Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Kẻ Văn Minh

Những kẻ văn minh đạt giải thưởng Goncourt vào năm 1905, nhưng công chúng cũng như độc giả có học thức không biết gì về tác giả Claude Farrere và cuốn tiểu thuyết. "Những kẻ văn minh", đó là thực dân, những người phải mang cái gánh nặng của người da trắng mà Kipling ca tụng: Văn minh, ít nhất là của họ. Vì khí hậu của Sài Gòn và Hà Nội, vì thuốc phiện, những nhân vật chính của cuốn sách phải đối mặt với một sự từ bỏ bi quan, thậm chí còn hoài nghi, những giá trị truyền thống: đạo đức, pháp luật. Cuốn tiểu thuyết này khi mới ra đời đã rất gây tranh cãi. Đây cũng là một giải Goncourt kì lạ vì tiểu thuyết này có hình ảnh của loại sách làm người ta hư hỏng, của loại tiểu thuyết hủy hoại sự trong trắng. *** Claude Farrère, bút danh của Frédéric - Charles Bargone (1876 - 1957), là một tiểu thuyết gia người Pháp với những tác phẩm có bối cảnh ngoài nước Pháp như Istanbul, Sài Gòn và Nagasaki.   Một trong những tác phẩm của ông là Những kẻ văn minh (Les civilisés) đã đoạt giải Goncourt năm 1905. Ngày 26 tháng 3 năm 1935, ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp.   Ban đầu giống như cha mình, một đại tá bộ binh từng hoạt động tại các thuộc địa của Pháp, ông gia nhập học viện hải quân năm 1894, thăng chức trung úy vào năm 1906 và đại úy năm 1918. Vào năm 1919, ông từ chức để tập trung vào nghiệp viết văn.   Các tác phẩm của ông phần lớn không được chú ý, kể cả với độc giả Pháp. Tuy nhiên ông vẫn là một trong những tác giả lớn của nền văn học Đông Dương tại Pháp cùng với các tên tuổi như Malraux, Duras, Dorgelès, Viollis..  *** Trong khoảnh sân trồng những cây phượng lớn rùm ròa tỏa bóng, quãng giữa ngôi nhà và cổng của chấn song, hai anh phu Bắc Kỳ đưa xe ra, một chiếc xe kéo rất lịch sự, sơn then và ánh bạc. Họ xếp hàng dọc giữa hai càng xe đứng đợi ông chủ, lặng phắc như hai bức tượng quấn lụa. Xe và người làm thành một cỗ nom đỏm dáng, đẹp như tranh vẽ là đằng khác giữa Sài Gòn, nơi chỉ dân thường mới còn đi xe kéo. Nhưng bác sĩ Raymond Mévil vốn tính khá độc đáo, vả chăng anh ta có một chiếc xe ngựa mui trần và nhiều ngựa chạy hay. Thế nên mọi người bỏ qua cho anh ta cái thói ngông đi xe kéo và vi phạm mốt thời thượng – một cách xa hoa.   Lúc ấy bốn giờ chiều, giờ tỉnh giấc ngủ trưa. Bác sĩ không tiếp khách muộn hơn giờ này – cách thức kín đáo, ở cái xứ mà đường phố vắng vẻ cho đến lúc mặt trời lặn. Hôm ấy Raymond Mévil đi ra sớm, không phải cho cuộc đi dạo thường lệ trước bữa ăn tối, mà cho một vài thăm viếng không hẳn trong nghề nghiệp mà vả chăng anh ta cũng làm khá thưa thớt, vì chiến thuật của anh ta là ít khi xuất hiện.   Một cô “người ở”[1] búi tóc trơn mở cửa, ném vài câu bông đùa với hai anh phu xe, bất thình lình đứng lặng phắc, vẻ gái nhà lành: ông chủ vừa xuất hiện. Anh ta bước xuống bậc thềm, bước chân trẻ nhưng đã chậm, đưa ngón tay vuốt bầu vú cô gái qua lần áo lụa đen, và bước lên xe. Chiếc xe nhỏ bắt đầu lao nhanh, đám phu xe chạy vun vút để gió mạnh thổi mát mặt người phương Tây. Ở các cửa sổ, qua những khe cánh cửa chớp, những ánh mắt phụ nữ ngắm nhìn các bộ chế phục phu xe trắng toát viền vải điều, ngắm nhìn vẻ duyên dáng của vị khách, nom còn quyến rũ hơn cả cái vẻ xa hoa bao bọc anh ta. Bác sĩ Mévil được phụ nữ yêu, trước hết vì anh ta yêu thích phụ nữ, và chỉ yêu thích họ, thứ đến vì anh ta đẹp, một vẻ đẹp khiến tất cả họ đều bối rối, một vẻ đẹp khêu gợi ẻo lả tới mức sỗ sàng. Anh ta trắng trẻo, tóc màu hung, với cặp mắt xanh biếc quá dài, và cái miệng bé đỏ mọng. Mặc dù đã ngoài ba mươi, anh có vẻ thanh niên, và dáng người béo tốt như người ta hình dung anh. Bộ râu mép dài màu sáng, nom anh như một người Gaulois suy tàn, mà các thế kỷ đã làm cho tinh tế và thuần thục.   Cái giống nhau chỉ là tình cờ, Mévil khoe mình là dân khá văn minh mà mọi thứ máu của mọi thứ nguồn gốc đều trộn lẫn vào nhau trong huyết quản.   Chiếc xe tay chạy lon ton giữa các bóng cây ven đường, né tránh mặt trời xiên khoai vẫn hừng hực. Người chủ dùng đầu ba toong chỉ đường cho phu xe. Để dừng lại, anh ta thúc gậy vào vai họ, bảo: “Thôi!”. Xe đi vào một khu vườn có biệt thự. Dọc hàng rào, nhiều chiếc xe đang đợi, với những người phu giữ ngựa An Nam thấp tè nắm chặt hàm thiếc ngựa.   - À, ừ, Mévil nghĩ, hôm nay là ngày con bé tiếp khách, thế mà mình không nhớ ra.   Anh ta ngần ngừ giây lát rồi nhún vai, tìm trong túi chiếc ví đựng danh thiếp soát lại trong ấy – có mấy tờ bạc Đông Dương. Tiếp đó, Raymond Mévil quẳng chiếc ba toong cho một anh bồi vừa chạy ra, và đi vào nhà.   Ngôi nhà cũ kỹ rộng thênh, có dáng trăm phần trăm thuộc địa.   Hai phòng đợi dẫn tới chiếc phòng khách được xếp dồn ở cái chái tốt nhất, kéo dài bằng cả một hàng hiên rủ những bức mành mành tranh tối tranh sáng. Mọi cái đều to lớn thênh thang, cao như nhà thờ; các bức vách ngăn không chạm được tới trần, hơi nóng quẩn dưới rầm. Phía bên dưới không khí mát mẻ, các đồ đạc đều bằng gỗ mun chạm xà cừ, phảng phất tỏa một mùi bản xứ.   Trong tiền sảnh, Raymond Mévil vấp phải một người nào đi ra, một nhân vật trịnh trọng mặt mày nhẵn nhụi, da màu vàng chanh, cử chỉ nặng nề - ông chủ nhà này, Ariette, trạng sư ở Tòa Án. Hai người bắt tay nhau rất thân mật; gương mặt buồn tẻ của ông trạng sư thậm chí còn vặn vẹo thành một nụ cười niềm nở chắc hẳn không thường dùng để chào đón tất cả mọi vị khách.   - Nhà tôi có nhà, ông nói, và rất cảm ơn ông có nhã ý đến thăm. Đã khá lâu rồi tôi không có hân hạnh gặp ông tại nhà này.   - Xin ông bạn thân mến tin rằng chỉ là do tính tôi lười biếng, và ngôi nhà của ông đối với tôi là thân thiết nhất ở Sài Gòn.   Viên trạng sư tỏ ý hân hoan, dường như có vẻ cất được mối lo lắng.   - Tạm biệt ông nhé, ông bác sĩ. Ông biết là Tòa án đang gọi tôi, như mọi khi.   - Vụ kiện thú vị chứ?   - Ly dị thôi, dĩ nhiên. Chúng ta sống một thời điểm hết sức tồi tệ.   Ông ta bỏ đi, cặp ôm trong tay, bước chân khô khốc như người máy, dáng vẻ khắc khổ và nghiêm nghị. Raymond Mévil quay nhìn sau lưng ông ta, nhăn mặt cười mỉm.   Trong phòng khách, tám hoặc mười người phụ nữ đang ba hoa trò chuyện, vẻ vừa diêm dúa vừa chểnh mảng trong những chiếc áo dài kiểu Sài Gòn nom như những áo choàng sang trọng. Từ ngưỡng cửa, Mévil nhìn nhanh tất cả khắp lượt, rồi ung dung bước vào giữa đám để chào trước hết bà chủ nhà, một bà tóc nâu duyên dáng mắt trinh khiết, bà ta chìa tay cho anh ta hôn.   - Xin chào vị Đại học Y. Ngọn gió lành nào đưa ông đến đây vậy?   - Hôm nay, - người thầy thuốc đáp, - đơn giản là Đại học Y tới tỏ lòng kính trọng dưới chân đoàn Luật sư.   Anh ta cúi mình trước từng bà khách, nói những lời tình tứ bạo phổi, rồi ngồi xuống. Anh là trung tâm mọi ánh mắt nhìn. Đám phụ nữ tỏ ra ưa thích anh, và cái danh tiếng Don Juan[2] của anh thế là được xác lập.   Anh không hề bối rối và gẫu chuyện. Anh không thiếu dí dỏm và biết cách chứng tỏ là người được phụ nữ ưa thích. Vốn bản tính phù phiếm, anh chú tâm để tỏ ra càng phù phiếm hơn nữa, và sử dụng cái thói phù phiếm ấy như một vũ khí trong các trò quyến rũ tình ái; người ta thông cảm với anh về thói lông bông hám gái và dễ dàng thổ lộ tâm tình với anh mà không hề đắn đo tự ái.   - À này, bà Ariette chợt nói, tôi đang định cho người sang mời ông đấy, ông thầy lang ạ.   - Bà ốm hả? ... Mời các bạn đón đọc Những Kẻ Văn Minh của tác giả Claude Farrère.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiếng Hú Trên Đỉnh Non Chà Hóc
Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng, sinh năm 1926 tại xã Bình Nguyên, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nho học. Ông tham gia Mặt trận Việt Minh huyện Thăng Bình, từ tháng 3-1945 học ban tú tài phần II. Năm 1955, ông tham gia đấu tranh đòi hiệp thương Bắc Nam và bị bắt giam ở nhà lao Thăng Bình rồi nhà lao Hội An. Vũ Hạnh là cán bộ văn hoá Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định, hoạt động công khai ở nội thành Sài Gòn (hoạt động đơn tuyến). Trong hoàn cảnh viết trên sách báo công khai dưới chế độ ở miền Nam, ông đã có cách viết khéo léo để vẫn đưa được những thông điệp tiến bộ đến quần chúng mà không bị kẻ thù đàn áp. Sau năm 1975, ông làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, ủy viên ban chấp hành Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh." *** Tác phẩm chính;   Các tập truyện: Vượt thác (1963), Mùa xuân trên đỉnh non cao (1964), Chất ngọc (1964), Ngôi trường đi xuống (1966), Bút máu (1971), Con chó hào hùng (1974), Cô gái Xà Niêng (1974), Ăn Tết với một người điên (1985), Sông nước mênh mông (1995),... Tiểu thuyết: Lửa rừng (1972) Hồi ký: Cái tết khó quên (1990), Một chặng đường bút mực (2000) Tiểu luận: Người Việt cao quý (1965), Đọc lại Truyện Kiều (1966), Tìm hiểu văn nghệ (1970),... *** Tiếng hú kéo dài rền rĩ, rồi biến thành một tiếng rống ghê rợn bao trùm những dãy nhà sàn cheo leo ngủ yên ở trên sườn núi Ca-Tha. Ông chúa làng Bu-Then chống tay run rẩy ngồi dậy, chong tai ngồi nghe giữa khoảng tối dày. Từ khi bắt đầu bập bẹ những tiếng đầu tiên cho đến bây giờ, mái tóc bạc phau và lưng còng lại như cây gáo già ở trước cổng buôn, ông chưa bao giờ nghe một tiếng hú lạ lùng như thế. Cố gắng chống lại một cơn cảm sốt làm ông rũ liệt đã nhiều ngày rồi, ông choàng tấm "dồ" lên mình, sờ soạng bước ra đầu nhà. Tiếng hú vẫn cứ vang dài như chạy lông lốc trên đầu các ngọn cây cao, rồi tỏa tứ bề, lẫn lộn những lời khóc than kể lể và khi dịu lại nghe như tiếng rên của một người sắp xuống mồ. Ông Bu-Then quờ quạng bám tay vào tấm phên che, chỗ lối xuống lên, ngồi nhẹ xuống sàn như sợ ngôi nhà sụp đổ, giương đôi mắt đã đục lờ, hõm sâu, thảng thốt nhìn về một hướng núi xa. Có lẽ tiếng hú xuất phát từ đỉnh Chà Hóc cao nghệu, hoang vu, dân làng chưa ai bén mảng đến đấy bao giờ. Những câu chuyện về ma quỉ, về thần núi do lão phù thủy Sa-Keo kể lể khiến họ sợ hãi, chỉ đứng xa nhìn đỉnh núi như ngắm nhìn con quái vật linh thiêng. Gió khuya ướt đẫm mùi sương khua động rạt rào cây lá, bốc thổi từng luồng lạnh ngắt, khiến ông chúa làng co rút mình lại, kéo tấm "dồ" lên phủ kín đôi vai. Mặt trăng đã chìm sau núi, chỉ còn le lói đôi vệt sáng mờ sau rặng cây xa, đẩy vùng bóng tối đen dày của ngọn Ca-Tha phủ kín lấy buôn Nước Ràng. Ông Bu-Then nhướng mắt nhìn quanh, không một bóng người thấp thoáng, không tiếng động nào vang lên giữa cảnh âm thầm. Dân làng có lẽ bị chôn vùi trong giấc ngủ nặng nề sau ngày làm việc nhọc mệt trong rẫy, trên nương, hoặc đang co rúm trên các sàn nhà, nín thở lắng nghe tiếng hú kỳ quái bất thần nổi dậy giữa đêm lạnh lẽo tối tăm. Ông chúa làng nhớ mấy ngày trước đây, khói đen bốc tỏa mờ mịt về phía Chà Hóc như báo một điềm chẳng lành. Tai họa sẽ giáng xuống dân Nước Ràng hay sao? Ông thấy xúc động nghẹn ngào và buông một tiếng thở dài. Tiếng hú, sau hồi thét vang rùng rợn, bỗng như khàn hơi ngừng bặt. Cả vùng núi rừng bao la chìm đắm trong sự câm lặng nặng nề. Tất cả sinh hoạt về đêm thường khi cựa quậy rộn ràng, bây giờ nén lại trong sự chờ đợi hồi hộp. Ông chúa làng nghe rõ tim đập dồn dập trong lồng ngực mình. Lâu lắm ông mới nhận được từ xa tiếng suối Nậm Nui rì rầm luồn qua khe đá. Và chim cheo-meo chiêm chiếp thảm thiết ở trong bụi rậm sau buôn. Khi ông lấy lại được sự bình tĩnh, chống tay lom khom đứng dậy thì tiếng hú lại bắt đầu vang lên. Đó là những tiếng gào khan như thoát ra từ cổ họng của một con người to lớn dị thường, và con người ấy tưởng có thể nuốt dễ dàng được cả cây rừng, đá núi. Rồi tiếng gào ấy chuyển sang tiếng thét dữ dội như muốn phá tung lòng núi thẳm sâu để trút hết nỗi căm hờn chất chứa đời đời kiếp kiếp. Lúc tiếng thét đã dịu lại, trở thành tiếng hú, máu trong người ông Bu-Then như ngừng chảy hẳn. Ông ngã khuỵu xuống sàn nhà, tê lạnh người đi vì nỗi hãi hùng. Tiếng hú thê thảm quái gở như tụ hội hết hồn ma, vía quỉ lạc loài trong chốn rừng hoang. Tiếng hú ghê rợn độc ác như cào cấu trên da thịt con người, xuyên thủng màng tai, xoắn lấy não tủy. Như cây gáo già sống trước cổng buôn gặp cơn bão rừng thổi mẹp vẫn luôn cố gắng chống lại mưa gió phũ phàng, ông đã từng đem sinh lực cường tráng giúp cho dân làng xua rạt bao loài thú dữ để rời lũng sâu ẩm thấp mà về bám trên sườn núi Ca-Tha đất rẫy phì nhiêu. Khi sinh lực ấy mỏi mòn, ông đã đem sự khôn ngoan của kẻ trải nhiều bất trắc gian lao giúp cho dân làng trồng trọt, dạy cho dân làng thuận hòa, biết thương rẫy lúa, nương ngô, suối nước, cây rừng. Bây giờ chúa làng Bu-Then lại để tiếng hú ma quái xô ngã như cành củi mục hay sao? Chúa làng Bu-Then để mặc cho bao nhiêu người run rẩy trong cơn khiếp đảm hãi hùng hay sao? Ông già Bu-Then loạng choạng đứng lên, cố chống lại sự hoảng hốt xáo trộn lòng mình. Bám chặt bàn tay gầy gò vào khung cửa liếp, ông lần mò leo xuống chiếc thang gỗ làm bằng thân cây cốc rừng được đẽo hõm vào nhiều nấc để đặt bàn chân. Gió núi thổi tạt từng luồng lạnh buốt, bật tung tấm "dồ" khỏi cái thân hình xương xẩu, muốn kéo ngã ông xuống dưới sân buôn. Ông đi sờ soạng, nghe chân tê nhức ở trên nền đất khô cằn. Trăng đã chìm hẳn, chút sáng nhợt nhạt trên vùng cây xa cũng tắt từ lâu. Ông già Bu-Then tìm về cuối buôn, chỗ nhà phù thủy Sa-Keo. Phải đi hỏi lão, vì chỉ có lão là biết ý định của loài ma quỉ. Lên đến nấc cuối của cây thang gỗ, ông chúa làng thấy qua tấm liếp che trống trải, Sa-Keo đang ngồi im lặng trước một bếp lửa đã tàn, chỉ còn âm ỉ một ít than hồng đỏ rực. Đầu lão to lớn quấn vành khăn rộng xồ xề, trông như một chiếc cối giã lắc lư nhè nhẹ, trong khi hai cánh tay dài loeo ngoeo quấn chặt lấy cặp đầu gối xương xẩu nhô lên đụng tới chân cằm. Ông già đưa tay đẩy mạnh tấm liếp. Sa-Keo như chợt bừng tỉnh, mở rộng đôi mắt ốc nhồi thao láo nhìn về phía cửa, cất giọng khàn khàn: - Ai đó? Mời các bạn đón đọc Tiếng Hú Trên Đỉnh Non Chà Hóc của tác giả Vũ Hạnh.
Người Đẹp Sao Hỏa
Ở phố Bình Minh Đỏ, xuất hiện một bản thông báo kì lạ: đó là một tờ giấy nhỏ, màu xám, đóng vào bức tường nhiều chỗ đã long hết lớp vữa của một ngôi nhà hoang vắng. Khi đi qua, phóng viên một tờ báo Mỹ là Arsiban Xcail trông thấy một phụ nữ trẻ tuổi, chân đi giầy không bít tất, mặc chiếc áo liền váy bằng vải hoa sạch sẽ đang đứng trước tờ thông báo. Chị mấp máy môi đọc. Gương mặt mệt mỏi và xinh xắn của chị không lộ vẻ ngạc nhiên, đôi mắt lãnh đạm. Chị vuốt mái tóc quăn ra sau tai, nhấc làn rau dưới đất lên rồi sang bên kia đường. Bản thông báo đáng được chú ý nhiều hơn thế. Xcail tò mò đọc một lần, rồi tiến lại gần thêm, đưa một tay lên dụi mắt, đọc lần nữa: Twenty three; - Cuối cùng ông ta nói. Như vậy có nghĩa là: “Quỷ tha ma bắt mình với tuốt tuột mọi thứ của mình đi”. Bản thông báo viết: Kĩ sư M. X. Los mời những người muốn bay lên Sao Hỏa cùng với ông vào ngày 18 tháng tám đến gặp ông để bàn bạc riêng từ 6 giờ đến 8 giờ tối. Đường bờ sông Jdanovxcaia, nhà số 11, ở ngoài sân. Bản thông báo được viết một cách bình thường và đơn giản, bằng bút chì graphít. Bất giác Xcail đưa tay lên tự bắt mạch mình: mạch ông bình thường. Ông nhìn đồng hồ: lúc ấy là bốn giờ mười phút, ngày 17 tháng 8 năm 192... Với một lòng dũng cảm, bình tĩnh, Xcail đón chờ mọi thứ chuyện xảy ra trong cái thành phố điên rồ này. Nhưng bản thông báo đóng trên bức tường vữa tác động đến ông ta cực kì mạnh mẽ. Gió thổi hun hút trên đường phố Bình Minh Đỏ vắng vẻ. Cửa sổ các ngôi nhà nhiều tầng, ô thì bị vỡ kính, ô thì bị bịt kín, bằng những tấm gỗ, trông như bên trong không có người ở - không thấy một cái đầu nào thò ra phố. Người phụ nữ trẻ tuổi đặt làn xuống vỉa hè, đứng bên kia đường nhìn Xcail. Gương mặt xinh xắn của chị trông bình thản và mệt mỏi. Hai gò má Xcail hơi động đậy. Ông ta lấy chiếc phong bì cũ, ghi lại địa chỉ của Los: vừa lúc đó có một người cao lớn, vai rộng dừng lại trước bản thông báo. Người này không đội mũ, căn cứ vào quần áo mà xét, thì đây là một anh lính, anh ta mặc áo nỉ không có đai lưng, chân quấn xà cạp. Hai tay anh ta chẳng biết làm gì nên đút vào hai túi. Cái cổ chắc nịch căng ra khi anh ta bắt đầu đọc bản thông báo. – Gớm nhỉ, bay lên tận Sao Hỏa cơ à! - Anh ta nói với vẻ thích thú, rồi ngoảnh gương mặt vô tư rám nắng về phía Xcail. Thái dương anh ta có một vết sẹo trăng trắng chạy chéo xuống. Mắt anh ta màu nâu và cũng như ở phía người phụ nữ kia, có một ánh tinh nghịch. (Từ lâu, Xcail đã nhận thấy nét đó trong đôi mắt người Nga, thậm chí ông ta còn nhắc tới nét ấy trong một bài báo: “... Mắt họ không biểu lộ một điều gì rõ ràng, khi thì giỡn cợt, khi thì kiên quyết đến táo bạo, và cuối cùng, có khi lại biểu lộ một vẻ bề trên khó hiểu - những cái đó tác động cực mạnh đến người châu Âu”. – Kể bay một chuyến với ông ta cũng đơn giản thôi nhỉ, - người lính lại nói, anh ta mỉm cười hồn nhiên đồng thời nhìn Xcail từ đầu đến chân. Bỗng anh ta nheo mắt, nụ cười tắt hẳn trên môi. Anh ta chăm chú nhìn người phụ nữ bên kia đường vẫn đang đứng không nhúc nhích bên cạnh làn rau. Anh ta hất cằm bảo: – Masa, sao em đứng đó hả? (Chị chớp mắt nhanh một cái). Thôi về nhà đi chứ. (Chị có vẻ bồn chồn, hai bàn chân bé nhỏ đầy bụi bặm đứng không yên, chị thở dài và cúi đầu xuống). Em về đi, về đi, anh sẽ về ngay thôi. Người phụ nữ xách làn lên rồi cất bước. Anh lính nói: – Tôi về lực lượng dự bị là do bị thương. Buồn quá nên đi lang thang đến đây, lại đọc thấy bản thông báo này. – Anh định đến đường bờ sông ghi trong tờ thông báo này đấy à? - Xcail hỏi. – Nhất định tôi sẽ đến đó. – Nhưng bay năm mười triệu kilômet trong khoảng không gian không có không khí thế nào được. Đó là một chuyện nhảm nhí. – Tất nhiên là xa lắm rồi. – Đó là một chuyện bịp bợm hoặc một chuyện mê sảng. – Thì chuyện gì chả có thể xảy ra! Xcail, bấy giờ cũng nheo nheo mắt nhìn anh lính từ đầu đến chân. Anh lính đang nhìn ông ta, đúng như thế: giễu cợt, với một vẻ bề trên khó hiểu. Xcail tức giận đi về phía sông Neva. Ông bước những bước dài, vững vàng. Đến một vườn hoa, ông ngồi xuống chiếc ghế đá, thọc tay vào túi. Như tất cả những tay nghiện thuốc và bận nhiều công việc, ông để thuốc ngay trong túi. Chỉ bằng một động tác của ngón tay cái, ông đã nhồi được thuốc vào tẩu, châm lửa, rồi duỗi thẳng chân ra. Những cây bồ đề già trong vườn xào xạc. Không khí ẩm ướt và ấm áp. Trên đống cát có một cậu bé mặc chiếc áo bẩn thỉu, may bằng vải chấm hạt đỏ, không mặc quần. Có lẽ trong cả vườn hoa này chỉ có một mình cậu, và cậu ngồi đây chắc đã lâu. Thỉnh thoảng, một làn gió lại thổi tung mái tóc mềm mại màu sáng của cậu lên. Tay cậu cầm một đầu sợi dây, đầu dây kia buộc vào chân một con quạ già bù xù. Con quạ có vẻ bất bình và tức giận, nó cũng giương mắt nhìn Xcail như cậu bé. Bỗng nhiên - chỉ trong một khoảnh khắc thôi - dường như có một đám mây mù lướt qua ý thức Xcail, ông cảm thấy chóng mặt: hay ông trông thấy tất cả những thứ vừa rồi chỉ là trong một giấc mơ?... Cậu bé, con quạ, những ngôi nhà bỏ không, những đường phố hoang vắng, ánh mắt kì lạ của những người qua đường và tờ thông báo đóng bằng đinh lên tường mời mọi người bay vào khoảng không gian bao la... Xcail rít mạnh một hơi thuốc. Ông ta mở tấm bản đồ Pet rograd ra, lấy đầu chiếc tẩu dò dẫm tìm đường bờ sông Jdanovxcaia. Mời các bạn đón đọc Người Đẹp Sao Hỏa của tác giả Aleksey Nikolayevich Tolstoy.
Bóng Tối Thiên Đường
Tại Việt Nam, Remarque bắt đầu được bạn đọc biết đến từ năm 1962 qua bản dịch Phía Tây không có gì lạ của Lê Huy, rồi sau đó các tác phẩm khác của nhà văn lần lượt được chuyển ngữ ở cả hai miền Nam, Bắc. Cho đến nay đã có tổng cộng khoảng hai mươi bản dịch của chín tác phẩm Remarque, trong đó có cuốn có tới bốn bản dịch với các tựa khác nhau như Phía Tây không có gì lạ. Qua các tác phẩm này, độc giả Việt Nam đã bị rung động bởi thứ văn chương của những tâm hồn non nớt tinh khôi, chưa kịp trưởng thành đã vội vàng già cỗi, chưa kịp thấy cuộc đời tươi đẹp đã thấu suốt tang thương. Nhiều thế hệ đã cùng bầu bạn và trưởng thành với những nhân vật của Remarque; những nhân vật luôn ấp ủ niềm thương nhớ về một thế gian bất biến, cái thế gian chàng thanh niên Remarque đã vĩnh biệt khi vừa tròn mười tám niên hoa. Để tái hiện lại thế giới ấy của Remarque, chúng tôi quyết định tái bản các tác phẩm tiêu biểu của ông. Đây là tám bản dịch được yêu thích nhất chọn lọc qua toàn bộ các bản dịch đã xuất hiện ở Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng nhân dịp này, chúng tôi xin giới thiệu bản dịch Phía Tây không có gì lạ hoàn toàn mới, cùng tác phẩm lần đầu tiên ra mắt ở Việt Nam là Đường về, đều được dịch từ nguyên bản tiếng Đức bởi dịch giả Vũ Hương Giang, người đã chuyển ngữ thành công tác phẩm Ba người bạn. Như thế, với bộ hợp tuyển này, hi vọng bạn đọc sẽ có cơ hội thưởng thức trọn vẹn tài năng văn chương của một trong những nhà văn Đức được yêu mến nhất thế kỉ 20. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Bóng Tối Thiên Đường *** Vào thời điểm chiến tranh sắp sửa kết thúc, số phận đã ném tôi sang New York. Phố 57 và vùng phụ cận, đối với tôi - một kẻ bị trục xuất (mấy từ này rất khó giải thích ở xứ sở tôi mới tới) - đã trở thành tổ quốc thứ hai của mình. Tôi để lại phía sau lưng cả một chặng đường dài ẩn chứa đủ mọi hiểm nguy, tai họa - Via Dolorosa* - chặng đường của những kẻ chạy trốn khỏi chế độ của Hitler. Con đường này bắt nguồn từ Đức, sang Hà Lan, qua Bỉ và miền bắc nước Pháp rồi khi tới Paris nó phân ra làm hai ngả: một ngả chạy qua Lyon đến bờ biển Địa Trung Hải, ngả kia qua Bordeaux và Pyrénées dẫn đến Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đến cảng Lisbon. Via Dolorosa: Chặng đường thống khổ. Là tên con phố ở Jerusalem mà Chúa Jesus đi qua để đến nơi bị đóng đinh (tiếng Tây Ban Nha). Tôi trải qua chặng đường này như những người khác trốn chạy khỏi nanh vuốt của bọn Gestapo*. Ở những nước mà chúng tôi đi qua, chúng tôi không hề cảm thấy yên ổn bởi lẽ chỉ có một số ít người trong chúng tôi có giấy thông hành chính thức hoặc chiếu khán phòng thân. Chỉ cần đụng phải cảnh sát, chúng tôi sẽ bị nhốt sau lưới thép, rồi bị kết án và đưa đi phát vãng. Nhưng dầu sao ở một số nước vẫn còn tồn giữ được cách cư xử theo tình người, dù có bị bắt chúng tôi cũng sẽ không bị trả lại Đức để nhận lấy cái chết cầm chắc trong tay tại các trại tập trung. Gestapo: viết tắt của Geheime Staatspolizei, lực lượng cảnh sát bí mật thành lập năm 1933 của Đức Quốc xã. Chỉ có một số ít trong bọn tôi xoay xở được hộ chiếu, vì vậy cuộc trốn chạy của chúng tôi không bao giờ có điểm cuối cùng. Thêm vào đó, nếu không có giấy tờ hợp thức chúng tôi sẽ không kiếm nổi việc làm ở bất cứ đâu. Phần đông bọn tôi đều trở thành những kẻ đói khát, rách rưới và cô độc. Đấy, vì sao chúng tôi gọi chặng đường những cuộc viễn du của chúng tôi là Via Dolorosa. Những trạm bưu điện tại các thị trấn bé nhỏ và những dãy bờ rào quét sơn trắng dọc theo các con đường trải nhựa đã trở thành nhà ga của chúng tôi. Tại các trạm bưu điện chúng tôi có thể chờ những bức thư của người thân và bạn bè mà chúng tôi đã gửi số hòm thư về, còn những dãy hàng rào đã thay thế cho những chiếc bảng gỗ dán cáo thị. Với phấn và than củi, chúng tôi viết lên đất họ tên của những người bị mất tích, của những người đang tìm kiếm nhau, những dòng địa chỉ, những lời dặn dò cần phải phòng xa, những lời chỉ dẫn. Những lời kêu gọi bị ném vào khoảng không và vào những năm tháng mà sự thờ ơ, bàng quan ngự trị khắp mọi nơi thì nối tiếp theo những lời kêu gọi đó đã xuất hiện ngay một thời buổi hoàn toàn phi nhân tính, thời đại của các cuộc chiến tranh, khi cả bọn Gestapo, cả bọn mật vụ và cảnh sát cùng hùa nhau vào một công việc chung: săn lùng chúng tôi - những người bị trục xuất tội nghiệp. ... Mời các bạn đón đọc Bóng Tối Thiên Đường của tác giả Erich Maria Remarque.
Bạn Trai Chuẩn 5 Sao
Bạn Trai Chuẩn 5 Sao của tác giả Hồng Táo là một cuốn tiểu thuyết viết về câu chuyện tình yêu của một đôi trai gái yêu nhau, câu chuyện kể về sự bất chấp cả việc đánh mất bản thân mình, cô tìm mọi cách rũ bỏ quá khứ bất hạnh để theo đuổi lối sống thượng lưu hằng mong ước.  Mọi thứ giờ đây với cô đều phải có chuẩn nhất định, tất nhiên, bao gồm cả tình yêu. Anh tự tin trở thành “bạn trai chuẩn 5 sao” của bất kì cô gái nào nhưng lại bị cô bỏ rơi vì cho rằng tình cảm của anh vẫn còn khiếm khuyết. Việc cấp bách anh làm hiện giờ là chứng minh rằng cô đã sai. Hai người theo đuổi hai mục tiêu tưởng như khác nhau nhưng lại giống nhau ở một điểm: con người nếu không khoác lên mình chiếc áo không phù hợp thì cuộc sống của họ sẽ đơn giản và dễ chịu hơn rất nhiều. Thật may là cả hai sớm nhận ra điều này. Cô can đảm bước lên con đường tìm lại chính mình. Anh nhờ tình yêu dẫn lối đã kịp nắm lấy tay cô để cùng nhau đi đến bến bờ hạnh phúc. Cuốn tiểu thuyết  này chắc hẳn sẽ mang đến cho bạn những cảm xúc khác nhau cho bạn trả qua cung bậc cảm xúc tình yêu. *** Có những thứ tình cảm một khi đã để trôi qua, ngay cả khi nó trở lại mạn mẽ để thỏa lấp nỗi cô đơn nhưng cũng không có cách nào chấp nhận nó. Cũng giống như một người xuất hiện vào thời điểm cần thiết, nếu như không xuất hiện vậy thì vĩnh viễn đều không cần xuất hiện nữa. --- "Sao em lại đột nhiên bỏ đi, không nói với anh lời nào?" "Đừng nói chuyện cũ nữa, bây giờ em đang cần tuyển người gấp, anh muốn ở lại thì phải làm việc" "Chuyện cũ? em định đơn phương đá anh à?" "Được rồi, vì sao anh lại đến đây?" --- "Còn không phải do em sao! Anh cũng suy nghĩ cả mấy ngày và sẽ gửi thông báo đến nội bộ giới truyền thông để giải thích em là bạn gái anh, hiện tại như vậy, sau này cũng vậy." *** Mở ví ra, tôi vét sạch mấy trăm ngàn, đẩy về phía người đối diện. Đó là một chàng trai vẻ ngoài sáng sủa, phong thái nổi bật, xấp tiền nặng trịch trên tay tôi xem chừng cũng đáng giá với vẻ ngoài của anh ta. Thế nhưng anh ta chỉ đưa mắt hờ hững quét qua một lượt, cái chớp mắt mang theo ý khinh miệt rõ ràng, ngoài ra chẳng còn một cử chỉ nào nữa. Tôi có phần ngạc nhiên, nhưng vẫn tháo chiếc nhẫn trên tay đặt lên xấp tiền: “Viên kim cương này tôi mua ở Italia. Vậy đã đủ chưa?” Lúc này, anh ta mới ngẩng đầu nhìn tôi, nhưng vẫn không nhận. Đưa tay chỉnh lại cổ áo, anh ta cười lạnh lùng. “Cô nhìn thấy không? Bộ vest này là hàng may thủ công số lượng giới hạn của Italia. Cúc áo làm bằng kim cương Nam Phi, hoa văn cũng do nhà thiết kế nổi tiếng tạo ra. Còn tôi, có thể nói câu “Anh yêu em” bằng mười bốn thứ tiếng khác nhau. Cô thấy mớ tiền này đủ sao?” Nói xong anh ta đứng dậy đi về phía tôi, dường như muốn tôi thấy rõ dáng vẻ của anh ta. Rõ ràng chỉ là một tên bám váy đàn bà, chưa kể lúc này còn toát ra mùi lừa đảo. Tôi nén giận, cố kiềm chế: “Bình thường anh tính bao nhiêu một đêm?” Anh ta quay về sofa, trên mặt lộ rõ ý cười nhạo, thậm chí đến tôi còn có thể đọc ra được ý tứ trong mắt anh ta: Không có tiền thì đừng có học đòi người ta gọi trai bao. Tôi chỉ có thể ngậm bồ hòn, vớ lấy chìa khóa xe: “Chiếc xe này anh cầm lấy đi, đủ rồi chứ?” Anh ta vẫn thản nhiên ngồi đó như muốn ăn vạ trong nhà tôi vậy. Tôi bắt đầu cảm thấy đau đầu, lẽ ra không nên uống say rồi mắc kẹt thế này. “Anh nói đi, rốt cuộc anh muốn gì?” Tôi mệt mỏi mở miệng, giọng điệu có chút van nài. Anh ta chớp chớp đôi mắt đẹp, dường như có chút tính toán, lười biếng mở miệng: “Cô vốn cũng biết, tôi đang có biết bao nhiêu là khách?” Bị ánh mắt của anh ta quét trúng, cái đầu vừa chớm tỉnh táo của tôi đột nhiên đau đến choáng váng. Mọi chuyện đêm qua chẳng khác nào giấc mơ, tôi chỉ nhớ mình lao vào một tụ điểm cao cấp – Đế Sắc, đòi ông chủ phải gọi hàng cao cấp. Ông ta từ chối tôi, nhưng tôi biết ông ta nghĩ tôi không phải thành viên ở Đế Sắc nên làm vậy, trong lúc nóng nảy, tôi đẩy ông ta sang một bên, chạy lên phòng trên lầu cao nhất, đá tung cánh cửa. Cảnh tượng hiện ra trước mắt tôi là anh chàng này, ngồi trên bộ sofa giữa phòng, hai bên là ba cô gái trẻ trung xinh đẹp. Đó cũng là ký ức rõ ràng cuối cùng. Khi tỉnh lại, tôi đang nằm trên giường của mình, còn anh chàng kia ngồi kế bên, nhìn tôi bằng ánh mắt oán hận. “Hóa ra cô vẫn còn nhớ! Vậy chắc cô cũng biết mình thô bạo đến mức nào chứ? Cô nỡ lòng nào nắm tóc tôi lôi đi như thế! Cô có biết đó là kiểu đầu mới nhất của tôi không hả? Đó là tác phẩm của nhà tạo mẫu của Nhật đấy! Làm hết bốn tiếng mới xong! Cô nghĩ có thể dùng tiền tống cổ tôi à!” Anh ta dường như đang mường tượng lại sự việc đêm qua, tâm trạng vô cùng kích động, giọng cũng cao dần. “Được rồi, được rồi, vậy trả cho anh số tiền tiếp sáu khách một đêm.” Tôi đứng dậy lấy chi phiếu, viết “roạt roạt” một dãy số sau đó chuyển nó cho anh ta. “Xuống lầu rẽ trái, ở đó taxi nhiều lắm.” Tôi chỉ đường cho anh ta rồi xuống bếp pha cafe. Đến lúc tôi lên lại phòng khách, anh ta vẫn chưa chịu đi! Lẽ nào vẫn chưa thỏa đáng?! “À không, số tiền cô trả đã hợp tình hợp lý rồi.” Anh ta dường như đọc được nghi vấn của tôi, liền tốt bụng giải thích, “Nhưng, tôi là người làm nghề có đạo đức, tối qua chúng ta cũng chưa làm gì cả, nếu lấy của cô tiền bằng sáu khách thì tôi cũng nên cung cấp cho cô gói dịch vụ dành cho sáu người mới đúng.” Tiếp đó anh ta đứng dậy trước mặt tôi, lần lượt cởi bỏ áo khoác, rồi đến cúc áo sơ mi. “Anh lý trí chút đi! Tôi tìm anh không phải vì ý đó, tôi cần anh để dùng cho việc khác.” Lời tôi vừa dứt thì mặt anh ta cũng tối sầm. “Cô chê tôi đúng không?!!” Tôi giải thích: “Không không, lẽ nào các anh có quy định bắt buộc phải cung cấp dịch vụ để phỏng vấn trải nghiệm của khách hàng? Anh yên tâm, tôi sẽ cho anh điểm cao nhất!” Mời các bạn đón đọc Bạn Trai Chuẩn 5 Sao của tác giả Hồng Táo.