trong tất cả mọi lĩnh vực, đơn vị chủ chốt của sự sáng tạo giá trị chính là cá nhân… logic của những chuỗi giá trị phi xây dựng được bao hàm trong giới hạn của nó: cá nhân những người lao động (đơn vị nhỏ nhất có thể trong một doanh nghiệp) bòn rút những giá trị mà chỉ riêng mình họ tạo ra”. Philip Evans và Thomas S. Wurster, Nhóm Cố vấn Boston “Nếu bạn lấy đi 20 người quan trọng nhất của chúng tôi, chúng tôi sẽ trở thành một công ty không quan trọng nữa”. Bill Gates, Chủ tịch, Microsoft “Vị hoàng đế trong tương lai sẽ là hoàng đế của ý tưởng”. Winston Churchill “Nếu trong tự nhiên có một điều gì khó bị tổn thương hơn những tài sản duy lý khác thì đó chính là sức mạnh của tư duy, hay còn gọi là ý tưởng”. Thomas Jefferson Mời các bạn đón đọc Con Người 80/20: Chín Yếu Tố Cốt Lõi Của Thành Công 80/20 Trong Công Việc của tác giả Richard Koch.
Điều Kỳ Diệu Của Thái Độ Sống - Mac Anderson
Sách Nói Điều Kỳ Diệu Của Thái Độ Sống   Con người sinh ra đều mang những đặc điểm gần giống nhau. Tuy nhiên, mỗi người lại tự “trang bị” cho mình một thái độ sống khác nhau, chính điều này đã tạo nên sự khác biệt lớn trong xã hội.           Theo nghiên cứu của một số nhà tâm lý - xã hội học thì những người được xem là thành đạt và hạnh phúc, tuy có hoàn cảnh, cách nhìn nhận về cuộc sống khác nhau, nhưng lại có một điểm cơ bản rất giống nhau đó là: họ luôn suy nghĩ theo hướng tích cực. Đã có nhiều trải nghiệm cho thấy thái độ sống tích cực là yếu tố vô cùng quan trọng đối với cuộc sống và công việc của chúng ta. Nhưng làm thế nào để luôn duy trì một thái độ “đúng” là điều không dễ thực hiện.           Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là chúng ta không thể học cách tạo cho mình một thái độ tích cực. Cuốn sách Điều Kỳ Diệu Của Thái Độ Sống được Mac Anderson viết ra với mong muốn giúp người đọc xây dựng và hướng đến một cuộc sống đầy lạc quan và hạnh phúc.  Thông qua những câu chuyện thực tế sinh động, những phân tích tâm lý sâu sắc, dễ hiểu, tác giả chuyển tải đến bạn đọc những thông điệp về sống đẹp, sống có ý nghĩa. Nhờ đó bạn sẽ học cách duy trì thái độ sống nhiệt tình, giảm căng thẳng trong công việc và cuộc sống, hiểu được giá trị bản thân và vững vàng mỗi khi gặp khó khăn trên đường đời. Thái độ sống tích cực còn giữ cho tâm hồn bạn luôn tươi trẻ, giúp bạn thể hiện lòng nhân ái và được mọi người quý mến hơn. Sống tích cực không phải là điều khó nhưng không phải ai cũng làm được. Hy vọng rằng quyển sách nhỏ này sẽ giúp bạn xây dựng được cuộc sống mà bạn hằng mơ ước, cũng như giúp những người yêu thương xung quanh bạn thay đổi cuộc đời.   *** “Dù bạn đã chọn cho mình con đường nào đi chăng nữa, hãy đi suốt con đường ấy bằng tất cả lòng đam mê và nhiệt huyết của mình”. Đam mê và nhiệt huyết “Chỉ có lòng đam mê và nhiệt huyết mới có thể làm nên những điều kỳ diệu” - Ralph Waldo Emerson Sau khi làm xong thủ tục nhận phòng khách sạn cho tôi, Sam – một nhân viên tiếp tân, giúp tôi mang hành lý lên phòng. Anh vừa cười vừa bắt chuyện: - Hôm nay trời thật đẹp phải không ông? - Ồ! Quả thật là như vậy! – Tôi gật đầu đáp. - Suốt tuần rồi, tôi ở nhà chơi với mấy đứa cháu. Trông chúng dễ thương lắm ông ạ! – Sam tiếp tục. - Tôi cũng yêu trẻ con lắm. – Tôi cảm thấy thích thú với câu chuyện của Sam nên hỏi thêm: - San ạ! Trông anh vui vẻ thế, chắc là anh vừa có mấy ngày nghỉ đáng nhớ nhỉ? Sam nhìn tôi, nở một nụ cười rồi đáp: - Với tôi, mọi ngày trên đời này đều tuyệt vời ông Anderson ạ! Sau khi cám ơn Sam về sự phục vụ tận tình của anh, tôi khép cửa phòng lại mà trong lòng trào dâng một cảm xúc thật khó tả. Niềm vui, sự yêu đời của người phục vụ vô tình đã truyền cho tôi cảm giác hạnh phúc bất ngờ này. Có lẽ tôi phải cảm ơn anh rất nhiều mới phải, vì lâu rồi tôi mới gặp được một người luôn tin yêu cuộc sống đến thế, và quan trọng hơn là anh đã truyền cho tôi cảm xúc hạnh phúc đó. Trong cách ứng xử với mọi người hằng ngày, bạn có toàn quyền lựa chọn thái độ sống cho mình: hoặc là mang bộ dạng ủ rũ làm ai cũng phát chán, hoặc vui vẻ nhiệt tình khiến mọi người phấn chấn theo. Tất cả đều phụ thuộc vào bạn mà thôi! “Cuộc đời thật kỳ diệu. Nếu chúng ta biết đợi chờ điều tốt nhất, điều đó ắt sẽ đến.” - W. Somerset Maughin Mời các bạn đón đọc Điều Kỳ Diệu Của Thái Độ Sống của tác giả Mac Anderson.