Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cuộc Phiêu Lưu Của Samuel Pingle

Những thay đổi trong ebook: - Thêm hình minh họa như đã nói ở trên. - Chuyển hết tên phiên âm thành Latin, lý do: cách phiên âm quá sai khác với tên gốc. Ví dụ: Jim bị phiên âm thành Đgim, Jhon bị phiên âm thành Đờ-giôn, tuy nhiên vẫn là chuyện nhỏ so với tên công ty, địa danh nếu nhìn vào tên phiên âm không thể biết tên gốc là gì. Vì lý do này cover và 1 trang lót (bổ sung thêm) cũng được sửa. - Một số tên phiên âm được chuyển sang tên Việt hóa hoặc dịch thẳng ra tiếng Việt cho dễ hiểu, ví dụ: ap-tơ, tra từ gốc thì hóa ra là bệnh lở mồm long móng của động vật móng guốc, nếu để tên phiên âm latin sẽ gây khó hiểu. Áo Palto tôi sửa thành áo bành tô vì nếu để nguyên gốc tiếng Pháp cũng gây khó hiểu. - Sửa rất nhiều lỗi chính tả còn sót. *** Để thỏa mãn những lời yêu cầu khẩn khoản của người vợ thân yêu và của Jim, đứa con trai chúng tôi, một tiến sĩ sinh vật học trẻ tuổi, tôi sẽ trình bày lại trong cuốn sách này sao cho đầy đủ hơn những sự kiện ly kỳ xảy ra ở Ashworth khoảng ba mươi nhăm năm trước, cùng những cuộc phiêu lưu mà số phận đã đẩy tôi vào. Những sự việc ấy xảy ra vào lúc mà loài người vừa hồi tỉnh lại sau những nỗi kinh hoàng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và đã tưởng được yên hưởng một nền hòa bình lâu dài, chẳng hề nghi ngờ rằng lại sắp bị xô đẩy xuống vực thẳm của những tai họa chiến tranh khủng khiếp nhất. Có thể là đối với một số người thì phần nào những biến cố và những cuộc phiêu lưu của tôi có vẻ như hoàn toàn không đúng sự thật. Tuy nhiên tôi cho rằng sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật là vô tận, và hy vọng trong tương lai sắp tới tôi với các bạn cùng thời của tôi sẽ được thấy những phát minh sáng chế và những đều kỳ diệu hơn nhiều so với những việc tôi mô tả hoặc những điều con trai tôi mới viết trong chuyên khảo “sự giải đáp về bản chất của những virus qua lọc” (năm 1966). Những hồi ức về thời niên thiếu hiện nay vẫn làm cho lòng tôi xao xuyến khôn xiết, nhưng tôi sẽ cố viết lại những hồi ức đó bằng cái giọng bình tĩnh của những nhà văn cổ điển mà ngày xưa, khi còn bé, cha tôi đã dạy tôi đọc những tác phẩm của họ, những tác phẩm ấy đã giáo dục chúng ta biết yêu tha thiết tổ quốc tươi đẹp của chúng ta. Tôi sẽ thực sự vui mừng nếu các bạn tìm thấy ở cuốn sách của tôi những kiến thức hữu ích và có thể học hỏi được, bởi vì ánh sáng của kiến thức thì soi đường cho nhân loại còn việc quan sát tỉ mỉ những hành vi của mọi người xung quanh sẽ làm giàu cho kinh nghiệm cá nhân của mỗi người. Bởi vậy, trong khi tự cổ vũ mình bằng mềm hy vọng rằng tất cả những ai có dịp đọc cuốn sách này đều sẽ lượng thứ cho những mặt yếu và nhược điểm của tôi, tôi, Samuel Pingle, quê ở Ashworth, hôm nay, một buổi sớm đẹp trời ngày 17 tháng Năm, năm 1968, vừa lúc tôi tròn năm mươi tuổi, bắt đầu trình bày những sự kiện đúng với sự thật và còn có thể là chi tiết nữa. Tôi sinh vào lúc sôi sục nhất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở Ashworth một thành phố nhỏ bé và tiện nghi, nằm trên bờ Đại tây dương, trong gia đình ông Isidor Pingle, một thư lại trong văn phòng của lâu đài Oldmount thuộc quyền sở hữu của lord* Pucklington. Tôi là đứa con cuối cùng và duy nhất còn sống sót của cha mẹ tôi. Các anh, các chị sinh trước tôi đều đã chết khi còn ít tuổi. Tất nhiên là cha mẹ tôi hết sức yêu quý “thằng nhóc” của mình. Mẹ tôi yếu, và bệnh sưng phổi đã cướp mất bà khi tôi mới lên bảy. Cha cha tôi và tôi khóc lóc mãi không nguôi trước cái tang đau đớn này. Cha tôi đã sống những ngày góa bụa trong một ngôi nhà nhỏ ở gần bãi chợ cùng với bác Reggie, anh mẹ tôi, một ông già độc thân. Bác tôi, trung sĩ Reginald Brand về hưu, bị lựu đạn làm cụt cánh tay trái ở Gallipoli năm 1917 lúc nào cũng tự hào mang tấm huân chương “Vì dũng cảm” trên ngực và đã kể cho tôi nghe rất nhiều câu chuyện kỳ lạ. Có lẽ chính những câu chuyện ấy đã làm nảy ra trong óc tôi ý muốn tha thiết được tới những nước nhiệt đới để thấy tận mắt những điều kỳ diệu. Lúc còn bé tôi hoàn toàn không ngờ rằng thực tế còn kỳ lạ hơn nhiều so với những cuộc phiêu lưu mà bác tôi thường hay thuật lại vào những đêm đông dài, khi ông ngồi hút thuốc trước ngọn lửa ấm cúng của bếp lò. Tôi nhớ rằng bác tôi đã từng kể về một con tàu, con tàu ấy lớn đến nỗi khi nó đi ngang qua eo biển Dover thì mũi tàu chạm vào đỉnh tháp Calais trên bờ biển Pháp, còn lá cờ đang tung bay phía lái đã hất cả một đàn cừu đang đứng trên những tảng đá Dover xuống biển. Những cột buồm của con tàu này cao tới mức một thủy thủ thiếu niên leo lên đến đỉnh, lúc tụt xuống tới boong tàu thì cậu ta đã trở thành một ông già râu dài tới rốn. Bác tôi còn kể là có lần ông đi sang Tân Ấn-độ trên một tàu thủy nhỏ, con tàu của ông đã phải len lỏi giữa những hòn đảo trên một eo biển hẹp đến nỗi ông có thể với tay sờ tới được những tảng đá trên bờ, với cơ man là vàng bạc, châu báu. Ông còn kể về eo biển Ballambang Jang, khiến sau đó tôi cứ lần mò tìm mãi trên các bản đồ địa lý nhưng vẫn không thấy đâu. Trên những cây mọc hai bên bờ eo biển này có rất nhiều khỉ nhiều đến nỗi, người ta không thể nào điều khiển được những cánh buồm nữa; đuôi của chúng thõng xuống thành từng chùm và rối cả vào với những dây căng buồm. Nghe những câu chuyện ấy, tôi đã thề với mình rằng thế nào cũng phải trở thành một nhà du lịch. Dần dần về sau tính hài hước hồn hậu ở bác tôi bắt đầu đượm vẻ u sầu bí ẩn. Hồi ấy ở Ashworth người ta coi bác tôi là một ông già bẳn tính và hay lý sự đến phát ngấy lên. Được tiền trợ cấp chiến tranh, bác tôi đã dùng phần lớn thì giờ của mình ở hiệu ăn “Hổ Vương”, ở đây ông giao du thoải mái với cái xã hội của những khách hàng quen. Ông chủ hiệu ăn “Hổ Vương”, ông Tom Bridge mắt lác, nổi tiếng là một quán quân cờ bạc kiệt xuất ở vùng Ashworth. Ông ta còn nổi tiếng về nhiều điều khác nữa, sắp tới đây tôi sẽ nói đến. Bác tôi thường ngồi ở hiệu ăn “Hổ Vương” từ sáng sớm, ông rít cái tẩu thuốc Brazil lớn nhồi đầy thứ thuốc “Sư tử phương tây”, loại thuốc bốn xu một gói, và chậm rãi uống từng ngụm rượu ale dựng trong cốc vại bằng thiếc với cái vẻ của một người đã làm việc khá nhiều trong cuộc đời của mình và giờ đây có quyền tiêu xài tiền trợ cấp nhỏ mọn một cách vô tư lự. Mời các bạn đón đọc Những Cuộc Phiêu Lưu Của Samuel Pingle của tác giả Sergey Belyaev  & Nguyễn Đức Vinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Mẹ - Maxim Gorky
Người mẹ là tác phẩm viết về hiện thực xã hội nước Nga trong những năm đầu thế kỷ 20, khi giai cấp vô sản Nga đang chuẩn bị tiến hành cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất. Tác phẩm vẽ ra trước mắt chúng ta bức tranh rộng lớn của xã hội Nga những năm đầu thế kỷ 20 với cái quá khứ nặng nề trong đời sống của vợ chồng bác công nhân Mikhain, với cái hiện tại đấu tranh gian khổ và anh dũng của mẹ con anh công nhân Paven… Đồng thời, tiểu thuyết còn gợi lên niềm tin chắc chắn về thắng lợi tất yếu của những người lao động chân chính với chế độ chuyên chế. Hình ảnh kết thúc của tiểu thuyết, “cảnh người mẹ bị bắt cầm tù” gợi nên trong lòng người đọc nhiều ám ảnh, nhiều xót xa nhưng nó làm cho người đọc lạc quan, tin tưởng ở ngày mai. *** Macxim Gorki (1864 – 1934) là nhà văn vĩ đại của giai cấp vô sản, là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc đời hoạt động văn học gần nửa thế kỷ, ông đã để lại một sự nghiệp chói lọi, một di sản sáng tác khổng lồ, nó là niềm tự hào của nhân dân Nga và của cả loài người tiến bộ. Truyện ngắn Macxim Gorki có sự kết hợp hài hoà yếu tố lãng mạn và hiện thực. Ở đó có sự gắn bó máu thịt của ông với nhân dân và đất nước qua các giai đoạn cách mạng. Trong truyện ngắn Macxim Gorki bộc lộ niềm khao khát tự do và ca ngợi ý chí hào hùng, bất khuất của con người, phơi bày tính chất tàn bạo của chế độ xã hội – chính trị trước cách mạng, cái chế độ giết chết mọi cái có sức sống trong con người; quá trình trăn trở, tự ý thức đầy gian khổ của các tầng lớp “dưới đáy” để vươn tới sự đổi đời; đề cao và thi vị hoá lao động: phê phán lối sống và tâm lý ươn hèn của tầng lớp trí thức tiểu tư sản và tư sản; những truyện ngắn triết lý, những truyện có tính chất tự thuật… Danh tiếng của Gorky như giọng văn học duy nhất từ những tầng lớp đáy xã hội và như một người ủng hộ nhiệt thành cho cuộc cải cách xã hội, chính trị và văn hoá Nga (tới năm 1899, ông công khai liên kết với phong trào Dân chủ xã hội Mác xít) khiến ông trở nên nổi tiếng trong cả giới trí thức và số lượng ngày càng gia tăng các công nhân "có ý thức". Ở trung tâm của mọi tác phẩm của ông là một niềm tin ở giá trị vốn có và khả năng của con người (личность, lichnost'). Ông đưa ra các cá nhân đầy sức sống, nhận thức về phẩm giá tự nhiên của họ, và có cảm hứng từ nhiệt tình và ý chí của họ, những người chống lại các điều kiện sống đang ngày càng tồi tệ đi quanh mình. Tuy nhiên, cả các tác phẩm cũng như những bức thư của ông cho thấy một "con người không ngừng nghỉ" (một người thường xem xét lại mình) đấu tranh để giải quyết những tình cảm về đức tin và thái độ hoài nghi trái ngược bên trong, tình yêu cuộc sống và sự phẫn nỗ với sự tầm thường và nhỏ mọn của thế giới con người. Mời các bạn đón đọc Người Mẹ của tác giả Maxim Gorky.
Một Lễ Cưới Khác Thường - Jules Verne
Ngôi thứ nhất, Henri Vidal, kể lại câu chuyện mình từ Pháp sang Hungary dự đám cưới em trai Marc, lấy một cô gái bản xứ là Myra Roderich. Tuy nhiên đám cưới bị sự ngăn trở của Wilhelm Storitz, tình địch của Marc, đã bị gia đình Roderich từ chối. Hắn ta đã đe dọa sẽ dùng những "quyền lực siêu nhiên, vượt khả năng chống cự của con người" để can thiệp. Vậy lễ cưới có diễn ra được không, mời các bạn theo dõi. Tác phẩm này của Jules Verne tuy không hấp dẫn và nổi tiếng như các tác phẩm khác của ông như Hai vạn dặm dưới biển, Tám mươi ngày vòng quanh thế giới... nhưng cũng đáng để đọc qua một lần. Trong những tác phẩm khác, các máy móc trong trí tưởng tượng của Verne phần nhiều đã thành hiện thực thì trong tác phẩm này, khả năng "siêu nhiên" rất tiếc khoa học hiện tại đã chứng minh là "bất khả". *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. Mời các bạn đón đọc Một Lễ Cưới Khác Thường của tác giả Jules Verne.
Miền Đất Ấy - Antônio Torres
Antônio Torres sinh năm 1940 tại Junco, trong khu heo hút của vùng rừng gần như nguyên sinh của miền Bahia. Chúng ta có thể hiểu là: ông thuộc về thế hệ các nhà văn mới đã bén rễ trong vùng Nordeste[1] của quốc gia Brésil. Độc giả của Graciliano Ramos, của Jorge Amado hay Rachel de Queiroz, những bậc thầy của “tiểu thuyết xã hội xứ Nordeste” trong những năm ba mươi, sẽ nhận ra rằng miền đất dữ dội ấy không ngừng nuôi dưỡng sự tưởng tượng và sáng tạo nghệ thuật. Và những ai đã từng tin rằng dòng máu mang tính địa phương chủ nghĩa đã bị cạn kiệt cùng với sự thâm nhập tài tình của João Guimarães Rosa mà tác phẩm của ông đã biến hóa sự phong phú về chủ đề và ngôn ngữ địa phương bằng một tác phẩm cách tân mang tầm toàn cầu, sẽ nghe thấy những tiếng kêu với các trọng âm cấp thiết hơn của miền đất này mà hiện giờ đang trong cơn biến động. Junco không vang lên bên tai chúng ta như những cái tên khiến ta mê hoặc như Salvador, như Recife, Porto Seguro. Junco chẳng có gì khác biệt, không có gì đặc sắc, nó cũng tựa như hàng ngàn những ngôi làng bị hủy diệt bởi sự hoang tàn ù lì của sự đói nghèo và thi thoảng lại bị nạn hạn hán hoành hành. Và trên hết, Junco ngày nay là một vùng đất bị chính những đứa con mình bỏ rơi, những đứa con đó đã ra đi hoặc mơ mộng sẽ ra đi tới những thành phố của “phép mầu công nghiệp”, như Rio de Janeiro, Sao Paulo… Phải chăng sự phản bội ấy là nguyên nhân của tai họa mà nó hình như đè nặng lên những đứa con của vùng đất đã hy sinh vì sự tiến bộ? Mời các bạn đón đọc Miền Đất Ấy của tác giả Antônio Torres.
Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu - William Somerset Maugham
MẶT TRĂNG VÀ ĐỒNG SÁU XU mượn một phần tiểu sử của danh họa người Pháp Paul Gauguin, một trong những họa sĩ tiên phong, một tên tuổi rất lớn và đầy sáng tạo của hội họa hiện đại, xuất hiện gần như đồng thời với sự ra đời lừng lẫy của các họa sĩ trường phái Ấn tượng. S. Maugham đã mượn câu chuyện nửa thực nửa hư về cuộc đời của nhà danh họa để trình bày những ý nghĩ của mình về Nghệ thuật, Tình yêu và Con người. Chắc hẳn ông có dựa vào quyển hồi ký của chính nhà danh họa, nhưng ở nhiều chỗ ông đã hư cấu với thủ pháp quen thuộc của mình. Ở đây chúng ta gặp lại Maugham với những chủ đề ta đã từng gặp trong hai tác phẩm kia: con người, dục vọng, nghệ thuật… Có thể nói trong cả ba tác phẩm nổi bật nhất này của mình, Maugham đều viết về sự ràng buộc mà cái bản năng lớn nhất của con người là Dục vọng (và dĩ nhiên theo nó là Tình Yêu) tác động lên nhân vật chính của tác phẩm, là những người đàn ông. Ở Of Human Bondage đó là sự ràng buộc, của dục vọng - tình yêu, trên một người bình thường. Ở The Radzor’s Edge là ràng buộc trên một người đi tìm sự giải thoát và ở The Moon and Sixpence là ràng buộc trên một nghệ sĩ thiên tài. Câu chuyện của 3 tác phẩm nói chung là mô tả cách những người đàn ông đó đã phản ứng lại sự ràng buộc kia… Khoảng năm 1972 - 1973 ở Sài gòn xuất hiện bản dịch The Moon and Sixpence dưới cái tên “Đời nghệ sĩ” (nxb Ca dao). Một nhà phê bình khó tính đã than trời về bản dịch này. Tôi tình cờ kiếm được nguyên tác ở chợ sách son trên hè phố Sài Gòn và đã kiểm chứng được lời than phiền này. Quả là một bản dịch quá tệ, tôi thử so vài trang để sửa và kết quả là mỗi trang của bản dịch được tôi sửa chi chít đen kịt, đó chỉ là với khả năng của một người có vỏn vẹn ít năm học tiếng Anh ở trường trung học. Tình cờ ít năm sau đó cũng trên hè phố bán son, tôi lại “vớ” được quyển nhật ký của Paul Gauguin dịch ra tiếng Anh với cái nhan đề The Intimate Journal. Kể cũng là duyên phận. Sách in lại nhiều bức tranh của Gauguin để minh họa. *** William Somerset Maugham là nhà văn Anh, sinh năm 1874 và sống ở Pháp cho đến khi lên mười. Học xong đại học ở Anh, ông làm thầy thuốc tại bệnh viện. Có khiếu văn chương, ông sớm bắt đầu viết tiểu thuyết và thành công với vài tác phẩm đầu tay, rồi chuyển hẳn sang sáng tác văn học. Ông nổi tiếng với hai truyện dài Kiếp người (Of Human Bondage) (1914) và Mặt trăng và đồng sáu xu(The Moon and sixpence) (1919). Trong số sách được xuất bản sau đó có: (Bức Bình phong (The Painted Veil) (1925),Quý Ngài trong phòng khách (The Gentleman in the Parlour) (1930), Don Fernando (1935), Lưỡi dao cạo (The Razor’s Edge) (1944), Sổ tay nhà văn (A Writer’s Notebook)(1949), Cách nhìn thiên vị (Points of View) (1958),… W.S. Maugham đồng thời còn là một nhà soạn kịch trứ danh với những sáng tác như: Phu nhân Frederick (Lady Frederick) (1907), Smith (1909), Đất hứa (The Land of Promise) (1913). Ông cũng là tác giả nhiều truyện ngắn rất được hoan nghênh. Toàn tập truyện ngắn của ông được tái bản nhiều lần với số lượng mấy trăm nghìn bản, ví dụ như Mưa. Trong Mặt trăng và đồng sáu xu, tác giả kể lại cuộc đời một nhà buôn cổ phần chứng khoán trở thanh họa sĩ thiên tài mà người đương thời chưa đánh giá đúng giá trị tác phẩm cho tới khi ông qua đời một cách thê thảm ở nơi đất khách quê người. Kinh doanh thành đạt, sống sung túc, được vợ con hết lòng yêu mến, Charles Strickland bất thình lình bỏ gia đình ra đi, không còn quan hệ với cái xã hội ông đã từng sống, quyết tâm hiến cả đời mình cho hội họa. Ông sống gian khổ trong nhiều năm phấn đấu không thành công ở Paris. Hoàn cảnh xui khiến, ông đi tìm môi trường sáng tác mới ở một nơi xa xôi ở cái tuổi gần năm mươi. Trên đảo Tahiti, trong một gian nhà nhỏ ở một vùng hẻo lánh, được chăm sóc bởi người vợ trẻ, ông miệt mài vẽ cho đến ngày chết vì bệnh hủi, mù cả hai mắt. Tác phẩm cuối cùng của ông là những bức tranh vẽ trên vách và trần nhà mà người được may mắn nhìn thấy đánh giá là kiệt xuất. Với tính khí khác thường vốn có, ông yêu cầu vợ đốt căn nhà, nhưng những bức tranh vẽ trên vải không đóng khung vứt lung tung trong nhà đủ cho những ai hiểu biết hội họa coi ông là một thiên tài. Mời các bạn đón đọc Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu của tác giả William Somerset Maugham.