Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khát Vọng Đổi Đời

Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig, bậc thầy về phân tích tâm lý con người, đã phơi bày ra những góc khuất của chủ nghĩa tư bản. Câu chuyện kể về cô gái tên là Christine, nhân viên tại một trạm bưu điện xa xôi thuộc nước Áo. Bố và anh trai đã mất trong chiến tranh, Christine sống với bà mẹ già nua bệnh tật trong một căn phòng ọp ẹp tồi tàn và ngày qua ngày làm công việc nhàm chán. Cho đến một hôm, người dì đã lưu lạc sang Mỹ 25 năm trước của Christine mời nàng đến nghỉ cùng vợ chồng họ trên dãy núi Alps thuộc Thụy Sĩ. Christine gói ghém đồ đạc tới chỗ dì Claire ở Pontresina và hoàn toàn choáng ngợp trước cảnh giàu sang phú quý nơi đây. Dì Claire đã đưa nàng bước chân vào thế giới thượng lưu hào nhoáng. Từ đây, cuộc đời nàng bước sang một trang mới với những mật ngọt cùng những giăng mắc mà nó bày ra. Khát vọng đổi đời được Stefan Zweig hoàn thành trong những năm 30 của thế kỷ XX nhưng chỉ được xuất bản 40 năm sau khi ông qua đời. *** Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig đã khám phá từng chi tiết của đời sống thường nhật với một văn phong làm rung động cả khối óc lẫn tâm hồn… Câu chuyện sầu thảm, và có lẽ là một trong những bản cáo trạng u tối nhất từng xuất hiện trong văn chương về việc sự nghèo đói hủy diệt hy vọng, niềm vui, sắc đẹp và tiếng cười như thế nào. - The Spectator (UK) Một tác phẩm vô cùng hấp dẫn cho thấy lịch sử có thể tác động lên đời sống mỗi con người như thế nào. - The Financial Times Khát vọng đổi đời táo bạo, buồn và cảm động… Với hình tượng nhân vật Christine và đặc biệt là Ferdinand, Zweig đã cho chúng ta thấy chân dung của một thế giới đang đến ngày tàn. - The Guardian … Không một tác phẩm nào của Zweig đòi đấu trực diện với di sản của Thế chiến thứ nhất với độ sâu sắc về xã hội lẫn sự chi tiết về con người như Khát vọng đổi đời… chúng ta may mắn có được cuốn sách này, không chỉ bởi nó là bức tranh đau buồn về đời sống nước Áo sau chiến tranh mà còn bởi nó rất khác các tác phẩm khác của Zweig. - William Deresiewicz, The Nationb *** Stefan Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông lầ Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đông, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ.   Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. *** Ai đã có lần ghé vào phòng làm việc của một trạm bưu điện nông thôn nước Áo thì có thể coi như mình đã biết tất cả các trạm bưu điện khác, bởi lẽ chúng hầu như chẳng khác nhau là bao. Vẫn những đồ vật được sắp đặt, hay nói cho đúng hơn là được quy định sắp đặt theo một quy chế thống nhất, vẫn những dụng cụ có từ thời Franz Josef[1] và ở bất cứ đâu những vật dụng ấy đều mang dấu ấn của thói quan liêu nặng nề, ngay cả ở tận những xóm làng hẻo lánh vùng Tyrol băng giá cũng thế. Trong các trạm bưu điện ấy lúc nào cũng bốc lên mùi tù hãm của thuốc lá rẻ tiền và bụi giấy, những mùi vị đặc trưng cho các phòng giấy của nước Áo cổ. Các trạm bưu điện đó dù có ở nơi nào cũng đều được thiết kế giống nhau: từ tấm vách ngăn bằng gỗ với những ô cửa sổ nhỏ lắp kính chia căn phòng theo một tỷ lệ nhất định, như muốn ngăn đôi thế giới thành hai khu vực - khu vực dành cho khách hàng và cho nhân viên phục vụ. Trong khu vực dành cho mọi người chẳng có lấy một chiếc ghế hoặc những đồ dùng cần thiết dành cho khách hàng, điều ấy đã nói lên một cách rõ ràng rằng chính phủ rất ít quan tâm đến sự có mặt trong giây lát của mọi công dân trong khu vực ấy. Đồ gỗ duy nhất ở đây thường chỉ có một chiếc bàn viết phủ vải sơn dựng hờ hững vào tường. Tấm vải sơn nứt nẻ, loang lổ vết mực dù chẳng ai nhớ nổi trong cái lọ mực được bắt chặt trên mặt bàn đã bao giờ có một thứ gì, ngoài một chất lỏng lổn nhổn như cháo. Còn nếu tình cờ cạnh đấy có một chiếc bút thì chắc chắn là ngòi bút bị tòe, không thể viết được. Cơ quan ngân khố quốc gia chẳng những chỉ tiết kiệm trong các tiện nghi mà ngay cả trong hình thức cũng vậy. Kể từ khi nước Cộng hòa ra lệnh bãi bỏ các bức chân dung của Franz Josef đến nay thì vật trang trí duy nhất ở những nơi công cộng là những tấm quảng cáo lòe loẹt dán đầy trên các bức tường không quét vôi bẩn thỉu, kêu gọi mọi người đến xem các phòng triển lãm đã đóng cửa từ lâu hoặc mua vé xổ số. Còn trong một vài văn phòng khác, ít được ai ngó tới, vẫn treo những tấm áp phích hô hào mọi người mua công trái chiến tranh, với những thứ trang trí rẻ tiền như vậy lại còn kèm theo một lời yêu cầu không được hút thuốc lá và hầu như chẳng ai thèm chấp hành, sự hào phóng của quốc gia trong các văn phòng bưu điện chỉ được giới hạn có từng ấy. Tuy nhiên, ngăn của nhân viên phục vụ trông có vẻ đáng kể hơn nhiều. Tại đây, với một quy mô thích hợp, chính phủ muốn phô trương sự hùng cường của mình dưới mọi hình thức. Ở góc phòng thường đặt một chiếc két sắt chống cháy mà dựa vào những chấn song lắp trên cửa sổ ta có thể đoán được trong chiếc két ấy đôi khi có chứa những khoản tiền lớn. Trên bàn làm việc ngự trị chiếc máy điện báo bằng đồng thau sáng loáng, trông như một vật trang sức quý giá. Cạnh đấy là chiếc máy điện thoại đang yên nghỉ trên cái giá đỡ mạ kền. Hai thứ dụng cụ trên được cố tình để riêng ra trong một vị trí trang trọng như vậy bởi lẽ chúng đã nối liền cái thôn hẻo lánh này với mọi miền của đất nước bằng những dây dẫn bằng đồng. Những dụng cụ vặt vãnh còn lại của ngành bưu điện đành phải chịu cảnh lép vế: những chiếc cân và những chiếc túi đựng thư, các bảng tra cứu, những chiếc cặp giấy nhét đầy sổ sách, cuốn sổ thống kê, chiếc hộp tròn đựng tiền trả cước phí đầy tiền xu hễ cứ động vào là kêu lẻng xẻng, những quả cân, những chiếc bút chì xanh, đỏ, đen và bút chì hóa học, những chiếc kẹp giấy, cuộn giấy buộc hàng, hộp đựng xi, miếng bọt biển thấm nước, cái bàn thấm, con dao rọc giấy, lọ keo cùng với những chiếc kéo - tất cả những dụng cụ khác nhau đó đành phải chen chúc lộn xộn nơi mép bàn. Còn trong các ngăn kéo thì nhét đầy mọi thứ giấy tờ đủ loại và những biểu mẫu. Thoạt nhìn, tất cả cái đống vật dụng ấy có vẻ như được sử dụng rất hoang phí, nhưng cảm giác ấy hoàn toàn sai lầm - Nhà nước thường xuyên kiểm tra rất nghiêm ngặt từng thứ vật dụng rẻ tiền mau hỏng đó. Từ mẩu bút chì cho đến con tem rách, từ tờ giấy thấm nhàu nát cho tới mẩu xà phòng ở chỗ rửa tay, từ chiếc bóng điện chiếu sáng văn phòng cho tới chìa khóa để khóa văn phòng lại - chính phủ yêu cầu các nhân viên phục vụ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả những tài sản quốc gia đó, cho dù chúng đã hỏng hay đang sử dụng. Bên cạnh chiếc lò sưởi bằng gang có treo một bảng đánh máy liệt kê tất cả mọi thứ vật dụng, bên dưới có đóng dấu hẳn hoi và một chữ ký loằng ngoằng. Với một sự chính xác của toán học, tất cả mọi thứ dụng cụ, kể cả những thứ rẻ tiền và không đáng kể của trang thiết bị đã được tính toán, cân nhắc để cung cấp cho từng trạm bưu điện tương ứng. Không một thứ vật dụng nào không có tên ở trong bảng lại có quyền tồn tại trong phòng làm việc, và ngược lại mỗi một dụng cụ có tên trong bảng phải luôn luôn có mặt trong phòng để bất cứ lúc nào cũng có thể sử dụng được. Chính quyền, luật lệ và thể chế đã quy định như vậy. Nghiêm khắc mà nói thì trong cái bảng liệt kê được đánh máy cẩn thận ấy cần phải ghi thêm một nhân vật nữa - đó là người nhân viên cứ sáng sáng vào đúng bảy giờ lại nhấc tấm kính ở vách ngăn ra rồi đưa toàn bộ cái thế giới vô tri vô giác ấy vào hoạt động. Người đó sẽ mở các bao thư, đóng dấu vào các bức thư, thanh toán các giấy chuyển tiền, viết hóa đơn, cân các bưu kiện, ghi chép và đánh những cái dấu bí hiểm không ai hiểu nổi lên giấy tờ bằng bút chì xanh đỏ, nhấc ống nghe lên và quay điện thoại. Nhưng có lẽ vì tế nhị mà người ta không đưa cái nhân vật vẫn thường được khách hàng gọi là nhân viên bưu điện ấy vào trong bảng liệt kê vật dụng nói trên. Tên họ của người đó đã được đăng kí trong một bộ phận khác của ban giám đốc bưu điện. Tuy nhiên cũng giống như những thứ vật dụng khác, người đó cũng nằm trong diện được kiểm tra thường xuyên. Trong căn phòng làm việc đáng tôn kính ấy hầu như không bao giờ xảy ra một sự thay đổi đáng kể nào. Những quy luật vĩnh cửu về cuộc sống và cái chết đành phải lùi bước khi đụng vào bức tường chắn của quốc gia. Xung quanh bưu điện, cây cối đâm chồi nảy lộc rồi trút lá, trẻ con lớn lên còn người già lại chết đi, những ngôi nhà cũ kỹ ọp ẹp đổ sập xuống và người ta lại xây những ngôi nhà mới, chỉ riêng cái công sở của nhà nước ấy là vẫn khoa trương sức mạnh không hề bị khuất phục bởi bất cứ điều gì. Bởi lẽ, trong cái môi trường ấy, mỗi một vật dù bị mòn hay bị mất, bị hỏng hay bị gãy, liền được các nhà chức trách yêu cầu phải thay thế ngay bằng một tiêu bản khác giống y như vậy. Chính điều đó đã chứng minh sự hơn hẳn của cơ quan nhà nước với thế giới bên ngoài đang tàn rữa. Nội dung chứa đựng bên trong có thể chỉ nhất thời nhưng hình thức thì không bao giờ thay đổi. Trên bức tường có treo một tấm lịch. Cứ mỗi ngày trôi qua, một tờ lịch lại được bóc đi. Sau một tuần mất bảy tờ, sau một tháng - ba mươi tờ. Vào ngày ba mươi mốt tháng mười hai, khi lốc lịch đã hết, người ta làm đơn xin cái mới, cũng với kích thước y như vậy, hình thức ấn loát y như vậy. Và thế là một năm mới đã bước sang nhưng tấm lịch thì vẫn như cũ. Trên bàn có một cuốn sổ kế toán với những hàng số chi chít. Khi những dãy số ở hàng bên trái vừa cộng xong, kết quả liền được đưa sang hàng bên phải và công việc tính toán lại tiếp tục, hết trang này đến trang khác. Khi trang cuối cùng được viết kín cuốn sổ cũng coi như hết, lại bắt đầu một cuốn mới, vẫn hình dạng y như thế, chiều dày y như thế, không khác chút nào so với cuốn trước. Còn tất cả mọi công việc đã kết thúc trong ngày hôm ấy thì hôm sau sẽ bắt đầu lại, tẻ nhạt, đơn điệu như chính bản thân công việc. Trên mặt bàn sẽ lại xuất hiện chính những đồ vật ấy, vẫn những tập biểu mẫu in sẵn với những cây bút chì, vẫn những chiếc kẹp giấy và những tờ phiếu ghi, lần nào công việc cũng có vẻ như mới nhưng thực ra vẫn như cũ. Không có chuyện gì thay đổi hoặc thêm vào trong cái thế giới do nhà nước quản lý này. Cuộc sống cứ thế lặp đi lặp lại, không chút sinh khí, nói cho đúng hơn là sự chết dần chết mòn ấy không bao giờ chấm dứt. Điều duy nhất khác nhau giữa những đồ vật là nhịp độ hao mòn và khả năng phục hồi của chúng, nhưng điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào bản thân đồ vật. Chiếc bút chì chỉ tồn tại trong một tuần và sau đó được thay bằng chiếc khác giống y như chiếc cũ. Cuốn sổ bưu điện sống được một tháng, chiếc bóng điện - ba tháng, còn tấm lịch thì một năm. Chiếc ghế mây được quy định phải dùng trong ba năm mới được thay thế còn người ngồi trên đó thì phải ngồi suốt đời - khoảng ba mươi đến ba lăm năm. Sau đó trên chiếc ghế ấy người ta sẽ bổ nhiệm một người khác, song chiếc ghế vẫn như cũ, chẳng khác gì chiếc trước. Vào năm 1926, trong trạm bưu điện Klein-Reifling nằm ở một làng nhỏ bình thường cạnh thành phố Krems và cách thủ đô Vienna khoảng hai giờ xe lửa, thứ vật dụng có thể thay thế được mà ta vẫn thường gọi là “nhân viên phục vụ” lại là một người phụ nữ. Và bởi lẽ trạm bưu điện này được xếp vào loại nhỏ, do đó người nhân viên cũng chỉ được mang tước vị “trợ lý ngành bưu điện”. Qua tấm kính của vách ngăn ta không thể nhìn rõ cô gái được, nhưng có thể thấy một khuôn mặt thiếu nữ nhìn nghiêng không có gì đặc biệt song rất dễ thương: cặp môi nhỏ, đôi má hơi nhợt nhạt, phía dưới cặp mắt có một quầng tối. Vào buổi chiều, khi cô gái bật ngọn điện sáng gắt lên, người tinh mắt có thể nhận thấy một vài nếp nhăn nhỏ trên trán và hai bên thái dương. Mặc dù vậy, bên cạnh cành miên quỳ lấp ló sau khung cửa sổ và bó hoa cơm cháy sáng nay cô vừa cắm trong chiếc lọ bằng sắt tây, cô gái vẫn là một đối tượng sinh động hơn cả giữa những vật dụng của trạm bưu điện Klein - Reifling. Và cũng dễ dàng nhận thấy cô gái ấy còn có thể tiếp tục công việc của mình ít nhất là hai mươi lăm năm nữa. Bàn tay nhỏ nhắn với những ngón tay trắng xanh kia sẽ còn phải nhấc lên đặt xuống hàng nghìn lần nữa cái tấm kính ngăn. Và hàng trăm nghìn lần nữa, mà cũng có thể là hàng triệu lần nữa, bằng những động tác máy móc, cô sẽ còn phải đặt những bức thư lên miếng đệm cao su, rồi cũng hàng nghìn lần nữa có thể hàng triệu lần nữa, đóng cái dấu bằng đồng nhem nhuốc lên những con tem. Có lẽ cái thao tác thành thạo của cánh tay cô gái sẽ ngày càng trở nên chính xác hơn, nhanh nhẹn hơn nhưng đồng thời cũng trở nên vô ý thức hơn. Hàng trăm nghìn bức thư nữa sẽ qua tay cô gái, tất nhiên những bức thư khác nhau nhưng chúng luôn luôn chỉ là những bức thư, và những con tem dẫu có khác nhau, nhưng dù sao thì đó cũng chỉ là những con tem. Những tháng ngày khác nhau sẽ trôi qua, nhưng ngày nào cũng bắt đầu từ tám giờ sáng, đến mười hai giờ trưa, từ hai giờ chiều đến sáu giờ tối, rồi năm tháng sẽ trôi qua, không chút hứng thú, không chút thay đổi vì vẫn chỉ là những công việc ấy, cứ lặp đi lặp lại mãi. Cũng có thể vào chính cái buổi trưa mùa hạ êm ả ấy, người thiếu nữ có mái tóc màu hung nhạt ngồi sau ô cửa kính đang nghĩ về tương lai của mình, mà cũng có thể nàng chỉ đang mơ mộng. Dù có thế nào thì cô gái vẫn ngồi đấy, hai cánh tay tuột khỏi mặt bàn nằm yên trên đầu gối, những ngón tay thon nhỏ, trắng xanh mệt mỏi đan vào nhau. Vào những buổi trưa tháng bảy oi nồng với bầu trời xanh nhạt như thế này, trong trạm bưu điện Klein - Reifling hầu như chẳng có việc gì làm. Công việc buổi sáng đã kết thúc, người đưa thư Hinterfellner, một người đàn ông gù lưng lúc nào cũng nhai thuốc lá đã chuyển xong những bức thư từ lâu. Từ giờ đến chiều tối sẽ chẳng có một cái công văn hoặc một mẫu hàng nào từ các nhà máy gửi đến nữa, còn người dân trong làng thì chẳng muốn hoặc chẳng có thời gian đâu mà viết thư. Những người nông dân đầu đội mũ rơm rộng vành đang vun gốc nho, đám trẻ con chân đất vẫn đang nghỉ hè thì dẫn nhau ra sông. Mảnh sân lát đá trước cửa vắng hoe bị ánh nắng mặt trời nung nóng. Giá bây giờ được ngồi ở nhà thì thật là tuyệt và cũng thật là tuyệt nếu được ngồi yên mà mơ mộng. Dưới bóng râm của cánh cửa chớp, những tờ biểu mẫu và những tấm bưu ảnh đang ngủ yên trên giá và trong hộp gỗ, chiếc máy điện báo uể oải lười biếng hắt ra ánh kim loại trong bóng tối nhờ nhờ vàng đục. Sự tĩnh lặng giống như một lớp bụi vàng dày đặc bao trùm lên tất cả mọi thứ dụng cụ trong phòng, chỉ còn lại dàn nhạc violon nhỏ xíu của đàn muỗi và của bầy ong đất là vẫn còn tiếp tục chương trình hòa nhạc buổi chiều của mình ngoài khung cửa. Vật duy nhất còn hoạt động trong căn phòng mát mẻ là quả lắc chiếc đồng hồ treo tường vỏ gỗ treo giữa hai khuôn cửa sổ. Mỗi một giây trôi qua, chiếc đồng hồ nuốt chửng một giọt thời gian. Tuy nhiên tiếng lắc đều đều yếu ớt của nó chỉ càng làm cho người ta dễ ngủ hơn là đánh thức người ta dậy. Cô gái trợ lý ngành bưu điện vẫn ngồi yên trong cái thế giới nhỏ bé của mình và uể oải thiếp đi với một cảm giác dễ chịu. Đúng ra mà nói, cô cũng định tranh thủ thêu thùa một chút. Cô đã chuẩn bị sẵn kim chỉ và một chiếc kéo nhỏ, nhưng tấm vải thêu tuột khỏi đầu gối rơi xuống đất, nhặt nó lên thì cô không đủ sức và cũng chẳng có ý định ấy. Ngửa người ra thành ghế, cô gái nhắm mắt lại thở nhè nhẹ, hoàn toàn đắm chìm trong cảm giác khoan khoái, dễ chịu vì được nghỉ ngơi. Những giây phút như vậy thật hiếm trong đời nàng. Chú thích [1] Franz Josef (1830 - 1916): hoàng đế Đế quốc Áo - Hung từ năm 1848 tới năm 1916.   Mời các bạn đón đọc Khát Vọng Đổi Đời của tác giả Stefan Zweig.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chìa Khóa Ngày Tận Thế
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Chìa Khóa Ngày Tận Thế của tác giả James Rollins. Tại trường Đại học Princeton, một nhà di truyền học nổi tiếng đã chết trong phòng thí nghiệm. Ở Rome, người ta tìm thấy một nhà khảo cổ thuộc tòa thánh Vatican nằm chết tại thánh đường Peter. Tận châu Phi xa xôi, con trai của một Thượng nghị sĩ Mỹ bị sát hại một cách tàn bạo bên ngoài trại Chữ thập đỏ. Ba kẻ sát nhân ở ba lục địa khác nhau tạo nên một mối liên kết đáng sợ: tất cả nạn nhân đều bị thiêu chết và bọn chúng để lại chữ thập đặc trưng của những kẻ ngoại giáo. Bọn giết người kỳ quái đẩy sĩ quan Gray Pierce và Lực luợng Sigma vào một cuộc chạy đua với thời gian nhằm tìm ra lời giải cho một bí ẩn từ nhiều thế kỷ trước, một tội ác khủng khiếp đuợc che giấu bên trong quyển kinh thánh bí ẩn có từ thời Trung cổ. Manh mối đầu tiên được khám phá bên trong một xác ướp chôn trong đầm lầy than bùn ở Anh - một bí mật khủng khiếp đe dọa Mỹ và toàn thế giới. Được hai ngừời phụ nữ giúp sức, một là tình nhân cũ, còn nguời kia là cộng sự mới, Gray phảí xâu chuỗi sự thật kinh hoàng lại với nhau. Nhưng việc khám phá ra bí mật này khiến anh trả giá đắt, và để cứu lấy tương lai, Gray sẽ phải hy sinh một trong hai nguời phụ nữ hết lòng giúp đỡ anh. Như thế duờng như vẫn chua đủ, khi sự thật dàn hé mở để lộ một lời tiên tri về ngày tận thế hết sức đen tối, kinh hoàng. Lưc luợng Sigma đối đầu với mối đe dọa khủng khiếp nhất của loài người trong một cuộc phiêu lưu chạy đua từ Đấu trường La Mã ở Rome đến chóp núi phủ băng của Thụy Điển, từ sụ đổ nát của những tu viện thời Trung cổ đến những ngôi mộ mất tích của các vị vua Xentơ. Cơn ác mộng cuối cùng bị khóa chặt bên trong một tấm bùa đuợc chôn bởi một vị thánh đã chết - một cổ vật được biết đến với tên gọi Chìa khóa ngày tận thế. *** Tại trường đại học Princeton, một nhà di truyền học nổi tiếng đã chết trong phòng thí nghiệm. Ở Rome, người ta tìm thấy một nhà khảo cổ thuộc toà thánh Vatican nằm chết tại thánh đường Peter. Tận Châu Phi xa xôi, con trai của một Thượng nghĩ sĩ Mỹ bị sát hại một cách tàn bạo bên ngoài trại Chữ thập đỏ. Ba kẻ sát nhân ở ba lục địa khác nhau tạo nên một mối liên kết đáng sợ: tất cả nạn nhân đều bị thiêu chết và trên trán đều để lại một dấu chữ thập đặc trưng, một kí hiệu cổ xưa của những kẻ ngoại giáo!   Quyển sách bắt đầu bằng ba cái chết kinh khủng như thế. Nhân vật chính ở đây là thanh tra Gray Pierce và lực lượng Sigma. Bọn giết người đã đẩy ông vào một cuộc chạy đua với thời gian nhằm tìm ra lời giải cho một bí ẩn từ nhiều thế kỉ trước. Một tội ác khủng khiếp được khám phá bên trong một xác ướp chôn trong đầm lầy than bùn ở Anh- vén màn một bí mật khủng khiếp đe dọa nước Mỹ và toàn thế giới. Quyển sách thật sự là một hành trình đầy mạo hiểm và nghẹt thở. Một cuộc chạy đua từ đấu trường La Mã ở Rome đến chóp núi phủ băng của Thụy Điển. Từ sự đổ nát của những tu viện thời Trung cổ đến những ngôi mộ mất tích chôn vùi hàng ngàn năm dưới lòng đất. Sĩ quan Gray Pierce được sự giúp sức của hai người phụ nữ xinh đẹp. Một là tình nhân cũ và một là cộng sự mới. Cuộc hành trình bắt buộc ông phải hi sinh một trong hai người phụ nữ ấy và có lẽ sự mất mát còn to lớn hơn thế nữa khi ông cố tìm ra lời giải về một lời tiên tri, một cổ vật được biết đến với tên gọi CHÌA KHOÁ NGÀY TẬN THẾ! ———— Đây là quyển sách đầu tiên của tác giả James Rollins mà mình tìm đọc. Và nó đã mang lại cho mình sự hài lòng tuyệt đối. Để lấy một thứ gì đó tương tự và so sánh, sẽ không ngoa khi đặt tác phẩm này ngang hàng với Mật Mã Davinci- khi nói về cuộc hành trình của nhân vật chính trong truyện. Và hơn thế nữa là lượng kiến thức kinh khủng về Tôn giáo, các công trình kiến trúc, những kí tự cổ xưa, những kiến thức về lai tạo sinh học…mà tác phẩm này mang lại. Mình đang tự hỏi không biết tác phẩm này đã được dựng thành phim hay chưa?! Nếu chưa quả thật là các đạo diễn đã bỏ lỡ một tác phẩm vô cùng xuất sắc. Nếu được chuyển thể thành phim chắc hẳn nó cũng sẽ hồi hộp và kịch tính i như Indiana Jone hay Tomb Raider vậy! Quyển sách không hề có đoạn mào đầu giống như những tác phẩm trinh thám khác. Mà vừa bước vào tác giả đã show ra ngay ba án mạng và sau đó là hành trình chạy đua với tử thần của nhân vật chính cùng đồng đội từ đầu cho đến hết quyển sách. Nói một cách hoa mĩ là bạn chỉ cảm thấy thở phào nhẹ nhõm và tim hết đập loạn nhịp, đầu óc hết căng thẳng khi khép lại những trang cuối cùng. James Rollin còn hay ở chỗ, một mặt ông không để độc giả có thể rời mắt khỏi những trang sách của mình. Mặt khác ông lại tạo ra được một kết thúc bất ngờ- điều mà bất kì ai cũng mong muốn có ở một tác phẩm trinh thám. Xen vào cuộc hành trình kịch tính ấy là những câu thoại hài hước của các nhân vật phụ trong truyện. Để đang trong cảm giác căng thẳng mà bạn cũng phải bật cười thành tiếng. Một điểm cộng đầu tiên cho tác giả và cả dịch giả!! Điểm cộng thứ hai là tác giả đã tạo ra một kết thúc mở. Khi mọi việc đã thành công đâu vào đấy. Nhưng thật sự những mối hiểm nguy vẫn còn nhen nhóm. Một tổ chức mới, một kí tự cổ xưa mới lại xuất hiện để mở đến một điều gì đó tàn khốc và xấu xa hơn. Gây ra sự tò mò cho độc giả. Và nói thật nếu tác giả ra phần2 của quyển này thì chắc chắn nó sẽ “bán đắt như tôm tươi”! Điểm cộng thứ 3, cũng là điều mà mọi người hay thắc mắc khi đọc những tác phẩm có chứa nhiều kiến thức về tôn giáo, khảo cổ,v.v…vì không biết rằng nó có THẬT hay là KHÔNG. Và ở đây đến cuối cùng James Rollins đã viết một vài dòng như thế này: “Ghi chú dành cho độc giả Sự thật hay Hư cấu. Mọi thứ trong cuốn sách này là thật, ngoại trừ những điều không thật. Chắc hẳn James là một người có khiếu hài hước bẩm sinh. Và sau đó mà một loạt những giải thích về những điều có trong tác phẩm để bạn tự trả lời cho câu hỏi thắc mắc phía trên của mình!! Mình xin kết thúc bài review bằng câu nói của LIBRARY JOURNAL dành cho tác phẩm Chìa Khoá Ngày Tận Thế- “Một tiểu thuyết khắc họa thành tựu kỹ thuật đáng kinh ngạc và xuất sắc, có lẽ đây là cuốn tiểu thuyết hay nhất của James Rollins tính đến nay”. Và đối với bản thân mình đây cũng là một trong những quyển sách trinh thám hay nhất mà mình từng đọc!! Điểm tuyệt đối 10/10! Hoang Tu Lai *** Tóm tắt Cuốn sách "Chìa Khóa Ngày Tận Thế" của tác giả James Rollins kể về một nhóm các nhà khoa học và quân nhân phải ngăn chặn một thảm họa toàn cầu. Câu chuyện bắt đầu với cái chết của một nhà di truyền học nổi tiếng ở Princeton, New Jersey. Nhà khoa học này đã bị thiêu chết và bên cạnh thi thể là một chữ thập đặc trưng của những kẻ ngoại giáo. Cùng lúc đó, một nhà khảo cổ thuộc tòa thánh Vatican cũng bị giết theo cách tương tự ở Rome, và con trai của một Thượng nghị sĩ Mỹ cũng bị sát hại ở châu Phi. Sĩ quan Gray Pierce của Lực lượng Sigma, một tổ chức bí mật của chính phủ Mỹ, được giao nhiệm vụ điều tra những vụ giết người này. Gray nhanh chóng phát hiện ra rằng những vụ giết người này có liên quan đến một bí ẩn từ nhiều thế kỷ trước, một tội ác khủng khiếp được che giấu bên trong quyển kinh thánh bí ẩn có từ thời Trung cổ. Gray được hai người phụ nữ giúp sức, một là tình nhân cũ, còn người kia là cộng sự mới. Cùng nhau, họ đã xâu chuỗi sự thật kinh hoàng lại với nhau và phát hiện ra một lời tiên tri về ngày tận thế hết sức đen tối, kinh hoàng. Lực lượng Sigma đối đầu với mối đe dọa khủng khiếp nhất của loài người trong một cuộc phiêu lưu chạy đua từ Đấu trường La Mã ở Rome đến chóp núi phủ băng của Thụy Điển, từ sự đổ nát của những tu viện thời Trung cổ đến những ngôi mộ mất tích của các vị vua Xentơ. Cơn ác mộng cuối cùng bị khóa chặt bên trong một tấm bùa được chôn bởi một vị thánh đã chết - một cổ vật được biết đến với tên gọi "Chìa khóa ngày tận thế". Review Cuốn sách "Chìa Khóa Ngày Tận Thế" là một tác phẩm khoa học viễn tưởng hấp dẫn, với những tình tiết hành động gay cấn và những ý tưởng khoa học viễn tưởng thú vị. Điểm mạnh của cuốn sách là cốt truyện chặt chẽ, với những tình tiết được đan xen một cách khéo léo, khiến người đọc không thể rời mắt. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng có những ý tưởng khoa học viễn tưởng hấp dẫn, mang đến cho người đọc những hình ảnh và trải nghiệm mới lạ. Tuy nhiên, cuốn sách cũng có một số điểm hạn chế. Một số tình tiết trong truyện có vẻ hơi phi lý, và một số nhân vật có vẻ hơi sáo rỗng. Nhìn chung, "Chìa Khóa Ngày Tận Thế" là một cuốn sách khoa học viễn tưởng đáng đọc, đặc biệt là đối với những người yêu thích thể loại này. Những điểm nổi bật Cốt truyện chặt chẽ, với những tình tiết được đan xen một cách khéo léo. Những ý tưởng khoa học viễn tưởng hấp dẫn. Hành động gay cấn. Một số ý kiến của độc giả "Cuốn sách rất hay và hấp dẫn. Tôi thích cách tác giả xây dựng cốt truyện và những ý tưởng khoa học viễn tưởng trong truyện." "Cuốn sách rất đáng đọc, đặc biệt là đối với những người yêu thích thể loại khoa học viễn tưởng." "Cuốn sách có một số tình tiết hơi phi lý, nhưng nhìn chung vẫn rất hấp dẫn." Mời các bạn mượn đọc sách Chìa Khóa Ngày Tận Thế của tác giả James Rollins.
Ông Già và Biển Cả
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Ông Già và Biển Cả của tác giả Ernest Hemingway & Mặc Đỗ (dịch). VỀ NHỮNG NHÂN DANH, ĐỊA DANH TRONG SÁCH NÀY Để văn dịch được thật sự phổ cập và những bản dịch được hoàn toàn quốc ngữ hóa như của Trung Hoa, Nhật Bản, dịch giả đề nghị áp dụng trong bản dịch này việc phiên âm những nhân danh, địa danh. Phương pháp đề ra chưa chắc đã hoàn hảo; dù sao ta cứ bước một bước đầu. NGUYÊN TẮC CHUNG Nhân danh, địa danh của nước nào thì phải cố gắng phiên âm theo đúng âm của nước đó. Những danh từ đã quá quen thuộc nên giữ lại. Thí dụ: Anh, Pháp, Nga, Mỹ… Nhưng nếu phiên âm đúng hơn và sẽ tiện dụng hơn thì nên đổi: Pari hơn Balê. PHƯƠNG PHÁP Viết dính các âm. Viết rời nếu danh từ gốc viết rời. Cố giữ để khỏi xa với cách viết (theo mẫu tự latinh) của danh từ gốc. Thí dụ: không thay S bằng X (Sanhtơny chớ không Xanhtơny). Không phân biệt cách đọc S và X, nhưng để phiên âm vần CH (Pháp) hay SH (Anh) dùng vần SH. Thí dụ: Shinông. Chấp nhận âm S câm. Thí dụ: Côngstăngtanh, Stăngbun. Chấp nhận thêm những vần không dùng trong Việt ngữ nhưng người Việt phát âm được: Bl, Br, Cl, Cr, Đr, (đơrơ), F (phơ), F1 (phơlơ), Fr (phơrơ), J (thay cho vần GI để khi đọc khỏi lẫn, thí dụ: Anjêri dễ đọc hơn Angiêri vì có thể lầm thành Angi-êri), Kl (Cơlơ), Kr (cơrơ), Z. Cố gắng phiên âm đầy đủ các âm của danh từ gốc, nhưng tránh dùng dấu Việt ngữ để nhấn mạnh nếu không cần thiết lắm, tuy gặp danh từ gốc cố ý nhấn mạnh vẫn cần giữ cho đúng với nguyên tắc chung. Thí dụ: Odessa có thể viết Ôđesa, nhưng Madagascar phải viết Mađagátca. *** LỜI NGƯỜI DỊCH Đem kinh nghiệm bản thân gửi vào tác phẩm, chủ đích nghệ thuật đó Ernest Hemingway đã giải bày trong cuốn The Snows of Kilimanjaro: một nhà văn khi hấp hối nhớ lại những mẩu đời của mình đã toan để dành đưa vào trong truyện. Toàn thể những tác phẩm đã xuất bản của Hemingway đều là những vang bóng của những quảng thời gian mà chính tác giả đã từng sống. Thời thơ ấu ở Michigan (In Our Time), kỳ đại chiến thứ nhất trong quân đội Ý (A Farewell to Arms), huấn luyện viên võ thuật (Fifty Grend), dự đấu bò tại Tây Ban Nha (The Undefeated), sáu năm sống cuộc đời ly hương tại Montparnasse, Paris (The Sun Also Rises), tham gia nội chiến Tây Ban Nha trong hàng ngũ dân chủ (For Whom The Bells Toll), Cuốn Ông già và Biển cả (The Old Man and the Sea) chúng tôi trình bày cùng độc giả, rút ở những nhận xét tại chỗ hồi ông ở Key West, tận cùng mỏm Florida, thường đi theo dân chài ra khơi. Bằng chứng vào cuộc đời và những tác phẩm của Hemingway ta có thể nói không ngoa rằng nếu ông ở yên một chỗ ông sẽ không thể viết được. Trong một cuộc du lịch tại Phi-châu, ông và bà vợ cùng đi trên một chiếc máy bay riêng và mất tích giữa rừng rậm, báo chí thế giới đã sửa soạn bài ai điếu thì hai vợ chồng ông lại tìm về được không một chút thương tích. Tuy Hemingway sống rất nhiều, nhân vật trong tiểu thuyết của ông thường biểu lộ tâm trạng trơ trọi của con người bất phùng thời. Trơ trọi vì kiêu hãnh từ chối đầu hàng, không chịu phó mặc cho số phận. Ông lão đánh cá trong thiên truyện này là một thể hiện đặc sắc của sự trơ trọi kiểu Hemingway. Bị người đời rẻ rúng ông lão vẫn cương quyết đi con đường của mình cho trọn, chống trả kịch liệt cho đến thành công, rồi lại đem hết sức tàn ra đương đầu với Định Mệnh, không một lời ta oán, tin ở mình cho đến cùng. *** Tóm tắt Câu chuyện kể về Santiago, một ông già đánh cá già nua và nghèo khó, đã 84 ngày liền không bắt được con cá nào. Những người bạn đánh cá khác đã bỏ đi, chỉ còn lại Santiago tiếp tục ra biển một mình. Một ngày nọ, ông già đã câu được một con cá kiếm khổng lồ. Con cá quá lớn đến nỗi thuyền của ông già bị kéo ra xa bờ hàng trăm dặm. Santiago đã phải chiến đấu với con cá suốt ba ngày ba đêm, và cuối cùng ông đã bắt được nó. Tuy nhiên, khi con cá bị kéo lên thuyền, những con cá mập đã đến và ăn thịt nó. Khi Santiago trở về bờ, ông chỉ còn lại bộ xương của con cá. Review "Ông già và biển cả" là một câu chuyện về lòng can đảm, sự kiên trì và ý chí chiến thắng. Santiago là một người đàn ông kiên cường và bất khuất, không bao giờ bỏ cuộc trước khó khăn. Ông đã chiến đấu với con cá kiếm suốt ba ngày ba đêm, và cuối cùng đã bắt được nó. Câu chuyện cũng là một bài thơ về vẻ đẹp của biển cả và thiên nhiên. Hemingway đã miêu tả biển cả một cách sống động và chân thực, thể hiện sự tôn trọng và ngưỡng mộ của ông đối với thiên nhiên. "Ông già và biển cả" là một tác phẩm kinh điển của văn học Mỹ. Câu chuyện đã được dịch ra hơn 50 ngôn ngữ và được chuyển thể thành phim nhiều lần. Đánh giá chung "Ông già và biển cả" là một tác phẩm văn học xuất sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu sắc và những bài học ý nghĩa. Câu chuyện là một bức tranh tuyệt đẹp về cuộc sống và sự đấu tranh của con người, và là một lời ca ngợi cho tinh thần kiên cường và ý chí chiến thắng. Những điểm nổi bật Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Nhân vật Santiago được xây dựng thành công Miêu tả thiên nhiên sống động và chân thực Mang đến những cảm xúc sâu sắc và những bài học ý nghĩa Kết luận "Ông già và biển cả" là một tác phẩm văn học đáng đọc, mang đến cho người đọc những trải nghiệm tuyệt vời. Mời các bạn mượn đọc sách Ông Già và Biển Cả của tác giả Ernest Hemingway & Mặc Đỗ (dịch).
Đi Tìm Gobi
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Đi Tìm Gobi của tác giả Dion Leonard & Nguyễn Thu Thảo (dịch). Giống như một điều kì diệu, “Đi tìm Gobi” kể về câu chuyện gặp gỡ thần kỳ giữa Dion - vận động viên điền kinh người Scotland và người bạn chó đặc biệt khi anh tham gia chạy đua quãng đường 250 km trên sa mạc Gobi (Trung Quốc). Không giống Sahara ở châu Phi, sa mạc Gobi có nhiều cồn cát, đồng bằng sỏi và núi đá hùng vĩ, gió ở đây có thể thổi mạnh lên đến 140 km/giờ. Nhưng Dion đã không hề cô đơn trong cuộc hành trình khó khăn khi một chú chó nhỏ đã chạy theo anh suốt đường đua và dính lấy anh như hình với bóng. "Tôi biết nếu nó chạy theo tôi sẽ ảnh hưởng đến cuộc đua của tôi, nhưng tôi không biết tại sao mình không thể từ bỏ nó được" – Dion chia sẻ. Tuy chỉ về thứ hai, nhưng với Dion, anh đã tìm thấy một món quà quý giá hơn cả, đó là chú chó Gobi - một người bạn đường đáng yêu và trung thành. Cuốn sách tập trung miêu tả những khó khăn, khắc nghiệt mà vận động viên chạy bộ gặp phải trên hành trình của mình, và hơn hết là ý chí bền bỉ, nhẫn nại để từng bước chinh phục hành trình ấy. Không đi sâu vào cách thức tập luyện, không đưa ra bất kì lời khuyên về chuyên môn nào, Finding Gobi chinh phục trái tim độc giả bởi câu chuyện nhân văn đan xen trong đó. *** ĐÊM QUA, Ê KÍP LÀM PHIM ĐÃ ĐÓNG MÁY. Ngày mai đại diện nhà xuất bản sẽ đến. Cả người tôi vẫn còn ê ẩm do dư âm của chuyến hành trình dài bốn mươi mốt giờ qua. Cho nên tôi và Lucja đã quyết định chuyến chạy bộ đầu tiên của năm sẽ chỉ chạy nhẹ nhàng thôi. Với lại, chuyến này không chỉ dành riêng cho hai chúng tôi thôi đâu. Còn cả Gobi nữa. Chúng tôi thong thả chạy qua quán bar, phi xuống con đường ngay bên cạnh Cung điện Holyrood. Dưới nền trời trong xanh, đồi cỏ mọc trên đường chân trời Edinburg hiện ra trước mắt. Đó là đồi Arthur’s Seat - Ngai vàng của vua Authur. Đến tôi còn chẳng nhớ nổi mình đã chạy lên ngọn đồi này bao nhiêu lần, mặc dù bạn biết đấy, ngọn đồi luôn tỏ ra hung bạo. Nào là những cơn gió táp vào mặt, buộc anh phải lùi bước. Nào là mưa đá sắc như dao cứa vào da thịt anh. Những ngày như thế, tôi lại thèm cái nóng 49 độ của sa mạc. Nhưng hôm nay, trời không gió cũng chẳng mưa đá. Khi chúng tôi leo lên, ngọn đồi cũng chẳng cau có khó chịu như mọi khi, như thể đang muốn khoe mình dưới bầu trời quang mây hiếm hoi. Gobi như biến thành một cô chó khác khi chúng tôi giẫm lên cỏ. Cô nhóc vốn nhỏ con đến mức tôi có thể dễ dàng cắp bên nách, nay lại lồng lộn như sư tử, kéo tôi chạy phăng phăng lên sườn đồi. “ Wow !” Lucja trầm trồ. “Coi nó tràn đầy năng lượng chưa kìa!” Không chờ tôi đáp, Gobi đã quay lại, thè lưỡi, hai mắt sáng bừng , tai vểnh, ngực ưỡn ra. Ái chà, chừng như nó hoàn toàn hiểu lời Lucja vậy. “Em chưa biết đó thôi,” tôi đáp, tăng tốc lên một chút để nới lỏng dây xích. “Chỉ khi về núi rừng nó mới như vậy.” Chúng tôi chạy ngày một xa, sắp đến đỉnh đồi rồi. Sao tôi lại đặt tên cho Gobi theo tên một sa mạc ấy nhỉ ? Sườn núi Thiên Sơn hiểm trở, lạnh lẽo mới là nơi chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên cơ mà. Gobi quả là một nhà leo núi thực thụ. Càng đi, trông cô nhóc càng lí lắc hơn. Chẳng mấy chốc, cái đuôi ngắn ngủn của Gobi vẫy nhanh như chớp, nó lắc lư thân mình vì một niềm vui đơn thuần. Khi Gobi quay đầu lại lần nữa, tôi thề là tôi đã thấy nụ cười toe toét của nó. Nhanh lên nào! Cô nhóc giục. Tiến lên! Từ trên đỉnh đồi, tôi đắm mình trong những khung cảnh quen thuộc. Cả Edinburgh trải rộng dưới chân chúng tôi; xa hơn là Cầu Forth, những quả đồi ở Lomond, rồi từng dặm đường mòn West Highland Way dài chín mươi sáu dặm tôi từng chinh phục. Tôi còn trông thấy cả bắc Berwick nữa, trọn một đường chạy marathon chuẩn1* đây. Tôi mê cảm giác chạy dọc bờ biển, kể cả vào những ngày phải đánh vật với gió từng dặm đường một. 1* Đường chạy marathon chuẩn có cự li 26,2 dặm Anh, tức là khoảng 42,2 kilômét. Tôi đã ở đây được hơn bốn tháng rồi. Dù đã quen, nhưng ở đâu đó vẫn có chút khang khác. Phải chăng vì có Gobi. Cô nhóc quả quyết đã đến lúc xuống núi, rồi lôi tôi xềnh xệch xuống sườn đồi. Không phải bằng đường mòn chúng tôi đã đi lên mà lao thẳng xuống. Tôi nhảy qua những bụi cỏ và tảng đá to cỡ chiếc vali. Lucja vẫn duy trì tốc độ chạy kế bên tôi. Gobi dẫn đường đầy điêu luyện. Tôi và Lucja nhìn nhau rồi cùng bật cười, tận hưởng khoảnh khắc chúng tôi hằng mong mỏi. Khoảnh khắc cả gia đình chạy cùng nhau. Chạy không phải lúc nào cũng vui. Với tôi mà nói, chạy chưa bao giờ vui. Có lẽ sẽ có khen thưởng và thỏa mãn, nhưng không phải là thứ niềm vui có thể bật cười thành tiếng như giờ khắc này. Gobi muốn chạy tiếp, vì vậy chúng tôi để nhóc ta kéo đi. Nhóc ta dẫn chúng tôi đến bất cứ nơi nào nhóc ta muốn, lúc quay lên đồi, lúc chạy xuống đồi. Không theo kế hoạch huấn luyện hay lộ trình định trước nào. Không lo âu. Không câu nệ. Chỉ là một giây phút vô tư lự, và cũng vì thế mà tôi vô cùng thấy cảm kích. Sáu tháng đã qua, tôi thấy mình cần điều đó lúc này. Tôi đã đối mặt với những thứ tôi chưa từng dám nghĩ tới chỉ bởi vì cô cún Gobi này, nhúm lông nâu bé tí tẹo đang chạy phăng phăng, làm bả vai tôi như muốn trật đến nơi. Tôi từng đối mặt với nỗi sợ hãi chưa từng biết đến. Tôi từng tuyệt vọng, loại tuyệt vọng có thể biến bầu không khí xung quanh bạn trở nên ảm đạm và mất đi sức sống. Tôi từng đối mặt với cái chết nữa. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Còn rất nhiều chuyện tôi muốn kể cho bạn nghe. Về một cô chó nhỏ đã thay đổi chính tôi theo cái cách mà đến giờ tôi mới chớm hiểu. Mà có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ hiểu thấu được. Tuy vậy, tôi vẫn biết: Đi tìm Gobi là một trong những thử thách khó khăn nhất đời tôi. Và được Gobi chọn là một trong những hạnh phúc lớn nhất. *** Tóm tắt Câu chuyện kể về chuyến đi của Dion Leonard, một người đàn ông Scotland, đến Trung Quốc để chạy marathon. Trong chuyến đi này, anh đã gặp gỡ một chú chó con lạc đàn tên Gobi và quyết định nhận nuôi nó. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành marathon, Dion phải trở về Scotland, còn Gobi vẫn ở lại Trung Quốc. Dion không thể quên Gobi, vì vậy anh đã quyết định quay trở lại Trung Quốc để tìm kiếm chú chó. Chuyến đi của anh gặp nhiều khó khăn và nguy hiểm, nhưng cuối cùng anh cũng tìm thấy Gobi. Review "Đi tìm Gobi" là một câu chuyện cảm động về tình bạn giữa người và động vật. Dion Leonard là một người đàn ông mạnh mẽ và kiên cường, nhưng anh cũng có những lúc yếu lòng và cô đơn. Gobi đã mang đến cho anh sự yêu thương và động viên, giúp anh vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Câu chuyện cũng là một lời ca ngợi sức mạnh của tình yêu thương. Tình yêu thương giữa Dion và Gobi đã vượt qua mọi trở ngại, giúp họ tìm thấy nhau và cùng nhau vượt qua những thử thách. Một số điểm nổi bật trong cuốn sách Câu chuyện cảm động về tình bạn giữa người và động vật. Lời ca ngợi sức mạnh của tình yêu thương. Cốt truyện hấp dẫn và lôi cuốn. Lối viết chân thực và giàu cảm xúc. Kết luận "Đi tìm Gobi" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại hồi ký và câu chuyện về động vật. Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những phút giây xúc động và suy ngẫm về ý nghĩa của tình yêu thương. Mời các bạn mượn đọc sách Đi Tìm Gobi của tác giả Dion Leonard & Nguyễn Thu Thảo (dịch).
Chuyến Du Hành Ngược Thời Gian
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tập Truyện Ngắn Khoa Học Viễn Tưởng Thế Giới: Chuyến Du Hành Ngược Thời Gian của Nhiều Tác Giả. CHUYẾN DU HÀNH NGƯỢC THỜI GIAN, tập truyện ngắn khoa học viễn tưởng thế giới, nhiều người dịch. Tập sách gồm 14 truyện ngắn của các nhà khoa học viễn tưởng Liên Xô, Mỹ, Ba Lan, Bun-ga-ri, Tiệp khắc, Anh, Nhật về các lĩnh vực khác nhau của khoa học: vũ trụ, sinh vật, y học, người máy v.v... *** Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật bùng nổ của thế kỷ XX, truyện khoa học viễn tưởng - một khu vực đề tài văn học đang còn rất mới và đầy sức sống - được bạn đọc đặc biệt ưa thích và càng ngày càng hứa hẹn một tương lai phát triển rực rỡ. Ở nhiều nước, bên cạnh Hội nhà văn còn có Hội các nhà khoa học viễn tưởng, hàng năm có các giải thưởng khoa học viễn tưởng quốc tế và khu vực, các tác phẩm khoa học viễn tưởng được nhiều nhà xuất bản in hàng loạt thành những tủ sách riêng. Ở Việt Nam, cùng với bước tiến của khoa học kỹ thuật và trình độ văn hóa, giáo dục của nhân dân lao động được nâng cao, đọc sách khoa học viễn tưởng ngày càng trở thành một nhu cầu, một hứng thú đối với đông đảo bạn đọc, nhất là thanh niên và trí thức. Để đáp ứng nhu cầu đó, tiếp theo các cuốn “Trinh vân tiên nữ”, “Bóng dáng thời xưa”, “Gió vĩnh cửu” v.v... Nhà xuất bản Lao động lần này cho ra mắt tập sách Khoa học viễn tưởng mới: “Chuyến du hành ngược thời gian”. Đây là một trong những cố gắng đầu tiên giới thiệu với bạn đọc Việt Nam thế giới Khoa học viễn tưởng thông qua một thể loại văn học nhỏ về số trang nhưng hấp dẫn: truyện ngắn. Tập sách bao gồm 14 truyện ngắn của các nước có truyền thống khoa học viễn tưởng rất mạnh hiện nay, như Liên Xô, Mỹ, Ba Lan, Bun-ga-ri, Tiệp Khắc, Anh, Nhật Bản, với những tác giả nổi tiếng mà tên tuổi đã trở nên quen thuộc trong bạn đọc khoa học viễn tưởng thế giới, như Rư-bin (Liên Xô), A-di-mốp (Mỹ), Nhe-xơ-vát-ba (Tiệp Khắc) v.v... Nội dung tập truyện đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học: vũ trụ, sinh vật, y học, người máy v.v... nhưng không quá đi sâu vào các chi tiết kỹ thuật nặng nề. Truyện khoa học viễn tưởng không chỉ mang đến cho người đọc những hiểu biết về khoa học hiện đại và những dự kiến của nó trong tương lai (viễn tưởng). Dù viết về người máy hoặc những chuyến du hành lên các hành tinh khác hay xuôi ngược trong thời gian đằng sau các chi tiết ly kỳ hấp dẫn, vẫn nổi lên cái chủ yếu: con người. Con người của thời đại chúng ta, của thế kỷ XX sôi động với những suy tư, ước mơ, lo âu, hy vọng với những vấn đề đạo đức và thời sự rất hiện thực và gần gũi. Qua lăng kính phóng đại của trí tưởng tượng của các nhà viễn tưởng, chúng ta vẫn thấy rất rõ tinh thần lạc quan, nhân đạo, lòng tin vào khoa học, vào tương lai tiến hóa nhân loại trong tác phẩm của các nhà văn các nước xã hội chủ nghĩa (“Trái đất gọi”, “Giáo sư Béc-nơ thức giấc”...) và tính ích kỷ, vô nhân đạo, lợi dụng khoa học phục vụ mục đích lợi nhuận trong xã hội tư bản (“Những kẻ buôn đau đớn”, “Lịch sử một tai họa”, v.v...). Đề tài bạo loạn, chiến tranh và hòa bình cũng được trăn trở qua nhiều tác phẩm. Truyện khoa học viễn tưởng, vì vậy, ngoài giá trị nhận thức khoa học, còn có giá trị giáo dục rất lớn mà người đọc có thể ngẫm nghĩ thật sâu và tiếp nhận. Nhà xuất bản Lao động xin giới thiệu với bạn đọc “Chuyến du hành ngược thời gian”, và mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp phê bình của bạn đọc để có thể làm tốt hơn những tập sách sau.   NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG *** Tóm tắt Tập truyện ngắn khoa học viễn tưởng thế giới "Chuyến du hành ngược thời gian" gồm 14 truyện ngắn của các nhà văn nổi tiếng đến từ nhiều quốc gia khác nhau, như Liên Xô, Mỹ, Ba Lan, Bun-ga-ri, Tiệp khắc, Anh, Nhật Bản. Các truyện trong tập sách đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học, từ vũ trụ, sinh vật, y học, người máy đến các vấn đề xã hội và triết học. Review Tập truyện là một bức tranh phong phú và đa dạng về khoa học viễn tưởng thế giới. Các truyện trong tập sách được viết theo nhiều phong cách khác nhau, từ hiện thực đến kỳ ảo, từ hài hước đến nghiêm túc. Một số truyện trong tập sách được đánh giá cao bởi tính sáng tạo và độc đáo, như "Chuyến du hành ngược thời gian" của Rư-bin (Liên Xô), "Người đàn ông từ tương lai" của A-di-mốp (Mỹ), "Chuyến bay đến quá khứ" của Nhe-xơ-vát-ba (Tiệp khắc), "Người máy" của Rô-bốt-xki (Liên Xô). Một số truyện khác lại mang tính triết lý sâu sắc, như "Chuyến đi của một người đàn ông" của Xta-ni-sláv-ski (Liên Xô), "Người máy và con người" của Ha-ri-son (Mỹ), "Thế giới của người máy" của Đô-mốt-xki (Liên Xô). Một số điểm nổi bật trong tập sách Sự đa dạng về chủ đề và phong cách Tính sáng tạo và độc đáo Tính triết lý sâu sắc Một số nhận xét về tập sách "Tập truyện là một món ăn tinh thần bổ ích cho những ai yêu thích khoa học viễn tưởng." - Một độc giả "Tập truyện là một bức tranh phong phú và đa dạng về khoa học viễn tưởng thế giới." - Một nhà phê bình văn học Kết luận Tập truyện "Chuyến du hành ngược thời gian" là một tuyển tập truyện ngắn khoa học viễn tưởng đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại này. Tập sách mang đến cho độc giả những câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn và giàu ý nghĩa.   Mời các bạn mượn đọc sách Tập Truyện Ngắn Khoa Học Viễn Tưởng Thế Giới: Chuyến Du Hành Ngược Thời Gian của Nhiều Tác Giả.