Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vết Nhơ Của Người

Coleman Silk, một giáo sư đại học đáng kính, hẳn đã không bao giờ ngờ được rằng sau gần nửa thế kỷ qua mặt cả thế giới với một bí mật vĩ đại, cuộc đời ông lại bị hủy hoại bắt đầu từ một lời buộc tội ngớ ngẩn và dối trá: tội phân biệt chủng tộc. Vết nhơ của người là một bi kịch lạ thường, một kiệt tác đầy trăn trở về con người bị nghiền nát bởi những nỗi ám ảnh đạo đức và thanh tẩy của kẻ khác. Tràn ngập những hồi tưởng, những đối thoại, những suy nghĩ đẩy cốt truyện xuống hàng hầu như thứ yếu, nhạo báng pha trộn với trắc ẩn, lạnh lùng đặt kế bên cuồng nộ, Vết nhơ của người đã viết về thân phận con người với một sự mãnh liệt có thể khiến người đọc nghẹt thở. Lần theo cuộc đời đáng kinh ngạc của giáo sư Silk, Philip Roth, bằng một bút lực chưa bao giờ thất bại trong việc biến tác phẩm của mình trở thành một trải nghiệm đọc vừa thử thách vừa khoan khoái, đã đặt ra những câu hỏi quyết liệt về những thứ nhãn dán mà xã hội áp đặt lên con người, thậm chí cả về cái ranh giới phân chia thiện-ác mà từ lâu đã hằn sâu trong nhận thức nói chung. *** AI CŨNG BIẾT Chính vào mùa hè năm 1998 ấy mà ông hàng xóm Coleman Silk của tôi - ông này, trước khi nghỉ hưu cách nay hai năm, vốn là giáo sư môn văn học Hy La ở Đại học Athena trong thị trấn suốt hơn hai chục năm sau đó làm chủ tịch hội đồng giảng viên thêm mười sáu năm nữa - tâm sự với tôi rằng, ở tuổi bảy mốt, ông đang dan díu với một cô lao công ba mươi tư tuổi đang làm việc ở trường. Ngoài ra hai lần một tuần cô còn lau dọn trạm bưu điện thị trấn, một căn chòi gỗ nhỏ xám xịt trông cứ như nó từng che chở một gia đình dân ngụ cư tới từ Oklahoma khỏi những cơn bão cát hồi thập niên 1930 và, đứng một mình lẻ loi đối diện trạm xăng và cửa hàng tạp hóa bên kia đường, nó giương cao lá cờ Mỹ tại giao lộ của hai con đường sầm uất nhất cái thị trấn phố núi này. Coleman thấy cô lần đầu tiên khi cô đang lau sàn trạm bưu điện một ngày nọ ông ghé vào, vài phút trước giờ đóng cửa, để nhận thư từ - một phụ nữ gầy, cao, góc cạnh với mái tóc vàng nhuốm bạc cột gọn thành túm đuôi ngựa sau gáy và có nét mặt như tạc, kiểu tạc thô, thường đi liền với những bà vợ lam lũ, sùng đạo đã nếm trải những buổi đầu vất vả của miền New England, mẫu phụ nữ thuộc địa khắc khổ bị khóa chặt trong nền luân lý thống trị thời đó và tuân theo nó. Tên cô là Faunia Farley, và dù những nỗi khốn khổ mà cô phải chịu đựng là gì đi chăng nữa thì cô cũng giấu kín chúng đằng sau cái kiểu mặt xương xương vô hồn như thể nó che chẳng giấu điều gì mà chỉ toát lên một nỗi cô đơn mênh mông. Faunia sống trong một căn phòng tại trại bò sữa địa phương nơi cô phụ việc vắt sữa để trừ tiền thuê trọ. Cô từng theo học trung học trong hai năm. Mùa hè mà Coleman tâm sự với tôi về Faunia Farley và bí mật của họ cũng là mùa hè mà, khá trùng hợp, bí mật của Bill Clinton được hé lộ tới từng chi tiết đáng xấu hổ cuối cùng - từng chi tiết đời thực cuối cùng, sự sống động, giống như sự nhục nhã, ứa ra từ sự cay độc của cái dữ kiện cụ thể. Chúng ta chưa từng có quãng thời gian nào như thế kể từ vụ người ta vớ được ảnh khỏa thân của tân Hoa hậu Mỹ trên một số báo Penthouse cũ, những bức ảnh chụp cô ta tao nhã tạo dáng trong tư thế quỳ và nằm ngửa đã buộc cô thiếu nữ bị ô danh đó phải trả lại vương miện mà tiến bước trở thành một ngôi sao nhạc pop lớn. Năm chín mươi tám ở New England là một mùa hè của hơi ấm và ánh nắng tuyệt vời, còn ở môn bóng chày là một mùa hè của trận chiến huyền thoại giữa một nam thần home run da trắng với một nam thần home run da nâu*, còn trên cả nước Mỹ thì là mùa hè hơi nồng lòng mộ đạo, hơi nồng sự thanh khiết, khi chủ nghĩa khủng bố - vốn đã trở thành mối đe dọa bao trùm đối với an ninh quốc gia - được nối tiếp bằng trò mút c.., và một ông tổng thống trung niên trẻ trung, sung mãn với một nhân viên hăm mốt tuổi trơ tráo, đắm đuối chơi nhau trong Phòng Bầu dục như hai đứa mới lớn trong bãi đậu xe làm sống lại niềm đam mê cộng đồng cổ xưa nhất của nước Mỹ, về mặt lịch sử có lẽ là lạc thú bội bạc và tai hại nhất: sự đê mê của thói cao đạo. Trong quốc hội, trên báo chí, và trên các trang mạng, đám tởm lợm công chính thích gây chú ý, điên cuồng kết tội, lên án, và trừng phạt, hùng hồn lớn tiếng dạy đời khắp nơi: tất cả chìm trong một cơn cuồng loạn có tính toán với cái tinh thần mà Hawthorne (người, hồi thập niên 1860, sống cách chỗ tôi chẳng mấy dặm) đã nhận ra từ buổi đầu non trẻ của đất nước rất lâu về trước, chính là “sự ngược đãi”; tất cả bọn họ đều hăm hở tiến hành những nghi thức thanh tẩy khắc nghiệt sẽ cắt đứt con cu chổng ngược ra khỏi ngành hành pháp, nhờ đó khiến mọi chuyện trở nên thoải mái và an toàn đủ cho cô con gái mười tuổi của Thượng nghị sĩ Lieberman lại có thể ngồi xem ti vi với ông bố xấu hổ của nó. Không, nếu bạn chưa sống qua năm 1998, bạn không hiểu được thói cao đạo nghĩa là gì đâu. William F. Buckley, nhà bình luận cánh hữu được in ở một loạt các báo, viết, “Khi Abelard* làm điều đó, người ta có thể ngăn không cho nó tái diễn,” bóng gió rằng việc làm sai trái của tổng thống - ở chỗ khác Buckley lại gọi đó là “thói dâm dục vô độ” của Clinton - có thể được cứu vãn tốt nhất không phải bằng một biện pháp hiền lành như luận tội mà, tốt hơn là, bằng kiểu trừng phạt thời trung cổ đã được dành cho giáo sĩ Abelard do đám đồng sự thích giương dao của tay bạn đồng tu với Abelard, giáo sĩ Fulbert, thực hiện, vì cái tội lén lút quyến rũ và kết hôn với cháu gái của Fulbert, trinh nữ Héloise. Không như giáo lệnh của Khomeini kết án tử cho Salman Rushdie, ước muốn thiết tha của Buckley mong được thấy đòn trừng phạt bằng thiến hoạn nhằm răn đe này không kèm theo mối lợi tiền bạc cho bất kỳ thủ phạm tương lai nào. Tuy nhiên, nó được thúc đẩy bởi một tinh thần nghiêm nhặt không kém tinh thần của vị đại lão giáo chủ nọ, và nhân danh những lý tưởng không kém phần cao đạo. Đó là mùa hè ở Mỹ khi mà cảm giác buồn nôn trở lại, khi mà trò đùa cợt không ngừng lại, khi mà những suy đoán và đặt giả thuyết này nọ và lối nói cường điệu không ngừng lại, khi mà nghĩa vụ giải thích cho con cái về cuộc sống của người lớn bị gác lại để duy trì trong đầu óc chúng mọi ảo tưởng về cuộc sống người lớn, khi mà sự nhỏ mọn của con người đơn giản là nghiền nát tất cả, khi mà một thứ ma quỷ đã sổng chuồng trong đất nước và, ở cả hai phe, người ta ai nấy đều băn khoăn “Tại sao chúng ta lại điên đến thế?” khi đàn ông cũng như đàn bà, lúc thức dậy vào buổi sáng, khám phá ra rằng hồi đêm, trong một giấc ngủ đã đưa họ đi xa hơn nỗi ghen tị và thù ghét, họ đã mơ tới vẻ trơ tráo của Bill Clinton. Còn tôi thì mơ thấy một biểu ngữ khổng lồ được quấn theo kiểu trào lưu Dada, như một tác phẩm bao gói của Christo*, từ đầu này tới đầu kia của Nhà Trắng và mang dòng chữ MỘT CON NGƯỜI BẰNG XƯƠNG BẰNG THỊT SỐNG Ở ĐÂY. Đó là mùa hè khi mà - lần thứ một tỉ - sự lộn xộn, hổ lốn, hỗn độn đó cho thấy nó còn tinh tế hơn ý thức hệ của kẻ này và hệ đạo lý của kẻ khác. Đó là mùa hè khi mà con cu của một tổng thống hiện diện trong tâm trí của từng người một, và cuộc sống, với tất cả sự bẩn thỉu trơ tráo của nó, một lần nữa làm cả nước Mỹ rối loạn. Đôi khi vào một thứ Bảy, Coleman Silk sẽ gọi điện và mời tôi chạy xe từ chỗ tôi ở phía bên này núi sang chỗ ông sau bữa tối để nghe nhạc, hoặc để chơi bài gin rummy*, một điểm ăn một xu, hoặc ngồi trong phòng khách vài giờ và nhâm nhi ít cognac và giúp ông vượt qua cái mà với ông luôn là buổi tối tồi tệ nhất trong tuần. Đến mùa hè 1998, ông sống một mình trên đó - một mình trong căn nhà cũ lớn lát ván ghép sơn trắng nơi ông đã cùng bà vợ Iris nuôi lớn bốn đứa con - đã được gần hai năm, kể từ khi Iris bị đột quỵ và qua đời đột ngột trong khi ông đang mải chiến đấu với trường đại học về cáo buộc phân biệt chủng tộc do hai sinh viên trong lớp nhắm vào ông. Đến thời điểm đó Coleman đã ở Athena gần hết cuộc đời hàn lâm của mình, một lãng tử thành thị ngọt lịm như mía, cởi mở, sắc sảo, có chút gì đó của một chiến binh, chút gì đó của một nhà điều hành, chứ chẳng có mấy tí của một giáo sư mô phạm kiểu mẫu dạy tiếng Hy Lạp và La tinh (thể hiện qua Câu lạc bộ Hy La Thường đàm mà ông khởi xướng, theo kiểu tinh thần dị giáo, khi còn là một giảng viên trẻ). Khóa học tổng quan đáng nể của ông về văn học Hy Lạp cổ qua bản dịch - được gọi là GHM, viết tắt của Gods (thần linh), Heroes (anh hùng) và Myth (thần thoại) - rất được lòng đám sinh viên chính bởi nhờ tất cả những sự trực tiếp, thẳng thắn và đầy thuyết phục theo kiểu phi hàn lâm trong cách ứng xử của ông. “Các bạn biết văn học châu Âu khởi đầu thế nào không?” ông thường hỏi, sau khi điểm danh ở buổi học đầu tiên của lớp. “Bằng một cuộc cãi cọ. Toàn bộ văn học Âu châu nảy sinh từ một cuộc tranh luận.” Rồi ông cầm cuốn Iliad lên và đọc cho cả lớp nghe những câu thơ mở đầu. “ ‘Hỡi thần thi ca, hãy hát về nỗi uất hận tàn hại của Achilles... Khởi sự nơi họ lần đầu tranh cãi, Agamemnon vua của loài người, và Achilles vĩ đại.’ Và họ tranh cãi nhau về cái gì, hai tâm hồn bạo liệt, dũng mãnh ấy? Nó cũng tầm thường như một trận cãi cọ trong quán rượu. Họ cãi nhau về phụ nữ. Cụ thể là một thiếu nữ. Một thiếu nữ bị tước khỏi cha cô ta. Một thiếu nữ bị bắt cóc trong chiến trận. Mia kouri - cô ta được tả như thế trong cuốn sử thi này. Mia, như trong tiếng Hy Lạp hiện đại, là mạo từ không xác định ‘một’; kouri, tức cô gái, trong tiếng Hy Lạp hiện đại đã chuyển thành kori,có nghĩa là con gái ruột. Lúc này, Agamemnon mê thiếu nữ ấy hơn vợ mình, Clytemnestra. ‘Clytemnestra không đẹp bằng cô ấy,’ ông ta nói, ‘ở khuôn mặt cũng như vóc dáng.’ Điều đó chỉ ra rất rõ tại sao ông ta không muốn từ bỏ thiếu nữ này, phải vậy không? Khi Achilles yêu cầu Agamemnon trả cô gái lại cho cha cô ta để vuốt giận Apollo, vị thần vốn đang vì việc cô gái bị bắt cóc mà nổi đóa lên giết người đến nơi, Agamemnon từ chối: ông ta sẽ chỉ đồng ý nếu Achilles giao cho ông ta cô gái của anh để bù lại. Thế là Achilles bốc hỏa. Achilles bừng bừng sát khí: người đàn ông dễ nổi giận nhất trong số những gã man di dễ nổi khùng mà một nhà văn từng được sung sướng mô tả lại; đặc biệt khi chuyện đó lại liên quan đến uy tín và dục vọng của anh ta, cỗ máy giết người siêu nhạy cảm nhất trong lịch sử chiến tranh. Achilles lừng danh: cảm thấy cô độc và bị ruồng bỏ bởi một sự xúc phạm tới danh dự. Achilles anh hùng vĩ đại, người, bằng sức mạnh cơn thịnh nộ trước sự lăng mạ - sự lăng mạ vì không cứu được cô gái - đã tự cô lập mình, tự đặt mình một cách ngang bướng bên ngoài chính cái xã hội mà anh ta là người bảo vệ đầy vinh quang và sự hiện diện của anh là vô cùng cần thiết. Cuộc cãi cọ ngày ấy, một cuộc cãi cọ hung bạo về một thiếu nữ và thân xác trẻ trung của cô ta cùng những niềm khoái lạc của sự mê đắm tình dục: nó, dù xấu dù tốt, trong cái hành động xúc phạm quyền lợi của dương vật, phẩm giá của dương vật, của nguồn sinh lực sung mãn nơi một ông hoàng chiến binh, chính là cách mà nền văn học hư cấu vĩ đại của châu Âu khởi đầu, và đó là lý do mà hôm nay, sau gần ba ngàn năm, chúng ta sẽ bắt đầu ở câu chuyện của hai bọn họ…” Coleman nằm trong nhóm thiểu số người Do Thái trong đội ngũ giảng dạy ở Athena khi ông được nhận vào làm và có lẽ cũng là một trong những người Do Thái đầu tiên được phép dạy tại khoa văn học Hy La ở bất cứ đâu trên nước Mỹ; một vài năm trước đó, người Do Thái duy nhất của Athena là E. I. Lonoff, nhà văn viết truyện ngắn hầu như đã bị quên lãng và cũng là người mà, từ hồi tôi còn là một tác giả tập sự mới được xuất bản, vẫn còn chật vật và đang hăm hở tìm kiếm sự công nhận của một bậc thầy, tôi đã từng có một chuyến viếng thăm đáng nhớ. Trong suốt những năm tám mươi và lẹm cả vào thập niên chín mươi, Coleman cũng là người Do Thái đầu tiên và duy nhất từng công tác tại Athena trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên; rồi, vào năm 1995, sau khi từ chức chủ tịch để quay lại sự nghiệp giảng đường, ông quay lại dạy hai lớp trực thuộc chương trình ngôn ngữ và văn chương tích hợp vốn đã nuốt trọn cả khoa văn học cổ điển Hy La và được giáo sư Delphine Roux điều hành. Trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên, và với sự ủng hộ hết lòng của vị hiệu trưởng mới đầy tham vọng, Coleman đã dẫn dắt trường đại học cổ hủ, tù hãm, Lờ Đờ Trũng Thấp này và, không phải là không mạnh tay nghiền nát, đặt dấu chấm hết cho cái vai trò trang trại giải khuây cho các quý ông của nơi này bằng cách huỵch toẹt khuyến khích những người vô dụng trong số vệ binh già của hội đồng giáo sư tính chuyện về hưu sớm, và tuyển mộ những phó giáo sư trẻ nhiều tham vọng, đồng thời cách mạng hóa chương trình giảng dạy. Hầu như chắc chắn rằng đến lúc ông về hưu, tại bất cứ thời điểm nào mà ông muốn, và nếu không có rắc rối gì, thì hẳn sẽ có một tuyển tập những bài viết được xuất bản để vinh danh ông, hẳn sẽ ra đời một chuỗi Bài giảng Coleman Silk mở cửa cho công chúng, sẽ có một cái ghế trong khoa văn học cổ điển mang tên ông, và có lẽ - xét đến tầm quan trọng của ông đối với việc phục hưng nơi này trong thế kỷ hai mươi - cả tòa nhà dạy các môn khoa học xã hội hoặc thậm chí giảng đường North Hall, công trình trọng điểm của trường, cũng sẽ được đổi tên để vinh danh ông sau khi ông mất. Trong thế giới hàn lâm nhỏ bé này, nơi ông đã sống phần lớn cuộc đời mình, đáng ra ông đã thôi không còn bị ghét bỏ hoặc thậm chí sợ hãi hoặc trở thành chủ đề đàm tiếu, mà thay vào đó là được chính thức xiển dương mãi mãi. Mời bạn đón đọc Vết Nhơ Của Người của tác giả Philip Roth & Phạm Viên Phương(dịch) & Huỳnh Kim Oanh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồ Quý Ly - Nguyễn Xuân Khánh
Bằng nghệ thuật tái hiện khoáng đạt, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã lật lại lịch sử thời kỳ cuối đời nhà Trần, góp thêm tiếng nói khám phá xã hội và con người Hồ Quý Ly - một nhân vật mà hơn 600 năm qua vẫn còn nhiều tranh cãi về ông. Hơn thế, cuốn tiểu thuyết còn là bức tranh đẹp về Thăng Long ngàn năm văn hiến với những địa danh cổ nổi tiếng, những cảnh sinh hoạt thôn dã, những lễ hội dân gian, những phong tục tốt đẹp...được lưu truyền hay đã bị mai một theo năm tháng. *** Hồ Quý Ly (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tự Lý Nguyên, là hoàng đế sáng lập nhà Hồ Việt Nam. Ông trị vì được 1 năm thì trao ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên ngôi làm Thái thượng hoàng, cho đến khi ông bị bắt qua nhà Minh sau khi bị thua trận vào năm 1407. Về dòng dõi Hồ Quý Ly, sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển VII chép: ...Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung Quốc, thời Hậu Hán (947-950) được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn (tức vùng Diễn Châu, Nghệ An). Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột (nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ... *** Hội thề Đồng Cổ là ngày lễ lớn của Thăng Long. Nó được cừ hành vào ngày mồng bốn tháng tư hàng năm. Đó là một lễ hội thuần Việt rất được dân kinh đô xem trọng ở thời Lý Trần, tiếc rằng đã bị các triều vua sau này nho hoá bỏ mất.  Sách cổ chép rằng vua Lý Thái Tông, thủa còn là thái tử, phụng mạng vua cha đi đánh Chiêm Thành, năm Canh Thân (1020), khi đến vùng Đan Nê, An Định, Thanh Hoá, đóng quân dưới chân một quả núi. Canh ba đêm ấy, trong cõi mộng mung lung, nhà vua chợt thấy một dị nhân, mình cao tám thước, mày râu cứng nhọn, mặc áo giáp, tay cầm binh khí, đến trước cúi đầu tâu rằng: “Tôi là Thần núi Đồng Cổ, nghe tin thái tử đem quân đi dẹp giặc phương Nam, tôi xin theo giúp phá giặc, để lập chút công nhỏ”. Thái từ cả mừng vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh dậy. Sau đó tiến quân đánh chiếm quả nhiên toàn thắng. Khi trở về qua núi Đồng cổ, thái tử sửa sang lễ tạ rồi rước thần vị về kinh đô Thăng Long. để giữ dân, hộ nước. Đền thờ lập sau chùa Thánh Thọ, thuộc địa phận thôn Đông, phường Yên Thái (làng Bưởi).  Khi Lý Thái Tổ chết, thái tử lên ngôi vua, tức vua Lý Thái Tôn. Đêm nằm mộng thấy thần Đồng Cổ đến báo rằng: “Ba vị em vua là Vũ Đức Vương, Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương âm mưu làm phản”. Lúc vua tỉnh dậy. Sai Lê Phụng Hiểu dàn quân bố trí phòng bị. Sự việc xảy ra quả đúng như giấc mộng. Loạn ba vương được dẹp tan. Đến đây, vua xuống chiếu xây đàn thề ở miếu Đồng Cổ, và hàng năm cứ đến mồng bốn tháng tư thì trăm quan hội họp làm lễ ăn thề.  Năm nay, ông vua già Trần Nghệ Tông cho mở hội thề to hơn mọi năm. Tháng hai, viên quan coi việc tế lễ đã cho thợ đến sửa sang miếu thờ, cạo rêu, quét vôi, tô tượng, thay những câu đối cũ. xây dựng lại những chỗ đổ nát, sửa sang cây cối, trồng hoa, lát đường... và soát xét lại đồ tế khí. Đồ tế khí ở đây có hai thứ có thể gọi là linh vật của đất nước.  Thứ nhất là chiếc chuông chùa Yên Tử. Hồi vua Trần Thái Tôn bỏ nhà lên núi Yên Tử định cắt tóc đi tu, quan thái sư Trần Thủ Độ kéo cả triều đình lên theo, cầu xin vua về cho hợp lòng dân. Việc đi tu của vua không thành. Khi vua chia tay, Phù vân quốc sư nghĩ phải có cái duyên hạnh ngộ lớn thì mới có một ông vua lên tận chốn núi cao hẻo lánh này để tìm Phật. Ông bảo nhà vua: “Trong núi không có Phật. Phật ở trong lòng người”. Tuy nhiên, để kỷ niệm cái duyên kỳ ngộ ấy, phù vân quốc sư tặng nhà vua Đại Hồng Chung ở chùa Vân Yên đem về kinh đô.  - Tâu bệ hạ. Đây là chiếc chuông quý truyền mấy trăm năm suốt triều nhà Lý. Đại Hồng Chung ít khi dùng đến, chỉ dùng vào dịp đầu xuân. Mỗi năm khi chuông rung lên là mây mù ùn ùn kéo đến. Mây trắng che kín đầu Yên Từ. Chuông gọi mây xong lại gọi mưa. Khi hồi chuông dồn dập binh boong ngân nga lần thứ hai thì những hạt nước li ti nằm trong mây sữa run rẩy, rồi chúng bay lượn quấn quít với nhau và thành những hạt to rơi xuống. Mưa rào. Đó là phật lộ. Mong rằng tiếng chuông của đức Phật từ bi được vang lên trên kinh thành Thăng Long. Mong rằng nước mưa của Phật từ bi sẽ nhuần thấm trong lòng người dân kinh kỳ.  Chiếc chuông Yên Tử đem về được treo ở chùa Thánh Thọ. Mấy năm trước, nhà sư Phạm Sư Ôn tập họp dân lưu tán đói khát nổi loạn. Giặc thày chùa kéo về kinh thành Thăng Long đốt phá. Ông vua già Trần Nghệ Tông, ông vua trẻ Trần Thuận Tôn và cả hoàng gia phải rời kinh đô đi lánh nạn. Đội cấm quân phía hữu kinh thành đóng binh ở chùa Thánh Thọ. Đội quân này đã gây cho quân nổi loạn nhiều thiệt hại. Tức giận, toán giặc thày chùa đã tàn phá, đốt trụi khu chùa thắng cảnh đẹp nhất Thăng Long. Cũng may khi giặc rút, nhân dân đã chữa cháy, cứu được tháp chuông. Giặc thày chùa mà lại đốt chùa. Ông vua già thở dài, và chẳng lẽ để chiếc chuông linh thiêng nằm chơ vơ giữa hoang phế, nên ông đã sai mang chuông đến đền Đồng Cổ.  ... Mời các bạn đón đọc Hồ Quý Ly của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.
Yến Huyết - Nguyễn Khắc Phục
Mùa cưới rộ lên ở Hàm Dương. Thành phố bỗng trở nên vô cùng quyến rũ. Khắp nơi nhuốm đầy vẻ diễm tình, từ những làn sóng biển màu lục đến nụ cười của du khách. Giữa lúc đó, người ta đồn rầm lên chuyện “Ma Nữ” xuất hiện trên đảo Phu Thê, một hòn đảo nhỏ ở eo biển phía bắc thành phố, cách bờ khoảng hơn nghìn mét. Ngày nước ròng có thể lội ra đảo câu cá, mò trai vọp và cầu gai. Trên đảo, khách sạn Na-ga đang được xây dựng dở dang với những ngọn tháp mô phỏng kiểu tháp Chàm cổ. Đùng một cái, xảy ra những vụ bê bối trên công trường, việc thi công khách sạn phải đình chỉ… Người ta quả quyết rằng, đêm nào cũng thấy một người đàn bà mặc áo trắng xõa tóc đi lại trên cái khách sạn bị bỏ hoang, đúng giờ tý, từ bốn ngọn tháp tối tăm cất lên tiếng than khóc rền rĩ, ai oán của những bóng ma. Rồi người đàn bà mặc áo trắng bay lên sân thượng, cười rú từng cơn hú gọi cuồng phong. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, tiếng gió hú, tiếng sóng biển gầm thét làm thành bản hòa tấu của đêm tối và chết chóc. Ma Nữ là ai vậy? Thực ra đó chỉ là một người đàn bà chạy trốn cái bầu không khí sống động của mùa cưới thành phố, đêm đêm lén lút đổ bộ lên đảo Phu Thê… Nàng không tới đấy để ngắm trăng. Nàng cũng chẳng tìm kiếm cái gì ở đấy. Nàng chỉ trở lại với cái thiên đường xa xưa, ngắn ngủi, nguyên sơ và nồng nhiệt của nàng. Mười tám tuổi, chỉ một đêm duy nhất tại thiên đường đó, nàng đã bước từ cuộc đời trinh nữ lên kiếp đàn bà. Để rồi cái thiên đường ấy bị bỏ hoang mãi mãi. Nàng từ đâu đó trong thành phố, lầm lũi ngược sông núi, băng qua rừng thông, rồi một mình một bóng, tiếp tục cuộc độc hành trong đêm. Nàng cười vô cớ trong lúc trèo từng bậc thang xoáy ốc lên đỉnh tháp. Ngọn tháp chưa kịp đúc mái, thành thử nàng gần như mặt đối mặt với khoảng không rợn người. Nàng vội tựa lưng vào vách bê-tông nhám lạnh để trấn tĩnh. Gió lộng lau khô những giọt mồ hôi đầm đìa trên mặt lúc nàng trèo lên tháp và bây giờ, nó lại rũ tung mớ tóc nàng. Nàng rùng mình nhìn xuống mặt biển hun hút, thảng thốt vì cảm giác kinh dị xâm chiếm tâm trí nàng. Nàng ngồi bệt xuống sàn tháp, lẩn trốn cái chiều sâu vừa hiện thể trong cặp mắt mở to chứa đựng nỗi chống chuếnh của mình. Dưới chân nàng là vực thẳm vô định. Trên đầu nàng, bầu trời đêm vần vũ đầy hăm dọa... Mấy giây sau, nàng chậm rãi đứng dậy, mon men đến sát hàng lan can sắt tạm thời - cái giới hạn mong manh giữa nàng và khoảng trống. Gió thốc ngay vào mặt, bất giác nàng bíu chặt lấy lan can như sợ bị gió cuốn đi. Nàng cố dò dẫm tìm một điểm tựa nào đó cho đôi mắt nàng khỏi thất lạc trong bóng tối mịt mù. Càng khuya gió biển càng mạnh lên, thổi dạt đi ánh trăng vốn mỏng mảnh, yếu đuối. Trên mặt biển chỉ còn lại chút hồi quang nhỏ nhoi của đêm trăng ngà. Nàng lạnh, da mặt hứng gió quá lâu đã dại hẳn đi và mất luôn cảm giác nhức buốt. Cái lạnh còn ngấm cả vào đôi mắt của nàng khiến chúng sáng lên thứ ánh sáng của khối chì bị chém sạt một góc... Nỗi sợ hãi dần dà tiêu tan. Mất nó, tâm hồn nàng càng trở nên trống rỗng như một đoàn va-gông phế thải nằm trên nhánh ray phụ của một ga xép. Nàng không còn chủ ý nào rõ rệt. Mọi giác quan của nàng tạm thời tê liệt dưới ánh trăng, trong gió rét, nhưng tận cùng linh hồn nàng lay động một nỗi khát khao tự giải thoát. Nàng như một con chim sa xuống bãi lầy, đôi cánh mỏng của nó dính bùn bê bết, hai chân nó thì lại quá mảnh khảnh, không đủ sức lấy đà cho nó cất mình lên. Con chim đáng thương ấy thuộc loài yến huyết. Loài yến không nhả rãi ra làm tổ như những loài yến khác, mà đúc tổ bằng máu tự tim mình! Trong ký ức của nàng, bao giờ hình ảnh Võ Dinh cũng hiện lên dịu dàng và khốc liệt… Mời các bạn đón đọc Yến Huyết của tác giả Nguyễn Khắc Phục.
Tiếng Rền Của Núi - Yasunari Kawabata
Yasunari Kawabata là một trong những nghệ sỹ lớn nhất của của Nhật Bản thế kỷ XX. Ông là một bậc thầy trong nghệ thuật biểu cảm vǎn học, mang đậm bản sắc dân tộc. Ông đã mở ra cho nhân loại cánh cửa của tư duy và tân hồn Nhật Bản vốn vẫn được coi là bí hiểm và kín đáo. Trong cuộc đời sáng tác của mình, ông đã tạo nên những tác phẩm bất tử có vai trò thúc đẩy sự phát triển của nền vǎn học Nhật Bản nói riêng và nền vǎn học trế giới nói chung. Mời bạn đọc tìm hiếu đất nước và con người Nhật Bản qua tập truyện ngắn của Yasunari Kawabata. *** Không có một thái độ thực sự rõ ràng, dứt khoát nào của tác giả được đưa ra đối với hành vi, suy nghĩ của mọi nhân vật. Không lên án, không ca ngợi. Mỗi độc giả sẽ tuỳ theo cách nghĩ của mình mà đưa ra thái độ cảm tình hay ngược lại. Phải chăng trong văn chương cũng cần sự khách quan như trong viết sử? Tôi đang đọc lần thứ hai “Tiếng rền của núi” nhằm suy ngẫm kỹ hơn về diễn biến đời sống nội tâm của từng nhân vật. Và tập trung phát hiện thêm những vẻ lấp lánh trong văn chương của ông. Nhiều khi, không phải ranh giới giữa đúng và sai mơ hồ, mà ngay cả ranh giới giữa được và mất, giữa hay và dở cũng mơ hồ. Và vì thế, nó tạo ra một tâm trạng bất an, bối rối nào đó. Làm sao không bối rối nếu anh không định hướng được nên đi theo hướng nào thì sẽ gặp điều tốt? Làm sao không bất an nếu anh không chắc chắn hướng đi có dẫn anh đến với điều tốt hay không? Vài ví dụ: mối quan hệ ngoài luồng của cậu con trai lại đánh thức chất đàn bà bên trong cô con dâu có vẻ hơi chậm phát triển vì còn quá ngây thơ. Rồi sự có con của tình nhân ngoài ý muốn của anh con trai lại chính là nguyên nhân khiến anh ta từ bỏ cô ta, và quay về chỉn chu với vợ mình. Nhiều khi, tự nhiên tạo ra những nghịch cảnh nho nhỏ, mà chỉ từ sự quan sát kỹ lưỡng mới phát hiện được ra. Ví dụ ông chồng khi chết, trên quan tài đặt một bức ảnh lúc còn trẻ, khá đẹp lão. Và bà vợ già nua bạc tóc đứng bên quan tài. Và người ta dễ ngộ nhận chính ông chồng là nguyên nhân sự già nua của vợ, mà không ai ngờ rằng bà vợ ấy đã đẩy đuổi, đầy ải ông chồng như thế nào. Ví dụ cái tình cha chồng con dâu, ranh giới nào giữa tình máu mủ và cảm xúc giới tính? Tác giả đã đi trên một sợi dây mong manh, giữa sự giản đơn và giáo điều với nguy cơ thừa nhận sự loạn luân. Và cái cách kết thúc tiểu thuyết cũng lửng lơ, không hề có một kết luận dù là tạm thời nào về số phận của các nhân vật, về mối quan hệ giữa họ. Người đọc vẫn có thể tiếp tục suy đoán về tương lai. Mời các bạn đón đọc Tiếng Rền Của Núi của tác giả Yasunari Kawabata.
Truyện Ngắn Trong Lòng Bàn Tay - Yasunari Kawabata
Tiểu thuyết lòng bàn tay (掌の小説 Tenohira no Shōsetsu?) hay còn được biết đến với tên Truyện ngắn trong lòng bàn tay là một "chưởng biên tiểu thuyết" (掌編小説), "chưởng thiên tiểu thuyết" (掌篇小説) của Kawabata Yasunari, tập hợp khoảng trên 100 truyện ngắn được viết từ thời tác giả còn trẻ. Ấn bản đầu tiên phát hành năm 1971. Về sau tái bản sách còn bổ sung những truyện xuất bản sau khi tác giả lâm chung năm 1972. Đặc trưng của các truyện ngắn là mỗi truyện đều ngắn, như để được "trong lòng bàn tay". Khi dịch ra những ngôn ngữ khác, độ ngắn không còn được bảo toàn nữa. ** Trong thung lũng có hai cái ao. Ao dưới óng ánh như ao bạc, ao trên một màu xanh lướt chết chóc, cuốn xuống đáy sâu những bóng núi thầm lặng. Mặt mày nhày nhụa. Tôi ngoái lại thấy máu dính trên bụi cỏ và tre càng cua mình vừa bước qua. Những giọt máu như đang đi. Máu mũi lại tuôn ra từng đợt nóng hổi. Quýnh quá, tôi tóm bừa một góc vải thắt lưng đút nút lỗ mũi, rồi nằm vật ra. Mặt trời không rọi thẳng vào người nhưng phản chiếu trên những chòm lá làm tôi chói mắt. Máu mũi bị chặn nửa đường, chạy ngược trở lại còn ghê hơn, nó òng ọc lên theo nhịp thở. Tiếng ve inh ỏi đầy ắp bầu khí núi, một con bỗng dưng mắc chứng la hoảng lên. Trời gần trưa tháng Bảy, không gian căng mỏng như thể một mũi kim rơi cũng làm long trời lở đất. Tôi như bị tê liệt. Nằm dài mồ hôi vã ra, tôi mặc cho tiếng ve ầm ĩ, màu xanh lá cây áp đảo, mùi đất ẩm, tiếng tim đập, cùng chui tuốt vào đầu nằm chết cứng trong đó rồi thoắt cái lại ào ra tản mát đâu mất. Tôi có cảm tưởng nhẹ hỗng như mình bị hút lên trời. - Cậu ơi! Cậu ơi! Cậu đâu rồi? Nghe thấy tiếng gọi từ nghĩa địa, tôi vùng dậy. Sáng nay đến lượm xương ông nội sau lễ tang hôm qua, trong lúc đang cời than hãy còn ấm, tôi chảy máu cam, bèn lén rời lò thiêu trèo lên đồi, đút nút lỗ mũi với giải thắt lưng vải. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trong Lòng Bàn Tay của tác giả Yasunari Kawabata.