Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sổ Tay Tìm Huyệt

Sổ Tay Tìm Huyệt

Cuốn sách “Sổ Tay Tìm Huyệt” do Đỗ Đức Ngọc biên soạn giới thiệu đến cho các bạn một cách chi tiết kèm hình ảnh minh họa các huyệt vị trên cơ thể người.

Huyệt thường được biết tới nhờ phương pháp châm cứu hay bấm huyệt. Mục đích của các phương pháp này chủ yếu nhằm tăng cường khả năng lưu thông của khí qua huyệt, cân bằng giữa khí bên trong và bên ngoài. Từ đó có thể chữa bệnh và năng cao sức khoẻ.Huyệt có thể nằm trên kinh mạch, cũng có thể không. Một số huyệt lại chỉ xuất hiện khi cơ thể gặp những biến cố đặc biệt như đau ốm, bệnh tật…

Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể. Có 12 đường kinh chính và 2 mạch chủ: mạch Nhâm (thống lĩnh kinh Âm) và Đốc mạch (thống lĩnh kinh Dương). Khí huyết trong các cơ quan nội tạng và đường kinh tập hợp lên bề mặt cơ thể mà mấu chốt là các huyệt.

Huyệt là các điểm trên mặt da và phản ánh trạng thái của cơ quan nội tạng.nhà sách online Sự kích thích các điểm này bằng day ấn, xoa bóp có thể tăng cường dòng khí huyết trong kinh lạc và ngăn chặn mầm bệnh, tiếp sức đề kháng cho cơ thể loại bỏ chất thải nên có khả năng phòng chống bệnh.

Chính vì phải nắm rõ vị trí của từng huyệt mạch, người thầy thuốc mới có thể sử dụng thủ thuật day ấn đạt hiệu quả. Tập hợp tương đối đầy đủ những hình ảnh và biểu đồ để chỉ dẫn chính xác, sách SỔ TAY TÌM HUYỆT thật sự đáp ứng được yêu cầu của người cần sử dụng.

Nguồn: sachhaymienphi.com

Đọc Sách

Châm cứu Giáp Ất kinh (2 tập)
"Châm cứu giáp ất kinh" nói nôm na là "Châm cứu ABC", "Châm cứu bước đầu" là bộ sách thuộc loại kinh điển đã đóng góp thêm vào việc thúc đẩy ngành châm cứu học phát triển tiếp sau “Nội kinh" do nhà châm cứu học Hoàng Phủ Mật hồi thế kỷ thứ 3 biên soạn. Đây là một bộ sách chuyên ngành đầu tiên viết về môn châm cứu học có hệ thống thời xưa truyền lại đến ngày nay. Hoàng Phú Mật sinh năm 215, mất năm 282, người Triều Nã, An Định (nay ở vùng phía Tây Nam huyện Linh Đài, tỉnh Cam Túc. Trung Quốc) thời Ngụy - Tấn. Trong thời kỳ ông còn sống, các thế lực phong kiến cát cú đánh nhau liên miên, hàng triệu nhân dân bị chết chóc, những người được sống sót thì lưu lạc bơ vơ, nghèo đói lầm than; các nơi bệnh hoạn và ôn dịch lan tràn, nhân dân sa vàn cảnh nước sôi lửa bỏng. Do phương pháp điều trị bằng châm cứu giản tiện, ít tốn kém, nên đã được lưu hành rộng rãi trong dân gian. Hoàng Phú Mật sinh năm 215, mất năm 282, người Triều Nã, An Định (nay ở vùng phía Tây Nam huyện Linh Đài, tỉnh Cam Túc. Trung Quốc) thời Ngụy - Tấn. Trong thời kỳ ông còn sống, các thế lực phong kiến cát cú đánh nhau liên miên, hàng triệu nhân dân bị chết chóc, những người được sống sót thì lưu lạc bơ vơ, nghèo đói lầm than; các nơi bệnh hoạn và ôn dịch lan tràn, nhân dân sa vàn cảnh nước sôi lửa bỏng. Do phương pháp điều trị bằng châm cứu giản tiện, ít tốn kém, nên đã được lưu hành rộng rãi trong dân gian.
Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 3 - Hoàng Văn Hòe
Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 3 Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 3Trong cảnh hưu nhàn, tôi thường quan tâm đến người đời bây giờ, có rất nhiều chứng bệnh khó tìm được thuốc chữa thì một lão hữu Đình Thụ Hoàng văn Hòe Tiên sinh, có nhã ý đưa cho coi một bản dịch, do liên sinh đã dịch bộ sách « Hải Thượng Y Tôn » bằng chữ Hán ra Việt văn. Tôi' mừng rỡ như là được thần tiên cho một phương thuốc trường sinh. Trong cảnh hưu nhàn, tôi thường quan tâm đến người đời bây giờ, có rất nhiều chứng bệnh khó tìm được thuốc chữa thì một lão hữu Đình Thụ Hoàng văn Hòe Tiên sinh, có nhã ý đưa cho coi một bản dịch, do liên sinh đã dịch bộ sách « Hải Thượng Y Tôn » bằng chữ Hán ra Việt văn. Tôi' mừng rỡ như là được thần tiên cho một phương thuốc trường sinh. Tôi đã xem kỹ bản dịch, thấy ý nghĩa đúng với nguyên văn, lời vặn lưu loát. Cách xếp đặt có khoa học, lời giải thích rất rõ ràng, khiến cho ai đã đọc qua, dù không phải là người đã có tập nghiệm, hay có gia truyền, cũng đều hiểu được khá nhiều về y lý. Thực là: « Công trình kê biết mấy mươi»!Tôi cũng như phần nhiều người khác, khi có bệnh phải dùng thuốc, và đã có dùng nhiều thuốc Bắc. Những khi đó, các vị Đông-Y-Sĩ chuẩn trị cho tôi, vị thì chữa theo Cảnh-Nhạc, vị thì chữa theo Phùng-Thị, vị thì thiên về ôn, bổ, vị thì thiên về hàn, lương. Riêng tôi thì nằm lẩm bẩm mấy câu sách thuốc: "Người có bệnh khổ vì không biết thuốc. Người làm thuốc khổ vì không biết bệnh". (Bệnh gia khổ ư bất tri y. Y gia khổ ư bất tri bệnh). Rồi kết cục cũng không ngoài 4 chữ: "Phúc chủ lộc thầy".Vì các lẽ đó, nên từ trước đến nay, tôi vẫn khâm phục Lê Hữu Trác tiên sinh, biệt hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, đã có sáng kiến và công phu soạn ra bộ "Hải Thượng Y-Tôn", là một pho sách thuốc duy nhất của người Việt, để dạy người Việt chữa bệnh cho người Việt. Tuy bộ sách ấy không phải là không tham khảo các sách thuốc của Trung Hoa, nhất là bộ Cẩm-Nang, những cũng không phải là lệ thuộc vào tác phẩm ngoại lai. Đặc biệt là phương pháp điều trị, thích hợp vởi thủy thổ, khí hậu của địa phương, thể chất bẩm sinh của thời địa cho nên về thời trước, Tiên sinh đã được sắc phong là Việt Nam Y Thánh.
Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 2 - Hoàng Văn Hòe
Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 2 Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 2Trong cảnh hưu nhàn, tôi thường quan tâm đến người đời bây giờ, có rất nhiều chứng bệnh khó tìm được thuốc chữa thì một lão hữu Đình Thụ Hoàng văn Hòe Tiên sinh, có nhã ý đưa cho coi một bản dịch, do liên sinh đã dịch bộ sách « Hải Thượng Y Tôn » bằng chữ Hán ra Việt văn. Tôi' mừng rỡ như là được thần tiên cho một phương thuốc trường sinh. Trong cảnh hưu nhàn, tôi thường quan tâm đến người đời bây giờ, có rất nhiều chứng bệnh khó tìm được thuốc chữa thì một lão hữu Đình Thụ Hoàng văn Hòe Tiên sinh, có nhã ý đưa cho coi một bản dịch, do liên sinh đã dịch bộ sách « Hải Thượng Y Tôn » bằng chữ Hán ra Việt văn. Tôi' mừng rỡ như là được thần tiên cho một phương thuốc trường sinh. Tôi đã xem kỹ bản dịch, thấy ý nghĩa đúng với nguyên văn, lời vặn lưu loát. Cách xếp đặt có khoa học, lời giải thích rất rõ ràng, khiến cho ai đã đọc qua, dù không phải là người đã có tập nghiệm, hay có gia truyền, cũng đều hiểu được khá nhiều về y lý. Thực là: « Công trình kê biết mấy mươi»!Tôi cũng như phần nhiều người khác, khi có bệnh phải dùng thuốc, và đã có dùng nhiều thuốc Bắc. Những khi đó, các vị Đông-Y-Sĩ chuẩn trị cho tôi, vị thì chữa theo Cảnh-Nhạc, vị thì chữa theo Phùng-Thị, vị thì thiên về ôn, bổ, vị thì thiên về hàn, lương. Riêng tôi thì nằm lẩm bẩm mấy câu sách thuốc: "Người có bệnh khổ vì không biết thuốc. Người làm thuốc khổ vì không biết bệnh". (Bệnh gia khổ ư bất tri y. Y gia khổ ư bất tri bệnh). Rồi kết cục cũng không ngoài 4 chữ: "Phúc chủ lộc thầy".Vì các lẽ đó, nên từ trước đến nay, tôi vẫn khâm phục Lê Hữu Trác tiên sinh, biệt hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, đã có sáng kiến và công phu soạn ra bộ "Hải Thượng Y-Tôn", là một pho sách thuốc duy nhất của người Việt, để dạy người Việt chữa bệnh cho người Việt. Tuy bộ sách ấy không phải là không tham khảo các sách thuốc của Trung Hoa, nhất là bộ Cẩm-Nang, những cũng không phải là lệ thuộc vào tác phẩm ngoại lai. Đặc biệt là phương pháp điều trị, thích hợp vởi thủy thổ, khí hậu của địa phương, thể chất bẩm sinh của thời địa cho nên về thời trước, Tiên sinh đã được sắc phong là Việt Nam Y Thánh.
NHỮNG BÀI THUỐC KINH NGHIỆM CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG
Sách này được biên dịch từ quyển 50 đến quyển 57 tức toàn bộ phần Hành giản trân nhu trong bộ Hải thượng y tông tâm lĩnh của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791), một danh y được coi như đứng vị trí hàng đầu trong lịch sử y học cổ truyền của Việt Nam. Như chúng ta đã biết, bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh là một công trình y học đồ sộ, được tác giả biên soạn trong gần 30 năm gồm 28 tập chia thành 66 quyển, mà Hành giản trân nhu là một phần trong đó, đã chép được trên 2000 phương thuốc do tác giả chọn lọc trong các bản thảo đời trước ( như Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh) hoặc thu thập được từ các bài thuốc kinh nghiệm trong dân gian. Đặc điểm của những bài thuốc này là hầu hết đều đơn giản, dễ áp dụng, với vài ba vị thuốc dễ kiếm, song lại có thể giải quyết trị liệu rất hiệu quả đối với hàng trăm loại bệnh tật thông thường, như đau chân, đau mắt, nhức răng, đau bụng, trúng độc, trùng thú cắn, các trường hợp sưng, trặc, ngứa lở, ho, suyễn, các bệnh do rượu, các chứng bệnh nhi khoa, phụ khoa thường gặp,... Sách này được biên dịch từ quyển 50 đến quyển 57 tức toàn bộ phần Hành giản trân nhu trong bộ Hải thượng y tông tâm lĩnh của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791), một danh y được coi như đứng vị trí hàng đầu trong lịch sử y học cổ truyền của Việt Nam. Như chúng ta đã biết, bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh là một công trình y học đồ sộ, được tác giả biên soạn trong gần 30 năm gồm 28 tập chia thành 66 quyển, mà Hành giản trân nhu là một phần trong đó, đã chép được trên 2000 phương thuốc do tác giả chọn lọc trong các bản thảo đời trước ( như Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh) hoặc thu thập được từ các bài thuốc kinh nghiệm trong dân gian. Đặc điểm của những bài thuốc này là hầu hết đều đơn giản, dễ áp dụng, với vài ba vị thuốc dễ kiếm, song lại có thể giải quyết trị liệu rất hiệu quả đối với hàng trăm loại bệnh tật thông thường, như đau chân, đau mắt, nhức răng, đau bụng, trúng độc, trùng thú cắn, các trường hợp sưng, trặc, ngứa lở, ho, suyễn, các bệnh do rượu, các chứng bệnh nhi khoa, phụ khoa thường gặp,...