Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những ngôi sao Eghe Tập 2 - Gardonyi Geza

Trong hơn ba trăm năm (từ thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 17) chống lại những đạo quân viễn chinh và ách đô hộ của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, nhân dân Hung đã bền bỉ chiến đấu và lập nên nhiều chiến công oanh liệt, trong đó có cuộc kháng chiến của quân dân thành Eghe năm 1552.   Eghe là cửa ngõ của vùng Thượng địa Đông bắc, đứng trấn giữ cho cả một vùng đất nước khá rộng lớn. Khi vòng vây của hai đạo quân Thổ khổng lồ, đầy nhuệ khí đã khép lại, trong thành chỉ có độ hai ngàn người già, trẻ, trai, gái. Quân Thổ không tính đến một sức kháng cự đáng kể. Viên pasa Ali, thống soái một đạo quân Thổ, cho thành này chỉ là một “cái chuồng cừu xộc xệch” và quân trong thành chỉ là một “bầy gia súc”. Nhưng cuộc chiến đấu chẳng bao lâu đã chỉ cho hắn thấy rõ ràng những người bảo vệ thành Eghe đại diện cho một sức mạnh mà đạo quân Thổ không tài nào đè bẹp nổi. Những chiến sĩ phần lớn là con em vùng Thượng địa Đông bắc đang bị chiếm đóng đe dọa và những nông dân các làng lân cận chạy vào thành tị nạn, đã nghiến chặt răng đánh lui tất cả mọi đợt công kích của quân Thổ. Sau năm tuần rưỡi sống mái với quân thù, thành Eghe đã tự giải phóng mình khỏi cuộc vây hãm khốc liệt và cứu miền đất nước phía sau khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Quân Thổ bị thiệt hại nặng nề dưới chân thành Eghe và phải bỏ dở kế hoạch hành quân xâm lược của chúng.   Cuộc chiến đấu của Eghe từ đó đã trở thành đề tài của nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật. Ngay sau khi quân Thổ tháo chạy, Tinôđi Sebétchên, thi sĩ kiêm ca công nổi tiếng nhất của Hung trong thế kỷ 16, đã đến tận nơi sưu tầm tài liệu và sáng tác Truyện thơ về cuộc chiến đấu của thành Eghe. Nhưng tác phẩm thành công nhất về đề tài này là Những ngôi sao Eghe của Gardonyu Geza.   Gardonyu Geza (1863-1922) xuất thân từ một gia đình thợ rèn, là một nhà văn có tên tuổi ở Hung. Trước khi bước vào nghề viết văn, ông đã dạy học nhiều năm ở nông thôn. Thời kỳ này, ông có tinh thần chống lại nền thống trị của triều đình Hápxbua (Áo) và đã viết tác phẩm Ngọn đèn (1894) là một tác phẩm tốt. Trong cuốn tiểu thuyết này, ông đã vẽ nên một bức tranh đáng kinh ngạc về cuộc sống nghèo nàn và bị ngược đãi của lớp giáo học ở nông thôn, đã tấn công trào lưu tôn giáo hóa xã hội và tấn công vào ách thống trị của nền đế chế Áo – Hung phản dân tộc, phản tiến bộ; gợi lại những kỷ niệm vẻ vang về cuộc chiến đấu giành tự do của nhân dân Hung thời kỳ 1848. Nhưng dần dần về sau, con đường văn học của ông khuất khúc và đầy mâu thuẫn. Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông, Những ngôi sao Eghe là tác phẩm tươi sáng và giàu sức sống nhất. Ở Hung không có một tiểu thuyết lịch sử nào khác lại được cả bạn đọc, người lớn lẫn trẻ em, yêu thích đến thế. Cuốn truyện được xuất bản lần đầu tiên năm 1901, và từ đó đến năm 1963 đã được tái bản hơn 21 lần, chỉ riêng từ 1945 đến 1963 đã được các nhà xuất bản khác nhau tái bản hơn 16 lần với số lượng hơn nửa triệu cuốn (trong một nước 11 triệu dân). Đó là chưa kể đến những bản dịch ở nước ngoài.   Trong quá trình sáng tác, Gardonyu Geza đã sưu tầm nghiên cứu rất nhiều nguồn tài liệu, kể cả gia phả của các nhân vật chính trong truyện. Mùa xuân năm 1899, trước khi bắt tay vào viết, ông đã lên đường đi Côngxtăngtinốp để nghiên cứu tận nơi những phong tục, tập quán ở nước Th đã vào tận ngục Bảy Tháp, tham dự những ngày hội tôn giáo, bơi thuyền trên vịnh Bốtxpôrat, tham quan các viện bảo tàng v.v… Nhờ tác phong làm việc cẩn thận đó, tác giả đã để lại cho chúng ta nhiều trang sách chính xác và sinh động về những cuộc hành quân đầy nghi vệ của đội quân Thổ, về cuộc vây hãm thành Eghe, về nhiều cảnh sinh hoạt của xã hội thời xưa.   Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là chú bé Bônemixo Gergey, đại biểu của tầng lớp nông dân nghèo, giàu lòng yêu nước và đa mưu túc trí, đã từ một chú bé chân đất làm lên đến chức đại úy, chủ tướng một thành trì. Qua bước trưởng thành của nhân vật chính, tác giả còn vẽ nên trước mắt người đọc cả một bức tranh xã hội rộng lớn từ thôn xóm đến cung đình. Ngay từ những trang đầu tiên, tác giả đã cho ta thấy tình hình chính trị rối như mớ bòng bong của nước Hung thời đó: “… và chúa công của bạn đang là Xopôlo Gianốt, hoặc quân Thổ, hoặc Pheđinan đệ nhất.”   Hồi đó giai cấp phong kiến ở Hung phân hóa nặng nề. Bọn quý tộc lãnh chúa và quý tộc giáo hội có những lãnh địa rộng lớn, có quân đội riêng, có thành quách trong tay, thực tế là đã trở thành những ông chúa cát cứ. Nhà vua ở Buđa không đủ sức để thâu tóm quyền bính, tổ chức đất nước thành một quốc gia vững mạnh. Nhân dân bị đè nén nặng nề dưới hai tầng tròng phong kiến và giáo hội, đời sống rất khổ cực. Họ oán ghét bọn quý tộc chẳng kém gì bọn ngoại xâm. Tất cả những nhân tố đó đã dẫn tới cuộc chiến tranh nông dân do Đôjo Giơrgiơ lãnh đạo năm 1514 và chiến bại thảm hại ở Môhát năm 1526. Sau Môhát không còn ai tổ chức được cuộc kháng chiến chống quân Thổ trong phạm vi toàn quốc. Giai cấp thống trị vốn đã không thống nhất, giờ đây lại phân hóa thành hai phe đối địch. Một phe, gồm chủ yếu tầng lớp quý tộc trung và tiểu, bầu Xopôio Gianốt, công vương vùng Êrơđêi, lên làm vua; một phe khác, gồm phần lớn bọn đại quý tộc, lại tôn Pheđinan đệ nhất của triều đình Hápxbua (Áo) làm vua. Hai tên vua đó đem quân đánh lẫn nhau để tranh giành ngôi báu, mặc kệ quân Thổ ngấp nghé ở biên giới. Thậm chí Xopôio Gianốt, sau khi bị thua Pheđinan I và phải chạy sang Ba-lan, còn cầu cứu hoàng đế Thổ giúp hắn chiếm lại ngai vàng, và để đền ơn, hắn bỏ mặc vùng đất nước phía nam cho quân thổ tha hồ cướp bóc. Trước tình hình hai vua khuynh loát lẫn nhau như thế, bọn lãnh chúa hết theo phe vua này lại theo phe vua khác, tùy theo chỗ ở với vua nào có thể kiếm chác được nhiều hơn. Chúng ta sẽ thấy tình hình này được phản ánh một phần qua hai nhân vật Xexey và giáo sĩ Balin hoặc qua nhân vật Tơrơc Balin. Nhưng mặc dù tất cả những điều kiện bi thảm đó, nước Hung vẫn không dễ dàng lọt vào tay bọn ngoại xâm. Trước sự bất lực và phản bội của triều đình và giáo hội, nhân dân nhiều nơi đã vùng lên kháng chiến mạnh mẽ khi quân Thổ kéo đến. Những “kẻ nổi loạn” đó – như các sử gia của triều đình Thổ cũng phải thừa nhận – “trong tình thế tuyệt vọng cũngchiến đấu với súng hỏa mai và cung tên, với gậy gộc và đá”. Bên cạnh họ, tuy ít ỏi nhưng trong hàng ngũ tướng lĩnh vẫn có những người yêu nước chân thành, đặc biệt là những võ quan xuất thân từ những tầng lớp dưới. Những viên tướng này cùng những đội quân vốn là nông dân nghèo chạy nạn khỏi các vùng bị giặc Thổ tàn phá, chiếm đóng hoặc trốn khỏi cuộc sống khổ nhục ở các điền trang, đã lập nên cả một hệ thống biên thành dọc theo vùng giáp ranh với quân Thổ để báo tin và ứng cứu lẫn nhau. Họ đã đánh tan hết bao nhiêu đội quân Thổ kéo đi ăn cướp. Hơn nữa, những viên tướng này nhiều khi cùng với một đội quân nhỏ nhưng đồng lòng, trong một tòa thành đơn độc không có sự cứu viện của triều đình, đã có thể chặn đứng cả một đạo đại quân Thổ trong nhiều ngày, đôi khi còn giữ vững được đến cùng, bẻ gãy cả cuộc viễn chinh của địch. Những kỳ công đó nổi bật trên nền trời đen tối của xã hội Hung thời bấy giờ như những ngôi sao, trong đó Eghe là ngôi sao sáng nhất. Chúng ta thấy dường như tác giả đã dành doàn bộ tâm hồn mình cho việc mô tả lại toàn bộ cuộc chuẩn bị chiến đấu và hơn năm tuần quyết chiến ở Eghe. Có thể nói ít có cuốn tiểu thuyết lịch sử mô tả được tỉ mỉ, chính xác và sinh động như vậy. Gấp cuốn sách lại chúng ta vẫn như nghe vang trong tai lời thề quyết tử và tiếng đại bác vang rền, tiếng gương giáo chạm nhau, tiếng hô “Giết! Giết!”, và tự nhiên chúng ta liên tưởng đến khí phách anh hùng và lời thề “sát Thát” của quân dân đời Trần.   Chiến công của quân dân Eghe hồi đó đã vang lừng trong nước và cả ở nước ngoài. Sau ngày chiến thắng, biết bao chính khách ở châu Âu đã kéo đến Viên để chúc mừng Pheđinan I – kẻ không hề có chút công lao nào, thậm chí còn có tội với miền đất đai Hung mà hắn cai trị - và để ngắm nghía những lá quân kỳ cướp được của giặc Thổ mà quân dân Eghe đã gửi về triều. Nhưng chỉ với cuốn tiểu thuyết của Garđônhi, chiến tích Eghe mới thực sự trở thành một điển hình bất hủ, trước công luận, trước lịch sử, về tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm của nhân dân Hung hồi thế kỷ 16. Mời các bạn đón đọc Những ngôi sao Eghe Tập 2 của tác giả Gardonyi Geza.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quỷ Dữ và Nàng Prym - Paulo Coelho
Câu chuyện xa xưa nhất về sự phân chia đã xuất hiện ở xứ Ba Tư cổ đại, vị thần Thời gian sau khi tạo lập nên vũ trụ chợt thấy: dẫu muôn nơi đã ngự trị sự hài hoà nhưng vẫn chòn thiếu một cái gì đó rất quan trọng - thiếu một người đồng hành để ngài cùng anh ta vui hưởng toàn bộ vẻ đẹp này. Suốt một nghìn năm, thần cầu nguyện sinh được một đứa con trai. Chuyện không hề nói gì đến người mà vị chúa tể toàn năng, tối cao, duy nhất của muôn loài có thể cầu xin. Tuy nhiên, thần vẫn cầu nguyện và cuối cùng thì lời cầu nguyện của thần cũng được nghe thấu. Nhưng sau khi biết rằng mình sẽ nhanh chóng nhận được điều mong ước thì thần Thời gian lại hối hận vì việc đã làm, bởi vì thần hiểu rằng, sự cân bằng rất đỗi mong manh sẽ bị phá vỡ. Những đã quá muộn - đứa con mà thần đang mang thai đã sắp chào đời. Thần chỉ còn biết ngậm ngùi cầu xin trong nước mắt để mong sao nó được chia làm đôi. Nều tin vào thuyết này thì thần Thời gian đã sinh đôi: lời cầu xin của ngài đã được thực hiện là Thiện, còn kết quả của sự hối hận là Ác. Lòng đầy lo âu, thần đã làm tất cả những gì có thể nhằm. Thiện sinh ra trước để ngnă chẳn và chế ngự Ác. Tuy nhiên Ác, như chúng ta đã biết, thật tinh quái và khôn ranh, và vì thế nó đã kip vượt Thiện ra đời trước và là đứa đầu tiên được nhìn thấy ánh sáng của muôn vì sao. Quá buồn phiền, thần Thời gian quyết định cho Thiện thêm đồng minh - và ngài đã tạo ra loài người để chiến đấu sát cánh bên chàng không cho Ác chiếm đoạt và nắm giữ quyền lực trên thế gian. Theo truyền thuyết Ba Tư, loài người được tạo ra như một đồng minh của Thiện, và theo truyền thống, cuối cùng sẽ giành thắng lợi. Nhưng nhiều thế kỷ sau lại xuất hiện một truyền thuyết khác và qua nó chúng ta biết được một kiến giải trái ngược hẳn - con người là công cụ Ác... *** Paulo Coelho là tác giả viết tiếng Bồ Đào Nha bán chạy nhất mọi thời đại, là một trong những nhà văn được nhiều người đọc nhất thế giới, và là tác giả còn sống được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Cha đẻ tiểu thuyết 'Nhà giả kim' sẵn sàng đăng sáng tác của mình lên mạng Internet và khuyến khích mọi người tải về đọc. Tiểu thuyết gia cho rằng, cách này rất hữu hiệu để khuyến khích mọi người đến với sách in, cũng như kích thích văn hóa đọc.   Là một nhà văn lướt web sành điệu, Paulo Coelho bỏ thời gian tìm tòi một phần mềm mới trên trang The Pirate Bay và khám phá các chức năng của nó. Sau khi kết luận rằng chương trình này rất thú vị, ông đăng các tác phẩm của mình trên trang này cho mọi người cùng đọc. Nhà văn khẳng định, càng nhiều người đọc miễn phí sách ông trên mạng thì sách in của ông sẽ bán chạy hơn. Những tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam Nhà Giả Kim Ngoại Tình Hành hương Bên bờ sông Piedra tôi ngồi khóc Những nữ chiến binh Ngọn núi thứ năm Cẩm nang của chiến binh ánh sáng Veronika quyết chết Quỷ dữ và nàng Prym Cha, con và chú Mười một phút Như một dòng sông chảy Phù thủy phố Portobello ... *** Lần đầu tiên tôi được biết đến Paulo Coelho là khi đọc bài viết của ông trên tạp chí Ngọn Lửa Nhỏ của Nga vào năm 2002. Theo con số thống kê chưa đầy đủ thì các tác phẩm của Paulo Coelho đã được xuất bản ở hơn 150 nước trên thế giới, với số lượng in lên tới hàng triệu bản. Vậy nhà văn Brazil, người được mệnh danh “nhà giả kim ngôn từ” này viết gì để có thể cuốn hút độc giả đến thế? Thực ra, các tác phẩm của P. Coelho cũng không vượt ra ngoài quỹ đạo “Văn học là nhân học”. Ông cũng viết về con người, về cái Thiện và cái Ác, về cuộc đấu tranh giữa chúng trong mỗi con người chúng ta. “Quỷ dữ và nàng Prym” cũng vậy. Trong cuốn tiểu thuyết gây chấn động này, P. Coelho cho thấy tính bi kịch của cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn mỗi người, mối liên hệ giữa cuộc chiến này với những nỗ lực thường ngày của chúng ta, dám theo đuổi ước mơ của mình, có dũng khí để trở thành một con người khác, chiến thắng nỗi sợ hãi thường không cho chúng ta sống một cách thực sự. Vấn đề ông đặt ra không mới, thậm chí là vấn đề muôn thuở của nhân loại nói chung và văn học nói riêng. Nhưng, với một giọng văn hết sức giản dị, P. Coelho đưa chúng ta tới thế giới cổ tích giữa đời thường, một thế giới như thực mà cũng như mơ, hay theo cách nói của các nhà phê bình là “hiện thực huyền ảo”. Về phần mình, tôi muốn gọi ông là “Người kể chuyện vĩ đại”. Tôi chợt nhớ đến một đoạn ngắn trong tiểu luận Sách của J. L. Borges. Mortaigne nhận xét rằng, luận thuyết về việc đọc bắt buộc là sai lầm… Ông thấy việc đọc sách giống như niềm vui. Còn tôi muốn nói rằng, văn học cũng cần phải đem lại sự vui thích. Nếu chúng ta đọc một tác phẩm một cách khó khăn, tức là tác giả đã thất bại. Đọc, đó là một niềm hạnh phúc. Theo quan điểm này thì rõ ràng P. Coelho là một nhà văn vô cùng thành đạt, bởi vì, ông đã đem lại niềm vui thích và hạnh phúc cho hàng triệu độc giả trên khắp thế giới. Với tư cách là người dịch, tôi vô cùng cảm ơn tác giả, cảm ơn nhà xuất bản Phụ Nữ cùng cty sách Bách Việt đã giúp tôi chuyển tới bạn đọc gần xa món quà “hạnh phúc” này. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn. Mời các bạn đón đọc Quỷ Dữ và Nàng Prym của tác giả Paulo Coelho.
Không Chồng Tôi Vẫn Sống - Kaui Hart Hemmings
Cuốn sách này là một tác phẩm hư cấu. Bất kỳ những sự kiện lịch sử, những người thật hoặc những địa danh có thật nào được nhắc tới đều được sử dụng với tư cách là tình tiết hư cấu. Các danh tính, nhân vật, địa danh, và sự kiện khác đều là sản phẩm của trí tưởng tượng của tác giả, và bất kỳ sự trùng hợp nào với những sự kiện hoặc địa danh hoặc con người, còn sống hay đã khuất, đều hoàn toàn là ngẫu nhiên. Mele Bart, một cô nàng San Francisco trẻ trung và xinh đẹp, đã đồng ý trở thành phù dâu trong đám cưới anh bạn trai cũ tệ bạc. Anh ta đã từng kiên quyết chia tay dù biết Mele đã có thai. Vấn đề ở đây là, Mele có nên đưa cô con gái Ellie 2 tuổi rưỡi tới tham dự đám cưới của bố nó? Trước khi đám cưới diễn ra, để tránh nghĩ nhiều, Mele đã tham gia một cuộc thi viết sách nấu ăn. Cảm hứng của Mele được chắt góp từ những trải nghiệm thú vị nhưng cũng đầy cam go mà cô có được khi là một bà mẹ đơn thân. Và Mele rút ra được một châm ngôn sống cho chính mình: “Khi đắm chìm trong thức ăn và những câu chuyện của người khác, nỗi buồn của bạn sẽ tan biến”. Nhưng dù sao, việc tự làm mình phân tâm đâu ngăn cản thời gian? Mele sẽ làm gì khi ngày cưới của bố Ellie ngày càng đến gần, và những cảm xúc của cô đang hỗn loạn hơn bao giờ hết? “Không chồng tôi vẫn sống” sẽ cho bạn đáp án theo một cách thật bất ngờ, nhiều xung đột, đầy ắp cảm xúc và không kém phần hóm hỉnh. Tác phẩm là câu chuyện về sự trưởng thành, tình mẹ, về việc học cách chữa lành những thương tổn và tiếp tục cuộc sống; về những khó khăn của người phụ nữ khi nuôi dạy con cái, và điều đó đáng trân trọng như thế nào *** B uổi chiều chứa đựng lời hứa hẹn rằng nó sẽ sớm trôi qua. Một tia nắng vàng đồng rơi xuống qua những đám mây, không khí trở nên lạnh sắc hơn, và những chiếc đèn pha halogen từ những chiếc xe hơi trên phố Fell and Oak khiến khu vui chơi nhỏ sáng lên như sân khấu. Mele Bart đang nhai hạt điều đựng trong chiếc cốc in hình nhân vật hoạt hình Dora và quan sát con gái cô chơi trên chiếc cầu trượt màu hồng. Ellie, một sai lầm tuyệt vời, đã được hai tuổi rưỡi. Thật kỳ diệu. Mele còn nhớ lúc đưa cô bé về nhà từ bệnh viện, cái đầu bé nhỏ của bé còn chưa vừa với tấm đệm hỗ trợ của ghế ngồi xe hơi. Mele liên tục nhìn lại phía sau trong sự cảnh giác. Hai ngày trước cô rời khỏi căn hộ một mình và giờ thì cô đang quay lại cùng với một đứa bé. Trong những tuần đầu tiên, có những lúc Ellie khóc và khóc, cô bé luôn lắc đầu quầy quậy, khi đó Mele chỉ muốn ném cô bé ra ngoài cửa sổ. Cô khóc theo con, tự hỏi cuộc đời của một bà mẹ đơn thân sẽ trở nên như thế nào, khi mà tình yêu của cuộc đời cô đã đá cô để quay lại với tình yêu của cuộc đời anh ta. Nhưng giờ đây, khi cô nhìn con gái mình, cô tự hỏi trước khi có con bé thì cuộc đời thậm chí có gì là tốt đẹp. Cô đã có những gì? Cô đã làm gì trong suốt thời gian đó? Xem phim, ăn sáng muộn, viết truyện ngắn, nấu ăn cho những người phụ nữ, tổ chức tiệc tối cho những người phụ nữ mà họ dường như cũng chẳng đáng quý mến là mấy. Tuy nhiên, điều đó không giảm bớt sự phẫn nộ của cô đối với gã người yêu cũ nói dối như cuội của mình. Ellie đang tự nói chuyện với mình trên xích đu bằng lốp xe – cô bé có vẻ khá là hống hách trong thế giới tưởng tượng của riêng mình. Trong cuộc sống trước kia của Mele, cô chưa từng làm việc này: ngồi trong khu vui chơi và điền bảng câu hỏi cho Cuộc thi viết Sách Nấu ăn của Câu lạc bộ Làm Mẹ San Francisco. Cô thậm chí chưa từng lường trước việc cô sẽ gia nhập một câu lạc bộ làm mẹ, nhưng chỉ sau một vài tháng suốt ngày ở bên con gái, cô biết rằng cô cần tìm kiếm một cuộc sống khác đằng sau những bức tường căn hộ của họ, vì lợi ích của cô và đứa trẻ. ... Mời các bạn đón đọc Không Chồng Tôi Vẫn Sống của tác giả Kaui Hart Hemmings.
Đốt Đời - Đào Hiếu
Trong tác phẩm này có một nhân vật nữ tên Ngọc. Tất nhiên ngoài đời “nhân vật” ấy có tên khác. Mà không phải là một người. Thật ra nhân vật Ngọc trong truyện là do hai người ngoài đời ghép lại. Một cô năm nay mới 21 tuổi, tạm gọi là cô A, một cô 28 tuổi, tạm gọi là cô B. Cách đây hơn một tháng, tôi nhận được điện thoại của mẹ cô A, báo tin cô bị bệnh rất nặng. Tôi hỏi bệnh gì, bà chỉ khóc, không nói. Tôi đến nhà thăm. Đó là một phòng trọ chừng 12 mét vuông, 5 người ở. Cha, mẹ, cô A và người chị, cộng với một bé trai con của người chị. *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** Chung Quanh Tác Phẩm “Nổi Loạn" Cuộc phóng vấn do tác giả Đoàn Giao Thủy, Báo “Diễn Đàn Paris” thực hiện và đăng trên số 28 phát hành tháng 3/1994 tại Pháp. Trong sáu tháng cuối năm 1993, cuốn tiểu thuyết NỔI LOẠN của Ðào Hiếu đã nổi lên như một sự kiện văn học ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Trong chừng mực nào đó: có thể gọi “vụ án NỔI LOẠN”, bởi vì đã có lời buộc tội đăng trên báo chí, cuốn sách đã bị tịch thâu và tác giả đã bị bắt giam và truy tố. So với các vụ án văn nghệ trước kia, đây chỉ là một vụ án nhỏ, song nhìn chung không có gì thay đổi về phương pháp của nhà cầm quyền dùng để triệt hạ một tác phẩm: tác phẩm bị kết án, tác giả bị đi tù, song tác giả không được quyền giải thích công khai về tác phẩm của mình. Chỉ có một điều là ở cuối thể kỷ thứhai mươi này việc bỏ tù một nhà văn vì tác phẩm của họ không còn dễ dàng như xưa nữa! Trong lần về thăm Việt Nam vừa qua tôi có dịp nói chuyện với nhà văn Ðào Hiếu cũng như nhiều người có thẩm quyền trong giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn về cuốn sách và các sự kiện chung quanh nó. Khi đó khả năng anh bị bắt giam đã được nêu ra. Trở lại Âu châu được tin anh bị bắt thật, tôi tự thấy có trách nhiệm giới thiệu những lời trao đổi với anh mà tôi ghi được. Như một chứng từ! Như quyền trả lời của một người bị buộc tội. Phải nói ngay rằng đây không phải là một phân tích về nội dung cuốn sách: xin dành phần đó cho bạn đọc hay các nhà chuyên phê bình văn học. Trước khi đi vào phần trao đổi, có lẽ cần nói đôi điều về tác giả cũng như bối cảnh của vụ án. *** T ác giả: Du Tử Lê Với vốn sống phong phú, nếu không muốn nói là "ngoại khổ", óc nhận xét tinh tế và kinh nghiệm "trận-địa-chiến-tiểu-thuyết", Đào Hiếu, theo tôi, là một trong rất ít nhà văn hàng đầu ở lãnh vực hiện-thực-xã-hội. Hư cấu nếu có trong truyện của ông, chỉ tựa "làm duyên" cùng, chữ nghĩa chỉn chu mà thôi. Mấy yếu tố căn bản vừa kể, vốn là điểm mạnh của họ Đào trong thể loại truyện dài, một lần nữa, lại xuất hiện "hoành tráng" trong tác phẩm "Đốt Đời", dầy trên 250 trang. Khác hơn truyện dài "Bù Khú Tiên Sinh" xây dựng trên những mảng sương mù ký ức nhà sàn và, sự chập chờn lửa rừng thực / ảo, ở tác phẩm mới này, Đào Hiếu ném người đọc vào giữa tâm bão của những mặt xã hội kín, khuất. Đó là câu chuyện của một người con gái từ vai trò tiếp viên café, trở thành nạn nhân của một đường giây phân phối ma túy - loại mới nhất: methamphétamine - sau khi vô tình rơi vào cõi "thiên la địa võng". Những cánh tay xúc-tu của loài bạch tuộc đen, đã đưa một cô gái quê, nổi trôi từ tầng địa ngục này, qua tầng địa ngục khác. Cái may mắn duy nhất của cô là gặp, nhận được chân tình của một người đàn ông lớn tuổi… Truyện dài "Đốt Đời"của Đào Hiếu, với tôi, không chỉ là sản phẩm lao động trí tuệ - với những thông điệp báo động, cháy bỏng khẩn thiết của một nhà văn, trước những vấn nạn vây khổn xã hội - mà nó còn như một tự sự kể, một hành trình sống khốc liệt của cô gái quê, và, của những người đồng cảnh ngộ. Vì truyện dài"Đốt Đời"là một hồi ký, một tự sự kể, cho nên tự thân đã là cả một khối thuốc nổ hiện thực cực mạnh, khiến nó không cần phải có những cao trào, những nút thắt, nút mở hay, những cố gắng đào xới tâm lý hoặc, khai thác bản năng tình dục của con người để lôi cuốn người đọc. Bởi tính cao trào, sức công phá đã tiềm ẩn trong từng con chữ… Hơn thế, để giảm bớt tính "sát thương" của khối chất nổ, đôi chỗ, tác giả đã dùng tới sở trường trào phúng, (riễu cợt ngay cả chính mình), cũng như bản chất thi sĩ của ông, hầu giúp người đọc có được đôi chút thư giãn cần thiết. Thí dụ: "Em bước vào làm bóng tối hỗn loạn Xô đẩy tan tác Đêm rách nát sau tiếng nổ của gót hài Những ánh đèn tự chọc vào mắt mình Đứt bóng. Trăng rớt xuống sân vỡ như gương soi Máu nguyệt động chảy đen trần gian…" (Trích chương 4) Cũng vì tràn ngập vốn sống tiếp thu được từ "hiện trường", nên những chương đoạn trong Đốt Đờilà những cảnh phim chuyển động mau. Những cắt lát dứt khoát, quyết liệt, khiến người đọc khó rời khỏi trang sách. Tôi muốn nói, ngoài trải nghiệm hiện thực, tài hoa của Đào Hiếu còn san bằng, xóa sạch khoảng cách giữa tiểu thuyết và đời thường. Bên cạnh đó, qua từng con chữ, người đọc cũng gặp được không ít những liên-ảnh bất ngờ, mới mẻ, đôi chỗ lại đậm đặc chất thi ca. Ở phương diện kỹ thuật này, tôi nghĩ, Đào Hiếu đã là một thi sĩ, nhiều hơn một nhà văn. Thí dụ, ngay từ khởi truyện, Đào Hiếu đã so sánh nhân vật nữ của ông với một con khỉ nhỏ. Một con khỉ nhỏ lí lắt, tinh ranh, với bản chất ngây ngô, khờ khạo, như nhân vật nữ, hay như chính ông? Tôi rất thích những ý tưởng, hình ảnh rất thơ, khá nhiều trong "Đốt Đời" của họ Đào. Như: "…Ông cầm cuốn sách lên tay, mở ra. Cơn gió từ những trang sách thổi vào mặt. Những dòng chữ ùa ra, bay quanh ông như đàn chim. Đó là tập thơ đầu tay của ông: mới mẻ, trong trắng, nhưng vẫn còn bí ẩn như một thế giới chưa được biết đến…"(Trích chương 3) Hoặc: "…Trong căn phòng im lặng giữa một xóm lao động nghèo nàn, tiếng khóc của ông như tiếng giun dế luẩn quẩn giữa bốn bức vách ẩm mốc. Ông nghe rất rõ và ngạc nhiên thấy như đó là tiếng khóc của một người nào khác vô hình, vừa đến chia sẻ cùng ông…" (Trích chương 14) Hoặc nữa: "…Lúc ấy trái bần chín trĩu cả những vạt rừng. Mùi thơm của nó làm ngây ngất những cơn gió. Con sóc nhỏ không còn hái trái cho người cha mà hái tặng ông. Nó chuyền cành lanh lẹ, dẫn dụ ông đi lạc vào một cõi trời đất nồng nàn thứ mùi ngai ngái của vỏ cây lên men…" (Trích chương 21) Trong rất nhiều trang văn của mình, Đào Hiếu cũng đem lại cho người đọc những xúc động tự nhiên, khi ông viết về những cái chết của một số sinh vật, có nghiệp duyên với ông từ thời niên thiếu và, cái chết của chúng…đã sống lại, vì cái chết của con chó nhỏ, người bạn trung thành của cô-gái-ma-túy… Tôi muốn gọi đó là những dòng chữ chói lọi tình yêu và, tinh ròng tình bạn, của những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Nhưng tình người nơi họ, lại là một thứ gì giống như xa xỉ và, xa lại với những sinh vật vô cảm, được gọi là con người nhởn nhơ giữa xã hội. Tuy sống cạn kiệt thân, tâm với những "cái chết trắng", với những kẻ trộm chó, với những "diệu thủ" trộm cắp, tiêu thụ đồ gian, xe gian, thậm chí sát nhân,…họ Đào vẫn không quên cho thấy, ở cái thế giới bạo lực hoang dã kia, thấp thoáng đâu đó, vẫn là những bảo bọc, chia sẻ của tình người. Phải chăng, tác giả muốn nhấn mạnh, giữa khi đạo lý nhân quần ngày một phá sản, thì đám người sống bên lề xã hội, trong chừng mực nào đó, vẫn có cho riêng họ một thứ đạo lý: "Đạo lý giang hồ"?! Trên tất cả mọi trải nghiệm, sống trong và, sống giữa tâm-bão-đen hiện thực xã hội, tôi vẫn thấy cái Tâm-Nhân-Bản của ông. Theo tôi, chính ngọn lửa nhân bản rực rỡ nơi họ Đào, đã làm thành nhân cách nhà văn, qua từng trang sách. Từ đấy, tôi không nghĩ, có dễ chúng ta còn thấy phải đòi hỏi thêm điều gì, nơi nhà văn đã sống, như một đường gươm này! DU TỬ LÊ (California, Aug. 2014) Mời các bạn đón đọc Đốt Đời của tác giả Đào Hiếu.
Tắt Lửa Lòng - Nguyễn Công Hoan
Sách Nói Tắt Lửa Lòng Tắt lửa lòng là một tiểu thuyết tình cảm lãng mạn của nhà văn Nguyễn Công Hoan, giới thiệu lần đầu tiên năm 1933. Tác phẩm này nhanh chóng trở nên phổ biến, và rất nhiều người chuyển thể thành vở kịch, bản nhạc khác nhau. Soạn giả Trần Hữu Trang đã biên kịch lại và chuyển thể lại thành vở cải lương "Lan và Điệp" năm 1936. Và cái tên "Lan và Điệp" trở thành huyền thoại từ đó, thậm chí nó còn nổi tiếng hơn cả tên tác phẩm Tắt lửa lòng. *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. *** Năm giờ chiều hôm sau ở chợ Gỏi, người ta đã thấy phường kèn trống, bát âm, và phu đòn, sắp sẵn nhà táng lính xa ngồi chờ ở gốc đa để đón đám ma. Cảnh xuân mà ảm đạm. Mặt trời chìm tây, hất cái bóng úa tàn lên những đám mây bạc mờ, lộn ra các mầu óng ánh như khảm. Cây khô chưa nẩy lộc, đứng lom khom bên cạnh đường. Khóm tre kẽo kẹt, làm tơi tả chiếc lá vàng sum soe bay, rồi nằm mắc trên bụi tầm xuân dại. Một chốc, ba chiếc ô tô từ đằng xa phăng phăng chạy lại, bốp còi inh ỏi, đến đầu chợ thì dừng. Tiếng kèn nổi lên, theo gió đưa đi những giọt rền rỉ sầu thảm, khói hương phảng phất bay lên, đám ma thong thả theo lối rẽ vào làng Văn Ngoại, rồi đi quanh rặng tre trên bờ sông. Người đưa đám mỗi lúc một đông. Trông thấy Điệp, Xuân, và một vị sư bác chùa Phương Thành, nghiêm trang đi sát sau cữu, thì ai nấy đều nhớ đến cảnh ngộ Lan mà sụt sùi giọt lệ. Trời về chiều đã tăng cái vẻ sầu thảm, trời về chiều lại bày thêm cảnh đám ma có giọng khóc nỉ non ai oán… Tạo hóa như khéo vẽ nên bức tranh đoạn trường! Trống vẫn thúc, kèn vẫn rên. Hồn và xác Lan trong chiếc nhà táng, nghêng ngang theo sau tiếng bát âm ẻo lả, lượn vùng quanh lũy, qua mấy thửa ruộng trồng má đề thì hạ xuống, cạnh cái gò chính Điệp và Lan đã ngồi nói chuyện hôm mười sáu tháng năm khoảng mười lăm năm trước. Trời thấp dần. Núi non xa dần. Cảnh vật xung quanh đã nhuộm một mầu sẫm, buồn rười rượi như sắp chết. Bức màn sương, trên rủ xuống, xa đưa lại, cũng dần dà trùm khuất mọi nơi, rải rác vẻ u ám thê lương vào buổi chiều hôm hiu hắt. ... Mời các bạn đón đọc Tắt Lửa Lòng của tác giả Nguyễn Công Hoan.