Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Học Siêu Tốc Nhờ Tư Duy Khác Biệt
N ếu bạn đang cố gắng tìm cách cải thiện thói quen học tập, phần nhiều khả năng là do bạn đang có thứ cần phải học, điều này nghĩa là bạn không có thời gian đọc cả núi sách để tìm ra phương pháp học hiệu quả… Thông thường ở cấp trung học và đại học, nhiều giáo viên kỳ vọng bạn sẽ nắm được một phương pháp học tập tốt nhất. Nhưng dường như có rất ít các trường dạy học sinh cách ghi chép bài, và nói cho cùng, hầu hết giáo viên có nhiều tài liệu để dạy hơn số thời gian lên lớp. Kết quả là kỹ năng học hiếm khi trở thành một phần trong giáo án khiến bạn thiếu đi các kỹ năng để phát triển tiềm năng học thuật của bản thân… Nhiều người coi học là một việc đáng sợ. Chỉ các hiểm họa của nó thôi cũng đủ làm hiện hình những cơn ác mộng về những bài kiểm tra hóc búa phải làm, những biểu đồ đồ sộ cần điền và cả một dải ngân hà những con số cần tính toán – tất cả đều được lên lịch cho ngày mai. Thế là quá đủ để bất cứ ai chần chừ hoặc chết non vì quá căng thẳng… Học là điều chỉnh các nhịp độ. Là việc sử dụng não bộ mà không làm bạn phát điên. Nói cách khác, nó là việc tận dụng tối đa tiềm năng của bộ não bằng những kỹ thuật đơn giản giúp bạn thông minh mà vẫn tỉnh táo. Trong nỗ lực khiến bạn trở nên thông minh hết mức có thể theo cách đỡ đau thương và ít tốn thời gian nhất, cuốn sách này sẽ có vai trò thúc đẩy bạn bắt đầu một thứ mà hy vọng sẽ tạo nên một quãng đời chăm chỉ học tập và thành công. Tất cả những điều trên lý giải vì sao bạn nên đọc cuốn sách này. *** H y vọng bạn thấy cuốn sách này hữu ích. Sau khi đã thực sự thử tất cả các gợi ý trong sách trong vài tháng tới mà bạn vẫn thấy mình chẳng tiến bộ mấy, đã đến lúc chuyển sang giai đoạn hai. Ngồi lại với cha mẹ, thầy cô, hoặc người tư vấn và nói về việc tại sao những kỹ năng học ở đây không có tác dụng với bạn. Có thể có những lý do khác mà bạn chưa biết đang khiến các mục tiêu của bạn rời xa khỏi tầm với. Bất kể thế nào, đừng ngồi yên một chỗ. Tìm ra thứ gì đang làm bạn chậm lại và đánh bại nó. Trong mọi thứ bạn làm, hãy vươn tới sự xuất sắc (không phải hoàn hảo nhé, đó là một mục tiêu đáng sợ và phi thực tế cho bất cứ ai) và sau đó làm hết sức để đạt được sự thỏa mãn với sự toàn tâm của mình. Phần sau cùng cũng là phần khó nhất, đòi hỏi vài người trong chúng phải tốn cả đời để có thể làm chủ nó. Ít người có thể đạt giải Nobel, nhưng bằng sự cần mẫn bạn sẽ là người thành công. Mời các bạn đón đọc Học Siêu Tốc Nhờ Tư Duy Khác Biệt của tác giả 1980 Books.
Học Cách Mỉm Cười
H ọc cách mỉm cười – quả đúng như vậy, gấp trang sách lại tôi thấy mình đang mỉm cười. Cảm giác như tôi vừa có một buổi cà phê chuyện trò rất thân tình và ấm áp với tác giả Nguyễn Hoàng Ánh. Trong cuốn sách chị đề cập đến mọi khía cạnh của cuộc sống: từ tuổi mới biết yêu, chập chững vào đời tới hôn nhân, gia đình, con cái, ngoại tình, ly hôn, định kiến xã hội và các mối quan hệ trong công việc. Vấn đề nào chị cũng phân tích rất tỉ mỉ, không kém phần sắc sảo xen lẫn hài hước khiến tôi hoàn toàn bị thuyết phục. Cuốn sách này quả là một món quà quý cho các bạn trẻ thời nay khi có quá nhiều nỗi băn khoăn lo lắng trước các ngã rẽ của cuộc đời. Cuốn sách không phải được viết ra bởi một giảng viên đại học, nó được viết ra từ trái tim và tấm lòng của một người mẹ, người chị khá hiện đại với những góc nhìn mới mẻ đôi khi đi ngược lại với những định kiến xưa cũ. Sự thông minh, thẳng thắn, chân tình và ấm áp là những gì tôi cảm nhận được xuyên suốt cuốn sách. Và nó đã khiến tôi mỉm cười tin rằng cuốn sách sẽ truyền cảm hứng mạnh mẽ tới người đọc và chắc chắn nó sẽ giúp các bạn trẻ nhìn nhận rõ con đường mình sẽ đi. TÂM PHAN Sydney 18/5/2017 *** Lý do để yêu...!? For my daughter and her friends! Con gái yêu của mẹ! T hời gian trôi thật nhanh, thấm thoắt con đã 18 tuổi. Mới ngày nào con còn là em bé nhỏ xíu, sinh ra có 3,05 cân. So với thành tích của bà ngoại: sinh mẹ là con đầu lòng nặng 3,5 cân, cậu con là 3,8 cân, còn cô Út là 4,05 cân – ôôôôôôô!!!), thì mẹ con mình quả là khiêm tốn. Con là con đầu lòng của bố mẹ nên dù còn rất khó khăn nhưng tình cảm bố mẹ dành cho con thì không lời nào nói hết. Con có lẽ cũng cảm nhận được điều đó nên ngay từ đầu đã ra sức “bắt nạt” bố mẹ. Con khó ăn, khó ngủ, không theo ai cả trừ mẹ ra nhưng bố mẹ không một lời than phiền. Lúc ấy cuộc sống chưa bận rộn lắm nên bố mẹ có nhiều thì giờ dành cho con, điều mà em con không có được. Mẹ cứ ngồi ngắm con hàng giờ không biết chán. Còn bố con thì mỗi điều con muốn đều là mệnh lệnh, làm mẹ phát bực vì “phản sư phạm”quá. Cũng may, con khỏe mạnh, cứng cáp và nhanh nhẹn. Hồi đó, bố con hay đi công tác nên chủ yếu chỉ có hai mẹ con mình sống với nhau. Đã bao lần mẹ nhìn con mà tự nhủ: “Nhờ có con mẹ mới vượt qua được bao khó khăn, buồn khổ của cuộc đời để bước tiếp. Mong hai mẹ con mình sẽ bên nhau suốt đời.” Rồi con lớn lên, dần trở thành người trợ giúp cho mẹ trong nội trợ, chăm sóc em,... Con và mẹ còn cùng sẻ chia niềm đam mê với âm nhạc, văn học. Mẹ vẫn hi vọng chúng ta sẽ luôn bên nhau, là bạn của nhau suốt đời. Vẫn biết cuộc đời bên ngoài nhiều gió mưa bão tố, nhưng mẹ vẫn mong đôi cánh nhỏ nhoi của mẹ sẽ che chở cho con được dài lâu. Mẹ đã rèn giũa để con tự lập được, nhưng bản năng người mẹ trong mẹ lại không ngừng bao bọc con. Song chúng ta không cưỡng lại được quy luật của cuộc sống. Con giờ đã 18 tuổi, lớn bổng thành một thiếu nữ. Nhìn con xúng xính trong tấm áo dài, xỏ chân vào đôi giày cao gót – quà tặng của bố mẹ nhân ngày con tốt nghiệp phổ thông – mẹ biết là con đã không còn chỉ muốn nằm trong vòng tay mẹ nữa. Con đã biết mong chờ lời khen từ nhiều người bạn khác giới, và rồi từ một người đặc biệt nào đó. Con biết yêu! Cũng từng là thiếu nữ, mẹ hiểu sự diệu kỳ cũng như khó khăn của quãng thời gian ấy và cảm xúc ấy, nhưng thật khó để truyền đạt lại cho con. Tuổi trẻ luôn đầy kiêu hãnh và cũng đầy tự ái, tuổi trẻ cũng cho rằng mình có con đường của riêng mình. Làm sao để làm con tin rằng những gì con cảm nhận bây giờ, trước con và sau con, triệu triệu cô gái đều cảm thấy. Nhưng số những người tìm được hạnh phúc từ cái gọi là cảm xúc “yêu” ấy lại vô cùng ít ỏi. Có muôn vàn những xúc cảm mong manh khiến người ta khởi sự “yêu” một người, chẳng hạn như: #1 Tự dưng thấy “thinh thích” khi “người ấy” nhìn mình. #2 Tự dưng đỏ mặt khi bắt gặp ánh mắt người ấy. #3 Tự dưng tim đập dồn dập vì một cử chỉ quan tâm. #4 Tự dưng thấy nhơ nhớ khi không gặp “người ta”. #5 Trước mặt người ta bỗng muốn chải chuốt điệu đàng, không còn ăn mặc, nói năng thoải mái như trước nữa. #6 Khi bước vào cả lớp học đầy người nhưng lại thấy vô cùng trống trải khi “người ta” không có ở đấy! #7 Lắm khi, vì một lý do rất “chuối củ” là “chúng nó” có đôi hết rồi mà mình thì “một mình”! #8 Vì “đối tượng” đẹp trai (bây giờ có vẻ quá phổ biến). #9 Bên “người ta” mình tự dưng thấy như bay bổng vậy, hạnh phúc vô cùng. #10 Tổng kết lại, “chỉ vì mình đã lớn”, như bài thơ của Nguyễn Bính đã nói hộ tâm tình:   “Năm xưa em bé tuổi mười ba Em được mẹ yêu quý nhất nhà Sống giữa tình thương thơ mộng quá Tháng ngày mê mẩn bướm cùng hoa   Em ngoan ngoãn lắm, rất vâng lời Thỉnh thoảng chỉ hay hờn mát thôi Mẹ cười âu yếm: “Sau khôn lớn Đi lấy chồng rồi dỗi với ai?”   Em ghét từ lâu chuyện lấy chồng Một mình có phải nhẹ nhàng không? Tha hồ thơ thẩn, tha hồ rảnh Chẳng phải vì ai đợi - chờ - mong   Không biết làm sao phải lấy chồng? Dại gì đi ở với đàn ông Xa mẹ xa cha, thôi em chịu Không lấy chồng đâu, nhất định không...   Năm nay em đã lớn khôn rồi Mái tóc chùng buông chấm quá vai Ửng chín dậy thì trên má lúm Nụ cười duyên dáng dưới đôi môi   Nghĩ chuyện năm xưa lại nực cười Em ngây thơ quá chẳng bằng ai Khóc cười giận dỗi vô duyên thế Có biết gì đâu - nũng nịu hoài   Em ghét từ lâu chuyện lấy chồng Một mình có phải nhẹ mình không Tha hồ thơ thẩn, tha hồ rảnh Không khổ vì ai, chẳng nhớ nhung   Cứ sống cô đơn thế khỏi phiền Chiếu dài giường rộng chẳng ai chen Không, em nhất định, không đâu nhé Em hứa rằng không đấy, đợi xem   Soi gương bỗng thấy tóc em dài Vương vương rủ xuống rối bên vai Hững hờ lấy lược ra toan gỡ Nhưng gỡ làm chi - đẹp với ai   Đã bảo rằng em thích độc thân Mà lòng riêng vẫn cứ bâng khuâng Ô hay! Lạ quá làm sao thế Rõ ghét ông trời đến oái oăm...” (Bài thơ Không biết làm sao phải lấy chồng) Nói cho cùng, theo bài thơ ấy thì con gái mẹ bây giờ đã lớn lắm rồi. Các con may mắn hơn thời xưa, được tự do yêu đương trước khi lấy chồng. Nhưng tình yêu cũng là một chuyến hành trình đầy gian nan và rủi ro. Vì vậy, mẹ mong rằng trước khi bước vào chuyến đi hệ trọng ấy, con và các bạn con hãy dừng lại đôi chút, nghĩ xem “Vì sao mình lại muốn yêu người ấy?” Ở tuổi các con, chuyện tình cảm còn mang nhiều yếu tố cảm tính. Mà tình yêu lại là hành trình một chiều, khi con đã bắt đầu bước chân lên chuyến hành trình ấy thì sẽ không bao giờ quay lại điểm khởi đầu được nữa. “Tình yêu đầu tiên – Trò chơi cuối cùng”. Đừng để trò chơi ấy lấy đi sự vô tư, trong trẻo của con nếu con không chắc về tình cảm của cả hai bên. Hãy nghĩ xem, người bạn trai của con và cả con nữa, có thể dành cho nhau những tình cảm giống như câu chuyện dưới đây không: Một cô gái hỏi bạn trai của mình: - Tại sao anh yêu em? - Sao em lại hỏi như thế, sao anh tìm được lý do chứ! - Chàng trai trả lời. - Không có lý do gì tức là anh không yêu em. - Em không thể suy diễn như thế được. - Nhưng bạn trai của bạn em luôn cho cô ấy biết lý do anh ta yêu cô ấy. - Thôi được, anh yêu em vì em xinh đẹp, giỏi giang, nhanh nhẹn. Anh yêu em vì nụ cười của em, vì em lạc quan. Anh yêu em vì em luôn quan tâm đến người khác. Cô gái cảm thấy rất hài lòng. Vài tuần sau cô gặp phải một tai nạn khủng khiếp, nhưng rất may cô vẫn còn sống. Bỗng nhiên cô trở nên cáu kỉnh vì cô thấy mình vô dụng. Vài ngày sau khi bình phục, cô nhận được lá thư từ bạn trai của mình: “Chào em yêu! Anh yêu em vì em xinh đẹp. Thế thì với vết sẹo trên mặt em bây giờ anh không thể yêu em được nữa. Anh yêu em vì em giỏi giang, nhưng bây giờ em có làm được gì đâu. Vậy thì anh không thể yêu em. Anh yêu em vì em nhanh nhẹn, nhưng thực tế là em đang ngồi trên xe lăn. Đây không phải lý do giúp anh có thể yêu em. Anh yêu em vì nụ cười của em. Bây giờ anh không thể yêu em nữa vì em lúc nào cũng cau có, than vãn. Anh yêu em vì em quan tâm đến người khác, nhưng bây giờ mọi người lại phải quan tâm đến em quá nhiều. Anh không nên yêu em nữa. Đấy, em chẳng có gì khiến anh phải yêu em, vậy mà anh vẫn yêu em. Em có cần lý do nào nữa không, em yêu?!” 1 1 Truyện sưu tầm Internet. Cô gái bật khóc, và chắc chắn cô không cần một lý do nào nữa. Còn các bạn có bao giờ hỏi những người thân của mình vì sao họ yêu bạn không? Tình yêu đôi khi không nhất thiết phải cần lý do đâu bạn ạ! Đúng, tình yêu không cần lý do. Nó chỉ cần tình cảm và sự hi sinh cho nhau, cần trách nhiệm và cam kết với nhau, cùng vô vàn điều khác nữa mà người ta chỉ có được khi đã trưởng thành. Vì vậy, mẹ không cấm cản khi các con có những “vấn vương”, nhưng mong các con hãy giữ đúng giới hạn để tình cảm và cả cuộc sống của các con được tươi vui, trong trẻo như nó đáng có. Nhớ rằng: “Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái, Hoa nồng hương mà trái lắm khi chua.”2 2 Trích từ bài thơ của nhà thơ Tôn Nữ Thu Hồng (1922-1948) được giới thiệu trong “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh - Hoài Chân, Đinh Tị và Nxb Văn học, 2013. Chúc con và các bạn cùng lứa tuổi có được một tuổi trẻ vui tươi và một tình yêu đẹp! Mời các bạn đón đọc Học Cách Mỉm Cười của tác giả Nguyễn Hoàng Ánh.
Hành Trình Tới Thành Công
CÙNG JOHN C. MAXWELL CHINH PHỤC THÀNH CÔNG J ohn C. Maxwell là một guru, một diễn giả bậc thầy đồng thời là một tác giả nổi tiếng chuyên viết về nghệ thuật lãnh đạo với hơn 16 triệu bản sách bán ra trên toàn thế giới. Cùng với công ty INJOY và EQUIP của mình, John C. Maxwell đã đào tạo cho trên hai triệu nhà lãnh đạo trên toàn thế giới. Hàng năm, ông được mời tới nói chuyện tại các công ty hàng đầu trong danh sách Fortune 500, với nhiều nhà lãnh đạo chính phủ trên thế giới và những tổ chức như Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point. Là một trong 25 tác giả và nghệ sĩ nổi tiếng nhất trên website sách trực tuyến nổi tiếng Amazon.com, các sách của John C. Maxwell được đánh giá rất cao và liên tục xếp trong danh sách best-seller của các tạp chí hàng đầu thế giới như: New York Times, Wall Street Journal, Business Week,… Các cuốn sách của ông đã được dịch và bán hơn 16 triệu bản tại nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, sau thành công của một số cuốn sách như: Phát triển kỹ năng lãnh đạo (Developing the Leader Within You), 21 nguyên tắc vàng của nghệ thuật lãnh đạo (21 Irrefutable Laws of Leadership), Nhà lãnh đạo 3600 (3600 Leader), Tinh hoa lãnh đạo (Leadership Gold)..., Alpha Books tiếp tục xuất bản và giới thiệu đến bạn đọc các cuốn sách giá trị khác của ông. Trong các cuốn sách này, John Maxwell chia sẻ thêm với độc giả những bí quyết để không ngừng hoàn thiện bản thân và tiến triển trên con đường trở thành nhà lãnh đạo xuất sắc. Để đạt được điều này, bạn không chỉ cần phong thái lãnh đạo, năng lực chuyên môn mà còn phải thấu hiểu nghệ thuật thu hút và khiến mọi người muốn đi theo (Thuật đắc nhân tâm). Khát vọng hướng tới thành công của mỗi người không thể thực hiện nếu thiếu lòng kiên trì, xác định đúng mục tiêu và mang theo hành trang cần thiết, bởi vì, mỗi thành công chính là một cuộc hành trình (Hành trình tới thành công). Và khi đã tập hợp được mọi người quanh mình, đặt rõ mục tiêu rồi thì một yếu tố không thể thiếu trong thành công của một nhà lãnh đạo chính là khả năng làm việc nhóm (17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm). Với vai trò là Trung tâm phát triển đào tạo quản lý, ITD Việt Nam tin tưởng rằng tác phẩm và tư tưởng của ông sẽ giúp các nhà lãnh đạo quản lý nói riêng và mọi người nói chung hoàn thiện và thành công hơn. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả. ITD Việt Nam và Alpha Books *** T ôi nhận thấy hầu hết mọi người đều thụ động trước những gì xảy ra trong cuộc sống. Chỉ rất ít người tự quyết định được những điều diễn ra trong cuộc sống của bản thân. Chỉ duy trì cuộc sống thôi thì chưa đủ. Trong cuốn sách này, John C. Maxwell sẽ chia sẻ với chúng ta một số kinh nghiệm hữu ích để có thể tác động nhiều hơn tới cuộc sống thay vì để cuộc sống trôi qua vô vị. Ngoài những công việc quan trọng và đầy cảm hứng, John Maxwell đã làm việc trong nhà thờ một quãng thời gian đủ để nhận thấy rằng có rất nhiều người đang tìm kiếm một bản kế hoạch chi tiết để thành công trong cuộc sống. Trong những trang sách tiếp theo, chúng ta sẽ được thấy sự hiểu biết sâu sắc và uyên thâm của nhà lãnh đạo tài ba này. Trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng The Accidental Tourist (Vị khách tình cờ) tác giả Anne Tyler đã kể về một cặp vợ chồng có con trai duy nhất bị sát hại. Sự kiện này đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của hai vợ chồng họ, khiến họ càng ngày càng trở nên xa cách. Cuối cùng, họ đã phải ly hôn. Người vợ đã vô cùng tức giận và nói với chồng: “Suốt cuộc đời mình, anh chỉ là một kẻ buông xuôi.” Người chồng lặng im trong giây lát và nhẹ nhàng đáp lại, dường như là cho chính mình hơn là cho người vợ: “Tôi không buông xuôi. Tôi chỉ là kẻ cam chịu.” Chúng tôi nhận thấy có rất nhiều người cũng có cảm nhận như thế về cuộc sống. Những gì trong cuốn sách này chính là bản kế hoạch chi tiết cho cuộc hành trình tìm kiếm thành công của chính tác giả. Những kế hoạch của John được trình bày rõ ràng và tạo cảm hứng cho bạn trong quá trình thực hiện ước mơ của mình. Tôi tin rằng sức mạnh lớn nhất trên thế giới này chính là sức mạnh của tư tưởng. Nếu ước mơ của bạn được Chúa trời ban cho, bạn chỉ cần sử dụng sức mạnh huyền bí của nó là có thể chinh phục được những mục tiêu khó khăn. John Maxwell sẽ chỉ cho chúng ta thấy cách thức để thực hiện được điều đó. Trước hết, phải thấy được ước mơ, mục đích sống và các mục tiêu của mình. Sau đó, bạn sẽ trưởng thành cùng ước mơ đó và khai thác tối đa tiềm năng của mình. Trong quá trình đó, hãy tác động tích cực tới cuộc sống của người khác, những người sẽ bắt đầu khám phá ra sức mạnh của ước mơ và những kế hoạch chi tiết để đi đến thành công trong cuộc sống. Tôi tin, với cuốn sách chứa đựng tâm huyết của một mục sư vĩ đại, bạn sẽ có được những bước ngoặt trong cuộc đời, những bước ngoặt sẽ mở ra cho bạn con đường đi tới thành công. Đó sẽ là những bước ngoặt giúp bạn thoát khỏi sự yếu đuối để trở nên lạc quan và chiến thắng. Nó sẽ giúp bạn đi từ thành công này tới thành công khác, thậm chí sẽ đạt tới những thành quả cao hơn mức bạn từng mong đợi. Những nguyên tắc cho cuộc hành trình tìm kiếm thành công đều ở đây. Hãy đọc, hãy tin và hãy áp dụng chúng, bạn sẽ thấy được sự hiệu quả của những nguyên tắc đó. ROBERT H. SCHULLER Nhà thờ lớn Crystal, Garden Grove, California *** John C. Maxwell là nhà sáng lập của Tập đoàn INJOY, một tổ chức giúp mọi người phát huy tối đa tố chất cá nhân và tiềm năng lãnh đạo. Ông là tác giả của một loạt cuốn sách nằm trong danh sách bán chạy của New York Times, cũng là sách bán chạy trên bảng xếp hạng của Business Week. Các tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Hành Trình Tới Thành Công Tôi Tư Duy Tôi Thành Đạt Phát Triển Kỹ Năng Lãnh Đạo 21 Nguyên Tắc Vàng Của Nghệ Thuật Lãnh Đạo 21 Phẩm Chất Vàng Của Nhà Lãnh Đạo Nhà Lãnh Đạo 360° Lãnh Đạo Giỏi Hỏi Câu Hỏi Hay 15 Nguyên Tắc Vàng Về Phát Triển Bản Thân 101 Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Mối Quan Hệ 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Lãnh Đạo 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Tự Phát Triển 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Cố Vấn 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Thành Công 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Làm Việc Nhóm 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Thái Độ 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Trang Bị 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Cuốn Sách Nhỏ Cho Nhà Lãnh Đạo Lớn Nghệ Thuật Kết Nối Đỉnh Cao Trong Giao Tiếp Thuật Đắc Nhân Tâm 17 Nguyên Tắc Vàng Trong Làm Việc Nhóm Dám Ước Mơ, Biết Thực Hiện Nhà Lãnh Đạo Giỏi Giải Quyết Vấn Đề Như Thế Nào? Để Trở Thành Nhà Lãnh Đạo Quần Chúng Xuất Sắc Kỹ Năng Lãnh Đạo ... Mời các bạn đón đọc Hành Trình Tới Thành Công của tác giả John C. Maxwell.
Chiến Thắng Nỗi Lo Và Sự Căng Thẳng
T ất cả chúng ta không ai là không lo lắng. Nhiều nỗi lo chỉ kéo dài trong chốc lát và tan biến mà không cần nhiều nỗ lực để gạt bỏ chúng đi. Nhưng khi nỗi lo cứ dai dẳng, nó có thể cướp đi mất sinh lực, sự nhiệt thành, nguồn năng lượng và đưa chúng ta tới chỗ suy sụp về tinh thần và thể chất. Các bác sĩ đã chỉ ra rằng lo lắng mãn tính là tác nhân đứng đằng sau nhiều căn bệnh, chẳng hạn như hen suyễn, dị ứng, tim mạch, huyết áp cao và nhiều thứ bệnh tật khác không thể kể hết. Tâm trí lo lắng khiến ta bối rối, mất tập trung và suy nghĩ vu vơ về nhiều thứ không có thực. Chúng ta có thể đẩy lùi nỗi lo bằng cách rèn luyện tâm trí mình tập trung vào sự hài hòa, sự an bình, nét đẹp, hành động đúng đắn, tình yêu thương và sự cảm thông – thông qua việc thay thế những suy nghĩ tiêu cực bằng những suy nghĩ có ích. Nỗi lo lấy đi ánh sáng trong cuộc đời của chúng ta. Cách duy nhất để vượt qua bóng tối là bật đèn lên. Ánh sáng làm tan biến bóng tối tương tự như ánh dương làm tan biến màn sương mù. Khi bị vây bọc bởi nỗi lo, tất cả những gì chúng ta có thể làm là bật chiếc đèn trong chính tâm trí mình. Chúng ta phải tự nhắc nhở bản thân rằng mình có đủ sức mạnh để vượt qua những vấn đề mà mình đang lo lắng. Chúng ta phải tái khẳng định niềm tin vào bản thân. Chúng ta phải học cách tháo tung những nỗi lo, đặt chúng dưới ánh sáng của lý trí, mổ xẻ chúng và chia chúng ra thành từng mảnh nhỏ rồi tự hỏi: “Chúng có thực không? Chúng từ đâu đến? Nỗi lo này có sức mạnh không? Có nguyên tắc nào đằng sau chúng không?”. Chúng ta phải xử lý chúng bằng những suy nghĩ dựa trên lý trí. Cách này sẽ chia nhỏ những nỗi lo ra và giúp chúng ta nhận biết rằng chúng chỉ là những khoảng tối trong tâm trí mình, không thực và chỉ là ảo tưởng. Không thực, chỉ là những khoảng tối trong tâm trí. Bóng tối không có sức mạnh; vì nỗi lo là bóng tối trong tâm trí của mình nên nó cũng không có sức mạnh, không theo nguyên tắc, và đằng sau nó cũng không chứa đựng sự thật nào. Chẳng vì lẽ gì mà người ta phát lo vì cái bóng tối không có thực đó. Chúng ta phải thay những nỗi lo bằng những suy nghĩ tích cực và lặp đi lặp lại những suy nghĩ đó cho tới khi tâm trí nắm bắt được sự thật, từ đó giải phóng chúng ta và giúp chúng ta tiến lên. Nó đòi hỏi một chút công sức, nhưng chúng ta có thể làm được. Chúng ta phải quyết tâm làm điều này. Chúng ta phải tự nhủ: “Mình sẽ chiến thắng nó. Mình sẽ đối mặt với nó. Nó là bóng tối trong tâm trí mình, và mình sẽ không cho nó sức mạnh”. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ xem xét nhiều thứ khiến chúng ta lo lắng. Chúng ta sẽ xem xét những nỗi lo phát sinh trong đời sống hàng ngày và trong công việc của mình. Chúng ta sẽ thảo luận về cách giải quyết căng thẳng, cách phòng tránh suy kiệt, cách phát triển và duy trì thái độ tích cực để từ đó giúp thay thế nỗi lo bằng những suy nghĩ và hành động khẳng định. Để tận dụng được tối đa lợi ích từ cuốn sách này, trước hết, hãy đọc toàn bộ các chương để hiểu được khái niệm chung về giải quyết nỗi lo và sự căng thẳng… Sau đó hãy đọc lại từng chương và bắt đầu áp dụng những nguyên tắc hướng dẫn để thành công trong từng lĩnh vực được nêu ra trong đó. Chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn tránh khỏi những nỗi lo, nhưng chúng ta có thể giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực của nó, biến lo lắng thành hành động tích cực, giúp chúng ta sống hạnh phúc hơn, có đời sống phong phú hơn. Tiến sĩ Arthur R. Pell *** Tủ Sách Thành Công Của Dale Carnegie gồm có: 10 Bước Để Có Cuộc Sống Trọn Vẹn Thay Đổi Để Thành Công Chiến Thắng Nỗi Lo Và Sự Căng Thẳng ... *** Dale Breckenridge Carnegie (24 tháng 11 năm 1888 – 1 tháng 11 năm 1955) là một nhà văn và nhà thuyết trình Mỹ và là người phát triển các lớp tự giáo dục, nghệ thuật bán hàng, huấn luyện đoàn thể, nói trước công chúng và các kỹ năng giao tiếp giữa mọi người. Ra đời trong cảnh nghèo đói tại một trang trại ở Missouri, ông là tác giả cuốn Đắc Nhân Tâm, được xuất bản lần đầu năm 1936, một cuốn sách thuộc hàng bán chạy nhất và được biết đến nhiều nhất cho đến tận ngày nay. Ông cũng viết một cuốn tiểu sử Abraham Lincoln, với tựa đề Lincoln con người chưa biết, và nhiều cuốn sách khác. Carnegie là một trong những người đầu tiên đề xuất cái ngày nay được gọi là đảm đương trách nhiệm, dù nó chỉ được đề cập tỉ mỉ trong tác phẩm viết của ông. Một trong những ý tưởng chủ chốt trong những cuốn sách của ông là có thể thay đổi thái độ của người khác khi thay đổi sự đối xử của ta với họ. Các tác phẩm của Dale Carnegie: 40 Gương Thành Công Đắc Nhân Tâm 90 Giây để thu hút bất kỳ ai Quẳng Gánh Lo Đi và Vui Sống Bằng Hữu Chi Giao 10 Bước Để Có Cuộc Sống Trọn Vẹn Thay Đổi Để Thành Công Chiến Thắng Nỗi Lo Và Sự Căng Thẳng ... Mời các bạn đón đọc Chiến Thắng Nỗi Lo Và Sự Căng Thẳng của tác giả Dale Carnegie.