Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thám Tử Rời Sân Khấu - Agatha Christie

Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case hoặc Curtain) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được hãng Collins Crime Club xuất bản lần đầu tại Anh tháng 9 năm 1975. Đây là tiểu thuyết cuối cùng của Agatha Christie về nhân vật thám tử Hercule Poirot cũng như Arthur Hastings với bối cảnh là điền trang Styles, nơi từng diễn ra vụ án đầu tiên trong loạt truyện về Hercule Poirot. Tác phẩm này được Agatha Christie viết từ đầu thập niên 1940 trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai với ý định làm đoạn kết cho toàn bộ loạt truyện về Hercule Poirot, nữ nhà văn giữ nó trong nhà băng suốt hơn 30 năm rồi mới cho ấn hành chỉ một năm trước khi bà qua đời. *** Ghi chú của đại úy Arthur Hastings Bốn tháng sau cái chết của Hercule Poirot một văn phòng luật gia mời tôi đến gặp tại trụ sở. Tại đây, họ làm theo yêu cầu của khách hàng của họ, trao cho tôi một phong bì kín, bên trong có văn bản mà tôi chép lại sau đây: Văn bản của Hercule Poirot Bạn thân mến, khi anh đọc những dòng này, tôi đã mất được bốn tháng. Tôi chần chừ không muốn viết, nhưng sau lại thấy cần phải nói cho ai đó biết sự thật về những gì xảy ra ở Styles. Chắc rằng đến lúc đọc bài này, anh đã đặt ra đủ các loại giả thuyết một cách chật vật hòng đi đến kết quả. Song xin nói để anh biết rằng lẽ ra anh đã sớm tìm ra sự thật, vì tôi đã cố ý cung cấp những dấu hiệu để dẫn anh tới đó. Nếu anh chưa tìm ra được, ấy là tại vì bản chất anh quá tin người, trước sau anh vẫn vậy! Ít nhất anh cũng phải biết ai đã giết Norton chứ, dù là còn tù mù về cái chết của Barbara Franklin. Nhưng hãy nói từ đầu. Tôi mời anh đến Styles, nói là tôi cần anh. Đó là sự thực. Tôi bảo anh phải là tai, là mắt cho tôi. Đó cũng là sự thực, nhưng có lẽ không hẳn theo nghĩa mà anh hiểu. Anh phải nhìn thấy những gì tôi muốn anh nhìn, nghe thấy những gì tôi muốn anh nghe. Anh phàn nàn về chuyện tôi không nói thật hết với anh khi trình bày vụ việc. Đúng, tôi không chịu nói rõ lai lịch tên X. Nhưng tôi phải làm thế, mặc dù ở đây cũng vậy, lý do tôi viện ra với anh không phải là lý do thực. Lý do thực, rồi anh sẽ hiểu ngay bây giờ. Tôi đã chuyển cho anh bản tóm tắt năm vụ án khác nhau. Tôi đã nêu bật nhận xét rằng trong mỗi vụ án đó, người bị kết án hoặc bị nghi ngờ dường như không phải thủ phạm thực. Tôi lại nêu rõ một điều quan trọng nữa, trong mỗi vụ, X đã có mặt tại chỗ hoặc ở quanh quẩn đâu đó. Anh đã vội suy diễn ngay ra một điều, trớ trêu thay, vừa đúng vừa sai. Anh nghĩ X là người đã trực tiếp phạm các tội ác đó. Nhưng bạn ơi, hoàn cảnh xảy ra là trong mỗi vụ, duy nhất chỉ có người bị kết tội mới có cơ hội làm việc đó. Như vậy, sẽ giải thích sự có mặt của X như thế nào? Trừ phi là người có dính dáng đến cảnh sát hoặc là một nhóm người quyền chức sa đọa, rất khó cho một người nào lại dính liên tiếp đến năm vụ án khác nhau. Điều đó không thể xảy ra anh hiểu không? Không ai lại đến gặp anh mà nói: "Tôi trực tiếp quen biết năm kẻ giết người". Không, không thể có như vậy. Thực ra, chúng ta đứng trước một hiện tượng xúc tác kỳ cục. Phản ứng giữa hai chất chỉ xảy ra khi có mặt chất thứ ba, chất này có vẻ như không đóng vai trò gì và không hề bị biến đổi. Tình hình là như thế: khi X có mặt, là án mạng xảy ra, nhưng X không mó tay trực tiếp. Đây là một tình hình kỳ lạ, hoàn toàn bất bình thường. Và tôi hiểu ra là vào cuối đời, mình đã gặp một hung thủ tạm gọi là "hoàn hảo" hắn đã thực thi một kỹ thuật tinh vi làm cho hắn không bao giờ có thể bị vạch mặt. Kỹ thuật đó là đáng ngạc nhên, nhưng không mới. Đã có những trường hợp tương tự. Và đây là một chỉ dẫn đầu tiên tôi để lại cho anh. Vở kịch Othello. Trong kịch này, có một điển hình như hệt X. Đúng, Iago là tên giết người hoàn hảo. Cái chết của Desdémone, của Cassio rồi của cả Othello nữa, là những tội ác của Iago do hắn trù liệu. Vậy mà không ai chịu nghi ngờ hắn. Lẽ ra hắn còn được "tại ngoại" mãi, cho đến khi người đồng hương vĩ đại của anh - thi hào Shekaspeare - phải dùng đến một biện pháp thô thiển nhất, là đưa chiếc khăn tay ra mới lật mặt được hắn. Phải, án mạng được nâng lên thành nghệ thuật hoàn hảo. Không có một lời kích động trực tiếp nào. Iago còn khéo léo ngăn mọi người chớ dùng bạo lực và gieo mối nghi ngờ vào lòng người khác rồi lại làm bộ gân cổ bác bỏ! Cách làm ấy ta lại thấy trong màn ba tuyệt vời của vở John Fergueson, trong đó chàng ngố Clutie John kích động người khác giết người mà hắn không ưa. Kiểu gợi ý về tâm lý đó là một công trình tuyệt hảo. Anh Hastings, anh cần hiểu điều này: mỗi người chúng ta đều là một hung thủ tiềm ẩn. Trong mỗi chúng ta thỉnh thoảng lại nỗi lên sự muốn giết nhưng không nhất thiết kèm theo sự dám giết. Đã bao lần ta nghe thấy người này người kia nói: "Mụ ấy làm tôi tức lộn ruột, muốn giết mụ ngay lập tức!" - "Tôi sẽ giết nếu nó dám nói thế!" - "Tôi ấy à, tôi sẽ bẻ gẫy cổ hắn!" Nhưng lúc đó, ý của ta thật rõ ràng: muốn giết cho chết. Nhưng ta không làm việc ấy, vì lý trí ta không đồng tình với tình cảm. Ở trẻ nhỏ cái máy hãm lý trí ấy có khi không hiệu quả. Tôi biết một thằng bé bực mình với con mèo, thốt lên: "Nằm im, không tao đập cho một cái vào đầu chết tươi!". Nói rồi làm thật. Để sau đó mới hoảng hồn vì con mèo đẵ chết. Vì thật ra, thằng bé rất yêu con vật ấy. Tóm lại trong mỗi chúng ta đều có một tên hung thủ nằm ngủ. Và nghệ thuật của X không phải chỉ gợi lên ý muốn mà còn thủ tiêu sự kháng cự của lý trí. Nghệ thuật đó được rèn giũa trải qua thực tế lâu dài. Hắn biết dùng một từ chính xác, một câu nói thích hợp, giọng nói tính toán làm sao để gây áp lực liên tục lên một điểm yếu! Trong khi đó, nạn nhân không ngờ vực chút nào. Đây không phải là thôi miên; thôi miên chưa chắc đã ăn. Nó là một cái gì lắc léo hơn, đáng sợ hơn: sự tập hợp tất cả sức lực của một con người để mở rộng một khe hở chứ không bịt nó lại. Anh phải biết điều đó chứ, vì nó đã xảy ra với anh. Có thể anh đã bắt đầu hiểu ý nghĩ một số nhận xét của tôi mà anh cho là lạ. Khi tôi nói có một vụ án sắp xảy ra không phải lúc nào tôi cũng ám chỉ một vụ giống nhau. Tôi nói rằng tôi đến Styles nhằm một mục đích nhất định, vì ở đó sắp xảy ra án mạng. Và anh đã hết sức ngạc nhiên thấy tôi đoán chắc như thế. Nhưng sở dĩ tôi chắc như vậy, vì vụ án mạng đó sẽ do tôi tiến hành. Phải, kỳ lạ thật, anh nhỉ. Và kinh khủng nữa. Tôi là người phản đối tội ác, người luôn luôn tôn trọng cuộc sống con người, thế mà tôi lại kết thúc sự nghiệp của mình bằng gây ra án mạng! Hay bởi tôi quá đạo đức giả, quá ý thức về sự ngay thẳng của mình mà cuối cùng phải đứng trước sự lựa chọn sinh tử đó. Vì, anh Hastings ơi, bao giờ cũng có mặt phải, mặt trái. Nhiệm vụ của đời tôi là cứu người bị oan, ngăn ngừa tội phạm và tôi chỉ có thể làm được việc đó bằng một cách duy nhất. Vì - anh chớ quên điều này - X không thể bị pháp luật trừng trị. Hắn có chỗ trú an toàn. Tôi không nghĩ ra cách nào khác khác để đánh bại hắn, buộc hắn vĩnh viễn không thể tác oai tác quái. Song tôi vẫn do dự. Biết rõ cần làm gì, nhưng chưa dám quyết làm. Giống như Hamlet, tôi cứ trì hoãn mãi giờ phán xét cuối cùng. Thế là xảy ra một mưu toan khác, định làm hại bà Luttrell. Tôi nóng chờ xem anh, vốn thính nhạy với sự thật hiển nhiên, lần này có hiểu ra không. Và anh đã hiểu: phản ứng đầu tiên của anh là nghi cho Norton, dù rất mơ hồ. Anh đã đoán đúng: Norton chính là người chúng ta tìm. Không có bằng chứng gì để xác minh giả thuyết đó, trừ một nhận xét dụt dè của anh rằng hắn là con người vô vị. Song lúc đó chính là lúc anh đã tới gần sự thật. Tôi đã nghiên cứu kỹ lai lịch của hắn. Hắn là con của một bà mẹ độc đoán và áp chế, nên không lúc nào hắn có dịp tự khẳng định hoặc áp đặt tính cách của mình cho ai. Hắn bị tật nhẹ ở chân, nên ngay lúc đi học không tham gia tích cực được vào các trò chơi của bạn học. Một điều có ý nghĩ mà anh kể lại với tôi là hắn bị bạn bè chế nhạo vì buồn nôn khi nhìn con thỏ bị lột da. Tôi cho rằng chuyện ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng hắn. Hắn sợ máu và bạo lực, nên bị "kém thớ". Trong tiềm thức, hắn chờ dịp để tự khẳng định, báo thù lại bằng cách tỏ ra táo bạo, thậm chí tàn ác. Tôi hình dung hắn sớm nhận ra mình có khả năng gây ảnh hưởng tới người khác. Hắn biết bình tĩnh lắng nghe, gợi được cảm tình, mọi người không chú ý hắn lắm, song không ghét bỏ. Hắn nhận ra là nếu dùng những lời thích hợp và nhấn vào đúng chỗ, thì rất dễ gây ảnh hưởng tới người khác. Chỉ cần hiểu họ, nắm được ý nghĩ của họ,lường trước những phản ứng và những ý nghĩ âm ỉ của họ. Anh có thấy không, một sự khám phá như vậy làm cho hắn có cảm giác như thế nào về quyền lực của mình! Hắn là Stephen Norton, người vừa được yêu mến vừa bị coi thường, nay có khả năng thúc đẩy người khác làm những việc họ không muốn làm hoặc tưởng là không muốn làm. Tôi hình dung hắn bắt đầu đem cái sở trường đó ra thực hành, rồi lâu dần thành quen, thích thú với việc thông qua nguời khác để gây ra những hành vi bạo lực, những việc mà hắn không tự làm được vì thiếu sức mạnh thể chất. Và cái trò quỷ đó cứ lên mãi thành niềm đam mê, không làm không được. Như một thứ ma túy, nghiện rồi không thể bỏ. Norton con người vốn bản tính hiền lành, trở thành tên bạo sát dấu mặt. Giống như người nghiện, hắn phải có suất tiêm chích hằng ngày, luôn tìm hết nạn nhân này tới nạn nhân khác. Tôi tin là con nhiều vụ khác, ngoài năm vụ mà ta đã biết. Và trong mỗi vụ, hắn đều có vai trò giống nhau. Hắn quen biết Etherington; hắn đã ở suốt mùa hè ở cái làng Riggs ở,thỉnh thoảng uống rượu với anh này ở quán. Trong một chuyến du ngoạn, hắn làm quen với Freda Clay và làm như nói chuyện bâng quơ, đã gợi ý cho cô ta thấy nếu bà cô chết đi thì nhất cử lưỡng tiện: chẳng những bà già được giải thoát, mà cô sẽ được sống ung dung, thoải mái. Hắn cũng là bạn của Litchfield, và gợi cho Margaret thấy nếu giải thoát được cho các em gái, cô sẽ là người hùng. Tôi tin là, không ai trong số những người đó sẽ giết người, nếu không bị Norton tác động. Bây giờ ta trở lại những sự kiện ở Styles. Tôi đã theo dõi Norton một thời gian. Và khi hắn làm quen với Franklin, tôi thấy ngay mối nguy. Với Norton, vợ chồng Franklin mở ra những khả năng rất thú vị, có thể nói là đủ các loại khả năng. Bây giờ thì chắc anh đã hiểu điều mà bất cứ người nào đầu óc bình thường phải hiểu ngay, đó là Franklin và con gái anh yêu nhau. Cử chỉ bất thường của bác sĩ, cái cách ông ta không bao giờ nhìn thẳng vào Judith, bỏ qua mọi kiểu đối xử xã giao với Judith, tất cả những cái đó phải cho anh thấy là ông ta yêu con gái anh. Nhưng đó là một người có nghị lực và thẳng thắn. Có thể ăn nói hơi cục cằn, nhưng có những nguyên tắc nhất định. Theo ông, người chồng phải chung thủy với người vợ mình đã chọn. Về phía Judith nó mê tít ông bác sĩ. Tôi tưởng anh đã biết chuyện ấy rồi, và Judith cũng tưởng thế, cái hôm anh gặp nó trong vườn hồng. Do đó nó với cáu kỉnh. Tính cách như nó không chịu để ai thương hại, thậm chí thông cảm. Rồi Judith hiểu là anh tưởng nó yêu Allerton, và nó không cần đính chính, cứ để mặc cho khỏi gây lôi thôi. Nó chấp chới với Allerton như để tìm trong đó một niềm an ủi tuyệt vọng, mặc dù biết Allerton là loại người nào. Nó chỉ đùa cợt thế thôi, chứ không hàm ý tình cảm gì. Tất nhiên Norton hiểu tất cả, hắn dự kiến khai thác tình hình đó. Tôi cho là hắn đã tìm cách ảnh hưởng đến Franklin, nhưng thất bại. Bác sĩ là loại người duy nhất không chịu tác động gì từ phía Norton. Ông có trí óc cực kỳ tỉnh táo. Hơn nữa, niềm đam mê lớn nhất đời ông là công việc. Với Judith, Norton thành công hơn bằng cách khéo léo khích cái lý thuyết về những cuộc đời vô dụng. Judith thành thật tin vào thuyết này, và hắn tỏ ra cực kỳ gian manh, làm bộ chủ trương thuyết trái lại và nói khích Judith, cho là cô ta không đủ táo bạo để đưa lý thuyết vào thực hành. "Đó là loại lý thuyết ta hay có lúc trẻ, nhưng không bao giờ dám thực hiện". Cách nói ấy mang tính kích động thô thiển, ấy vậy mà có khi hiệu quả. Bọn trẻ ấy mà, chúng còn non nớt quá! Nếu bà Barbara vô dụng bị loại trừ, con đường với Franklin và Judith sẽ rộng mở. Điều ấy không được nói toạc ra, người ta còn bản rằng lý thuyết này không ám chỉ trường hợp cá nhân nào, vì nếu Judith biết là có ám chỉ, nó sẽ phản ứng quyết liệt. Nhưng với một môn đệ của tội ác như Norton thì một vụ là chưa đủ. Hắn đã tìm ra một chỗ nữa để thử tài, đó là vợ chồng Luttrell. Ta hãy quay trở lại trước nữa. Hastings, anh có nhớ ván bài anh tham gia tối hôm mới đến. Sau ván bài, Norton đã nói mấy câu rất to khiến anh lo là ông đại úy nghe thấy. Nhưng đó là hắn cố tình muốn vậy: Luttrell phải nghe thấy! Norton không bỏ lỡ cơ hội nào để bình phẩm tính cách bà Luttrell, cố tình nhấn mạnh một cách tự nhiên. Và cuối cùng ý đồ của hắn đã thành kết quả. Việc ấy xảy ra ngay trước mũi anh, mà anh không hay biết. Nền móng của sự việc đã được sắp đặt sẵn: sự áp bức quá đáng của bà vợ, sự xấu hổ, bực bõ của ông chồng... Anh hãy thử nhớ chính xác mà xem. Norton kêu khát. Hẳn là hắn biết bà Luttrell đang ở quanh đó và chắc chắn sẽ ra mặt. Ông đại tá đáp ứng ngay, tỏ rõ bản chất chủ nhà rộng rãi của mình. Ông xin đãi một chầu rượu và vào tìm chai. Các anh đều ngồi gần cửa sổ. Bà Luttrell bước vào phòng ăn, thế là xảy ra cuộc cãi vã, chì chiết. Luttrell biết là mọi người nghe thấy hết. Ông ta trở vào. Lẽ ra mọi người phải tìm cách xoa dịu sự việc. Hoặc Boyd Carrington, hoặc chính anh, Hastings có thể làm điều đó. Nhưng Norton đã cướp lời, và khéo léo đổ thêm dầu vào lửa. Hắn nói trở lại về ván bài - làm Luttrell cảm thấy mình bị lấn át - rồi nói chuyện tai nạn đi săn. Thế rồi, cái ông Boyd Carrington đần độn vô tình mắc bẫy, lao ngay vào kể chuyện tên cận vụ giết ông anh của mình. Câu chuyện đó, chính Norton đã để cho Boyd, hắn biết rằng Boyd sẽ kể lại như là của chính mình vào lúc nào có người khéo gợi. Thành ra gợi ý cuối cùng không phải do Norton nói ra! Vậy là mọi thứ đã được dọc sẵn. Và điểm bùng nổ đã tới. Bị sỉ nhục trước mặt mọi người, nghĩ rằng ai nấy đều cho mình là thiếu dũng khí chống lại, ông Luttrell nghĩ cách để thoát ra. Thì đấy - có ngay những chuyện tai nạn đi săn, chuyện anh lính giết anh ruột. Rồi bất thần đằng cuối vườn, sau lùm cây, thấp thoáng cái đầu của bà vợ... không sợ gì cả... coi như tai nạn... Ta phải tỏ cho họ biết ta là ai... cho bà ấy chết cho xong! Nhưng bà ấy không chết. Tôi cho là, lúc bóp cò, ông ta đã bắn trượt bởi trong thâm tâm, ông muốn bắn trượt. Lập tức ý tưởng phản ứng tan ra mây khói. Bởi vì dù thế nào, ông ta vẫn yêu vợ. Đó là một trong những vụ án mạng mà Norton đã dự liệu không thành. Nhưng còn âm mưu tiếp theo! Hastings biết không, lần này hắn nhằm vào anh đó! Hãy nhớ lại đi, ông bạn thật thà ạ. Norton đã thấy ra tất cả các điểm yếu của anh, và cả những tính tốt của anh là ngay thẳng và đạo đức. Allerton thuộc loại người mà anh căm ghét và e ngại một cách tự nhiên, như cólinh tính. Và những điều anh nghĩ về hắn, biết về hắn, đều đúng. Norton liền kể anh nghe một câu chuyện khác - chuyện này có thực, theo như tôi biết - về một con gái bị Allerton tình phụ. Chuyện đó ngay lập tức gây ấn tượng mạnh với anh. Allerton đúng là thằng tồi, thằng đểu chuyên quyến rũ, cưỡng bức con gái, dồn họ đến chỗ phải tự vẫn. Mặt khác, Allerton gợi ý Boyd Carrington nói chuyện với anh về Judith. Và anh cảm thấy cần nói chuyện nghiêm chỉnh với con gái. Và, như anh đã lường trước, nó cãi lại, nói rằng việc đời nó, nó lo. Anh càng cuống. Giờ anh hãy bình tĩnh xem xét Norton đã lợi dụng những gì ở anh: tình yêu con gái, ý thức trách nhiệm của người cha... anh tự nhủ: "Ta phải hành động ngay, kẻo hối không kịp". Anh lại nghĩ đến vợ, thấy không thể lẩn tránh trách nhiệm trông nom con cái mà người vợ yêu quý đã để lại. Còn có cả sự ghen tuông tự nhiên và vô lối của phần lớn các ông bố khi có kẻ địch cướp con gái mình. Thấy chưa, Norton đã nhấn vào những phím đàn nhạy cảm, đúng là một nhạc trưởng bậc thầy. Và anh cứ thế lao vào. Hastings, anh có tật cả tin vào bề ngoài của sự vật. Chẳng suy nghĩ gì, anh tin ngay là Allerton hẹn gặp Judith hôm sau ở London. Nhưng anh không nhìn thấy Judith, không nghe Judith nói. Vậy mà sáng sớm hôm sau, anh vẫn còn tin như thế, và tỏ ý mừng là Judith đã đổi ý. Song nếu anh chịu khó xem xét, anh sẽ thấy ngay là Judith không hề có ý định đi đâu hôm đó. Và anh cũng bỏ qua không thấy một sự việc nhỏ khác; có một người định đi hôm đó, nhưng không đi được, nên tỏ ra vô cùng bực dọc. Đó là cô Craven y tá. Đúng thế! Allerton không chỉ tán tình một phụ nữ. Quan hệ giữa hắn và cô Craven đã tiến triển khá xa, xa hơn nhiều so với việc hắn lơ mơ tí chút với Judith. Và người hắn hẹn gặp ở London chính là cô ta! Một mẹo nữa của Norton. Anh trông thấy Allerton hôn Judith, Norton liền thúc anh đi vòng quanh góc nhà, vì hắn biết Allerton hẹn hò cô Craven gần nhà kính. Sau khi làm bộ níu anh lại, Norton để anh đi. Nhưng hắn đi theo anh. Hắn hiểu câu nói mà anh vừa nghe được từ miệng Allerton góp thêm thuận lợi vào kế hoạch của hắn. Cho nên hắn vội kéo anh đi nhanh để anh không kịp nhận ra rằng người phụ nữ ở đó không phải là Judith. Đúng là mưu mẹo bậc thầy! Phản ứng của anh là tức thời: anh quyết giết Allerton. May thay, anh có một người bạn trí óc còn minh mẫn. Và không chỉ trí óc mà thôi, như anh sắp thấy đây. Ngay ở đầu bản viết này, tôi đã nói anh không tìm ra sự thật, vì tính anh dễ tin quá. Ai nói gì, anh tin ngay. Tôi, tôi nói gì, là anh tin. Song tìm ra sự thật, đâu có khó với anh. Tôi đã đuổi George đi. Tại sao? Thay bằng một anh hầu ít từng trải hơn, và rõ ràng kém thông minh hơn. Tại sao? Tôi vốn là người rất chăm lo súc khỏe, tôi không để bác sĩ nào theo dõi, và từ chối không chịu để bác sĩ nào khám như anh khẩn khoản yêu cầu. Tại sao? Bây giờ thì anh hiểu tại sao tôi cần anh đến Styles chứ? Tôi cần có một người tin như đinh đóng cột tất cả những gì tôi nói. Tôi nói đi dưỡng bệnh ở Ai Cập về, sức khỏe vẫn tồi như trước. Anh tin. Thựa ra là sai: tôi trở về Anh khá hơn rất nhiều. Chịu khó để ý một chút, anh sẽ thấy ngay. Nhưng không, anh đã tin. Sở dĩ tôi chia tay với George, là vì nếu nó ở lại, tôi không thể nói dối với nó rằng chân tôi bị liệt. Hastings, anh hiểu chưa? Tôi giả vờ bị tật, đánh lừa tất cả mọi người, kể cả Curtiss, thực ra tôi vẫn đi lại được. Hơi tập tễnh môt chút. Rồi đến cái tối đáng nhớ đó, tôi nghe tiếng chân anh lên gác, chần chừ một lát rồi lẻn vào phòng Allerton. Tôi cảnh giác ngay, vì đang rất lo cho tâm trạng của anh. Curtiss đang xuống ăn dưới nhà, tôi có một mình. Không bỏ phí một giây, tôi ra khỏi phòng, băng qua hành lang. Tôi nghe tiếng anh làm gì trong buồng tắm của Allerton, và phải dùng cái cách mà anh thường phản đối - quỳ xuống nhìn qua lỗ khóa. May quá, chìa không có trong ổ. Và tôi nhìn thấy anh. Anh mó máy mấy cái lọ, và tôi hiểu ngay anh đang mưu đồ gì. Phải hành động ngay. Tôi trở về phòng mình chuẩn bị các thứ. Lúc Curtiss lên, tôi sai hắn sang tìm anh. Anh vừa vào vừa ngáp, nói là đau đầu. Tôi liền gây chuyện rối tinh, yêu cầu anh phải uống thuốc. Để cho xong chuyện, anh đồng ý uống một tách sôcôla thật ngọt. Anh uống một ngụm hết, vì đang vội về. Có điều là, tôi cũng biết dùng những viên thuốc ngủ! Về phòng, anh đã ngủ ngồi trên ghế. Sáng hôm sau thức dậy, trí óc anh tỉnh táo trở lại, bây giờ anh mới phát hoảng vì chuyện tày đình định làm. Thế là anh thoát hiểm, vì không thể nào lặp lại việc ấy lần thứ hai khi người ta đã lấy lại lý trí. Nhưng điều ấy đã làm tôi, tôi phải quyết định. Vì tất cả những gì tôi biết về những người khác không áp dụng với anh. Anh không phải kẻ giết người, thế mà suýt nữa bị kết tội giết người, vụ giết này do người thứ ba chủ trương, nhưng hắn hoàn toàn vô tội trước pháp luật. Anh người trung thực, thật thà, tận tụy, đáng kính như thế, mà cũng suýt nhúng tay vào tội ác! Vậy tôi phải hành động ngay. Tôi biết mình không còn nhiều thời gian nữa, nhưng xét cho cùng, như thế lại tốt. Vì cái mệt nhất, ấn tượng nhất trong một vụ án mạng là tác động của nó đối với hung thủ. Mọi việc dẫn đến chỗ là tôi, Hercule Poirot tự thấy mình như một người được Thượng Đế chỉ định để trừng phạt những người khác. May thay, điều đó sẽ không xảy ra, vì đã đến lúc tôi cũng sắp phải ra đi. Nhưng tôi sợ Norton lại thàng công nữa cái trò ma quái của hắn khi nhằm vào một người thân của cả anh và tôi. Đó là con gái anh. Và bây giờ, ta nói đến cái chết của Barbara Franklin. Dù anh nghĩ thế nào mặc anh, tôi cho là anh chưa lúc nào ngờ tới sự thật. Vì Hastings ơi, chính anh đã giết Barbara. Phải, chính anh. Vì thực ra, còn một khía cạnh khác của hình tam giác một khía cạnh mà tới lúc đó, tôi chưa quan tâm đúng mức. Cả anh cả tôi đều không phát hiện hành tung của Norton theo hướng đó. Song tôi tin rằng hắn đều đã thực hiện cả. Anh có bao giờ tự hỏi, tại sao bà Franklin lại muốn đến ở Styles? Nơi này đâu phải là chỗ thích hợp với bà. Bà thích tiện nghi, thích ăn ngon, thích chơi bời giao thiệp... ở Styles làm gì có những thứ đó. Nhưng bà lại cố đòi đến nghỉ hè tại đây. Đó là, như tôi đã nói, còn một cạnh khác của hình tam giác: Boyd Carrington. Bà Franklin là một phụ nữ bị vỡ mộng, đó là nguyên nhân khiến bà bi tâm thần. Bà ôm nhiều tham vọng về bậc thang xã hội và về tài chính. Bà lấy bác sĩ Franklin hy vọng ông có tương lại, sự nghiệp xán lạn. Ông đúng là người xuất sắc theo kiểu ông, nhưng không như vợ mơ ước. Ông có tài, nhưng chẳng bao giờ được báo chí nói đến, chẳng bao giờ có nổi một phòng khám bệnh tư ở phố Harley. Ông chỉ được dăm bảy đồng nghiệp biết tiếng, và đăng các công trình khoa học của mình trên những tạp chí thông thái không mấy người đọc. Và ông sẽ không bao giờ giàu có. Nhưng rồi Boyd Carrington từ phương Đông về, lại mới được phong tước hiệu, thừa kế một dinh cơ đồ sộ và gia tài lớn. Ông ta vẫn giữ trong lòng tình cảm thắm thiết với cô gái mười bảy tuổi hồi xưa, mà ông suýt hỏi làm vợ. Ông ta định nghỉ tại Styles - trong khi chờ công việc trùng tu dinh thự Knatton hoàng thành - và gợi ý mới vợ chồng Franklin cùng tới nghỉ. Barbara đồng ý ngay. Hiển nhiên là dưới mắt người đàn ông giàu có và tráng kiện này, bà Franklin vẫn còn đầy xuân sắc và hấp dẫn. Song ông thuộc người của thế hệ trước, không thể xui bà ly dị chồng. John Franklin cũng không chấp nhận ly hôn. Nhưng nếu ông ta chết đi, Barbara Franklin có thể trở thành phu nhân Boyd Carrington hạnh phúc xiết bao. Và tôi hình dung Norton đã nhìn thấy ở bà một công cụ dễ sai khiến. Bây giờ ngẫm lại, sao mà mọi việc rõ ràng quá. Hãy nhớ lại bà Franklin luôn tỏ ra mình gắn bó như thế nào với chồng, còn tô đậm thêm, nói muốn chết để khỏi là gánh nặng cho chồng. Sau đó bà lại dùng chiến thuật khác: giả bộ lo lắng rằng chồng sẽ tự lấy thân mình làm thí nghiệm với các chất độc. Phải, lẽ ra ta phải thấy rõ! Bà ta chuẩn bị tư tưởng để mọi người thấy Franklin chết vì chất physostigmine. Ồ! Không có ai đầu độc ông ấy đâu! Chỉ là thí nghiệm khoa học. Ông ấy dại dột ống thử chất ancalôít đó, rồi tử nạn. Nhưng rồi, dồn dập có diễn biến. Chính anh cho tôi biết bà Franklin rất không bằng lòng thấy lúc họ đi Knatton về, Boyd Carrington để cho cô Craven xem tướng tay. Cô y tá này còn trẻ và khá hấp dẫn, rất khéo làm duyên với đàn ông. Cô đã thử bắt tình với bác sĩ Franklin, nhưng không xong. Vì thế cô ta ghen ghét với Judith. Cô ta lại bắt tình với Allerton, dù biết anh này là người không đúng đắn. Và cuối cùng cô ta xoay sang để ý đến Boyd Carrington, ông này còn đẹp mã lắm. Mà ông ta thì có lẽ sẵn sàng xiêu lòng, vì anh thấy rồi đấy, ông đã từng khen cô y tá là người tươi tắn, đáng yêu. Vì thế bà Barbara sinh lo và quyết định ra tay sớm. Hastings anh biết không, tôi cảm thấy cây đậu calabar thật là đáng nể. Lần này, nó đã thực sự phát huy quyền lực: tránh người vô tội, đánh kẻ ác tâm. Tối hôm đó, bà Franklin mời mọi người lên uống cà phê trong phòng mình, và bà ta đã chuẩn bị sẵn thuốc độc. Theo lời anh nói lại, tách của bà đặt ngay cạnh bà, còn tách ông chồng đặt phía bên kia tủ sách nhỏ. Rồi có chuyện ra xem sao đổi ngôi. Mọi người đổ xô ra ban công. Mình anh ở lại, lúi húi điền ô chữ và ngẫm nghĩ. Và anh xoay cái tủ sách để tìm một câu viết của Shakespeare. Mọi người trở vào. Bà Franklin uống tách cà phê lẽ ra dành cho chồng, còn chồng lại uống tách của bà Barbara. Tôi đã hiểu ngay chuyện gì đã xả ra, nhưng không thể chứng minh. Song nếu người ta cho bà Franklin chết không phải do tự tử, thì mọi nghi ngờ sẽ tập trung vào Franklin và Judith. Nghĩa là vào hai người hoàn toàn vô can. Vì thế tôi nghĩ mình có quyền bịa ra chuyện trông thấy bà Frankin cầm lọ trong tay và nhắc lại những lời bà thường than vãn - dù là vờ vĩnh - muốn chết cho xong. Có lẽ tôi là người duy nhất làm thế được, vì tôi được tiếng là có kinh nghiệm về hình sự, lời chứng của tôi nhất định có sức nặng. Tôi nói là tự tử, mọi người chấp nhận ngay và tỏ vẻ hài lòng. Nhưng, trời ơi, anh không hề nghi vấn gì vì mối hiểm nguy thực sự. Tôi chết đi rồi, anh còn suy nghĩ đến nó nữa không, như con rắn độc thỉnh thoảng ngóc đầu dậy và ton hót: "Hay Judith đã làm việc đó...". Có thể lắm. Vì vậy tôi quyết định phải viết ra. Cần phải để cho anh biết rõ sự thật. Có một ngưới khác không hài lòng về kết luận tự tử; đó là Norton. Vì hắn cảm thấy bị lấy mất "thành tích". Như tôi đã giải thích bên trên, hắn là một tên bạo sát, muốn hưởng tất cả lạc thú của sự kinh hoàng, ngờ vực, khiếp sợ mà vụ giết người gây ra. Đằng này không thế. Vụ giết người mà hắn dự tính đã xoay chuyển một cách thảm hại, không theo ý hắn. Tuy nhiên hắn tính được ngay cách để đền bù. Và hắn lại bắt đầu ton hót, lắt léo. Mấy hôm trước, hắn đã làm bộ nhìn thấy điều gì bất thường qua ống nhòm. Lúc đó hắn định để anh tưởng là Allerton và Judith trong tư thế thân mật nào đó. Nhưng do không nói rõ hắn có thể sử dụng sự việc đó theo cách khác. Ví dụ, hắn sẽ nói đã trông thấy Franklin cặp kè với Judith. Như vậy sẽ chiếu thêm ánh sáng mới - rất thú vị - lên cái chết của Barbara và gây nghi ngờ rằng bà này chết không phải vì tự tử. Vì thế, tôi quyết định ra tay ngay lập tức. Tôi nhờ anh bảo Norton đến gặp tôi tối hôm đó. Bây giờ tôi sẽ kể chuyện gì xảy ra giữa chúng tôi. Hẳn Norton khấp khởi sẽ nói những gì hắn muốn để đánh lừa tôi. Tôi không để hắn kịp nói. Tôi nói toạc không vòng vo, những gì tôi biết về hắn và hành động của hắn. Hắn không chối điều nào. Hắn bình thản ngồi trên ghế, mỉm cười một cách mãn nguyện thách thức. Rồi hắn hỏi tôi định làm gì? Tôi đốp chát trả lởi luôn là tôi muốn chặn tay hắn lại, trừng trị hắn. - A! Hắn ngạo nghễ. Bằng lưỡi dao hay bằng thuốc độc? Lúc đó, chúng tôi đang chuẩn bị uống sôcôla. Hắn vốn nghiện món này mà. - Cách đơn giản nhất, là một chén thuốc độc. Và tôi đưa hắn tách sôcôla vừa rót. Hắn nói: - Nếu vậy, tôi muốn uống tách kia cơ, tách của ông, được không? - Không sao, tôi đáp. Quả là không sao thật. Như đã nói, tôi cũng hay dùng thuốc ngủ. Nhưng vì từ lâu tối nào cũng dùng, nên cơ thể tôi đã quen, liều đối với tôi không nghĩ lý gì, vẫn làm Norton ngủ mệt. Tôi đã cho thuốc ngủ vào liễn sôcôla, cả hai chúng tôi cùng uống. Tách của Norton sau đó sẽ có tác dụng, còn tác dụng rất ít đối với tôi, nhất là sau đó tôi lại uống một thuốc khác để trung hòa. Chúng ta sắp tới chương cuối. Khi Norton đã thiếp đi, tôi đặt hắn lên xe lăn của tôi, đẩy sát vào góc cửa sổ, phủ rèm che. Rồi Curtiss đến, giúp tôi lên giường. Chung quanh yên tĩnh rồi, tôi nhỏm dậy, đẩy Norton về phòng của hắn. Bây giờ chỉ còn trông vào tai mắt của ông bạn hastings nữa là xong. Chắc anh không để ý, tôi đã mang tóc giả từ nhiều năm nay. Và anh càng không biết nữa, là râu mép của tôi cũng giả. (Ngay George cũng không biết việc này). Thật vậy, ngay sau khi mượn Curtiss, tôi đã cố tình vô ý làm cháy râu, và cho thay bằng râu giả y hệt. Tôi liền khoác bộ áo ngủ của Norton, bộ áo này màu sắc đặc biệt không lẫn vào đâu được. Tôi làm cho tóc bù xù lên giống Norton, đi dọc hành lang, đến gõ cửa phòng anh. Đúng như tôi dự đoán, anh mở cửa nhìn ra ngoài, mắt còn ngái ngủ. Và anh nhìn thấy Norton từ phòng tắm đi ra, tập tễnh băng qua hành lang để về phòng. Cửa đóng rồi, anh còn nghe tiếng chìa khóa xoay trong ổ. Tôi liền cởi bỏ bộ áo, mặc lại cho Norton đang ngủ. Sau đó tôi bê hắn lên giường trừng phạt hắn bằng khẩu súng nhỏ tôi có từ khi ở nước ngoài. Từ khi đến Styles tôi đã cất giấu cẩn thận, trừ hai hai lần tôi biết Norton đang đi chơi xa, tôi mang súng cố tình đặt hớ hênh trên bàn của hắn, để cô hầu phòng nhìn thấy mà khai sau này. Tồi tôi bỏ chìa khóa vào túi Norton, lấy lại xe lăn, khóa cửa lại bằng chiếc khóa thứ hai mà tôi đã cho làm từ trước. Từ lúc ấy tôi lo thảo văn bản này dành cho anh. Tôi mệt lắm rồi: bao cố gắng nỗ lực đã làm tôi kiệt sức, và chắc chẳng còn bao lâu nữa tôi sẽ... Tuy nhiên, còn một số chi tiết nữa tôi cần nói rõ. Các vụ giết người do Norton chủ trương là những tội ác hoàn hảo, còn vụ giết người của tôi không được như thế. Cách dễ nhất, tốt nhất để thủ tiêu Norton là làm công khai, ví dụ gây ra một vụ tai nạn với khẩu súng của tôi. Lúc đó tôi sẽ giả bộ hốt hoảng, tiếc nuối, và mọi người sẽ bình phẩm: "Ông già thật lẩm cẩm, không nhớ là súng đã lên đạn." Tôi không muốn làm như vậy, và xin giải thích lý do. Bởi vì tôi muốn "chơi đẹp" như trong thể thao. Đúng, anh không đọc nhầm đâu. Lúc này tôi đang làm tất cả nhưng việc mà anh đã trách tôi không chịu làm. Tôi đang nói toẹt ra với anh. Thực ra anh đã có đủ các quân bài chủ trong tay để khám phá sự thật. Nếu còn chưa rõ, tôi xin kể sau đây những chỉ dẫn mà tôi đã để lại cho anh. Anh biết, vì tôi đã nói với anh là Norton đến đây sau tôi. Anh biết vì tôi đã nói với anh rằng sau khi tôi đến Styles chìa khóa phòng tôi bị mất và tôi phải làm một chìa khác. Vì vậy, khi anh tự hỏi: "Ai có thể giết Norton? Ai có thể đi ra khỏi một phòng đã khóa từ bên trong?" thì câu trả lời là như sau: - Là Hercule Poirot, vì hắn có chiếc chìa khóa thứ hai của một trong hai phòng. Bây giờ tôi nói về người anh trông thấy ngoài hành lang. Tôi đã hỏi anh có chắc là Norton không. Anh tỏ vẻ ngạc nhiên về câu hỏi ấy và hỏi tôi chẳng nhẽ tôi cho là người khác. Tôi đã trả lời đúng sự thật; đó không hề là ý định của tôi (tất nhiên, vì tôi đã phải thi thố nhiều mẹo để làm anh tưởng đó là Norton). Tiếp đó tôi đã nêu vần đề vóc dáng và đưa ra nhận xét rằng tất cả những người ở Styles đều cao hơn hắn. Nhưng có một người thấp hơn đó là Hercule Poirot. Song muốn cao hơn hai ba phân thì quá dễ: chỉ cần độn thêm đế vào giầy. Anh cũng hoàn toàn cho rằng tôi không thể đi lại một mình. Nhưng tại sao? Chỉ tại tôi bảo anh như thế. Cuối cùng, tôi đã cho George về, và để lại chỉ dẫn cuối cùng: "Hãy đi gặp George". Othello và Clutie John nói lên rằng tên X bí mật ấy không ai khác ngoài Norton. Vậy ai là người có thể giết Norton? Chỉ là Hercule Poirot! Chỉ cần anh thoáng ngờ vực như vậy là mọi mảnh sẽ khớp lại với nhau: những điều tôi đã nói và làm, cả những điều tôi dè dặt chưa nói, lời các bác sĩ Ai Cập và bác sĩ London nói là tôi không đi lại được, lời George nói là tôi mang tóc giả, và việc tôi đi tập tễnh hơn cả Norton. Tất cả chi tiết đó lẽ ra phải làm anh hiểu. Cuối cùng, có phát súng tôi bắn: đây là điểm yếu duy nhất của tôi. Tôi thừa biết rằng đáng lẽ phải áp nòng súng vào thái dương Norton. Nhưng tôi khó chấp nhận sự mất cân xứng ấy, cho nên tôi nhắm vào đúng giữa trán. Ôi, chỉ riêng việc đó đủ để làm anh thấy ra sự thật. Nhưng biết đâu anh đã chẳng ngờ ngợ thế rồi. Biết đâu anh đã chẳng biết rõ sự thật trước đọc những dòng này. Song... tôi lại nghĩ là chưa. Bởi vì anh thật thà quá, dễ tin quá, bởi vì bản chất anh quá tốt. Tôi còn nói gì nữa đây? Franklin và Judith - tôi chắc rồi anh sẽ thấy - biết rõ sự thật, nhưng họ không nói với anh đâu. Họ sẽ không giàu có, trước mắt phải lo đối mặt với muỗi và sốt rét, nhưng mỗi người chúng ta đều có những ý kiến riêng về cách quyết định về mình, phải không nào? Thế còn anh, anh Hastings cô đơn, tội nghiệp? Tim tôi đau quặn mỗi khi nghĩ tới anh. Một lần cuối, anh có muốn nghe lời khuyên của Poirot này không? Nếu muốn thì sau khi đọc hết những dòng này, hãy đáp xe lửa - hoặc xe hàng, xe hơi - đi gặp Elizabeth Cole tức Elizabeth Litchfield. Đọc cho cô ấy nghe văn bản này, giải thích cho cô ấy rằng, nếu là anh, anh cũng sẽ làm như Margaret chị cô. Tiếc rằng chị cô ấy không có một người như Poirot để bảo vệ. Nói tất cả cho Elizabeth để cô ấy rũ bỏ hết những ác mộng ám ảnh cô suốt bấy lâu nay. Làm cho cô ấy hiểu là bố cô không chết vì tay con gái lớn, mà là do ông bạn quý hóa của gia đình: Stephen Norton. Vì thật là không công bằng một phụ nữ còn trẻ, đẹp như cô ấy lại không muốn sống chỉ vì nghĩ mình là người có số mệnh đen đủi. Không phải vậy. Hãy nói thế nhé, anh bạn, anh vẫn còn dư sức hấp dẫn với phụ nữ... Thôi, tôi không còn gì để nói. Tôi không biết việc tôi làm có chính đáng hay không. Thực sự không biết. Trong thâm tâm tôi nghĩ là một người không có quyền làm thay pháp luật. Nhưng mặt khác, tôi cũng là một phần của pháp luật. Hồi trẻ, lúc còn phục vụ ở Sở Cảnh sát Bỉ, tôi đã bắn hạ một tên tội phạm, hắn đứng trên mái nhà bắn xuống người qua đường. Trong trường hợp khẩn cấp chí nguy, tôi đã cứu được nhiều mạng người khác... Thôi, vĩnh biệt anh bạn. Tôi đã vứt bỏ những ống thuốc trợ tim trước nay vẫn giữ trong tầm tay đề phòng trường hợp nguy cấp. Tôi muốn buông xuôi, phó mặc đời mình cho Chúa. Mong Người hãy trừng phạt - hay cứu vớt - thật nhanh. Chúng ta sẽ không cùng nhau sát cánh nữa. Anh nhớ không, vụ án đầu tiên mà chúng ta cùng hợp tác để phá, diễn ra tại đây. Và cũng lại ở đây, là vụ án cuối cùng... Ôi, cái thời tươi đẹp!... Mời các bạn đón đọc Thám Tử Rời Sân Khấu của tác giả Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hiệu Ảnh Nishiura ở Enoshima
Được chắp bút bởi tác giả triệu bản tại Nhật Bản - Mikami En. Một cuốn sách góp nhặt một chút diệu kì, hư ảo, lạnh sống lưng và cả sự xót thương đan xen giữa hai thế hệ. Nếu bạn đang tìm kiếm một câu chuyện khiến bạn tò mò đến trang cuối cùng vì không thể nào đoán được kết thúc thì xin đừng bỏ lỡ cuốn sách này. Câu chuyện xảy ra tại một vùng đất kỳ lạ mang tên đảo Enoshima. Hiệu ảnh lâu đời Nishiura kinh doanh hơn một thế kỷ nay đã bị đóng cửa do cái chết bất ngờ của chủ tiệm Fujiko Nishiura. Được mẹ giao nhiệm vụ sắp xếp lại di vật của người bà quá cố đã mất vào mùa thu năm ngoái, cô cháu gái 23 tuổi Mayu đã quay trở lại hòn đảo chứa đựng biết bao hoài niệm ấy.  Khi khám phá ngôi nhà trăm tuổi cũ kỹ ấy, cô đã tìm thấy một túi ảnh được đánh dấu là “chưa chuyển phát”, chúng thực sự kích thích trí tò mò của cô gái trẻ. Bốn bức ảnh được chụp ở bốn thời điểm khác nhau trong suốt 100 năm qua nhưng bố cục lại giống hệt nhau. Mặc dù thời đại thay đổi, trang phục khác nhau nhưng chẳng hiểu vì sao người đàn ông trẻ tuổi đang mỉm cười trong những tấm ảnh ấy trông giống nhau đến lạ. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng. việc chụp ra những bức ảnh này là hoàn toàn không có khả năng.Cũng chẳng có người nào có thể trẻ mãi không già. Chẳng lẽ chủ nhân của những bức ảnh ấy chưa từng quay trở lại để lấy chúng hay sao? Những câu chuyện ly kì cứ tiếp tục xảy đến. Và rồi, một anh chàng sinh viên trường y 24 tuổi - Akitaka Madori đến xin lại những tấm ảnh cũ. Nhưng anh ta có gương mặt giống hệt người đàn ông trong bức ảnh kia...  Sự trùng hợp rùng rợn này là sao? Ngày trước, Mayu đã quyết tâp theo đuổi sự nghiệp nhiếp ảnh song không hiểu vì sao những bức ảnh cô chụp lại lan tràn trên mạng và hủy hoại cuộc đời của bạn cô Rui Nagano lúc mới chỉ 23 tuổi. Những trải nghiệm cay đắng ấy đã khiến cô từ bỏ việc chụp ảnh để làm nhân viên văn phòng và rồi cô khóa chặt mình trong lớp vỏ đơn độc và tiếc nuối vô bờ bến.  Anh chàng Akitaka kì lạ ấy ngỏ ý nhờ Mayu giải đáp những bí ẩn trong bức hình ấy nhưng liệu tình yêu sâu đậm dành cho nhiếp ảnh của cô gái trẻ có bị đánh thức một lần nữa? và bí mật ẩn sau anh chàng Akitaka kia thực sự là gì? Là sự thật đáng sợ hay đáng thương? Cuốn sách Hiệu ảnh Nishiura ở Enoshima chụp lại những khoảnh khắc của một nước Nhật xa xưa và hiện tại mà ta chẳng thể nào bắt gặp ở bất kì cuốn sách nào khác. Giọng văn lôi cuốn cùng những tình tiết cao trào đầy ngẫu hứng nhưng gây tò mò, chẳng thể nào ngờ tới. Một cuốn sách sẽ ám ảnh bạn trong một thời gian dài, gây xúc động mạnh mẽ khi đọc đến trang cuối cùng. Một cuốn sách làm dịu mát tâm hồn trong những ngày tháng xô bồ của nhịp sống hiện đại.  “Cuộc đời của một con người cũng sẽ không dễ dàng bị đảo lộn. Những cuộc đời đã bị đảo lộn rồi một ngày sẽ bình yên trở lại” *** Mikami En Sinh năm 1971 tại thành phố Yokohama thuộc tỉnh Kanagawa. Tác phẩm đầu tay là Dark Violet do Dengeki Bunko phát hành. Lĩnh vực sáng tác của Mikami trải rộng từ thể loại kinh dị cho đến kì ảo. Văn phong tỉ mỉ và trau chuốt đã thu hút được đông đảo độc giả trung thành. Tác phẩm Dark Violets của ông từng vượt qua ba vòng bình chọn cho giải thưởng tiểu thuyết Dengeki lần thứ 8. Năm 2002, ông ra mắt tác phẩm đầu tay, năm 2011 cho ra mắt bộ tiểu thuyết Tiệm sách cũ Biblia, xoay quanh quá trình đi giải đáp các bí ẩn trong một tiệm sách cũ. Seri Tiệm sách cũ Biblia được ông chấp bút đã bán hơn 6,4 triệu bản tại Nhật Bản và được chuyển thể thành phim. Các tác phẩm chính của ông gồm có bộ truyện Shadow Taker, bộ truyện Người lính giả danh, bộ truyện Tiệm sách cũ Biblia... Tác phẩm này là tập truyện đơn đầu tiên của ông. Chỉ có câu chuyện thứ nhất của tác phẩm này là được đăng trên tạp chí Jaro số 54. Các phần còn lại là được viết mới. Cuộc đời của một con người sẽ không dễ dàng bị đảo lộn. Những cuộc đời đã bị đảo lộn rồi một ngày sẽ bình yên trở lại. *** Mình mua cuốn sách này vì dòng cuối của bìa sau sách: “ Sự trùng hợp rùng rợn này là sao?” vì cứ nghĩ nó mang chút ma mị cổ quái, khi mà sách viết về hiệu ảnh cũ thì yếu tố này cũng dễ hiểu thôi mà, phải không các bạn ? Chưa đọc mà mình cứ nghĩ sẽ có một nhân vật trẻ mãi không già, sống trong một gia tộc cả trăm năm (cũng là do đọc bìa sau sách hihi).   Mở cuốn sách, điều khiến mình thích nhất là bookmark ^^ đâu ra cái máy ảnh dễ thương lắm luôn, nên là đọc cả cuốn này mình kẹp bookmark máy ảnh ở trang đầu và định dùng một bookmark khác, sợ hỏng mất em máy ảnh  Vậy mà sau đó mình đọc xong trong một buổi tối nên cũng chưa cần dùng tới bookmark luôn. Nội dung cuốn sách không quá ma mị như mình tưởng tượng, vì bản thân mình kì vọng hơi cao vào yếu tố này nên bị hẫng chứ thực tế là sách được tiết chế vừa phải, không có các chi tiết thừa hay rườm rà, các câu chuyện chủ chốt cũng thú vị và nhiều chi tiết cần suy ngẫm. Đặc biệt là dịch giả Như Nữ dịch tác phẩm rất mượt mà các bạn ạ. Tuy mình không đặc biệt thích nhân vật nào trong truyện nhưng mỗi nhân vật thì đều có nét thú vị riêng. Với nhân vật chính, Katsuragi Mayu, cô gái 23 tuổi, đang sống từng ngày mà trốn tránh niềm đam mê nhiếp ảnh của bản thân, luôn dằn vặt về một lỗi lầm đáng trách trong quá khứ, thì mình đánh giá cao sự nhạy bén trong cách sắp xếp sự việc của cô, và mình cho rằng đây là một cô bạn thông minh cho dù cô ấy có hơi vụng về khi giao tiếp (một chút, vì từ bé người ta đã ít nói đó). Madori Akitaka là nhân vật thứ 2 và có khá nhiều đất trong truyện, anh là người cùng với Mayu khám phá những điều chưa tỏ được ẩn giấu trong tiệm ảnh cũ này, từ đó tìm ra lời giải cho những khúc mắc bên trong Mayu và bản thân mình. Anh chàng này làm mình khâm phục vì lòng nhân ái và sự nhẫn nhịn, sự nhẫn nhịn xuất phát từ tấm lòng hiếu thảo với người bà và cả người bố gia trưởng, mặc cho nỗi băn khoăn cào xé trong lòng mình. Những chàng trai hiếu thảo luôn được mình đánh giá cao ^^ Lòng nhân ái thì thể hiện bằng việc hỗ trợ Mayu dọn dẹp khi thấy cô xoay vần cùng cả đống việc ngổn ngang. Mà ban đầu cứ nghĩ Mayu và Akitaka là một đôi chứ, cũng trai tài gái sắc lắm mà, không ngờ còn một nhân vật nữa tài hơn, sắc hơn đang giấu mặt. Nagano Rui. Thực tế mình không phải ham trai đẹp lắm đâu, nhưng xuyên suốt cả câu chuyện mình cứ nghĩ nếu dựng thành phim thì Akitaka được điểm 10/10 chắc Rui phải được 11/10. Nhân vật này không trực tiếp xuất hiện nhưng qua những câu chuyện cũ, những bước tìm lại điều bấy lâu bị giấu kín đã khắc họa một Rui rất dị biệt nhưng mang nét đẹp tài tử cuốn hút ( đối với mình). Nhưng mình thắc mắc một điều là Rui đẹp vậy mà lại biết cách khiến người khác không chú ý về mình nữa thì lạ ha, thường những người như vậy cứ nghĩ hay được chú ý chứ nhỉ. Bà Fujiko Nishiura. Vì câu chuyên diễn biến khi bà Fujiko đã mất nên hình ảnh bà chỉ xuất hiện thông qua các câu chuyện, nhưng minh vẫn cảm nhận được sự nhân ái và gần gũi của bà. Bìa cuối sách có một câu khiến mình luôn nghĩ về bà Fujiko : “Cuộc đời của một con người không dễ dàng bị đảo lộn. Những cuộc đời đã bị đảo lộn rồi một ngày sẽ bình yên trở lại”. Cảm giác như hình ảnh bà đứng trước tiệm ảnh cũ, mỉm cười và nói như vậy đó. À mà phải rồi, đọc cuốn này tớ thấy thích bạn mèo trắng Yona trong truyện ^^ ngoài ra thì các nhân vật khác cũng có chỗ đứng và khiến người đọc phải suy ngẫm theo một cách riêng nhưng mình xin dừng ở đây thôi để các bạn cùng đọc cuốn sách này nhé. Đọc xong cuốn này và tìm hiểu về tác giả thì mới biết còn có cuốn “Tiệm sách cũ Biburia” cũng được đánh giá tốt. Mình sẽ tiếp tục đọc sách của Mikami En lần nữa. Nếu đọc xong thì đây là cuốn thứ 3 trong list những cuốn sách về cửa tiệm hay cửa hiệu nào đó rồi. Vui quá ạ. Nhưng mình có chút thắc mắc nhờ các bạn giải đáp với. Ở phần giới thiệu của cuốn Hiệu ảnh này ghi là “ Tiện sách cũ Biburia” nhưng mình tìm trên tiki, cùng tác giả thi chỉ có “Tiệm sách cũ Biblia” thôi. Vậy khác biệt là do đâu, mà 2 bộ này vẫn là 1 phải không ạ? Cảm ơn các bạn. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ nha. Trang Nguyen *** Một chú mèo trắng cắm đầu ăn cơm trong chiếc đĩa để trên sàn nhà. Có tiếng bước chân vọng xuống từ tầng hai. Chú mèo lơ đễnh ngẩng đầu lên, một người đàn ông mảnh khảnh đang bước về phía cuối hành lang. Nó biết người đàn ông này không có gì phải đề phòng. Có vẻ hôm nay người đàn ông ấy cũng mặc một bộ đồ màu lam, thế nhưng dưới đôi mắt mèo thì chẳng thể nhìn rõ được màu sắc gì cả. Sau tiếng bước chân, có tiếng nước chảy vọng ra. Với loài mèo, con người là loài sinh vật sống bằng chân. Từ cử động của ngón và tiếng động do ngón chân tạo ra là có thể đoán được người đó đang làm gì, đang có tâm trạng gì. Người đàn ông vẫn di chuyển nhanh thoăn thoắt như mọi khi. Anh nhanh chóng thu dọn chén đĩa trên bàn, rửa nồi niêu đã sử dụng. Anh định nhân tiện dọn nốt đĩa thức ăn mèo. Này này, mèo tôi đây còn chưa ăn xong đâu đấy - mèo kêu lên kháng nghị. Thế là người đàn ông bèn vuốt ve lưng mèo như thể xin lỗi. Ngay sau đó, người đàn ông đi ra khỏi nhà theo lối cổng sau. Ngôi nhà yên tĩnh trở lại và chú mèo thong dong ăn nốt bữa cơm của mình. Hiện tại, chỉ có mình mèo và người đàn ông đó sống trong ngôi nhà này. Cũng có thời khá nhiều người sống ở đây hơn, ngôi nhà rất náo nhiệt, nhưng chẳng biết tự khi nào họ đều dần đi khỏi. Mèo không biết người đàn ông luôn ra khỏi nhà vào khung giờ nhất định ấy đi đâu và làm gì. Dù sao nó cũng chẳng có hứng thú biết điều đó. Để lại chiếc đĩa trống không, mèo trắng lách mình qua khe cửa nhỏ. Nhanh chóng băng qua đoạn đường còn mờ tối ẩm ướt, nó chạy về hướng có ánh nắng mặt trời. Ngôi nhà mà mèo đang ở đã cũ nát, khác hẳn những ngôi nhà quanh đó. Nghe nói, từ xa xưa, trước khi mèo tới, đây là nơi sinh sống của rất nhiều người. Phía bên phải có tiếng sóng biển, còn bên trái có tiếng bước chân con người. Chú mèo không muốn lại gần một người xa lạ, nhưng ra gần biển thì cũng chỉ có gió lạnh mà thôi. Cuối cùng, nó quyết định rẽ sang bên trái. Nơi đây là một hòn đảo được biển bao bọc bốn phía. Mèo đi lướt qua vô số người, nhưng trong mắt mèo, nó chỉ thấy toàn chân là chân. Chân to có, chân nhỏ có, chân không nhìn thấy ngón, chân chỉ nhìn thấy ngón... Và trong cái thời tiết giá lạnh như hiện nay thì những đôi giày dày và ấm là nổi bật nhất. Mèo dừng bước chân để tránh một người đang đi từ phía đằng trước tiến lại. Người này to lớn lạ thường, chân của anh ta cũng được bọc trong một đôi giày màu đen. Tiếng bước chân của người này trầm đục một cách kỳ lạ. Cộp, cộp, cộp. Tiếng bước chân truyền tải tâm trạng mịt mùng u ám như sương mù ban đêm, thứ tiếng mà thỉnh thoảng mèo lại nghe thấy. Người đàn ông sống cùng mèo đôi lúc cũng có bước đi như thế. Có lẽ vì mèo dừng lại nên người đàn ông to lớn đối diện hiểu lầm. Anh ta ngồi xổm xuống và duỗi tay ra. Có vẻ anh ta định vuốt ve mèo. Tóc trên đầu anh ta ngắn hơn người khác một chút. Và không chỉ mỗi chân, mà cả người anh ta được bao bọc trong một bộ đồ màu đen khiến anh ta trông như một cái bóng. Mèo chạy vụt đi. Nó ghét nhất là bị con người nhìn chằm chằm hay chạm vào lông mình. Cuối con đường ấy là một sườn dốc lớn. Số chân người trong tầm mắt mèo tăng lên. Mèo cố gắng không lại gần họ mà bước đi trên làn đường rải sỏi. Xuống hết con dốc, mèo cảm thấy mùi của thủy triều nồng đậm trong không khí. Thật hiếm khi có ít người ở đó như thế, mặc dù vậy, thỉnh thoảng nó cũng gặp rắc rối khi bị mấy đứa trẻ đuổi bắt. Trong lúc đang tìm một chỗ có nhiều ánh nắng, mèo đã đặt chân đến một cây cầu lớn dẫn ra khỏi đảo. Nó cũng nhận thức được một cách mơ hồ rằng, cây cầu này do con người tạo ra. Những loài động vật khác chẳng thể làm ra được thứ như thế này. Mèo vẫn luôn sống trên mảnh đất này và chưa bao giờ qua bên kia cây cầu. Con người hoàn toàn không gượng ép nó, nhưng nó vẫn ở lại, bởi tự nó cảm thấy mảnh đất này là nơi dành cho mình. Có những thứ vô hình đã gắn kết mèo với hòn đảo này. Rất nhiều người đã băng qua cây cầu lớn bắc qua biển để đến với nơi đây. Trong họ cũng có điều gì đó gắn kết bản thân với hòn đảo này. Mèo nghiêng tai lắng nghe, hầu hết những bước chân ấy đều rất nhẹ nhàng, dễ chịu, mang theo tâm tình vui vẻ, tươi sáng. Chỉ có người đàn ông có bước chân trầm đục lúc nãy là khác. Trong một ngày, mèo cũng chẳng gặp mấy người như thế. Cộp, cộp. Đột nhiên, mèo dựng thẳng đôi tai. Không ngờ hôm nay mèo có thể gặp tới người thứ hai như thế, quả là chuyện hiếm. Lần này là một cô gái nhỏ nhắn hơn người lúc nãy. Cô gái ấy mặc trang phục màu trắng bồng bềnh tròn trịa, nhưng mèo biết cơ thể thực của cô gái khá mảnh mai. Trông cô gái này chẳng có gì là nổi bật cả, giống như cô đã cố tình làm cho mình trở nên như vậy. Cô gái có vẻ đang mang tâm trạng u ám. Mèo có cảm giác như đã gặp cô gái này trước đây, hoặc có lẽ mèo biết một người giống cô ấy. Nó ngồi trên thảm sỏi đã ngấm đủ ánh mặt trời, dõi theo chủ nhân của tiếng bước chân kia. Còn cô gái, cô ấy hoàn toàn không nhận ra sự tồn tại của mèo ta. Rất có thể mèo sẽ gặp lại cô gái. Bởi không hiểu sao, những người có bước chân nặng nề, trầm đục thường hay đi đến ngôi nhà cũ mà mèo đang sống. Dường như có một thứ vô hình nào đó đã gắn kết họ với ngôi nhà ấy. Giống như ngoài nơi ấy ra họ không còn nơi nào khác để đi vậy. ... Mời các bạn đón đọc Hiệu Ảnh Nishiura ở Enoshima của tác giả Mikami En.
Bão Ngầm
Tiểu thuyết này đặc biệt dành tặng đồng đội tôi, những người lính can trường trên mặt trận đấu tranh phòng chống ma túy. Bước ra từ cuộc chiến đấu thầm lặng, như chất kháng thể của xã hội chống lại những kẻ gieo rắc cái chết, bao gian truân trên đường đời mà chúng tôi đã trải nghiệm bằng mồ hôi và cả máu xương, đã biến thành nguồn chất liệu sinh động cho cuốn tiểu thuyết này.  Một câu chuyện do lính viết từ những gì đã trải, đã thấy, đã cảm trong hiện thực cuộc đấu tranh sinh tử với tội phạm. Hành trình lần tìm ra các sào huyệt ma túy, chui sâu leo cao trong các đường dây, tổ chức tội phạm... của người lính, hẳn không phải một cuộc dạo chơi. Trên con đường vào trận, mỗi bước đi của họ đều nằm giữa lằn ranh sống và chết, vinh quang hay hèn nhát. Bởi, tội phạm không chỉ đón họ bằng những loạt đạn đồng khi chống trả, mà còn giăng đầy những chiếc cạm bọc nhung.  Hiểm nguy hay cám dỗ, đều có đặc tính của "quỳ tím", là liều thuốc thử đặc hiệu nhất giúp soi tỏ bản chất con người. Không thiếu những người xông xáo khi chiến đấu, nhưng lại chịu thúc thủ rồi gục ngã trước tiền và quyền. Khi ấy, những lớp vỏ rụng lả tả, bộc lộ những bộ mặt trần không son phấn. Để rồi chính họ lại cản trở bước chân đồng đội trong hành trình truy tìm thủ phạm. Nghiệt ngã là bản chất của mọi cuộc chiến. Trong mặt trận này, tính khốc liệt không chỉ hiện ra qua tiếng súng bắn trả của tội phạm, mà còn quyết liệt trong bản thân mỗi con người khi đứng trước những lựa chọn. Sự chuyển hóa giữa tốt và xấu, thiện với ác, trung thực hay đểu giả... diễn ra không ngừng nghỉ. Cuối cùng, quy luật đào thải sẽ cất những tiếng lạnh lùng, làm bắn ra khỏi quỹ đạo vận động những gì là giả tạo và lạc hậu, nghiền nát trong vòng quay luật đời mọi tráo trở, lừa lọc và phản bội... Cùng lúc ấy, nó tôn vinh những giá trị nhân văn, những mầm thiện trồi lên từ thực địa cuộc xung đột chính - tà. *** Mưa rả rích cả tuần, da trời thâm bầm xám ngoét như môi thằng nghiện. Đồi lúp xúp, đìu hiu trong chiều lạnh. Những rạch chè dài hun hút đến vô tận. Lẻ loi những thân cọ chơ vơ, tán lá ủ dột trĩu xuống vì nước, chốc chốc lại rùng rùng, đành đạch khi có dọn gió dưới thung thổi hất lên. Gió mang tối xuống nhanh. Trên con đường dẫn vào xóm Chè trơn như mỡ đổ, thấp thoáng bóng một người đàn bà chửa vượt mặt đang dò dẫm từng bước. Khối bụng lặc lè nhắc nhở chị ta thận trọng, phòng những cú sảy chân bất ngờ. Trên lưng, chiếc ba lô to như chực kéo người ngửa về sau. Ì ạch leo đến giữa đồi, thốt nhiên người đàn bà ngồi sụp xuống vạt cỏ. Thán khí từ phổi tranh đường ra qua mũi, qua mồm. Hơi thở dốc qua đi, chị chống tay vào cỏ, định đứng dậy đi tiếp. Đường về nhà còn xa, phải qua hai mỏm đồi thế này mới tới, mà trời đã nhập nhoạng. Chợt từ đâu le lói một cơn đau, âm ỉ ở vùng lưng dưới. “Chắc do đi bộ quãng đường xa, khó chịu nên em đạp?” Người đàn bà nhìn xuống bụng, cười mỉm rồi quyết định ngồi lại, hy vọng một lát cơn đau sẽ dịu đi. Luồn trong lớp áo mưa, đôi tay người mẹ xoa xoa, vỗ về đứa con trong bụng, thì thào: “Ngủ ngoan, bé bỏng của mẹ!”. Mưa vẫn quất vào mặt, tóc bết dính, dẫn nước luồn lách qua cổ, qua nách, xuống bụng. Người đàn bà run lên bên con đường nhạt nhòa trong mưa. Như là tự nhủ phải về được đến nhà trước khi tối hẳn, chị quả quyết đứng dậy nhưng rồi lại khuỵu xuống. Một cơn đau mới lại đến. Đau thốc từ sau ra trước, tưng tức nơi cửa mình. Hôm trước khám thai, bác sỹ bảo phải hai tuần nữa mới sinh cơ mà. Chị nhìn xuống bụng vẻ nghi hoặc, lo lắng rồi lại như tự trấn an mình. Nhưng sao vẫn đau, đau liên tục, đau theo nhịp vài phút một lần, như thể bị động thai. “Đừng, đừng con ơi, ở lại với mẹ, mẹ chỉ còn mình con!”, trong cơn vật vã trên vệ cỏ, lùng bùng giãy giụa giữa manh áo đi mưa, người đàn bà vẫn lảm nhảm những tiếng cầu xin… Cơn đau mỗi lúc một mau hơn, lan nhanh từ vùng lưng dưới hông ra trước. Bụng dưới quặn lên vì co thắt, thúc đẩy. Háng ẩm ướt, hai bên đùi phía trong bỗng lép nhép. Sinh khí tứa ra. - Thôi chết! Hay là chuyển dạ? Trời ơi! Ánh mắt thất thần vụt nhìn xuống dưới, rồi dáo dác nhìn lên, nhìn ngang, như thể tìm một bóng người, một chỗ trú chân. - Có ai không? Cứu tôi với? - Tiếng kêu lạc giọng vì sợ hãi của người sắp làm mẹ. - Cứu, cứu với! - Cứu! Tiếng kêu yếu dần, tan vào vô vọng. Giờ này, trời này, chỉ một mình chị giữa mênh mông đồng đất. Trong xa xăm, đâu như có tiếng chó sủa tối vọng về. Trên đầu mây vần vũ, bồng bềnh tiền sử. Trời càng lúc càng tối, vạt chè, tán cọ thoáng chốc đã biến sang màu đen dị hình. Từ đất đã vọng lên tiếng ri ri nỉ non của dế. Chỉ có một mình! Tiếng khóc tức tưởi bật ra từ lồng ngực người mẹ trẻ, không chỉ vì cơn đau dứt ruột, mà ai oán như tủi phận, xót xa đến cùng cực. “Đàn ông đi biển có đôi, đàn bà vượt cạn mồ côi một mình”, câu ấy cũng chỉ nói đến lúc lâm bồn bình thường của người đàn bà, ở thời khắc họ cho cuộc đời những sinh linh mới mẻ. Đằng này, chỉ một mình chị cô độc tuyệt đối giữa bạt ngàn chè cọ, Không lúc nào ranh giới sống chết của cả hai mẹ con có thể mỏng manh hơn. Quay cuồng trong cơn đau, vòng xoáy màu máu đảo lộn rút con ngươi hướng lên trên, miệng há lưỡi thò khỏi cung răng. Đúng lúc ấy, như ảo giác, rõ ràng trong làn mưa bay từ nền trời đen ngòm, có ánh mắt đang nhìn xuống chị. Ánh mắt ấy lạ lắm, như thúc chị gắng lên, như chỉ dẫn cho chị cách thoát khỏi tình huống nguy hiểm hiện tại. Nó còn như van vỉ, cầu xin… Đăm đắm vào cái nhìn tưởng tượng, chợt như có lửa bùng lên trong cặp mắt người đàn bà. Một cái gì đó thật dữ dội, quyết liệt đã trỗi dậy. Bản năng giống cái bảo vệ những đứa con của mình ư? Không rõ. Chỉ thấy người mẹ trở dạ ấy ngồi nhổm lên giữa bê bết bùn đất, rướn hết thị lực nhìn xung quanh. Kia rồi, lờ mờ bóng cọ. Cắn môi bật máu, người mẹ nén đau lết cặp mông trượt trên mặt đất từng chút, từng chút một. Cọ già, tán phủ rộng rãi như cái lọng của tự nhiên. Dưới gốc, một đống tàu lá khô vương vãi. Cũng không xa là đống cành chè dân đốn vụ trước còn vất ngổn ngang. Củi chè bền lửa, chỉ tội mưa gió ướt sũng thế này làm sao mà cháy được. Người đàn bà khó nhọc vơ lấy nắm cành chất vội thành bếp, nhét mấy tàu cọ già xuống dưới, rồi bàn tay run rẩy móc ra một hộp diêm, quýnh quáng quẹt lửa châm. Khói um, mù mịt, chị nén đau ra sức thổi. Hì hục, rồi ánh lửa cũng bùng lên, ma quái nhảy nhót. Mồ hôi vẫn rịn ra theo từng cơn co thắt. Người mẹ trẻ lập cập mở chiếc ba lô, lấy mảnh áo mưa kê dưới mông, giật toang chiếc quần lót để chuẩn bị cho thời khắc vượt cạn, sẵn sàng đón đứa con bé bỏng chào đời bằng chính đôi bàn tay mình. Vũ trụ chao đảo, người đàn bà quằn quại hét từng tiếng đứt quãng: - Hùng ơi, khôn thiêng thì về đây cứu em, cứu con. Nối đời của anh đây, của dòng họ Vũ đây! Lửa vẫn cháy rần rật trên mấy tàu cọ. Nước ối đã ra đẫm ướt mảnh nylon. Nỗi sợ cạn dịch thoáng vụt qua trong đầu, người mẹ nghiến chặt hàm răng rặn mạnh. - Ra đi con, ra đi, mẹ xin con, Hùng ơi, cứu em, con ơi, thương mẹ… Ra đi, rồi mai mình về bà ngoại. - Người mẹ trẻ gào lên trong từng đợt co thắt, háng dang rộng, tay phải nắm chặt con dao ăn. Nửa giờ vật vã, kết bằng một tiếng rú váng động. Bên dưới, đầu trẻ đã nhô ra khỏi ống sinh. Người mẹ dồn toàn sức cho cơn co bóp cuối cùng. “Oe, oe”, bé trai dây rốn lòng thòng đã trườn khỏi lòng mẹ đi ra, cơn đau vụt tắt, chỉ còn những âm ỉ, giật giật khó tả miền bụng dưới. Phản xạ đón con xảy đến, khi tiếng khóc đầu tiên lọt vào tai người mẹ. Chị đảo chiều nằm, quay xuống cứa dao cắt rốn hài nhi rồi ấp nhanh bé vào lòng cùng mớ quần áo vương vãi. Bầu vú như tự tìm đến miệng trẻ. Không rõ sữa đã về chưa, chị bóp mạnh. Tiếng khóc ngằn ngặt làm người mẹ nhở đến đống lửa gần tàn. Bàn tay quờ quạng chất thêm mấy tàu cọ khô vào. Lửa lại in hình nhảy múa trong đôi mắt đang sáng rực vì sung sướng của người mẹ. Đêm nhích dần về sáng, người mẹ trùm cả đống quần áo đắp cho con. Khi hài nhi thiếp vào giấc ngủ, chị cũng nằm vật ra, miên man. Thời gian bỗng đảo chiều chuyển động, kéo quá khứ hiện hình đầy ắp trong cơn mê mệt. Những tiếng nổ chát chúa như nện vào óc hôm nao, bỗng rền vang trong ký ức… Ngoài tán lá, mưa cũng đã ngớt. Thi thoảng có giọt nước rơi xuống đống lá khô, lộp bộp như tiếng gà mổ ngô. Đống lửa leo lét tàn dần nhưng cũng đủ giữ cho hai mẹ con họ qua đêm thu mưa gió trên triền đồi heo hút ấy.   - - -   Ánh trăng non đầu tháng, không đủ cường lực để xuyên thủng lớp giáp của rừng. Dòng người lầm lũi chuyển động theo sau ánh đèn pin loang loáng. Câm lặng. Chỉ có tiếng lách cách khe khẽ của kim khí chạm nhau. Sau cơn mưa ban chiều, muỗi tủa ra từ bụi, u u rờn rợn. Thảng hoặc, có con gì thấy động vụt bỏ chạy. Những tiếng xột xoạt bất ngờ phát ra từ bụi rậm tối ngòm, làm tốp người khựng lại, dò xét rồi lại ngập ngừng bước tiếp. Cây gậy trên tay khua khua, đập đập về phía trước, sang hai bên đường mòn, để tránh những cú táp bất ngờ của con cạp nong, hổ mang nào đấy. Đêm xuống, rừng đen ngòm như một cái bẫy khổng lồ, chờ đợi những cái sa chân. Trên đầu, những búi dây leo quềnh quàng, búa xua xuống trước trán. Trong đấy, biết đâu chẳng có những con lục xà đang thả mình… Hơn ba giờ đi bộ, lõi của rừng đã ở lại phía sau. Những tán lá ken trên đầu bớt dày. Từ ống nhòm đêm, đập vào mắt là một thung lũng hẹp, tạo thành giữa ba khe núi, như cái miệng nơm úp. Mờ mờ hiện ra một con đường mòn hình con rắn, đang ngoằn ngoèo trườn đi giữa các khe núi. Phía sau đã là vành đai biên giới. Tin trinh sát báo về, độ quá nửa đêm sẽ có cuộc giao hàng lớn ở đây. Người cầm đèn pin đi đầu nói nhỏ: “Nghỉ tại chỗ mười phút, tranh thủ hội ý!”. Tốp người tản ra, vặn vẹo đỡ mỏi rồi vạch quần xả nước ồ ồ. Sảng khoái. Có tiếng hỏi nhỏ: - Thuốc lá đâu? Tao điếu, mày! Những đốm lửa lập tức được chuyền nhau, lập lòe đom đóm. - Muốn chết à? Tắt thuốc ngay, ngu thế! Ngồi cả xuống đi! - Tiếng quát khẽ nhưng đầy uy lực. Những điếu thuốc nhả vội khỏi mồm, rơi xuống đất. Bàn chân di di. - Lát nữa, chúng sẽ giao nhận hàng dưới thung lũng. Bây giờ thằng Linh phụ trách tổ 1 vận động ra phục hai bên cánh gà của khe núi kia. Tổ 2 thằng Tuấn chỉ huy. Tuấn “đen” đâu? Mày dẫn năm anh em lùi lại rừng ngay, ém sát đường mòn. Thấy chúng đi qua, cứ để yên cho qua. Khi ta gọi hàng, bọn nó sẽ chạy tán loạn. Nếu qua chỗ chúng mày thì xông ra mà bắt, đừng để sổng thằng nào. Tổ 3 triển khai đội hình bao vây toàn bộ khu vực giao hàng. Hai chục khẩu AK tập trung ở đây, tạo thế gọng kìm, đợi chúng “chập” với nhau sẽ phang. - Nếu nó “bật” lại thì ta được phép bắn hạ chứ? - Nghe này! Cả hai nhóm không dưới mười thằng đâu, đều có AK, lựu đạn, nên chúng mày phải hết sức cẩn thận. Mặc áo giáp vào! Tìm thân cây to mà nấp! Đầu tiên ta sẽ gọi hàng, nếu chúng bắn lại thì cứ hạ súng tầm thấp mà “tiu” què chân cho anh. Vạn bất đắc dĩ mới phải tiêu diệt, vì tao cần những cái lưỡi còn cử động để khai. Lưu ý lúc bắn tạo góc bốn mươi lăm độ, kẻo phang nhầm vào nhau. Quy ước là bắn điểm xạ ba viên một. Tao hô xung phong, chúng mày đồng loạt xông ra nhé. Chú ý vồ tay, đừng để chúng kịp rút chốt lựu đạn. Còn anh chưa lao ra, cấm thằng nào manh động rời khỏi chỗ nấp. Nghiêm cấm nổ súng khi tao chưa có lệnh! Có tiếng rì rầm bàn tán các tình huống có thể xảy ra lúc vào trận. - Đội trưởng Thắng ơi em ở tổ nào anh? - Có tiếng con gái cất lên. - Con Hoa, mày ở tổ anh, phụ trách liên lạc giữa các tổ bằng bộ đàm. Tý nữa mà có đàn bà thì mày khám! - Nhớ chọc rồi ngoáy cho kỹ em gái, nhỡ nó giấu hàng! - Ai đó chêm vào rồi cười khùng khục. - Vớ vẩn! Vào việc đi! Tiếng lên đạn loạch xoạch. Những bóng đen tản ra rất nhanh, trả lại cho rừng cái yên tĩnh vốn có. Chiều hôm trước. Toàn “khỉ đốm” ngả người lim dim trên ghế phụ chiếc Lexus 470. Xe đang lao vùn vụt trên đường, trực chỉ hướng biên giới, chợt điện thoại đổ chuông. Một số máy lạ hoắc gọi tới, có số đuôi 919. Gã ngạc nhiên, số này chỉ có ông Trùm biết. Nhầm máy chăng? Gã uể oải cầm máy lên nghe. Mất toi cơn ngủ, khí nóng nghe như đã bốc tới mặt. Giọng nói chuẩn bị sẵng. Bỗng, đầu dây kia có tiếng rất quen: - Nghe thôi, đừng hỏi! Sếp dặn mày cẩn thận. Bọn “cớm”1 đang làm mạnh. Lúc giao hàng đề phòng bọn A Tú chơi đểu. Có gì tao gọi lại. Máy tắt phụt, đột ngột như lúc gọi đến. Toàn ngả người ra sau ngẫm ngợi. Mấy đứa ngồi sau hỏi với lên: - Ai gọi đấy anh? - Câm đi! Đéo phải việc chúng mày! - Toàn sẵng giọng. Cuộc gọi bất ngờ khiến gã thấy bất an. Nỗi lo sợ không còn là điều gì mơ hồ nữa. Bởi gã đang ngồi trên chiếc xe chứa cả tạ “trắng”2, khác nào kẻ đang ôm bom. Gã biết đi chuyến này quá nguy hiểm. Đang cao điểm, Công an ra quân rầm rộ. Thằng nào ho he thò mặt ra hãy coi chừng. Mới rồi mấy đường dây lớn trong nước vừa bị hốt trọn, dắt díu nhau vào trại cả trăm thằng, chờ ngày ra tòa mà nhận án tử. Thành thử, hàng khan lắm, đội giá cao vọt. Khách đói hàng kêu như vạc, nhao nhao tìm nguồn cung. Bán ra lúc này một vốn trăm lời. Toàn vào nghề đã có “thâm niên”. Nghề này đã thò chân vào thì khó mà rút ra. Khó, vì chỉ có nó mới thỏa mãn cơn khát tiền trong mỗi con người. Mỗi bánh kiếm lãi cả trăm triệu. Ban đầu, nhiều đứa bước chân vào nghề có thể là do những khó khăn, quẫn bách trong cuộc sống. Nhưng vào cuộc rồi, thấy tiền thật dễ kiếm, thì việc kiếm tiền trở thành đam mê lúc nào chẳng hay. Tiền có sức mạnh vạn năng, mang những giấc mơ sang giàu về trên mặt đất. Khi đã phè phỡn vì nhiều tiền, bước vào đẳng cấp của những kẻ sống trên tiền, thì chẳng còn cái phanh nào tồn tại trong đời nữa. Có những thằng nhiều tiền quá chẳng biết làm gì, bèn chôn cả hầm tiền dưới đất. Đêm nào cũng lén xuống thơ thẩn chơi với tiền. Chơi say mê, chơi chân thành. Chúng nó bảo, âm thanh vĩ đại nhất trên cuộc đời này là tiếng sột soạt của tiền khi mang ra đếm. Nó ngân lên những giai điệu mà những kẻ không tiền không thể hiểu được. Một điều nữa khiến những kẻ đã “ngồi trên thuyền” không thể nhảy xuống, buộc phải đi đến cùng. Đó là vì luật chơi. Đợt trước, có thằng sợ chết gặp lão Trùm để thoái thác việc vận chuyển. Lão hỏi “sao lại thôi, thôi dễ thế á?” rồi đưa mắt cho mấy thằng hộ sát xúm vào tẩn cho nó một trận thừa sống thiếu chết, về sau Toàn không gặp lại thằng ấy nữa. Có lẽ xác nó đã dưới đáy sông hay mục ruỗng ở một xó xỉnh nào đó rồi. Và gã hiểu ra, đã cùng tổ chức, cùng đánh quả, ăn chia với nhau, biết hết chiêu thức và các mối làm ăn. Nay tự dưng bảo rút, rút là rút thế nào? Ai cho rút mà rút? Luật làm ăn, chỉ cần có ý định rút lui, là đã tự điền tên mình vào sổ khai tử. Bởi về nguyên tắc, không thể để thằng ất ơ nào đó nắm thông tin về mình mà lại không làm việc cho mình. Để nó sống, tức là thông tin có nguy cơ bị lộ lọt. Nên đã bỏ việc, thì phải cho nó im lặng vĩnh viễn. Lão Trùm chỉ cho lính tạm nghỉ ngơi, mỗi khi dính cao điểm bị “cớm” đánh mạnh. Nhưng khi yên ắng, phải trở lại với công việc. Đừng dại dột nghĩ đến chuyện “rửa tay gác kiếm”. Cuối cùng thì những thằng như gã đều có suy nghĩ giống nhau, đằng nào tay cũng đã “nhúng chàm”, buôn một bánh khác nào nghìn bánh. “Mẩu số chung” đều là tai chỉ kịp nghe một tiếng “bùm”, hay thấy nhói đau nơi bắp tay khi mũi tiêm thuốc độc chọc vào, rồi tất cả thành hư vô. Thành thử, kệ mẹ cho số phận đưa đẩy, dẫn dắt. Mời bạn đón đọc Bão Ngầm của tác giả Đào Trung Hiếu.
Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 18: Đài Phát Thanh Gà Giò - Paul Jacques Bonzon
Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** Sáng thứ tư đó Tidou còn đang ngủ vùi thì giọng của má lôi hắn ra khỏi giấc mộng: - Có thư đó, anh Hai lười ! Bà bước vào phòng, lá thư trên tay. Má không có thói quen đem thư tới tận giường, nên hắn vô cùng ngạc nhiên. Bà giải thích: - Thư gởi cho Sáu người bạn, vì vậy má nghĩ nên đánh thức con dậy... Mà ngủ như vậy cũng đủ lắm rồi ! Nhưng Tidou có nghe thêm được câu nào đâu. Hắn an tọa trên giường, đầu óc tỉnh rụi, vội vã xé phong bì. Từ mấy tháng nay không có một “đặc vụ” quái nào hết, nên chi lá thư gởi cho cả nhóm này chứa đầy hứa hẹn. Ngó thấy gương  mặt hắn sáng lên, không ai có thể nghi ngờ được nữa: chắc chắn lá thư báo một vụ hết xảy ! - Coi bộ có tin vui hả ? - Bà mẹ vừa nói vừa nở một nụ cười. Rồi bà trở lại công việc thường ngày. Không phải bà thờ ơ với những gì mà đứa con trai bà say sưa, trái lại là khác, nhưng từ lâu bà đã quen giữ thái độ kín đáo đối với mọi cuộc phiêu lưu của băng Chữ Thập Hung tiếng tăm lừng lẫy này rồi ! Bà cũng biết Tidou sẽ kể cho bà nghe khi nào hắn thấy thích hợp. Về phần bà, điều đó tựa như phần nào tôn trọng bí mật nhà nghề của con. Choàng vội áo quần, Tidou băng qua gian bếp như một cơn lốc. Hắn thấy thằng em Géo đang ngồi nhấm nháp ly sôcôla. -  Mày nên tự hào về thằng anh mày, Géo à ! Hắn vừa nói vừa vỗ vào lưng em làm thằng nhỏ suýt sặc. Géo không có thời giờ phản đối hay hỏi han thêm: nó còn đang lấy lại hơi thở thì thằng anh đã khuất dạng trong phòng khách, con Kafi  chạy theo bén gót. Kafi chỉ là một con chó bẹc-giê đầu sói. Mặc dù nó thông minh ăn đứt mấy nhân vật đi bốn chân khác, nó vẫn chưa biết nói tiếng người. Nhưng sáng hôm nay, khi giương mắt nhìn cậu chủ đang vội vội vàng vàng quay ổ số điện thoại thì đôi mắt to lanh lợi cùng cái đuôi bông lau xù tuyệt đẹp của nó rõ ràng đang lên tiếng: “Tớ thấy có điều mới lạ rồi, sắp có chuyện đùa vui tới nơi rồi, nhưng có sớm sủa gì đâu ! Nè Tidou, tớ bằng lòng cậu đó !" - Alô, Mady ? - Tidou nói ngay khi bắt được liên lạc. – Tớ không kéo cậu dậy nửa chừng chớ ?... Không, không có gì đáng lo đâu, trái lại là khác... Có một bức thư gởi cho tất cả bọn mình. Nhưng tớ không xì thêm đâu. .. Không !... Có chớ, có chớ... 45 phút nữa ở căn cứ nghe, được không ? Cậu chuyển tin giùm tớ nghe. Rồi, sẽ gặp lại. Mady là cô gái duy nhứt trong băng. Với mái tóc nâu  rất đẹp, đôi mắt đen láy và nụ cười rạng rỡ, cô dư sức bỏ túi hết cả đám bạn. Nhưng điều mà tất cả bọn chúng thừa nhận là Thủ Lãnh được “cưng” hơn hết. Không đứa nào ganh tị cả. Nhưng nào ai ngăn nổi tụi nó lâu lâu chêm vài câu kiểu như: "Ê…một đôi tình... tang" hay làm bộ thăm hỏi: "Nè, chừng nào cử hành tang... í lộn, hôn lễ!". Noi tóm lại, không có gì dáng ngạc nhiên khi Tidou gọi cho Mady trước tiên. Sau đó, cô gái sẽ "chuyển" tiếp cho hắn, như lời hắn nhờ. Nói cách khác: cô sẽ gọi điện cho Tondu, Tondu gọi cho Guille, Guille gọi cho Bistèque, Bistèque gọi cho Gnafron. Rồi cứ như vậy mà 45 phút sau, Sáu người bạn gặp mặt ở căn cứ như dự kiến. Vào lúc này thì chúng đang ngồi trên những két gỗ lật úp lại làm ghế, tất cả tụi nó, trừ Thủ Lãnh đang đứng giữa, con Kafi nằm dài dưới chân hắn. Hắn lôi lá  thư trong túi ra, thong thả mở tờ giấy, lấy làm khoan khoái khi đám bạn đang nôn nóng chờ. Cuối cùng thì hắn cũng phải đọc cho tụi nó nghe: "Sáu người bạn thân mến, Đài phát thanh FM Gà Giò (nguyên bản là chữ Gones- tiếng địa phương Lyon dùng để chỉ tuổi đang lớn, như “gà giò” của Nam Bộ, ở đây có thể hiểu là đài phát thanh dành cho tuổi teen) do tôi điều hành rất vinh dự mời mấy bạn tham gia chương trình phát sóng của chúng tôi, có tên là "Hành lang không thể tưởng". ... Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 18: Đài Phát Thanh Gà Giò của tác giả Paul Jacques Bonzon.
Người Bạn Đồng Hành Tập 10: Pin Nguyên Tử - Paul Jacques Bonzon
Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** Sau những cuộc phiêu lưu dồn dập mãi đến hôm nay Tidou mới được rảnh rang. Coi, hắn vừa định nhấc xác khỏi nhà rủ Mady dạo chơi thì điện thoại reo inh ỏi. Hắn thở dài rồi nhấc máy: -    A lô, xin lỗi ai gọi đó ? Bên kia đầu dây là một người quen rất đỗi ngọt ngào: -   Mady dây, cả đám đang đợi bạn ở căn cứ địa -   Trời đất, giờ này mà tập trung dưới chân dốc Kẻ Cướp ? -    Có chuyện... -    Hừm, tôi tính kéo bạn lên đồi Nữ Thần thư giãn thần kinh chút xíu, ai dè. .. Mady cười khúc khích: -    Kỳ này không phải đặc vụ đâu mà lo, chúng ta có khách phương xa tìm tới cho nên không được vắng mặt bất kỳ ai trong lục thám tử. -    Khách nào vậy ? -    Bộ quên Corget rồi sao ? -    Chúa ơi, Corget, một trong các thành vièn nhóm NHỮNG TẢNG ĐÁ LỚN, tiền thân của Sáu Người Bạn Đồng Hành, nó về đây nghỉ hè hả ? -    Vâng, thưa Thủ Lãnh, đáng tiếc là Corget dọn nhà khỏi Lyon nên chúng ta mất đi một thám tử, bằng không phải gọi là Bảy Ngưòi Bạn Đồng Hành mới đúng. Ừm... -   …. -    Mỗi lần tái ngộ Corget, mình lại nhớ ngày nào dưỡng bịnh thiếu hồng huyết cầu ở Reillanette. Quê bạn thật tuyệt vời, ánh nắng phương nam đã làm mình hết căn bịnh hiểm nghèo ấy. Hồi đó bạn và Corget dẫn phái đoàn đi thăm mình, nhớ chứ ? Tidou xúc động đến lặng người. Hắn run giọng: -    Nhớ, hồi đó tụi mình còn trẻ con lắm, vừa chân ướt chân ráo đến Reillanette đã lao vào bao nhiêu là chuyện cực kỳ kinh khủng... -    Corget cũng đang cần ôn lại kỷ niệm mái nhà xưa của bạn đó. Sao, bạn đã sẵn sàng đến căn cứ bây giờ chưa ? -    Sẵn sàng. Mady cúp máy. Cô bé làm sao hiểu rằng Tidou chưa thể... sẵn sàng. Trời ạ, hắn còn phải bồi hồi ít nhất là nửa giờ đồng hồ để tư duy chuyện ngày xưa ngày xửa chứ sao.   *** Khi bước vào sào huyệt dưới chân dốc Kẻ Cướp, Tidou mới được thông báo một tin động trời. Giữa đám đông bè bạn xúm xít, Corget vẫn hùng dũng như ngày nào, tuyên bố chắc nịch: -   Tôi đến đây một công hai việc: Thứ nhất, thăm các chiến hữu giang hồ cũ của NHỮNG TẢNG ĐÁ LỚN. Thứ hai, thay mặt cho một người bạn nối khố của Tiđou ở vùng Reillanette là Frédéric Frigoulet, xin mời các bạn quá bộ đến Reillanette. Mady chưng hửng: -    Cậu Frédéric, con trai chủ lò bánh mì, em ruột vua xe đạp Baba hở ? Corget cười bí ẩn: -    Đúng vậy, trên đường đến Lyon tôi có ghé qua làng quê Reillanette. Ở đây tôi đã gặp Fréđéric và gia đình. Cu cậu mừng húm ngồi nhắc những ngày bạn chữa bịnh khiến ai nấy nôn nao. Cuối cùng, cả nhà Frédéric nhờ tôi đánh tiếng mời các bạn về thăm cố xứ. Họ đã chuẩn bị đón tiếp chu đáo. Tidou nín thinh. Reillanette là "nhà quê" riêng của hắn, là nơi hắn cùng gia đình rời bỏ để lên Lyon sinh sống thế mà bạn bè trong nhóm vẫn hằng coi đây như quê hương thứ hai của chúng mới lạ lùng. Chúng cũng biết nhớ thằng Frédéric, biết làm quen với ông hoàng cuarơ nước Pháp Baba, biết thèm vườn nho ngọt lịm tuổi ấu thơ Tidou từng trèo hái. Thủ lãnh mơ màng: -    Chúng ta sắp về cố xứ sao ? -    Không còn gì nữa để nghi ngờ, chúng ta đang rảnh rỗi sau một niên học bù đầu. Đây là khoảng thời gian “xả xú bắp” thích hợp nhất . Guille gục gặc: -    Tình xưa nghĩa cũ mà Tidou, tao nhất trí với Corget làm một chuyến viễn du. Gnafron quàng cổ quái cẩu âu yếm: -    Dĩ nhiên trong cuộc hành trình phải cổ chó Kafi, đúng không ? Bistèque chắt lưỡi: -    Mọi thứ bất ngờ quá, đoạn đường từ đây đến Rcillanclte dài tới 250 cây số... Tondu gạt phăng, nó tung bêrê lên cao rồi đưa đầu hứng một cách ngon lành: -    Đặc vụ xuyên nước Pháp mà tụi mình còn phóng xe ga được nói gì hai ba trăm cày số lẻ tẻ. Hay là mày bị "ông già" bắt đi giao xúc xích trong mùa hè ? ... Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 10: Pin Nguyên Tử của tác giả Paul Jacques Bonzon.