Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Torinoko City - Thành Phố Bị Bỏ Rơi

Tiểu thuyết “Torinoko City” được viết dựa trên nguyên tác nhạc phẩm vocaloid cùng tên của nhà sản xuất nhạc thiên tài 40mP, với chất giọng staccato Hatsune Miku, thể hiện cảm giác lẻ loi trong căng thẳng của các thiếu niên trên con đường trưởng thành. Đặc biệt, sách được tặng kèm 03 bookmark hình nhân vật và 01 postcard trong tất cả các cuốn. Ba cô gái cùng tên Asuka với ba tính cách, hoàn cảnh và nỗi khổ tâm khác nhau, vì cùng ngẫu nhiên tiếp xúc với trang web Torinoko City mà gặp nhau và cùng bước vào một chuyến phiêu lưu đầy lạ lùng để tìm về hiện thực, để đối diện với cảm xúc chân thật của bản thân mình. Câu chuyện dành cho những con người cô đơn trên con đường tìm kiếm lẽ sống của bản thân mình, để nhìn lại và biết rằng mình thực sự không hề cô độc. *** [REVIEW] TORINOKO - THÀNH PHỐ BỊ BỎ RƠI   Nếu bạn thích 1 thể loại nhạc nào đó nhưng trong lớp không ai giống bạn  Nếu bạn từng thấy lạc lõng giữa chốn bạn bè nhưng vẫn phải ra vẻ thích thú những câu chuyện mà mình đếch quan tâm  Nếu bạn từng phân vân không biết ước mơ, mục đích sống của mình là gì  Nếu bạn đang chịu áp lực học hành, mọi nỗ lực không mang lại kết quả hay bị người phía sau đuổi vượt  Bạn Muốn ở 1 mình...? Muốn có người chia sẻ...và nhiều điều khác bạn sẽ thấy có thể giống vs mình trong cuốn truyện này  Đây sẽ có thể là lựa chọn phù hợp vs bạn  Mình đã đọc và phải thốt lên rằng Ô sao Koide Asuka giống mình thế  Như là tìm được 1 sự đồng cảm trong những trang giấy, mình rất thích Torinoko City - Thành Phố Bị Bỏ Rơi  Cre: Thanh Xuân  *** “Chào mọi người”. Koide Asuka là một học sinh cấp ba cực kì bình thường. Mỗi ngày cô đều theo thói quen tới trường mà không thèm quan tâm gì tới mấy chuyện thích hay ghét đi học. “Asuka~, hôm qua cậu có coi phim đó không?”. Vừa vào lớp, tụi bạn chơi chung nhóm liền bắt chuyện với cô như mọi khi. Họ đang nói về bộ phim tình cảm ngọt ngào, bi lụy, hơi gay cấn, và có nam thần tượng đang là chủ đề bàn tán thủ vai chính. Thật ra, Asuka không hứng thú lắm với phim tình cảm, nhưng ngày nào cũng xem để tám chuyện với đám bạn xung quanh. “Coi rồi, coi rồi!”. Asuka giống như diễn viên, bắt đầu diễn vai “Nữ sinh trung học Koide Asuka”. Để hòa hợp với sự hưng phấn của tụi bạn, Asuka nói tới các tình tiết từ nội dung phim đã xem trước đó mà cô cho rằng sẽ nhận được sự đồng cảm của họ. Chẳng biết từ lúc nào mà tụi bạn chung nhóm đã tụ lại, càng lúc càng đông trong chốc lát nhờ bộ phim ngay trước giờ vào học. Mặc dù cô cảm thấy sai sai với tình cảnh này của mình, nhưng trong lòng mọi người chắc ai cũng thấy bình thường, thành ra ngày nào cũng như ngày nào. Tan học, cô đi karaoke cùng với nhóm bạn. Hôm nay là ngày trước kỳ thi nên câu lạc bộ được nghỉ sinh hoạt, cả nhóm có thể ra ngoài chơi. Mặc dù trong lòng Asuka nghĩ rằng đáng lẽ sắp tới kỳ thi thì phải về nhà ôn bài ngay chứ, nhưng nhóm bạn lại cư xử như thể đi chơi là chuyện tất nhiên. Nếu vậy thì nghỉ sinh hoạt câu lạc bộ để làm gì cơ chứ? Biết rằng nói ra sẽ làm tăng thêm kẻ thù nên cô chỉ nghĩ thầm chứ tuyệt đối không thốt ra lời. Tới quán karaoke, Asuka tiếp tục diễn vai nữ sinh bình thường ở đây. Là một nhóm toàn mấy đứa chạy theo trào lưu, tất cả liền nhào vào các bài hát của ca sĩ thần tượng nghe nói có thứ hạng cao, toàn mấy bài kích động hưng phấn. Cả đám đều đứng lên vừa nhảy vừa hát, dù thấy bầu không khí quái đản, Asuka cũng vừa nhảy vừa hát cho giống họ. Thật chả hứng với mấy bài dạng này… Chuyện này không thể nói với ai được. Asuka cũng rất thích hát và nghe nhạc. Gần đây cô hay nghe nhạc vocaloid. Tuy nhiên, cô đoán đám bạn sẽ chẳng thể hiểu về thể loại đó đâu. Mặc dù rất thích các xu hướng trên tạp chí hay tivi, nhưng họ lại đánh đồng tất cả những gì thịnh hành trên mạng với otaku, cô đã chứng kiến nhiều lần những tình huống đáng khinh, ngu ngốc, gây bực mình như thế rồi. Asuka hoàn toàn không có ý định nói ra chuyện mình thích nhạc vocaloid, và tất nhiên cũng không hát các ca khúc đó trong quán karaoke. Cô hát, nhảy, náo loạn theo nhóm bạn dù không thấy có gì thú vị. Asuka cho rằng như vậy mới là nữ sinh cấp ba. Bài hát chủ đề bộ phim bàn tán lúc sáng vừa nổi lên. Một đứa con gái từ tốn lấy micro và bắt đầu hát. Đương nhiên Asuka cũng hát được, nhưng cô chỉ yên lặng lắng nghe. Cô gái đang hát là fan bự của nhân vật chính phim đó. Mọi người trong nhóm đều ngầm hiểu bài hát này là của cô ta. Cả nhóm khen ngợi sau khi cô bạn hát xong. “Hay quá ~!”. “Giọng cậu trong thật đó~”. Nếu là nịnh nọt giả dối thì cỡ nào cũng bay ra khỏi miệng được. Thật lòng, mình muốn về nhà nghỉ ngơi hơn là làm mấy việc vô vị thế này. Ở nhà mình sẽ ngồi trước máy tính, vừa kết thêm bạn bè trên mạng qua Twitter, vừa dạo quanh trang Video ca nhạc. Trong lúc Asuka đang nghĩ vậy thì buổi karaoke kết thúc, cả nhóm rộn lên định đi cà phê. Muốn về nhà quá! Không thể nói câu đó được. Lúc Asuka đang phiền não thì có khoảng nửa thành viên trong nhóm đòi về, nên cô liền nhập hội phe về nhà. Chia tay với phe cà phê rồi đi chung phe về nhà tới nhà ga. “Aa! Vui thật!”. Có ai đó lẩm bẩm ra vẻ vui lắm, rồi cuộc trò chuyện về buổi karaoke ấy mau chóng nổ ra. “Nhưng mà này……”. Lúc mấy chuyện vui sắp kết thúc thì lại có ai đó phàn nàn về một đứa bên phe cà phê. Bắt đầu rồi. Đại hội kể xấu. Asuka cực ghét mấy chuyện thế này. Thế nhưng, cô cho rằng mấy đứa nói xấu chỉ là xả stress cho chính mình thôi, họ nói ra miệng sự bất mãn như vậy để giảm bớt căng thẳng. Và có lẽ bên phe đi cà phê cũng đang mở đại hội kể xấu phe này y vậy. Chuyện như cơm bữa mà. Asuka nghĩ để diễn vai nữ sinh trung học, thì chuyện này là không thể tránh khỏi. Cô vừa gật đầu đồng ý vô thưởng vô phạt, vừa trả lời cầm chừng. “Bái bai nha!”. Chia tay với đám bạn đi xe điện khác, cô lên xe cùng với đứa bạn duy nhất học cùng cô từ hồi cấp hai - Kajita Sayuki. Sayuki là kiểu người điềm đạm, mặc dù không biết rõ cô bạn đang nghĩ gì nhưng cô có ấn tượng cô ấy không hại ai cả. “Asuka, cậu hát hay lắm”. Sayuki bắt chuyện như đang nhớ lại buổi karaoke. Bản thân Asuka có tự tin với hát hò, tới mức cô đã tính lúc nào đó tự hát rồi đăng video lên mạng. Vậy nên cô tự nhiên thấy vui khi được khen hát hay. “Cảm ơn cậu. Sayuki đúng là cô bé luôn tử tế mà”. Tự nhiên Asuka lại phát ngôn như người bề trên, nhưng Sayuki ngượng ngùng, vui vẻ chấp nhận một cách ngoan ngoãn. Cô thấy Sayuki thế này thật dễ thương. Sayuki được rất nhiều nam sinh hâm mộ mặc dù trong trường không hề nổi bật. Có lẽ cô ấy tạo cảm giác khiến cho người khác muốn bảo vệ chăng? “Sayuki có gì phiền não không?” Asuka đột nhiên hỏi. Vì Sayuki trông có vẻ rất hạnh phúc. “Phiền não? Chắc là kỳ thi từ tuần sau”. Cô ấy vừa nói vậy vừa lấy sách tiếng Anh ra. Sayuki học yếu môn tiếng Anh. Nên chắc thi tiếng Anh là đau khổ với cô ấy. Sao thấy phiền não của cô ấy vụn vặt thế, ra vẻ đáng ghét một chút rồi đó. “Vậy à?”. Vừa tự hỏi vừa tự trả lời không chút hứng thú, rồi Asuka cũng lấy sách ra. Cô giả vờ như đang ôn bài và thở dài. Cũng không phải Asaka đang phiền não điều gì. Chỉ là, cô có cảm giác mãnh liệt rằng bản thân diễn vai nữ sinh cấp ba quá khác với bản thân thật sự của mình. Bởi vậy, bạn bè ở trường không phải là bạn thật sự. Cô không hề nói chuyện thật tâm, cũng không hề cảm nhận được đó là nơi thuộc về mình. Nói vậy cũng không có nghĩa là cô thân thiết với gia đình. Bố thì bận rộn, không mấy khi ở nhà. Mẹ làm y tá, đi ca đêm suốt. Chị gái điềm đạm đang học cao đẳng, mục tiêu thành giáo viên mẫu giáo, chị Minori. Dù lâu lâu cả gia đình ra ngoài ăn cơm, nhưng vì cả bố và mẹ đều bận rộn, nên hầu như chưa từng đi đâu du lịch cùng nhau cả. “Đâu mới là nơi mình thuộc về?…”. Asuka lẩm bẩm thật nhỏ giọng để Sayuki bên cạnh không thể nghe được. “Hả? Cậu nói gì?”. Sayuki thiệt tình hỏi lại. “Không có gì đâu”. Asuka trưng ra vẻ mặt như không có chuyện gì, mở sách ra. Về đến nhà, như mọi khi, cả bố và mẹ đều không ở nhà. Thêm nữa, hình như nay chị đi làm thêm nên vắng nhà luôn. Cô biết rằng phải học bài cho tuần sau thi. Tuy nhiên, hễ không có ánh mắt giám sát thì khó mà tự ép mình vào khuôn khổ được. Asuka không thay đồ mà ngồi ngay vào máy tính, mở trang video ca nhạc vẫn thường xem lên. Video của 40mP mà cô yêu thích đã lọt vào bảng xếp hạng rồi. Torinoko city. Cô lật đật bấm play video. Âm thanh tinh tinh tinh như tiếng đàn mộc cầm vang lên, chỉ với đoạn dạo đầu thôi mà Asuka thấy cả tâm hồn bị cuốn vào bài hát. – Nơi nào đó chỉ có mình tôi bị bỏ lại Một thế giới không âm thanh, một thế giới nhân tạo – Lời bài hát vang ầm ầm trong đầu cô. “Là mình…”. Bỗng nhiên cô lẩm bẩm ra tiếng. Nơi thuộc về mình là đâu? Rốt cuộc mình là ai? Đối với Asuka ngày nào cũng nghĩ đến điều đó thì không thể không nghĩ rằng bài hát này giống như đang hát về mình vậy. Cô liền mở Twitter lên. Tên tài khoản trên mạng là Toriko. Cô dùng Tori trong Asuka, Ko trong Koide, lấy Toriko làm tên*. Asuka tweet ngay. “Torinoko city của 40mP, hết sẩy…”. Bạn trên Twitter trả lời* lại liền. “Mộc cầm hả? Những ầm thanh giống thế nghe hay ha!”. Bạn bè trả lời tới tấp, cô vừa nói chuyện với bạn vừa suy nghĩ. Đương nhiên là cô cũng thích nhạc bài hát này. Thế nhưng, trên hết, lời bài hát mới là thứ vang dội mạnh mẽ trong trái tim Asuka. Cô không thể truyền đạt hết điều ấy cho bạn bè trên này được. Ở nơi này, Asuka cũng gặm nhấm nỗi cô độc không ai hiểu được bản thân mình. “Lời bài hát này, giống như nói về tôi vậy…”. Asuka vừa tweet lên là có hồi âm liền. “Xin lỗi vì tôi không phải người theo dõi bạn. Mình đâu thể cho bất cứ ai thấy bản thân thật sự được, đúng không?”. Là một người lạ. Icon là lá phong rất đẹp. Tên viết là maple. Asuka ấn nút reply lại ngay. “Tự dưng tôi thấy dường như chỉ mình mình bị bỏ rơi…”. Cô ấn nút reply một cách mạnh bạo. Asuka thấp thỏm trong lúc chờ maple trả lời lại. Lẽ nào là người có thể đồng cảm với mình. Vì lần đầu tiên bộc lộ bản chất thật với người khác, nên cô bất an không biết người ta có chấp nhận không. Ping. Lát sau, âm thanh thông báo có hồi âm vang lên. Cô vội refresh màn hình Twitter. “Lời bài hát Torinoko city khiến cho tôi phải suy nghĩ rất nhiều… dù chỉ 100 từ mà tôi không hiểu được lý do mình sống là gì. Tôi cứ không ngừng suy nghĩ rằng phải chăng là không có ai cần tới mình nữa”. Khoảnh khắc đọc câu trả lời đó, Asuka cảm thấy như đã gặp được thêm một chính mình nữa. Cô liền theo dõi maple, rồi gửi hồi âm. “Mình xin theo dõi bạn! Mình rất đồng cảm với câu trả lời. Hãy làm bạn với nhau nhé!”. Tay cô run run do hồi hộp. Đột nhiên làm thân vậy có bị ghét không ta? Lỡ bị chặn luôn thì làm sao. Cô toàn nghĩ tới những chuyện tiêu cực, nhưng lập tức có âm thanh thông báo được theo dõi lại. Ting. Chắc là maple trả lời. Asuka hơi phấn khích refresh màn hình Twitter. Cứ thế, từ ngày nói chuyện qua lại với nhau lần đầu tiên, Asuka và maple thành bạn thân trong nháy mắt. Hai người gọi nhau là “Toriko” và “Mei*”, kể cho nhau những suy nghĩ hằng ngày trên Twitter. Hình như maple là nam sinh cấp ba. Có điều Asuka cảm thấy cậu ấy thân quen tới mức không nghĩ cậu ấy thuộc dạng người giống với tụi nam sinh cùng tuổi khác. Hằng ngày cuộc sống trường học cứ bình bình, về nhà rồi vừa nói chuyện với maple trên Twitter, vừa xem video đã thành việc thường ngày của Asuka. Và, trái với việc quen được một người bạn có thể nói chuyện thực lòng, việc học ở trường lại dần dần trở nên khổ ải. Ở trường thì đóng vai Koide Asuka, ở nhà thì đóng vai Asuka, dù chỉ qua Twitter thôi nhưng khi để ý thì cô không ngừng nghĩ rằng phải chăng chỉ có Asuka diễn nhân vật Toriko giao tiếp với maple mới là chính mình thật sự. “Mei có ghét trường học không? Tớ khổ sở do không có người nào hiểu được con người thật của mình đó…”. Asuka nhiều lần than thở mấy câu yếu đuối với maple. “Tớ cũng thấy phải tạo ra một tớ khác ở trường đó. Tớ chỉ nói chuyện thực lòng được với mình Toriko thôi đấy”. Một câu thế thôi của maple đã khiến cô vui mừng khó tả. Mỗi lần chuông thông báo có tin hồi âm mới của Twitter vang lên là trống ngực Asuka đập rộn ràng. Một ngày nọ, bố và mẹ mặt mày nghiêm trọng, ngồi đối diện nhau trên bàn ăn cơm. “Bé Mi, bé A, lại đây chút được không?”. Mẹ cùng lúc gọi chị Minori và Asuka. Cho tới giờ Asuka vẫn chán ghét cách gọi bằng cái tên âu yếm này, nhưng cô vẫn ngồi xuống mặc cho mẹ gọi như vậy. Cả nhà im lặng một lúc. Nhìn bố có vẻ sưng sỉa sao đó, còn mẹ trông có vẻ đau khổ. “Mẹ, mẹ sao vậy?”. Minori lên tiếng. Xem xét bầu không khí bất ổn thì dĩ nhiên cô phải lo lắng cho mẹ rồi. “Ừm… thật ra là…”. Mẹ thông báo một chuyện động trời. “Bố tụi con, có người khác”. Một câu thôi, khiến cho cả Minori lẫn Asuka đều bất động như đóng băng. Không thốt ra được lời nào. Người khác?? Đã gần năm mươi tuổi rồi mà có người khác sao?… Asuka chuyển ánh mắt sang nhìn bố, bố vẫn tỏ vẻ bất cần thường trực. “Bố tụi con, hình như đã có người khác từ lâu, nhưng giờ người đó đã có em bé rồi”. Cô không nghe ra trong giọng mẹ có chút tình cảm nào. Mẹ nói chuyện giống như kể chuyện của người khác vậy, Asuka hoang mang bởi lời nói không truyền tải sự tức giận hay nỗi đau buồn nào của mẹ. “Hả, khoan đã. Bố, chuyện là sao!”. Bất giác Asuka hung hăng nói. Minori vẫn cúi đầu. Mẹ chặn Asuka lại, thở ra và nói. “Bố mẹ tính ly hôn”. Vai của Minori run run. Chắc chị đang khóc? Asuka đứng dậy, hét lên. “Bố! Bố lăng nhăng sao? Bố ngoại tình sao? Người ta đã có có bầu rồi sao… Phải vậy không!?”. Asuka tức điên lên, tay đập mạnh xuống bàn phát ra một tiếng rầm thật lớn. “Asuka, bình tĩnh đi con…”. Mẹ khuyên, nhưng cô lại thấy tức giận với cả bộ dạng đó của mẹ. “Sao mẹ lại bình tĩnh như không vậy? Gia đình mình sắp tan nát đó? Bố đã phản bội cả gia đình đó? Mẹ, vậy cũng được hả!?”. Lời nói bạt mạng tuôn ra phó mặc cho cơn nóng giận. Mẹ chạm vào người Asuka, nói. “Phải. Nhưng mẹ đã nhận ra chuyện này từ lâu rồi, mẹ chỉ giả bộ không thấy thôi. Tại mẹ muốn gia đình bốn người mình sống cùng nhau, vì bé Mi và bé A”. Mẹ nói tiếp. “Nhưng mà. Giờ người ta đã có em bé rồi, đâu còn cách nào khác nữa? Mẹ không thể ngó lơ giết chết một sinh mệnh mới hình thành được”. Asuka hiểu những gì mẹ nói, nhưng quả thật cô không thể chịu đựng được sự vô lý đó. “Bố! Bố thấy người đó quan trọng hơn tụi con sao? Đúng không!”. Asuka đứng bên cạnh, lắc người ông. Biểu cảm của ông vẫn không thay đổi, cứ im lặng suốt nãy giờ. Asuka tiếp tục chỉ trích một lúc nữa, nhưng cả bố và mẹ đều không nói gì thêm. “Tồi tệ… Con ghét cả bố và mẹ!”. Asuka nói vậy rồi giam mình trong phòng. Cô có thể nghe tiếng khóc của Minori, tiếng mẹ an ủi chị. Asuka tức tối không chịu được, ném liên tục máy cuốn tạp chí trong phòng ra cửa. Và, mấy ngày sau căn nhà chẳng khác gì chiến trường. Do bố bận rộn công việc thường không ở nhà nên cô ít giáp mặt ông, nhưng việc người bố máu mủ làm chuyện trái luân thường đạo lý, thậm chí còn có con, rồi vứt bỏ gia đình để kết hôn với nhân tình, đối với Asuka tất cả đều là việc làm bẩn thỉu. Không thể chấp nhận ở chung với bố dưới một mái nhà được. Dường như bố mẹ đang tranh cãi gì đó trong chuyện ly hôn. Tiền bồi thường… Tiền cấp dưỡng… Phân chia tài sản… Ngày nào ở trong phòng, cô cũng bịt tai lại vậy mà vẫn nghe được mấy từ đó. Đối với Asuka, chúng chẳng khác gì địa ngục. “Kịch như thế này là đủ rồi đó…”. Asuka nghe nhạc hằng ngày để làm mình phân tâm. Thật ra cô muốn chơi máy tính, nhưng do bố mẹ ở phòng khách - nơi có máy tính, nên dù có muốn cũng không thể được. Cốc cốc cốc. Có tiếng gõ cửa phòng. Asuka không trả lời, Minori liền lên tiếng. “Asuka… chị vào được không?”. Asuka lững thững đứng dậy, mở cửa. Tiếng của bố mẹ văng vẳng sau lưng Minori. Không hẳn là họ la lối nhau, nhưng cũng không phải trò chuyện vui vẻ, nên ngay khi Minori bước vào phòng là Asuka đóng cửa ngay lập tức. “Gì?”. Asuka nói cộc lốc. Cô cũng không định giận cá chém thớt lên Minori, tuy nhiên dù thế nào thì cô cũng không thể nói chuyện bình thường được. “Asuka… Nếu bố mẹ ly hôn, em sẽ ở với ai?”. Đột nhiên Asuka nhận thức rõ hiện thực bởi câu hỏi của Minori, phút chốc trước mắt cô tối sầm. Đúng rồi. Cả nhà không thể ở chung với nhau như thế này được nữa. Bố mẹ ly hôn tức là bắt đầu cuộc sống mới. “Em chưa nghĩ tới… Chị thì sao?”. Asuka hỏi thử Minori vậy thôi, chứ vốn cô đã ra quyết định rồi, vì cô không thể gạt bỏ cảm giác chán ghét với bố, nằm mơ cũng không có chuyện sống chung với bố hay bà nhân tình kia. “Chắc là ở với mẹ. Nếu được ở chung với Asuka luôn thì tốt quá”. Minori luôn luôn hiền lành. Asuka chỉ biết lo bản thân đau khổ thôi, còn Minori lại lo nghĩ cho cả mẹ và Asuka luôn. “Ừ. Em cũng muốn ở cùng với mẹ và chị”. Asuka ngoan ngoãn đáp. Sau đó Asuka với chị bàn bạc về chuyện tương lai một hồi lâu. Cô nghe từ Minori cả mấy chuyện chưa biết tới do bịt tai suốt từ đó tới giờ. Nghe nói ông ngoại tình gần ba năm nay rồi. Tính ra là từ hồi Asuka học cấp hai. Hai đứa con gái bước vào tuổi dậy thì, dần dần rời xa người bố. Mẹ làm y tá, kiếm tiền nhiều hơn bố làm nhân viên văn phòng, có vẻ như bố ôm ấp mặc cảm thấp kém hơn so với mẹ. Đúng lúc đó, ông đã say nắng người phụ nữ nhỏ hơn những mười tám tuổi làm cùng công ty. “Nhỏ hơn mười tám tuổi.”. Asuka thất kinh. Tuổi bà đó không chênh với tuổi Minori là mấy, nói gì tới tuổi bố. “Kinh thật…”. Asuka nói thẳng. Minori nhăn nhó mặt mày. Mặc dù người chị hiền lành tuyệt đối sẽ không nói ra miệng, nhưng chắc chắn trong lòng chị cũng cảm nhận giống Asuka. “Tụi mình chắc sẽ dọn ra khỏi nhà này”. Asuka lẩm bẩm, Minori khẽ gật đầu. “Mẹ đã nói là định dọn nhà đó. Mẹ đang tìm căn hộ trong khu vực Asuka có thể đi học ở trường hiện tại…”. Thông tin của Minori đã dồn Asuka vào thế buộc phải chấp nhận hiện thực đáng ghét này. “Chào các cậu…”. Asuka vui tươi bước vào lớp. Một ngày như mọi ngày lại bắt đầu. Cô nhập vai Koide Asuka - nữ sinh cấp ba. Dẫu trong nhà đang có nguy cơ gia đình ly tán do chuyện ngoại tình của bố, nhưng cô không để ai khác trong trường biết chuyện đó, một chút cũng không. “Này, cái phim hôm qua á…”. Tụi bạn cùng nhóm bắt đầu tụ lại bàn về phim. Asuka thường ngày vẫn luôn xem, nhưng mấy ngày này cô không thể ở phòng khách được nên cũng không xem tivi. Do không biết gì nên cô chuyên tâm giữ vai trò thính giả im lặng. Xung quanh đang hưng phấn bởi cảnh tình yêu nóng bỏng của bộ phim, cô ngồi nghe mà chẳng khác gì tra tấn. “Asuka nè, cậu có nghe không?”. Asuka đang bực mình bởi những chuyện nhạt thếch đó, nên cô hằn học trả lời khi có người hỏi. “Xin lỗi, tớ không xem nên không biết”. Nói rồi liền đi về chỗ ngồi. Asuka vẫn nghe được tiếng thì thầm bàn tán chuyện gì đó của nhóm bạn ở sau lưng. Chắc là đang nói xấu cô rồi. Trước giờ cô luôn lo sợ việc đó, nhưng hôm nay không hứng thú quan tâm nữa. Không ai biết được bản chất thật sự của mình. Chỉ có mỗi suy nghĩ đó càng lúc càng hằn sâu trong đầu. Lâu rồi mới không có ai ở nhà lúc Asuka về. Theo như Minori nói, bố mẹ đã quyết định chính thức ly dị, mẹ đang tìm nhà mới. Hình như Minori cũng không biết gì về bố hết. Có lẽ ông sắp sửa dọn ra khỏi nhà rồi. Trong căn phòng mờ tối vắng lặng, Asuka không bật đèn mà tới ngồi trước máy tính. Tinh. Máy tính khởi động, ánh sáng hắt vào Asuka. Vừa đăng nhập vào Twitter, cô thấy một loạt tin nhắn. “Toriko, sao vậy?”. “Cậu khỏe không?”. Kể từ ngày phát hiện chuyện bố ngoại tình, lâu rồi cô không lên Twitter, nên mọi người nhắn tin hỏi thăm. “A, lâu quá mới twitter lại!”. Asuka tweet lên, nhiều bạn bè trả lời lại liền. “Toriko! Sống lại rồi à! Mừng quá!”. “Ầy, lâu quá!”. Nhất quyết phải trả lời lại những giọng điệu vui vẻ kia mới được. Ting. Chuông lại báo có hồi âm mới. Cô kiểm tra ngay lập tức, là từ maple. “Toriko! Tớ lo lắm đó! Cậu khỏe không?” Câu văn không khác gì với những người khác, vậy mà Asuka lại đặc biệt vui vẻ. “Mei! Tớ vẫn khỏe. Tại có nhiều chuyện khó khăn thôi!”. Cô mới trả lời xong thì vang lên âm thanh thông báo khác với mọi khi. Một tin nhắn DM* được gửi tới. Cô vội mở ra thì thấy là maple gửi. “Cậu có chuyện gì à? Không sao chứ? Nếu khó nói trên dòng thời gian, thì hãy gửi DM cho tớ nhé?”. Asuka ngỡ ngàng. Cô dự định cư xử một cách bình thường trên Twitter. Do Asuka tweet với mức độ như mọi khi, nên các bạn khác xem ra có vẻ an tâm rồi. Dù bị truy hỏi sâu hơn cũng khó mà trả lời, cái cảm xúc méo mó ‘không ai hiểu được mình hết’ luôn đeo bám dai dẳng một cách xấu xí trong tim cô. Chính vì thế, tin nhắn DM của maple làm cô thấy dường như tư tưởng đó của mình đã bị cậu nhìn thấu, tâm trạng bỗng phức tạp vừa vui vừa sợ. Asuka đột nhiên suy tư, truy cập trang video ca nhạc rồi mở bài Torinoko city lên. Nhạc dạo vui tai bắt đầu vang lên. Asuka thẫn thờ xem video mà không nghĩ gì cả cho tới khi bài hát kết thúc. – Điểm giao nhau giữa lừa dối và sự thực. Cảm giác bế tắc tưởng như bóp nghẹt hơi thở. Tại sao tôi lại sống? Hãy cho tôi biết trong vòng 100 từ – Ca từ bóp nghẹt trái tim Asuka. Đúng lúc này đây cô muốn hỏi ai đó để xác thực ý nghĩa cuộc sống của mình. Mình sẽ nói với maple. Chẳng biết sao Asuka nghĩ vậy. Cồ liền gửi tin DM cho cậu. Chuyện bố mẹ ly hôn. Chuyện cô không thể cho bạn bè trong trường thấy bản thân thật sự của mình. Có một bản thân khác luôn coi thường tụi bạn ngốc nghếch. Chuyện cô luôn cảm thấy tách biệt với mọi người. Và chính cô cũng không hiểu rõ bản thân mình luôn. Asuka gửi tin DM làm bốn lần. Maple có hiểu nỗi lòng của mình không nhỉ? Dù hơi bất an nhưng Asuka có tự tin lạ lùng chắc chắn maple sẽ chấp nhận cô. Thời gian lặng lẽ trôi qua. Asuka nhắm mắt, nhẩm đi nhẩm lại lời bài hát Torinoko City trong đầu. Tâm hồn bình tĩnh một cách kì lạ. Ting. Chuông báo có DM mới. Là maple hồi âm lại. Cô chầm chậm mở mắt, hít sâu. Tay cầm chuột hơi run. Là sợ…sao? Asuka mở tin nhắn, những từ ngữ đồng cảm và khích lệ từ maple nhảy ra. “Vậy à? Khổ cho cậu rồi. Từ giờ về sau cậu tính sao? Có ổn không? Tớ cũng đóng giả bản thân khi ở trường. Toriko cũng vậy nhỉ?…”. Cô tiếp tục đọc, thấy maple thổ lộ cả cảm xúc trong việc học ở trường. Chuyện có thêm một bản thân khác đang nhìn chính mình đùa giỡn với bạn bè bằng con mắt lạnh lùng. Dù gặp khó khăn cũng không thể kể với bạn bè. Nói thật lòng có gì đó thật xấu hổ. Nhưng nhờ có đam mê với một việc, nên cậu đang âm thầm nỗ lực để đạt được nó. Asuka vừa đọc tin nhắn của maple, vừa gật gật đầu. Cô đọc đi đọc lại nhiều lần như để sưởi ấm tận nơi sâu thẳm dưới đáy con tim. Cứ thế, hai đứa nhắn tin trực tiếp qua lại với nhau một hồi, theo đề nghị của maple cô quyết định tạo tài khoản riêng tư khác với tài khoản Twitter hiện tại. Không theo dõi, không tương tác với ai hết. Chỉ hai đứa theo dõi nhau thôi, tạo ra một nơi có thể để lộ bản tính thật sự của mình. Asuka rất vui. Có người hiểu được mình rồi. Tâm trạng như thể đã tìm được nơi trú ẩn vậy. – Nơi nào đó chỉ mình tôi bị bỏ lại Một thế giới không sắc màu một thế giới trong mơ Có thể vứt bỏ vết thương lòng Một mình không thể làm được Tôi muốn bạn ở bên tôi – Mời các bạn đón đọc Torinoko City - Thành Phố Bị Bỏ Rơi của tác giả Shano & Hồng Trần (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vỡ Tổ
Lời giới thiệu của bản tiếng Anh Cuốn tiểu thuyết ngắn Vỡ tổ (tựa tiếng Anh là The Broken Nest hay Nashtanir theo tiếng Bengal) của Rabindranath Tagore ra mắt lần đầu năm 1901 và được đăng nhiều kì trên tờ tạp chí Bharāti [1] . Năm 1909, ông đưa truyện này vào một tập truyện ngắn chọn lọc, và năm 1926, lần đầu tiên Vỡ tổ có mặt trong tuyển tập chính thức các tiểu thuyết ngắn của ông. Bản này là bản dịch tiếng Anh đầu tiên của tác phẩm. Việc The Broken Nest chậm đến với bạn đọc phương Tây như vậy vừa lạ lùng vừa đáng tiếc, vì đây là một trong những tác phẩm hư cấu hay nhất của Tagore. Cuốn truyện lại càng nổi bật hơn nữa vì lần đầu tiên nó xuất hiện bằng tiếng Bengal tại một thời điểm mà truyện ngắn hiện đại như một hình thức văn học đặt ra những câu hỏi sâu xa mà không nhất thiết đưa ra câu trả lời, một thể loại tương đối mới cả ở Ấn Độ lẫn phương Tây. Trong lúc đó, tiếng Bengal đang có nguy cơ thất bại trong cuộc đấu tranh để được thừa nhận như một phương tiện ngữ ngôn văn học nghệ thuật nghiêm túc. Giải thích lí do cho cuộc đấu tranh này và vai trò của Tagore trong đó sẽ cho thấy rõ ý nghĩa văn học và lịch sử của The Broken Nest . Vào đầu thế kỉ 19, văn xuôi Bengal thực ra không tồn tại. Tiếng Bengal chắc chắn là ngôn ngữ nói hằng ngày ở Bengal, nhưng nó không được xem trọng cả trong đời sống lẫn văn học. Người Thổ Nhĩ Kì xâm lược Ấn Độ vào cuối thế kỉ 12 đã mang theo họ tiếng Ba Tư, mà người Ấn thấy dễ học hơn tiếng Ả Rập. Cho đến năm 1834, khi tiếng Anh chính thức thay thế, tiếng Ba Tư vẫn là ngôn ngữ chính của chính phủ và bộ máy hành chính. Thực ra sau năm 1800, Sankrit, tổ tiên của tất cả các ngôn ngữ Ấn Âu, không có đối thủ nào đáng kể ở Bengal, trở thành một phương tiện có uy tín để biểu đạt văn học, triết học và tôn giáo. Tuy nhiên năm 1801, một nhà truyền giáo người Anh tên là William Carey đã đề xuất một chương trình ngôn ngữ tại trường Cao đẳng Fort ở Calcutta, một trung tâm đào tạo nhân viên cho công ty Đông Ấn Độ, nhà cai trị trên thực tế ở Ấn Độ. Chương trình của Carey ban đầu không có ý định dạy tiếng Anh cho người Bengal, mà dạy tiếng Bengal cho những người Anh được bổ nhiệm điều hành công việc tại các công ty ở những vùng xa xôi hẻo lánh. Vì lợi ích của các học sinh này - những thường dân được huy động từ London và Edinburgh, các thành phố công nghiệp ở miền Trung và các làng mạc miền Nam nước Anh, Carey và những cộng sự người Bengal của ông đã sử dụng trong một quá trình thử và sai thô sơ nhưng hiệu quả những công cụ này cho một thứ văn xuôi-viết tiếng Bengal đã được chuẩn hóa: những cuốn sách ngữ pháp, tự điển, những qui tắc cú pháp và một hệ thống chấm câu thống nhất. Việc giáo dục văn học Anh không phải là một phần dự tính trước của chương trình này. Các tác phẩm mà Carey và các cộng sự của ông chọn ban đầu để dịch sang tiếng Bengal vì nội dung đạo đức và mô phạm hơn là những giá trị cổ điển của chúng về văn chương. Nhưng những thanh niên Bengal này, và nhiều người khác giống như họ, đang theo học ở những trường như Cao đẳng Hindu ở Calcutta, đã bắt đầu cảm thấy họ bị cách biệt quá lâu khỏi phần còn lại của thế giới. Vì vậy, họ thôi thúc các đồng sự người Anh nói về văn học Anh, dạy họ về lịch sử của nền văn học này, bày cho họ cách viết những bài xon-nê và những tiểu thuyết lịch sử. Đối thủ chính đầu tiên của Sankrit đã xuất hiện. Cuộc cạnh tranh này có những khía cạnh tâm lí và văn chương. Năm 1835, Thomas Babington Macaulay xoay được một quyết định của chính phủ, chấp thuận việc dùng tiếng Anh để giảng dạy trong các trường học ở Ấn Độ. Sau năm 1844, chính phủ qui định Anh ngữ là điều kiện cần thiết trong việc tuyển dụng người Bengal. Nhiều người trong số những người Bengal này kết luận rằng việc tinh thông ngôn ngữ và cung cách của người Anh là những nấc thang đến thành công, và họ bắt đầu vứt bỏ một cách hệ thống tất cả những gì của Bengal, kể cả tiếng mẹ đẻ của họ. Kết quả thường là đau xót hơn khích lệ, và những kẻ thực nghiệm chỉ khiến bản thân họ trở thành lố bịch trước mắt những người mà họ khao khát gây ấn tượng nhất. Những người Bengal khác, trong đó có Tagore của Calcutta, không chấp nhận kiểu thích nghi mù quáng với lối sống phương Tây. Trái lại, họ đi tìm những cách có tính xây dựng, thoả mãn để kết hợp cái mới và cái cũ. Họ hiểu biết tường tận văn học cổ điển Sankrit, nhưng họ cũng say sưa với sự huy hoàng và sôi động của văn học cổ điển Anh. Họ thống nhất hai truyền thống đó trong câu trả lời cho sự thôi thúc ngày càng mạnh khi tiến lên thế kỷ phía trước, sự thôi thúc củng cố một bản sắc văn học “không Sankrit” cũng “không Anh”, hiện đại nhưng không giả Anh, một bản sắc độc đáo, nhấn mạnh tinh thần Bengal. Còn có gì gắn bó mật thiết với ý thức về bản sắc cá nhân hơn là tiếng mẹ đẻ? Các nhà văn bị lay động bởi sự thôi thúc mới này bắt đầu dùng tiếng Bengal trong những thí nghiệm của họ với các hình thức văn học mới du nhập từ phương Tây: Tiểu thuyết, truyện ngắn hoạt kê, tiểu luận theo sự kiện, bình luận báo chí. Lúc này, cuộc đua tranh không phải giữa tiếng Sankrit và tiếng Anh, mà giữa tiếng Anh và tiếng Bengal, và nó hoàn toàn chưa ngã ngũ khi Tagore bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tiên của ông, có thể gọi là thật sự hiện đại, vào đầu những năm 1890. Đó là thành quả của những năm ông sống ở miền Đông Bengal, cai quản điền trang của gia đình. Tại đó, lần đầu tiên ông quan sát những chotoloc , những người ‘dân quê nhỏ bé’ của Bengal. Những câu chuyện của ông thời kỳ này tràn ngập cảm giác cay đắng về bi kịch của những con người bị lãng quên, thấp cổ bé miệng, vô danh, dưới sự thống trị của những thế lực kinh tế và chính trị cực kì xa cách, khó hiểu. Lấy những tiêu chuẩn ngày nay về phê bình tiểu thuyết để đánh giá thì nhiều truyện ngắn trong số này bị coi là yếu về kết cấu. Cái “tác động duy nhất” mà Edgar Poe nêu lên làm tiêu chuẩn cho một truyện ngắn hay thì thường bị hỏng vì những đoạn lạc đề, những kết thúc lỏng lẻo, và nhiều chỗ tác giả nhảy vào để thuyết giáo. Nhưng nói cho công bằng, những truyện hay nhất của Tagore trong những năm 1890 là một thành tựu tuyệt vời, chúng chứng tỏ rằng tiếng bản xứ Bengal và những sự kiện hằng ngày trong cuộc sống của những người dân vô nghĩa có thể kết hợp để tạo ra những tác phẩm văn chương mang tính nghệ thuật cao. Những người đàn ông, đàn bà và trẻ con tầm thường vô nghĩa, không phải những nhân vật anh hùng ca, là động lực chính trong các truyện hay nhất của Tagore. Trong tất cả những yếu tố của tiểu thuyết như nhân vật, bố cục, cốt truyện, chủ đề, Tagore nhấn mạnh vào nhân vật. Bằng những gì họ nói và làm, hay những gì họ không nói và không làm, bản thân các nhân vật không chỉ tạo nên những sự kiện bên ngoài, trong những thời gian và địa điểm đã định, mà còn ghi lại những diễn biến không nhìn thấy và thường không ngờ tới, trong trí óc và tâm hồn họ. Sự chú ý này đến các chi tiết tâm lí làm cho The Broken Nest thành một tiểu thuyết ngắn hiện đại. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp của ba nhân vật: Bhupati - một người Bengal tuổi trung niên, Charulata - vợ anh, và Amal - em họ anh. Họ là những cư dân giàu có, nhàn rỗi của Calcutta, thành viên của Bhadralok , “những người có văn hóa” của Bengal, bắt kịp theo dòng ảnh hưởng của phương Tây; bắt kịp, nhưng theo sự phân tích cuối cùng là kém hiểu biết. Sự kém hiểu biết của họ là nguyên nhân chính của thế lưỡng nan về lịch sử, và cảm xúc của ba nhân vật này cũng là của toàn Ấn Độ trong bước ngoặt thế kỉ 19. Tagore đã cho chúng ta một bức tranh có tính giai đoạn nhưng đồng thời là phi thời gian, vì câu chuyện của Bhupati, Charu và Amal là câu chuyện về phản ứng của con người trước những biến động xã hội và trước sự khám phá đột ngột những thế giới mới của tưởng tượng. Bối cảnh của The Broken Nest là một ngôi nhà chung của nhiều gia đình, tương tự với ngôi nhà mà ở đó Tagore đã lớn lên. Ông biết tất cả những cái hay cái dở của kiểu nhà như thế, bao gồm nhiều nhánh của một gia tộc sống dưới một mái nhà, dưới quyền hành và sự bảo trợ của người cha hoặc người anh cả. Hệ thống này có vẻ cổ lỗ và tỏ ra khó đứng vững trong một thời đại thành thị hóa nhanh chóng, nhưng trong thế kỉ 19, nó giúp củng cố cơ cấu xã hội và thường cách xa điểm tan vỡ khi thực dân phương Tây đổ vào Ấn Độ qua ngả Bengal. Các gia đình duy trì những kiểu nhà như thế nhằm tìm kiếm một sự an toàn thật sự, cả về tài chính và tâm lí. The Broken Nest là một bi kịch gia đình, nhưng hiện thực chính trị bao trùm lên toàn bộ câu chuyện. Ngay ở câu thứ hai, Tagore đã ám chỉ một cách hóm hỉnh thực tế này khi ông nhận xét rằng Bhupati không phải làm việc để kiếm sống vì anh có nhiều tiền và vì anh sống ở một xứ nóng. Có lẽ những người sống ở xứ nóng sống được vì dễ dàng nhặt quả chín từ những cái cây gần nhất, nhưng phía sau đó mỉa mai, nhắc nhở đến việc hành nghề báo chí của Bhupati có tham dự vào chính trị, cho thấy bầu không khí chính trị của Ấn Độ cũng nóng như khí hậu vậy. Đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ được tổ chức năm 1885, và các lãnh đạo của Đảng đại diện cho các tầng lớp trung lưu mới, hướng theo những tư tưởng phóng khoáng của Anh. Vào thời gian Đại hội lần thứ ba họp năm 1887, thấy rõ tinh thần phục hưng đạo Hindu đang lớn dần lên chống lại ảnh hưởng của Anh. Các nhà cai trị quen nghĩ về Ấn Độ như một đất nước bị đúc khuôn bởi nền văn hóa Mughal [2] và về đạo Hindu như một tôn giáo tiêu cực nếu không phải là lỗi thời, sẽ giật mình khi thấy họ đứng trước một con phượng hoàng vươn lên từ đống tro tàn chưa bao giờ nguội lạnh. Cả những người ôn hoà trong Đảng Quốc Đại lẫn những nhà cai trị người Anh đều hoảng hồn vì những tổ chức khủng bố bí mật nổi lên ở Bengal và nhiều nơi khác tại Ấn Độ. Các quan chức vội vàng áp dụng những biện pháp hạn chế, nhưng đó chỉ là những vận động thử cho mưu đồ của phó vương Lord Curzon, nhằm chia tách Bengal vào năm 1905. Thực ra, việc chia tách đã là một vấn đề nóng bỏng trong vài năm trước thời điểm 1901, vì tỉnh này quá rộng để cai trị một cách hiệu quả. Vấn đề của chia tách là chính sách biên giới đang “nổi lên dữ dội” mà Bhupati, nhân vật chính của Tagore phải lo lắng trong phần đầu của câu chuyện. Khi Nashtanir được xuất bản năm 1909, sự phản đối chống lại sắc lệnh năm 1905 của Curzon không hề giảm xuống, và tính thời sự của câu chuyện vẫn còn nóng hổi. Có lẽ Lord Curzon chắc chắn đã hi vọng đóng vai Hercules và phá hoại tinh thần dân tộc bằng cách chia tách. Ông ta đã không thành công như Hercules, vì dùng chia tách để kiềm chế sự bất bình của những người Bengal khác nào dùng những lời chửi bới thô tục để chinh phục Hydra [3] , và có một thời gian phe Ôn hòa và phe Quá khích đã đoàn kết về vấn đề này. Một dòng thác lũ ngôn từ, thật đúng vậy, đã giúp cho Bengal trở thành chướng ngại và phiền hà hơn với người Anh. Những người dân tộc chủ nghĩa Bengal và Ấn Độ đã nhanh chóng nhận ra rằng việc Macaulay năm 1835 ủng hộ giảng dạy tiếng Anh ở Ấn Độ đã tặng cho họ một phương tiện lý tưởng để vượt qua các hàng rào ngôn ngữ trong nước. Từ Cape Comorin đến Himalaya, người Ấn Độ nỗ lực sử dụng tiếng Anh trong các cuộc mít-tinh, trong phát biểu ý kiến và trong ấn phẩm báo chí. Trong The Broken Nest, sự nghiệp báo chí của Bhupati phần nào biểu lộ thứ tình cảm dân tộc mới này. Nhưng tính khí và học vấn của anh chàng Bhupati ngây thơ, tốt bụng ít thích hợp hơn ai hết để đối phó với thực tế của báo chí chính trị. Tờ báo của anh là một thứ đồ chơi của anh. Tagore nhân từ đã không để độc giả thưởng thức những mẫu văn xuôi làm báo của Bhupati, nhưng có thể suy đoán mà không sợ sai rằng Chính phủ Ấn Độ chẳng hề thấy trong đó có mối đe dọa nào cho Đế quốc. Việc Bhupati dính với tiếng Anh gắn liền với một khía cạnh khác của mối quan hệ văn hóa giữa Ấn Độ và Anh quốc: Đó chính là sự hồ hởi thật sự và cảm giác tự do đến từ cái nhìn lướt qua thế giới mới của một ngoại ngữ. T.S Eliot đã nói về nhân cách bổ sung mà chúng ta có được nhờ học một ngôn ngữ khác, thậm chí chỉ cần nắm được kết cấu và ngữ điệu của nó là đủ, và những xúc cảm mà thơ ca của nó chuyên chở [4] . Nhiều người Ấn Độ đã học để đọc được, tuy chưa hoàn thiện. Shakespeare và Shelley, Byron và Browning, đã say mê với tinh thần Tây phương mà trước đó họ chưa có trải nghiệm gì. “Nó đã đánh thức chúng tôi,” - Tagore nhớ lại, “và làm cho chúng tôi sống động hơn.” [5] Mặc dầu tiếng Bengal chưa đạt được đến tầm văn học, nhưng nghiên cứu văn học đã có uy tín ở Bengal trong nhiều thế kỉ. Những người thông thạo văn học cổ điển và các qui tắc tu từ được coi như những người canh giữ văn hóa quan trọng của Bengal. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi cho rằng người Bengal đã lĩnh hội các tài liệu văn học Anh một cách dễ dàng và nhiệt tình, nếu không muốn nói là luôn luôn tuyệt đối chính xác. Trong truyện, Tagore đã châm biếm một cách sâu cay sự yếu kém về kiến thức văn học của họ bằng cách nhắc đến một nhà phê bình văn học Bengal khi gọi Amal là “Ruskin của Bengal.” Bất kì ai đưa ra một sự so sánh như thế rõ ràng là biết quá ít về các tác phẩm của Ruskin, tuy có nắm được những khái niệm của Ruskin. Cảm giác của ông về quá khứ có sức kêu gọi mạnh mẽ những người Bengal đang hi vọng tạo nên một dấu ấn mới về bản sắc cá nhân và dân tộc như thời hoàng kim trong quá khứ của Bengal trước khi người Anh đến, trước cả Mughal. Hoàn toàn đúng với tính cách của Bhupati khi anh muốn chuyển từ báo chí sang văn học, đọc Tennyson và Byron đồng thời với đọc Bankimchandra Chatterji, những người đương thời lớn tuổi hơn Tagore, những người đến nay vẫn còn được gọi là Walter Scott của Bengal. Bhupati vẫn chưa hoàn toàn nhận thức được những hệ lụy từ cuộc xâm lăng văn học này của người Anh, nhưng làn gió mới của phương Tây đã khiến anh bồn chồn không yên đồng thời mang đến phương hướng cho cuộc đời vô mục đích của anh. Nhận xét của Eliot về lợi ích của việc biết ngoại ngữ đi kèm với một lời cảnh báo: người ta không bao giờ được chìm đắm vào một ngôn ngữ khác đến mức mất đi khả năng nghĩ và cảm bằng tiếng mẹ đẻ. Việc Bhupati mê đắm tiếng Anh đã khiến anh lơ là việc nhà và những gốc rễ văn hóa. Anh đã bỏ rơi cả người vợ lẫn tiếng mẹ đẻ và sau đó phát hiện ra rằng anh lênh đênh trôi dạt đến mức không thể tìm đường trở về với một trong hai điều đó. Anh chưa học đủ để theo chân những người tìm nơi trú ẩn trong Sankrit cổ điển, và anh không có đủ trí tưởng tượng để nối gót những người, giống như Tagore, quay trở về với việc mô tả hiện thực Bengal hoặc bất cứ thứ gì họ quan sát thấy trong cuộc sống hằng ngày. Amal và Charulata thì may mắn hơn, ít nhất ở khía cạnh này. Khi họ bắt đầu theo đuổi văn chương, Amal bắt chước những nhà văn cổ điển tiếng Sankrit. Tu từ của cậu quá lố và những ẩn dụ của cậu ngớ ngẩn, nhưng ít nhất, cậu còn cố gắng vay mượn phong cách và những biểu tượng của các nhà văn lớn trong quá khứ. Charu trong sự đơn giản của nàng, vô tình gia nhập vào chủ nghĩa hiện đại và viết bằng ngôn ngữ thông dụng thường ngày những sự việc hằng ngày. Việc Charu đứng ngang hàng với những người hiện đại là một trong những điều trớ trêu của The Broken Nest . Sự phụ thuộc của nàng vào ngôn ngữ thông tục và những sự kiện bình thường là kết quả tự nhiên của vai trò phụ nữ trong một hệ thống gia đình khiến chúng ta ngạc nhiên về bất cứ điều gì ngoài tính hiện đại. Giống như phần lớn những vùng đất phải trải qua một thời kì nào đó trong lịch sử dưới sự thống trị của chính quyền Hồi giáo, Bengal đã áp dụng nhiều qui ước của đạo Hồi, đòi hỏi phụ nữ ở những giai cấp xã hội nhất định phải sống qua tuổi trẻ và tuổi trưởng thành của họ bên trong những căn phòng riêng tách biệt của ngôi nhà. Từ Urdu thông dụng zenana vẫn còn để biểu thị khu vực phụ nữ ở [6] . Tagore dùng từ Bengal antahpur , được dịch là “bên trong của ngôi nhà.” Khu vực này được chia thành các phòng hay các nhóm phòng được giao cho các nhánh của gia đình. Đàn ông gặp gỡ vợ mình chỉ trong bữa ăn hoặc ban đêm, việc tiêu quá nhiều thời gian ở đây trong ngày làm sinh ra những sự chỉ trích và ngồi lê đôi mách. Một người phụ nữ không ra khỏi antahpur . Nếu cô ta muốn nói chuyện với các thành viên là đàn ông trong gia đình, cô ta sẽ sai một người đày tớ đưa lời nhắn hoặc thu hút sự chú ý của họ như Charu thu hút sự chú ý của Amal bằng cách vỗ tay hoặc lắc chùm chìa khóa mà họ buộc vào sari cho kêu leng keng. Một bộ qui tắc hành vi ứng xử được qui định rõ ràng, đặt ra khuôn mẫu cho những mối quan hệ trong những gia đình như thế. Một người vợ Hindu chính thống không bao giờ nói với chồng hoặc nhắc về chồng bằng tên riêng của anh ta, cô nói về anh là “chồng tôi” hoặc dùng dạng kính trọng của đại từ này hoặc dạng tương ứng của động từ. Bhupati gọi vợ là “Charu” nhưng nàng không bao giờ gọi anh là “Bhupati”. Amal là em họ ở quê của Bhupati và là thành viên của gia đình khi theo học trường cao đẳng ở Calcutta, được coi như người con nhỏ trong gia đình. Với cương vị như thế, cậu có thể đến và đi khỏi antahpur một cách tự do, tại đó cậu được những người phụ nữ bà con nuông chiều hết mức. Chị dâu và em họ trong lứa tuổi của cậu được phép là những bạn tâm tình. Tuy nhiên không bao giờ Amal gọi Charu bằng tên riêng. Nàng lớn hơn cậu một hoặc hai tuổi và hơn nữa nàng là bà chủ nhà. Cậu gọi nàng là “Chị dâu” hay “Chị”. Cậu cũng không gọi Bhupati bằng tên, cậu gọi “Anh” và dùng từ d ā d ā , một từ thương yêu và kính trọng đối với người anh. Việc dùng những tiếng như “anh”, “chị” trong những gia đình hỗn hợp thường làm những người không phải Ấn Độ nhầm lẫn. Một người Bengal khi bắt buộc phải giải thích tại sao con của bà cô có thể là anh em với anh ta, thường trả lời, “À, anh ấy không phải là anh ruột tôi đâu. Anh ấy là anh họ tôi.” Do đó, Bhupati trong quan hệ với Amal là vai anh họ, và Charu là chị dâu (họ). Qui ước xưng hô này trong tiếng Bengal được điều chỉnh một cách tế nhị. Nó cung cấp những từ ngữ mô tả rõ ràng về xưng hô và sự phân biệt giữa những người họ hàng già hơn hay trẻ hơn, họ nội hay họ ngoại. Nhưng mẫu đời sống thật sự có ý nghĩa đối với những người phụ nữ sống trong ngôi nhà của Bhupati ở Calcutta được thể hiện ở cách Tagore dùng một từ không liên quan gì đến tính trang trọng trong xưng hô. Từ quan trọng ấy là shangsh ā r . Nó được dùng lặp lại nhiều lần trong Nashtanir . Nó có thể có nghĩa là “thế giới”, “những công việc trần tục, vật chất”, “việc nhà, nội trợ” hay “gia đình” và được dịch bằng nhiều cách khác nhau tùy theo ngữ cảnh. Dù ở ngữ cảnh nào trong câu chuyện này, những nghĩa rộng của từ shangsh ā r đều mang sắc thái mỉa mai, vì từ này nhấn mạnh rằng phần của phụ nữ trong một ngôi nhà như thế này là một thế giới nhỏ bé chật hẹp, mà lí do tồn tại của họ là phục dịch và dâng hiến cho những thành viên đàn ông của gia đình. Đối với những phụ nữ như thế, shangsh ā r - “thế giới” hoàn toàn tương đương với shangsh ā r “nội trợ”. Người phụ nữ có thể đôi khi đột nhập vào thế giới bên ngoài, nhưng ước lệ này đã được qui định chặt chẽ. Khi Charu đến thăm một gia đình khác, nàng phải đi trên chiếc xe ngựa có che rèm kín, và chỉ được vào thăm trong antahpur, chơi với phụ nữ của nhà đó. Đám cưới là sự kiện xã hội lớn của những khách phụ nữ, và việc Charu không đi dự lễ cưới của Amal nhấn mạnh chiều sâu những rối loạn cảm xúc ở nàng trước việc cậu ra đi. Các gia đình tiến bộ có thể cung cấp cho các thành viên phụ nữ của họ giáo dục sơ yếu thông qua dịch vụ của một “thầy giáo zenana ”. Chị của Tagore, Svarna Kumari Ghosal, là một nhà văn, một biên tập viên và nhà hoạt động từ thiện tài trợ cho những chương trình đào tạo giáo viên như thế. Nhưng ngay cả với bà, một phụ nữ thông minh và tài năng trong gia đình tiến bộ độc đáo, việc học lên những lớp cao, chính qui cũng không được bàn đến. Việc Charu theo đuổi văn chương xem ra có vẻ ngây thơ khi nhìn trên một bối cảnh như thế. Thật ra, nàng đã can đảm và có óc sáng kiến khác thường so với những phụ nữ trẻ ở vào thời đại của nàng, địa vị của nàng và tuổi của nàng. Cả Bhupati nữa, cũng thật đặc biệt khi anh sẵn lòng khuyến khích vợ học văn chương, nhiều người chồng Bengal khác chắc không dung tha việc này. Tagore hết sức quan tâm đến những thất bại của những phụ nữ như thế. Năm 1883 ông viết Cuốn sổ tay - một câu chuyện khác về một cô vợ trẻ con, đam mê đọc và viết của cô đã bị bóp chết bởi anh chồng hiểu biết lơ mơ và các bà chị chồng vô học [7] ; mãi đến năm 1914 ông còn viết Bức thư của một người vợ , câu chuyện về một người vợ mà những tình cảm phong phú được đánh thức và nuôi dưỡng bởi thơ ca, nhưng đã phải chiến đấu vô vọng chống lại sự phản đối của gia đình và việc chồng nàng không nhìn nhận nàng như một nhân cách [8] . Bên cạnh những người chồng như thế thì Bhupati, với tất cả sự chậm hiểu những nhu cầu tri thức và tình cảm của Charu, là mẫu mực của một tâm hồn rộng lượng. Đáng tiếc là sự bao dung của anh lại bắt nguồn từ việc anh đắm chìm trong tờ báo của anh và việc anh dễ dàng chấp nhận “niềm tin phổ biến rằng một người đàn ông luôn có sẵn những gì cần đòi hỏi ở người vợ của mình.” Tagore không nói đến tuổi của Charu và Bhupati. Sẽ hợp lí nếu giả sử rằng Bhupati bắt đầu làm tờ báo của anh khi hai mươi tuổi và lấy vợ vào tuổi hai lăm. Charu có thể mười ba tuổi khi lấy chồng. Từ đó suy ra Bhupati ba mươi hai khi câu chuyện bắt đầu, và Charu hai mươi [9] . Trong những gia đình Bengal tương đối tiến bộ ngày nay, Charu dễ dàng có học vấn đại học và tiền đồ của nàng cũng rộng mở một cách tương ứng, nhưng với Charu của năm 1901, phạm vi bên ngoài antahpur, trong đó Bhupati sống thế nào nàng không hề hay biết, shangsh ā r là toàn bộ thế giới. Thật ra, Bhupati bị hạn chế bởi lòng tin ngây thơ vào người khác, bởi cái chất tỉnh lẻ và trí tưởng tượng vụng về của anh cũng như Charu bị hạn chế trong những chấn song cửa sổ và luật lệ xã hội thịnh hành. Tagore chọn những cái tên cho nhân vật của ông hoàn toàn có chủ ý. Tên đầy đủ của Charu là Charulata. Trong tiếng Bengal c ā ru có nghĩa là đẹp, và l ā ta có nghĩa là dây leo trong rừng, một thứ nho leo. Phong tục xã hội và cái nhìn của Bhupati về vợ anh như một đồ vật yêu quí trong tài sản đã làm tê liệt ở nàng sự hiểu biết vững vàng về những tài năng của nàng. Hoàn cảnh của nàng càng phức tạp, nàng càng ít khả năng đối phó với nó. Trong sự thiếu vắng hoàn toàn những mối tiếp xúc xã hội mới và thiếu sự hiểu biết của Bhupati sau khi Aman ra đi, Charu ngày càng lẩn sâu dưới cái bóng những kí ức của nàng. Tính không thực của chúng càng được tôn lên bởi sự tương phản ngầm với đời sống của Aman ở Anh, vì cậu đang thật sự trải nghiệm shangsh ā r như một thế giới rộng lớn – cái thế giới mà lịch sử đang kéo Ấn Độ vào. Quan hệ của Aman và Charu với truyền thống văn học Bengal bây giờ bị đảo ngược. Aman đã vứt bỏ văn học cổ điển và bây giờ đang đắm mình trong lối sống Tân Thời , trong đó cậu hi vọng tìm thấy chỗ đứng của mình như một luật sư. Trong khi đó thì Charu rút lui về Thời Hoàng kim của Ấn Độ và cố gắng sống với lí tưởng anh hùng ca của mọi người vợ, như một nàng Sita giữ cho ngọn đèn đêm cháy sáng đợi Rama [10] của nàng trở về. Nhưng Thời Hoàng kim ấy đã qua rồi, như Charu phát hiện cho nỗi buồn của nàng; chỉ lí tưởng không thôi thì không thể nâng đỡ một tâm hồn khao khát tình yêu. Bhupati, người không phân biệt được nhu cầu yêu đương với tình yêu văn chương – đúng như anh không phân biệt được văn chương hay với văn chương dở, là một chỗ dựa tồi cho Charulata. Lòng tốt không phân biệt của anh biến anh thành một thứ anh hùng, nhưng nhược điểm chủ yếu của anh là cứ luôn luôn đặt sự hào phóng của anh nhầm chỗ. Trên cơ sở truyền thống xã hội và các lí tưởng tôn giáo, anh cho rằng sự ổn định của gia đình là điều khoản của một học thuyết vững vàng. Giả định của anh vỡ tan khi đụng độ với những thực tế về nhu cầu tình cảm - của bản thân anh và của Charu. Chữ bhupati có nghĩa là “cột trụ xã hội” nhưng cho đến cuối cùng anh chàng Bhupati lơ lửng trên mây vẫn không hiểu được nguyên nhân thảm họa gia đình anh. Đã có lúc động lực muốn nâng đỡ Charu thắng thế, nhưng bản năng tự bảo toàn mạnh hơn. Thời khắc ấy qua đi, để lại Bhupati và Charu đối mặt với một tương lai trống rỗng. Chữ amal có nghĩa là “trong trắng”, “tinh khiết”. Liệu hạnh kiểm của Aman có thể được coi là hoàn toàn trong trắng được không? Cậu tầm thường và phù phiếm, vô tâm và non nớt, chưa trưởng thành. Nhưng sự non nớt của cậu không đáng trách trừ phi nó được làm thành công cụ phá hoại. Trong ba người của tam giác này, Aman là người đi gần nhất đến con đường hiểu được tình thế, và trong khoảnh khắc loé sáng nhìn rõ bản chất sự vật, dù chỉ một phần, cậu bắt đầu trưởng thành. Đối với một thanh niên dấn mình vào lối sống Tân Thời , việc chấp nhận một cô dâu chưa biết mặt mà không hề băn khoăn thắc mắc có thể cũng đáng trách như việc cậu không thấy trước những trò chơi văn chương nuôi dưỡng tính tự phụ nơi cậu làm nỗi cô đơn nơi Charu nặng thêm khi nuôi dưỡng trí tưởng tượng của nàng. Tuy nhiên, căn cứ vào địa vị xã hội, cuộc hôn nhân của cậu có thể được hiểu như một hành động danh dự. Nhiều cuộc hôn nhân ở Ấn Độ đã và vẫn đang là sắp đặt, và khi nước Anh còn là bí ẩn đối với nhiều người Ấn hơn ngày nay, luôn luôn có hi vọng một người vợ kiên nhẫn chờ chồng ở nhà sẽ là bảo đảm chắc chắn để người trai trẻ trở về, “vượt qua những đại dương xa thẳm”. Aman đã làm một cuộc vượt thoát khỏi tình thế khó xử được xã hội chấp nhận và minh chứng cho hành động của cậu bằng quyết định trở về giúp Bhupati, người có hình ảnh như một người cha trong đời cậu. Có thể nào ba người này không biết gì về những tình cảm của mình lâu đến thế? Một lần nữa, căn cứ vào hoàn cảnh xã hội và những nhánh tâm lí của nó, sự mù quáng rõ ràng của ba nhân vật chính có thể hiểu được thông qua việc họ dần dần gắn mình vào những biến động xã hội to lớn đang diễn ra. Báo chí hiện đại lọt vào Bengal một cách tình cờ, thậm chí nếu Bhupati thật sự có tài năng trong nghề, thì anh vẫn chưa tiếp cận đến những bí thuật của nó. Việc Charu tiếp xúc với những trào lưu mới trong văn học phải được thực hiện thông qua người khác, và được hưởng trong hoàn cảnh tương đối cách biệt. Amal là một cậu bé nhà quê tình cờ lọt vào xã hội thượng lưu trí thức của Calcutta. Trong ba người không ai có hình ảnh đầy đủ về hoàn cảnh sống của hai người kia. Mỗi người trong trạng thái bị kìm hãm trưởng thành; hoàn cảnh này góp phần vào thế lưỡng nan của họ và là một chủ đề chính của The Broken Nest . Bhupati, Charulata, và Aman lơ lửng trong trạng thái bối rối chung diễn ra trước khi những cơ hội mới có thể dạy họ những bổn phận mới. Tagore đã điều hòa giọng điệu của câu chuyện cho hợp với sự tiến triển mà tại đó họ bắt đầu ngờ ngợ, nếu không phải là hiểu rõ, rằng họ sắp đối mặt với những bổn phận mới. Giọng điệu bắt đầu thay đổi khi Aman nhận ra tình cảm của Charu đối với cậu. Những chuyện trò thơ mộng kiểu trẻ con nhường bước cho xung đột cảm xúc nghiêm trọng không tránh khỏi cũng như khu vườn không thực tế của họ nhường bước trước thực tế về kinh tế. Đã rõ rằng những ghen tuông của họ chẳng dính gì mấy đến văn chương, rằng những mưu mẹo vô lí nhưng lõi đời của Manda, chị dâu của Charu, sẽ có những hậu quả nguy hiểm, và rằng lòng tốt không phân biệt của Bhupati sẽ đem lại những kết quả chẳng có gì tốt đẹp. Những đụng độ đầu tiên của Bhupati và Aman với thực tế diễn ra ở nhịp độ nhanh chóng. Một tai nạn bên ngoài ngôi nhà của anh đã khiến Bhupati sững lại, và bộc lộ cho anh thấy anh kém phù hợp như thế nào với vai trò mà anh định mang là một con người của xã hội. Khi anh bạn Motilal của anh giả vờ không biết gì về những món nợ chưa trả, Bhupati theo bản năng chạy về nhà, “giống như một người sợ hãi trước trận lũ đột ngột, tìm một mô đất cao và lao đến đó.” Nhưng về tình hình ở nhà anh vẫn chưa biết chút gì, dù sao chăng nữa, anh cũng không thể đối mặt với nó một cách dứt khoát, thậm chí sau cú đụng độ thứ hai của anh với thực tế dưới dạng âm mưu thống thiết của Charu để liên lạc với Aman ở Anh. Lòng kính trọng và tình thương thật sự của Aman đối với Bhupati là tác nhân để cậu hiểu rằng nguy hiểm đã gần kề. Một chớp loé nhận thức cho cậu thấy Charu hoàn toàn không biết gì về những rắc rối tài chính của Bhupati cũng như về những tình cảm của nàng. Ngay khi Aman nhận ra vai trò của mình, cậu cố gắng rũ bỏ nó. Thậm chí sau khi Charu nhận ra rằng sự thiếu vắng Aman là nguyên nhân nỗi đau khổ của nàng, nàng đã hợp lí hóa cảm xúc của mình bằng cách buồn rầu về sự kiện dường như cậu đã ra đi trong giận dữ. Sự hiến mình thờ phụng chồng là hành động duy nhất mở ra cho nàng phương kế xua đuổi nỗi đau buồn. Nói rằng mặc cảm tội lỗi trong lương tâm nàng cũng cần xua đuổi là nói quá; nàng chẳng biết đường nẻo nào trong cuộc đời cũng như những hoạt động của trái tim nàng. Nàng đã sống trong một thế giới tưởng tượng. Nàng đã “quyết định”, nàng đã “nhất quyết”, nàng đã “hình dung” Aman hay Bhupati hành động theo những vai trò mà nàng phân cho họ. Cả họ nữa, cũng đã phân nàng vào một vai định trước. Khi không biết tại sao và như thế nào nàng không sắm được vai trò đó, họ bỏ mặc nàng. Việc Bhupati từ bỏ địa vị gia trưởng hầu như chắc chắn có nghĩa là Charu sẽ mất chút tự do mà nàng đã có. Những ông chú đến ở trong nhà sẽ mang theo vợ con của họ, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong số họ sẽ là bà chủ ngôi nhà. The Broken Nest không phải là câu chuyện của Aman, cậu chỉ là chất xúc tác cho một thảm họa mà những yếu tố của nó đã từ lâu là một phần kết cấu xã hội. Việc nó là câu chuyện của Charu hay của Bhupati phụ thuộc vào thiên hướng của độc giả. Tagore không nói ông có ý định cho nó là câu chuyện của ai. Ông không nói ông có ý định chỉ ra một đạo đức trong những ngẫu nhiên của cuộc đụng độ văn hóa, hoặc văn chương tầm thường là thứ nguy hiểm. Ông đặt các nhân vật ra trước độc giả, Bhupati, Charu và Aman sống qua một giai đoạn không thể đảo ngược và không có cách khắc phục có thể thấy trước. “Cái tổ bị vỡ” không phải là lỗi của ai mà là bi kịch của mọi người, một bi kịch của những tình thương lạc lối và những tài năng chưa phát triển. Như vậy, Tagore đã đặt ra một câu hỏi chi phối nhiều truyện ngắn của ông: liệu Ấn Độ có biết nó đang bỏ phí một kho tàng vô giá như thế nào không? Ông đặt câu hỏi liên hệ với những tài năng và những tình cảm phong phú của phụ nữ đặt Charu ngang hàng với những phụ nữ nổi bật trong văn học phương Tây: Emma Bovary trong Bà Bovary của Flaubert, Dorothea Brooke trong Middlemarch của George Eliot, và Nora Helmer trong vở kịch Nhà búp bê của Ibsen. Với The Broken Nest , Tagore mang tiểu thuyết Bengal hiện đại đầy đủ vào cuộc thảo luận về một đề tài đã và vẫn là một ưu phiền nhức nhối cho các xã hội hiện đại ở khắp nơi. Ông cũng không tụt lại đằng sau các nhà văn Anh trong việc nhận thức và xử lí chủ đề này. Năm 1906 nhân vật đáng nhớ Irene Forsyte trong Một người đàn ông giàu có của John Galsworthy có tính cách táo bạo, hành vi vượt ra khỏi lối sống xã giao kiểu cách của Irene thật sự gây choáng váng. Một người phụ nữ vẫn bị coi là bất nhã và không xứng đáng là một quí bà nếu cô ta dám nói lên những khao khát một điều gì đó vượt ra ngoài mái ấm gia đình. Charu không nói lên những khao khát của nàng, thậm chí không ý thức về chúng một cách rõ rệt, nhưng chúng có sức mạnh như một cái cây đang lớn lên cuối cùng làm nứt toác nền đá rắn. Tagore hết sức can đảm khi viết The Broken Nest và đã bị phê bình gay gắt về nó. Câu chuyện dường như là một âm mưu làm xói mòn hòn đá tảng trên đó thiết lập xã hội Bengal: gia đình. Vào năm 1901 những bất đồng về lối sống hiện đại đã chia lìa nhiều gia đình Bengal. Tagore để ngỏ cái kết câu chuyện làm nhiều độc giả hoang mang và phẫn nộ, vì ông cho thấy quá rõ rằng nếu có cách nào đó để sửa chữa cái tổ bị vỡ, thì Charu và Bhupati (và, nói rộng ra, cái xã hội mà trong đó họ sống) không biết cách nào tìm ra nó. Nhiều bạn đọc cảm thấy không thoải mái nhưng không thể nhầm lẫn những thành tố tạo nên tấn bi kịch tương tự trong cuộc sống của chính họ. Giống như Bhupati, họ ớn lạnh vì nhận ra sự ổn định của gia đình hoàn toàn không phải là một điều khoản của học thuyết đã được mọi người thừa nhận, mà phải giành lấy thông qua những cố gắng liên tục và có ý thức. Họ không hiểu rằng chủ đề thật sự của Tagore là sự bền vững của gia đình và nhu cầu của các thành viên trong gia đình là được hiểu như một con người, được tạo những cơ hội lớn hơn trong một thế giới đang rộng mở. The Broken Nest là tiếng kêu từ trái tim của một nhà văn, bằng cách thay cho những người thấp cổ bé miệng, nói với toàn xã hội. Mary M. Lago Tháng 6, 1969 Columbia, Missouri Hoa Kỳ Mời các bạn đón đọc Vỡ Tổ của tác giả Rabindranath Tagore.
Tuổi Mười Bảy - Ghec-man Mat-ve-ep
Lũ học trò cấp 3 quậy như quỉ. Giáo viên nào cũng phải chào thua. Ai nấy bước vào lớp trong phiền muộn và thường kết thúc giờ học bằng chuyến thăm viếng văn phòng cô hiệu trưởng trong cơn giận bừng bừng. Và một ngày kia, bọn con gái lớp 10 hay tin có thầy mới về làm chủ nhiệm. Thầy Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích. Dạy văn. Và một mảnh đạn còn găm trong đùi thầy... "Mê say môn mình giảng. Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích đã suy nghĩ về nó trong những hầm đất đầy khói, trong những chiến hào ẩm ướt, trong những ngày lạnh buốt và những đêm nóng bức. Trong lúc hành quân, những lúc nghỉ ngơi và ngay cả lúc chiến đấu, anh luôn luôn mơ ước sẽ có ngày quay về mái trường thân yêu và như trước kia sẽ bắt gặp những ánh mắt ham hiểu biết của lớp trẻ. Năm năm chiến tranh, anh đã chiến đấu để giành quyền được giảng dạy." "Còn cách nào khác nữa? Không có lòng tin ở các em làm sao giáo dục cho các em những phẩm chất tốt đẹp được." "Những bài thuyết giáo dài dòng và chán ngấy về đạo đức thường chỉ giáo dục các em thành những đứa giả dối, những kẻ lừa phỉnh." Đó là thầy Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích. Truyện Tuổi mười bảy của nhà văn Ghéc-man Mát-vê-ép đưa chúng ta trở lại thời kỳ "dở dở ương ương" của tuổi mười bảy dưới mái trường, cùng thầy cô và bao sự tình ngổn ngang vỡ nát trong hồn người vừa choàng tỉnh sau cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc... Cuốn tiểu thuyết còn chỉ ra diện mạo nền giáo dục Xô viết còn nhiều khiếm khuyết trong triết lí giáo dục, trong đó Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích đã từng là người chiến sĩ trong chiến trận thì nay vẫn tiếp tục là người chiến sĩ trong cuộc chiến cải tạo tư tưởng, vốn nhiều chông gai phiền não, cho cả thầy cô, học trò và cả cô hiệu trưởng. *** DẤU VẾT CỦA CHIẾN TRANH Trường học im lặng. Giờ học đã bắt đầu. Bà hiệu trưởng đang làm việc ở văn phòng bỗng có tiếng gõ cửa. - Xin mời vào! - Bà mời mà vẫn không ngẩng lên nhìn khách. Trên bàn là thời khóa biểu giờ giảng của toàn năm học 1947 - 1948. Natalia  Dakharốpna tay trái đưa chiếc kính cũ lên trước mắt, tay phải đưa bút chì lần theo thời khóa biểu: bà đang lập kế hoạch thăm lớp. Đưa mắt thoáng nhìn người đàn ông mới bước vào, bà chỉ chiếc ghế, mời: - Mời đồng chí ngồi. Tôi sắp xong bây giờ. Người đàn ông mới vào tay chống gậy, chậm rãi ngồi xuống ghế, lấy trong túi ra một tờ giấy đã được gập lại ngay ngắn, mở tờ giấy ra đặt xuống bàn và trong khi chờ đợi nói chuyện với bà hiệu trưởng, anh ngắm bức chân dung Lê-nin treo trên tường. Anh hiểu ngay rằng bức chân dung này do một bàn tay rất có tài nhưng còn chưa điêu luyện vẽ nên. Nhất là đôi mắt. Không biết có phải đó là một sự thành công bất ngờ hay là kết quả của một quá trình lao động miệt mài, nhưng đôi mắt ấy được vẽ rất đạt, rất sống: hơi nheo lại hiền từ và ánh lên một niềm vui sảng khoái. - Đó là tác phẩm của Vôrônhin... Khi cậu ấy học lớp bảy - Bà hiệu trưởng giải thích và đặt bút chì xuống bàn. - Vôrônhin - họa sĩ trang trí nhà hát - anh ấy học ở trường này ạ? - Vâng... Có phải đồng chí là phụ huynh học sinh không? - Không, tôi không phải là phụ huynh học sinh đâu chị Natalia Dakharốpna ạ! Tôi đến để trao đổi... Tuy rằng trước chiến tranh chúng ta đã có dịp gặp nhau. Bà hiệu trưởng chăm chú nhìn khách. Trước mắt bà là một khuôn mặt gầy gầy, nước da tái nhợt với những đường nét thanh tú, vầng trán rộng, cái nhìn chăm chú, tóc hai bên thái dương đã bạc. Đúng rồi, hình như mình đã gặp người này ở đâu rồi. Nhưng ở đâu? - Chúng ta đã gặp nhau ở hội nghị giáo viên. - Người đàn ông mỉm cười nhắc bà. Cũng lạ thật, có khi cái cười làm thay đổi vẻ mặt con người, cứ như thể người ta vừa bỏ chiếc mặt nạ ra khỏi mặt vậy. - Hình như... tôi nhớ ra rồi! Có phải anh Cônstantin Xêmiônôvich không? - Bà ngạc nhiên hỏi. - Thế là chị đã nhận ra. - Vừa nói Cônstantin vừa đứng dậy bắt tay bà. - Dĩ nhiên là tôi nhận ra rồi, tuy anh thay đổi khá nhiều. - Vâng... cũng không gặp may mắn lắm. Tôi bị thương vào ngày cuối cùng của chiến tranh và đã nằm trên giường bệnh khá lâu. Còn chị, hầu như không thay đổi tí gì, vẫn trẻ như xưa. Tóc bà Natalia Dakharốpna đã có nhiều sợi bạc nhưng rõ ràng là trông bà vẫn còn trẻ so với cái tuổi ngoài sáu mươi của bà. Với khuôn mặt kiên nghị và sinh động, lúc nào cũng gọn gàng trong chiếc áo dài sẫm màu hoặc trong bộ com-lê với mái tóc được chải rất cẩn thận, bà luôn được mọi người nhớ mặt và để ý, kể cả trong những hội nghị giáo viên đông đúc. - Hồi còn chiến tranh chị vẫn ở lại Lêningrát à? - Cônstantin Xêmiônôvich hỏi. - Vâng suốt thời gian chiến tranh. - Và vẫn dạy học? - Vẫn dạy học! Kể cả năm đầu tiên, trong mùa đông đáng sợ ấy, khi thành phố bị phong tỏa chúng tôi vẫn không bỏ học. Đại đa số học sinh sống với giáo viên. Mẹ các em phải trực chiến ở nơi làm việc, còn bọn trẻ thì ở đây... Thế còn anh? Anh bị thương có nặng lắm không? - Nói thế nào với chị nhỉ?...Mảnh đạn vẫn còn nằm trong đùi. Bây giờ thì không sao. Tôi đến gặp chị để xin việc đây! - Anh nói và chìa giấy giấy thiệu ra: Sở Giáo dục gửi đến đây. Bà Natalia Dakharốpna đọc mảnh giấy xong, ngồi tựa lưng vào ghế. - Thế anh định đến đây làm việc... luôn đấy à? - Vâng. Nếu được chị đồng ý. - Thế thì còn gì bằng! Tôi rất mừng! - Bà nói và nở một nụ cười hài lòng - Ở những lớp trên không có giáo viên văn học. Hôm qua Sở có gọi điện về nhưng tôi đi vắng. Chắc là người ta gọi điện về việc của anh. Thế thì anh đi lấy quyết định đi và ta bắt tay vào việc luôn thôi... Còn trường của anh hiện nay ra sao? - Là đống gạch vụn, chẳng còn gì chị ạ - Anh trả lời với vẻ buồn thoáng hiện lên mặt. - Thế nghĩa là anh đã đến làm việc với chúng tôi... Rất tốt, tốt lắm... - bà hiệu trưởng nhắc đi nhắc lại, tay đặt quyển sổ công tác hết chỗ này đến chỗ khác. Bà ngập ngừng một lúc rồi nhanh nhẹn đeo kính vào và nói: - Giáo viên văn học ở lớp mười vừa chuyển đi nơi khác và lớp hiện đang thiếu thầy dạy văn. Anh nghĩ sao nếu tôi định xếp anh thay vào đó? - Được thôi chị ạ. - Tôi có nhiệm vụ phải báo trước cho anh biết đó là một lớp rất ít học sinh, ít lắm, nhưng lại khó điều khiển. Các em được thả lỏng lâu rồi. Cô giáo chủ nhiệm cũ đã ba năm làm chủ nhiệm nhưng các em không gắn bó mấy. Trước mắt sẽ có sự chống đối ngầm với anh đấy, có thể có cả những điều bất ngờ không lấy gì làm thú vị lắm sẽ xảy ra nữa. Người giáo viên mới ngạc nhiên nhìn bà hiệu trưởng, nhưng anh không nói gì. - Chúng tôi đã quan tâm rất nhiều đến lớp này, - bà Natalia Dakharốpna tiếp tục - Nói chung thì bọn trẻ thông minh, không đến nỗi nào, nhưng tính tình hay thất thường và còn hay tự phụ nữa. Những lỗi ấy là do cô Dinaiđa Đmitriépna. Cô ấy nuông chiều bọn trẻ quá. Cô thường hay che chở, khen ngợi các em quá mức và cũng bỏ qua nhiều điều thiếu sót, sai lầm của các em. Trong lớp, các em được bao che. Hầu hết các em đều sống ở đây trong khi thành phố bị phong tỏa... Nhưng không sao, hình như tôi hơi quá lời. Những cái đó có lẽ không đáng lo đến thế đâu. ... Mời các bạn đón đọc Tuổi Mười Bảy của tác giả Ghec-man Mat-ve-ep.
Tình Yêu và Nỗi Buồn - Yasunari Kawabata
 Tình Yêu Và Nỗi Buồn là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Kawabata trước khi ông tự tử. Đây là một trong những tiểu thuyết đẹp nhất của ông, và có phần hấp dẫn hơn các cuốn Xứ Tuyết và Ngàn Cánh Hạc. Câu chuyện mở đầu khi nhân vật chính, Oki, một nhà văn ở tuổi ngoài năm mươi, đang trên đường trở về Kyoto vì một lòng hoài niệm nước Nhật Bản cổ. Nhưng có lẽ động lực chính, thúc đẩy Oki trở về Kyoto, là lòng ao ước đi tìm lại chút hương cố nhân ở người tình cũ của hai mươi bốn năm về trước là Otoko. Otoko hiện là họa sĩ, và vẫn còn rất đẹp. Nàng đang sống trong nhà khách của một ngôi đền cùng với Keiko, người học trò họa sĩ. Keiko là một nhân vật vô cùng đam mê và không quan tâm đến luân lý, và cũng vừa mới hai mươi tuổi. Khi ba người gặp nhau tại một điểm hẹn của định mệnh, thì chính Keiko là người đã tạo ra một sự tàn phá chết chóc vì lòng ghen và một cuộc trả thù rất lạ lùng.   Tình Yêu Và Nỗi Buồn mô tả nhiều đến khía cạnh tình dục, nhưng bằng một văn phong rất nhẹ nhàng, như mặt hồ thu phẳng lặng trong một hoa viên yên tĩnh. Tình Yêu Và Nỗi Buồn chính là một bằng chứng về nét điêu luyện tâm lý của Kawabata, cùng với nghệ thuật kể chuyện siêu đẳng, một sắc thái độc đáo trong tinh thần cổ truyền Nhật Bản. Chuyến đi của Oki về Kyoto để nghe tiếng chuông chùa và gặp lại người tình cũ, phải chăng biểu tượng niềm hoài cổ và lòng yêu mến nước Nhật Bản cổ xưa của tác giả? Buồn thương và tinh tế, sáng tác của nhà văn người Nhật Yasunari Kawabata là một trong những di sản tinh thần quý giá nhất của thế kỷ 20. Tác giả của những trang văn nhạy cảm và mong manh ấy cũng là người mang nhiều nỗi sầu thương, kết đọng lại từ cuộc đời riêng đầy tang tóc, từ cảm thức hoài cổ và những suy tư trầm mặc về cuộc sống và con người. *** Năm chiếc ghế xoay được xếp dọc một phía trong toa dành cho khách ngắm cảnh của chuyến xe lửa tốc hành Kyoto. Oki Toshio thấy chiếc ghế cuối dẫy đang lặng lẽ quay theo chuyển động của xe lửa. Chàng không thể rời mắt khỏi chiếc ghế ấy. Những chiếc ghế bành thấp bên cạnh chàng không quay. Oki ngồi một mình trong toa ngoạn cảnh. Thu mình trong chiếc ghế bành, chàng ngồi nhìn chiếc ghế cuối quay. Chiếc ghế không quay theo cùng một chiều, hoặc cùng một tốc độ: đôi khi nó quay hơi nhanh hơn, hoặc hơi chậm hơn, hoặc ngừng lại rồi quay ngược lại. Nhìn chiếc ghế quay trước mặt trong một toa xe trống vắng, chàng cảm thấy cô đơn. Những ý nghĩ của quá khứ bắt đầu chập chờn qua tâm trí chàng. Hôm ấy là ngày hai mươi chín tháng mười hai. Oki đang đi Kyoto để nghe tiếng chuông đêm giao thừa. Chàng nghe những tiếng chuông ấy qua máy phát thanh đã bao nhiêu năm rồi? Những buổi phát thanh đó bắt đầu từ bao giờ? Có lẽ kể từ đó, năm nào chàng cũng nghe những tiếng chuông, cùng với lời bình luận của nhiều xướng ngôn viên, trong lúc họ phát lại tiếng chuông từ nhiều ngôi đền khác nhau tại khắp nước. Năm cũ nhường bước cho năm mới trong buổi phát thanh, nên những lời bình luận thường có vẻ hoa mỹ và cảm động. Âm thanh rộn ràng thăm thẳm của một cái chuông khổng lồ từ một ngôi đền Phật giáo vang lên thong thả cách quãng nhau, và tiếng ngân kéo dài gợi nhắc đến nước Nhật Bản cổ và báo hiệu sự trôi đi của thời gian. Sau tiếng chuông của những ngôi đền miền Bắc thì đến tiếng chuông của Kyushu, nhưng giao thừa nào cũng chấm dứt bằng tiếng chuông của Kyoto. Kyoto có nhiều đền chùa đến nỗi đôi khi nhiều tiếng chuông hòa lẫn với nhau qua máy phát thanh. Vào lúc nửa đêm, vợ và con gái chàng vẫn bận rộn lắm, sửa soạn những món ăn đặc biệt cho ngày Tết trong bếp, dọn dẹp lại nhà cửa, hoặc có lẽ soạn sẵn những chiếc áo kimono, hoặc cắm hoa. Oki thường ngồi trong phòng ăn và lắng nghe máy phát thanh. Khi những tiếng chuông vang lên thì chàng quay nhìn lại năm cũ đang ra đi. Chàng thường cảm thấy đó là một kinh nghiệm cảm động. Có năm cảm xúc ấy rất mãnh liệt hoặc đau đớn. Đôi khi chàng bị dầy vò bởi những đau buồn và hối tiếc. Ngay cả khi sự cảm xúc của các xướng ngôn viên làm chàng khó chịu thì tiếng chuông chùa vẫn âm vọng lên trong tâm chàng. Đã từ lâu chàng ước muốn có mặt tại Kyoto vào đêm giao thừa để nghe âm thanh sống thực của những tiếng chuông đền chùa cổ xưa ấy. Điều ao ước ấy trở lại với tâm trí chàng vào cuối năm nay, và chàng bốc đồng quyết định đi Kyoto. Chàng cũng hồi hộp vì sự ao ước dai dẳng được gặp lại Ueno Otoko sau những năm xa cách, và cùng nghe tiếng chuông chùa với nàng. Otoko không hề viết thư cho chàng, kể từ khi nàng dọn về sống tại Kyoto, nhưng bây giờ nàng đã trở thành một họa sĩ theo trường phái cổ điển Nhật Bản. Nàng vẫn chưa lập gia đình. Bởi vì đó là một việc làm nổi hứng bất ngờ và chàng không thích giữ chỗ trước trên xe lửa, nên chàng chỉ tới ga Yokohama và lên toa xe ngoạn cảnh của chuyến xe lửa tốc hành Kyoto. Gần ngày lễ nên xe lửa chắc đông lắm, nhưng chàng quen một người bồi tầu và tin sẽ lấy được chỗ nhờ người ấy. Oki thấy xe lửa tốc hành Kyoto rất là thuận tiện, vì chuyến xe rời Đông Kinh và Yokohama ngay lúc xế trưa, đến Kyoto vào buổi tối, và cũng rời vào lúc xế trưa trên đường về. Chàng luôn luôn đi Kyoto bằng chuyến xe này. Phần lớn các chiêu đãi viên trên toa hạng nhất đều biết chàng. Khi đã lên xe lửa rồi, Oki ngạc nhiên thấy toa xe trống trơn. Có lẽ không bao giờ có nhiều hành khách vào ngày hai mươi chín tháng mười hai. Có thể xe lửa sẽ lại đông vào ngày ba mươi mốt. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu và Nỗi Buồn của tác giả Yasunari Kawabata.
Thủy Tiên Đã Cưỡi Chép Vàng Đi - Trương Duyệt Nhiên
Thủy tiên đã cưỡi chép vàng đi là khúc nhạc buồn bã, đẹp đến kì dị về cuộc đời của những bông thủy tiên. Thủy tiên là một ẩn dụ, từ điển tích chàng trai Narcisuss xinh đẹp trong thần thoại Hi Lạp, vì quá yêu bản thân mình nên đã bị hóa thành bông hoa Thủy Tiên. Trong tiểu thuyết này, hình tượng Thủy Tiên xuất hiện trong ba nhân vật nữ. Đó là Tùng Vy – dù phần lớn chỉ xuất hiện trong tâm tưởng của Quỳnh – nhưng có lẽ là bông thủy tiên rực rỡ, ấn tượng nhất. Bà có tâm hồn sôi nổi, mãnh liệt tới mức vì quá yêu bầu trời tự do và rồ dại của mình, bà đã từ bỏ Tôn Dật Hán để trôi dạt về phương trời xa lắc, sống cuộc đời bấp bênh, vô định…Đó là Quỳnh, cô gái luôn thần tượng Tùng Vy và cố gắng trở thành một tiểu thuyết gia tài hoa. Nhưng Quỳnh lại yêu cái bóng của mình theo một cách khác: cô sống quá nhiều với ký ức, ngày ngày vuốt ve những vết thương. Thế nên vết thương cũ chẳng thể lành, mà cô lại vô tình rạch thêm những vết thương mới… Và đó còn là Mạn, người mẹ ruột đài các của Quỳnh. Bà Mạn là hình ảnh bông thủy tiên Narcissus với cái nghĩa đơn giản, trần thế nhất: bà quá yêu mến, quyến luyến nhan sắc của mình, tới nỗi bà oán hận Quỳnh – bởi việc mang thai, sinh nở Quỳnh khiến bà mất đi vẻ trẻ trung thời con gái, mất bao nhiêu ánh mắt đàn ông ngưỡng mộ, xuýt xoa… Những bông thủy tiên xinh đẹp, kiêu hãnh, với một thế giới nội tâm đầy phức tạp, nhạy cảm và nhiều độc tố, họ rồi sẽ tới đâu trong cuộc đời này? Trương Duyệt Nhiên bao giờ cũng vậy, tài hoa và u oán, giọng văn mềm mại như nước, mãnh liệt như lửa, cốt truyện hấp dẫn, thế giới nội tâm được miêu tả tinh tế đến nỗi ta cảm thấy đây chính là câu chuyện của mình, ta thấy đau trong tim. Thủy tiên đã cưỡi chép vàng đi sẽ là cuốn sách phù hợp cho một buổi chiều mưa, khi bạn đang cần một cớ nào đó để được khóc. *** C on yêu, những điều này mẹ muốn nói với con: 1. Con hãy nhớ rằng đã từng đến , mẹ con mình từng cùng sống những tháng ngày, dù ngắn ngủi. 2. Con hãy nhớ rằng đã từng đau , nhớ những nuối tiếc mà bất lực của mẹ khi xa con. 3. Con hãy nhớ rằng đã từng nghe , một câu chuyện được kể bằng tình yêu – truyền từ mẹ sang con. Mồng 6/1, mình ăn sáng với bánh mì lát và mứt hạnh. Đó là bữa sáng cuối cùng, con yêu ạ. Sẽ đến một ngày, mẹ già đi, là lúc con khôn lớn như mẹ bây giờ. Còn họ , đều đã xa – những người đã từng rất quan trọng đối với mẹ, trong đó có cha con. Họ đã đi trên con thuyền đang chìm dần xuống đáy nước, về phía tiên giới lạnh lẽo. Sẽ chẳng có ai kịp chứng kiến con lớn khôn, chẳng ai kịp cùng con qua hết mọi ghềnh vượt thác, để tới những đỉnh cao hạnh phúc của cuộc đời. Họ bất quá chỉ là những thời khắc – dài ngắn khác nhau - trong đời một người. Sẽ đến một ngày, mẹ cũng trở thành - chỉ một đoạn – trong cuộc đời con, con yêu. Nhưng đừng vì vậy mà đau buồn quá. Khi còn trẻ mẹ cũng đã từng ăm ắp những kỷ niệm: chia li, vĩnh biệt, mất mát. Mỗi khi nghĩ đến sự xa lìa với những người mình yêu, tim nhói đau mà chẳng cam tâm, bởi mẹ còn quá tham lam, quá ham mê với cuộc đời này. Mẹ tin con sẽ trưởng thành nhanh chóng, và sẽ như mẹ: đến một ngày có thể buông xuôi những gì mình vốn không thể nắm bắt được, trong tâm trạng thoải mái. Con có nhớ về một giấc mơ mẹ kể, về chuyện thả cá chép không? Mẹ thường mơ về thành cổ Lệ Giang có con sông nhỏ, nước chảy rì rào, như ước mơ được bay nhảy chưa bao giờ thôi. Mẹ mơ thấy cùng cha con ra bờ sông thả cá chép. Trời ngả tối, cô bé mặc bộ áo rực rỡ của dân tộc NẠP TÂY ngồi bên thùng gỗ đầy cá chép, tay cầm cây nến hình bông hoa. Mẹ đưa tiền cho cô ấy. Cô bé dùng chiếc gáo gỗ vớt lên hai chú cá chép, xách nến dẫn hai người ra bờ sông. Cha của con là một chàng trai cao lớn, lúc nào cũng đứng bên trái mẹ. Cha mẹ cúi xuống, nhìn nhau cười, rồi nhắm mắt ước nguyện. Sau đó, thả hai chú cá chép vàng óng ánh xuống nước. Chỉ một loáng chúng đã bơi đi. Dưới ánh nến yếu ớt, chỉ thấy cá chép ve vẩy cái đuôi rực rỡ, dần dần mất hút. Con sẽ hỏi mẹ đã ước điều gì – con nhất định là một đứa bé hiếu kì, nhưng thú thật, mẹ cũng không nhớ rõ. Đại khái cũng chỉ là những điều mà nam nữ yêu nhau vẫn quan tâm, những lời vàng đá, những thủy chung, gắn bó. Con yêu, con có biết khi mẹ nhúng tay xuống nước, cá chép vùng vẫy để thoát thân, đến lúc nó bơi đi, mẹ tiếc đến nhường nào. Nhưng thời gian chờ đợi quá dài, khi ước nguyện thành hiện thực, tâm hồn có lẽ không còn là của lúc ấy nữa. Vậy nên, thời khắc ước nguyện mới chính là điều trân trọng nhất, tựa như bông hoa đầu tiên nở với mùa xuân, hương thơm chợt bừng lên, nhắm mắt lại cũng cảm thấy như đang đứng giữa một rừng hoa. Thời khắc ấy, thời gian đã dừng lại. Con yêu, con đến vào ngày thu, như một bông bồ công anh bay giữa trời, mệt nhoài đậu xuống trong cơ thể mẹ. Con là một đứa bé yên tĩnh và biết điều, con biết cuộc sống của mẹ lúc đó rối bời, nên chẳng hề làm cho mẹ thêm vất vả. Chân tay con ngọ nguậy rất nhẹ, khi mẹ đang ngủ. Vì vậy lần đầu tiên mẹ thấy con, là trong giấc mơ. Từ khi con đến, mẹ thường mơ giấc mơ thả cá chép vàng. Giấc mơ rực rỡ, lung linh, tựa hoa đăng không tắt trong đêm trăng của mùa xuân. Lúc đó, mẹ còn chưa biết rằng con đã đến, nhưng giấc mơ, đã mang lại một dự báo mơ hồ. Sách giải mộng viết, mơ thấy cá chép là điềm lành, sau đó không lâu thì con đến. Con là đóa san hô rực rỡ, dưới đáy nước, cô độc. Mẹ đoán con là bé gái, hay mang đến cho mẹ cảm xúc lãng mạn nho nhỏ và những giấc mơ. Hơn nữa, ở trong mẹ, con luôn tạo ra cảm giác dằng dai, giống như một cuộc thi kéo co. Cảm giác ấy thật kì diệu, nhưng chắc chắn đó là cuộc kéo co giữa một phụ nữ với một phụ nữ. Có lúc con nhõng nhẽo, có lúc lại bao dung. Mẹ gọi con là Narcicuss, bởi con xinh đẹp như chàng thiếu niên Narcicuss của thần thoại Hi Lạp, có khuôn mặt trắng ngần như hoa thủy tiên, và tĩnh lặng như bông hoa trong nước. Trong giấc mơ của mẹ, cá vàng bơi đi, và con đã đến. Vì thế, con sẽ sinh ra bên mặt nước, và mẹ muốn con biết yêu bản thân mình, biết tự hào về mình, tìm được niềm vui khi chỉ có một mình. Con phải biết rằng, chẳng có ai có thể vĩnh viễn đi cùng con. Nếu một khi họ bỗng nhiên ra đi, con không được hốt hoảng, không được sợ hãi. Con cần học theo Narcicuss yêu chính mình, cậu ta yêu cả cái bóng của mình, suốt ngày vui chơi cùng cái bóng, không hề chán. Mẹ ước được đem con đến thăm khu thành cổ mơ màng trong ánh nắng dịu ấy, mua cho con những áo quần sặc sỡ nhiều màu như những dải cờ đuôi nheo, ước được ngồi trên chiếc kỉ, xem con chơi xếp hình. Khi con bắt đầu bi bô, tiếng con trong như tiếng suối, con nhất định sẽ rất giỏi kể chuyện, ngồi trên xích đu, xung quanh là một vòng những người bạn nhỏ háo hức lắng nghe. Không biết con có giống mẹ, thích những câu chuyện buồn, lặng lẽ nhìn bạn bè đang rơi nước mắt, trong lòng lại thấy vui vui mãn nguyện?… Đợi con lớn thêm chút nữa, con sẽ tình cờ tìm thấy trên giá những cuốn sách mẹ viết, con có háo hức reo lên “Mẹ ơi, mẹ ơi!” và chạy về phía mẹ? Lúc đó, mẹ thấy con như chú chim đang tập bay, lông cánh rung rung dưới nắng mặt trời. Nhưng trên thực tế, mẹ đã quyết định ngăn cản con đến. Chính là hôm nay, sau ba giờ chiều, sẽ dứt con ra khỏi cơ thể của mẹ. Chúng ta sẽ xa nhau, không bao giờ gặp lại. Cho nên những điều trên chỉ là những ảo ảnh. Con ơi, mẹ của con là một nhà văn, viết lách để sống, bà ta viết rất nhiều câu chuyện. Từ những hồn ma trên tường thành cổ đến những thanh niên thác loạn trong thôn xóm, từ những bông hoa tuẫn tiết theo tình đến những con mèo đen truyền kiếp. Thế nhưng những câu chuyện của bà ta chẳng có cái nào là thật. Bà ta coi chuyện của người khác như của chính mình, coi câu chuyện của mình như của người khác. Bà ta viết truyện của người khác thì rơi lệ, viết truyện của mình thì tê dại vô cảm. ... Mời các bạn đón đọc Thủy Tiên Đã Cưỡi Chép Vàng Đi của tác giả Trương Duyệt Nhiên.