Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Của Những Hồn Ma

Isabel Allende Llona (sinh ngày 2-8-1942) là một nhà văn Chile với tư cách công dân Mỹ. Allende có các tác phẩm đôi khi chứa đựng các khía cạnh của truyền thống “ma thuật hiện thực”, nổi tiếng với tiểu thuyết như “Ngôi nhà của các linh hồn” (La casa de los espíritu – 2002) đã thành công về mặt thương mại. Allende được mệnh danh là “tác gia sáng tác bằng tiếng Tây Ban Nha được đọc rộng rãi nhất”. Năm 2010, bà nhận được Giải thưởng văn học quốc gia Chile. Năm 2004, Allende được ghi tên vào Viện Hàn lâm nghệ thuật và văn học Hoa Kỳ. Tiểu thuyết của Allende đôi khi dựa vào kinh nghiệm của riêng cá nhân mình và thường tỏ lòng kính trọng đối với cuộc sống của phụ nữ, trong khi thêu dệt cùng các yếu tố của thần thoại và hiện thực. Bà thuyết giảng và đi lưu diễn tại nhiều trường đại học, cao đẳng Hoa Kỳ để giảng dạy văn học. Allende nhận tư cách công dân Hoa Kỳ vào năm 2003 và sống ở California với chồng từ năm 1989. Bà là người gốc xứ Basque, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Đây là cuốn sách hay, nhưng rất ít người biết vì nó không được giới thiệu rộng rãi. Cuốn sách được đánh giá ngang với “Trăm năm cô đơn” của Garcia Marquez. (Trích từ “Hội những người thích Tiểu thuyết kinh điển” trên mạng xã hội) *** Đây là tiểu thuyết dang dở duy nhất trong bộ ba tác phẩm hiện thực huyền ảo có tác động sâu sắc đến tôi, với hai tác phẩm còn lại là Thế kỷ ánh sáng và Trăm năm cô đơn. Gọi là dang dở, bởi lẽ khi tôi còn trẻ, ở nhà tôi chỉ có tập một trong bộ hai tập, thiếu mất tập hai. Hơn mười năm sau, tôi mới có đủ điều kiện để đặt mua một bản dịch bằng tiếng anh, và kết thúc việc đọc tác phẩm này. Có lẽ cái dang dở thì bao giờ cũng đẹp hơn thực tế, tôi có phần nào thất vọng với phần hai không giống như tôi tưởng tượng, nhưng nhìn lại một cách tổng thể, đây vẫn là một tác phẩm lớn, đặc biệt và tinh tế theo một kiểu mà chỉ có một người phụ nữ mới viết ra được.Cái gì trong tiểu thuyết này đã làm cho tôi của thời niên thiếu thích đến như thế ? Hồi đó tôi còn đơn giản, còn xao động bởi những câu đơn, chưa hiểu rằng một câu văn câu nói đứng riêng, dù hay đến đâu cũng không có giá trị nhiều, nghệ thuật không nằm nơi đầu lưỡi. Nhìn lại, tôi có thể hơi ngượng ngùng mà thừa nhận rằng đoạn độc thoại của Alba trích ở phần giới thiệu chính là thứ đã ảnh hưởng đến tôi, cho tôi cái quyết tâm sắt đá vào đúng khi tôi đang rất cần những lời cổ vũ, động viên, cũng khiến tôi ngày một hàm ơn điều tuyệt vời mang tên văn học :   “…ngày mà ông ngoại tôi vật ngửa bà hắn, Pantra Garcia, giữa những bụi lau bên bờ sông, ngày đó đã vẽ thêm một mắt xích những sự việc thế tất phải được hoàn thành. Sau đó đứa cháu của người phụ nữ bị hiếp lại lặp lại hành động đó với đứa cháu gái của kẻ hiếp dâm, và trong khoảng bốn mươi năm sau, có thể cháu trai của tôi sẽ vật cháu gái của hắn giữa những bụi lau sậy ven sông, và cứ thế, cho tới những thế kỷ sắp tới, trong một lịch sử vô tận những đau thương, đổ máu và tình yêu. Trong chuồng chó, tôi đã có ý định sắp đặt một trò chơi nhức đầu mà trong đó mỗi bộ phận đều được lắp vào đúng chỗ của nó… …tôi sẽ rất khó trả thù cho tất cả những người cần được trả thù, vì sự trả thù của tôi sẽ lại chỉ là một phần của vẫn cái nghi thức từ xưa, không thay đổi. Tôi muốn nghĩ đến công việc của tôi là sống và sứ mệnh của tôi không phải là kéo dài mãi mối căm thù, mà chỉ là công việc viết đầy những trang sách này trong khi chờ đợi Miguel trở về, trong khi chôn cất cho ông tôi, người hiện đang nằm nghỉ bên tôi, trong căn phòng này, trong khi tôi chờ đợi những thời kỳ tốt đẹp nhất định sẽ đến và thai nghén cho đứa nhỏ mà tôi mang trong bụng, đứa con của biết bao cuộc hãm hiếp, hoặc có thể là con của Miguel, nhưng trước hết, nó là con tôi.” Câu nói ở trên chứa đựng một điều mà rất ít người hiểu được : cần nhiều lòng dũng cảm, nghị lực và lòng nhẫn nại để vượt qua những thăng trầm trong cuộc sống, còn cần rất nhiều hơn thế để gạt đi quá khứ và bắt đầu lại mọi sự từ đầu, nhưng khi anh muốn chặn đứng cái vòng quay nghiệt ngã và tàn ác mà số phận đã cài lên người anh, chặn đứng dòng thác những nhơ nhuốc và xấu xa vẫn cuốn anh đi không ngừng, làm ô uế tâm hồn anh, như thế vẫn là chưa đủ. Nếu muốn dừng cái vòng quay đó, nếu muốn gìn giữ lấy tâm hồn mình nguyên vẹn và xa rời cái tất yếu của lòng hận thù, sự hèn nhát, sự giả dối không tránh khỏi, hy vọng duy nhất mà anh có thể nắm lấy, là hãy nuôi dưỡng tình yêu trong trái tim mình. Rất lâu sau này tôi mới hiểu rằng để làm được điều đó, người ta có thể phải hi sinh tất cả phần còn lại. Tôi vẫn thường nghĩ đến thời điểm mà Allende đặt bút viết những dòng cuối này của cuốn tiểu thuyết của bà, cũng như khi Gorki đọc lên những câu nói tuyệt vời đầy ánh sáng về văn học trong một buổi hội nghị ở Nga, hay lúc những câu chữ từ ngòi bút của Aimatov thấm lên trang giấy, những thời điểm tưởng như rời rạc và xa lạ ấy đều có kết nối với tôi, thay đổi tâm hồn tôi, một đứa trẻ cô độc sinh ra nhiều năm sau đó trên một vùng đất gần như tận cùng thế giới, thay đổi cuộc đời tôi. Khi đó tôi cảm nhận được rõ rệt và sâu sắc sự vĩ đại của môn nghệ thuật mang tên văn học và có lẽ từ lúc ấy, cuộc sống của tôi đã gắn liền với nó. Năm tháng trôi đi, tôi bây giờ đã là người của tuổi ba mươi. Có thể nói, ngoài việc gìn giữ trái tim mình, tôi không đạt được gì nhiều. Cuộc sống vẫn tiếp tục, vật chất đầy đủ hơn, nước trôi về nơi thấp hơn, xung quanh tôi, con người tha hóa. Tôi của tuổi ba mươi không còn xúc động chỉ vì một câu nói nữa, dù câu nói đó có là của Isabel Allende. Lần đọc này điều làm tôi thích thú là những nhân vật nữ trong truyện, vốn được lấy cảm hứng từ chính những người trong gia đình của Allende. Dù khác nhau, bọn họ có một điểm chung : giống như Remedios của Garcia Marquez, muốn chinh phục được họ, không có cách nào khác ngoài việc cho họ thấy tình yêu trong trái tim anh. Và tình yêu ấy phải trong sạch, giản dị, chân thành. Chỉ có cách ấy thôi, họ không thể bị mua chuộc hoặc chinh phục bởi bất kỳ điều gì khác. Đây là một điểm mà nói chung những cô gái tầm thường không bao giờ hiểu, thậm chí thấy xa lạ, khó tiếp cận : tình yêu chân chính luôn luôn gắn liền với một cảm nhận sâu sắc về lẽ phải, nó có sức mạnh khiến những kẻ yêu nhau nhận thức được điều đúng sai một cách thật tự nhiên như bản năng. Từ Rosa người đẹp, Clara người tiên tri cho đến những cô gái bình thường hơn như Blanca, Amanda, Alba, tất cả những người phụ nữ trong tác phẩm này đều nổi bật lên vì chiều sâu tâm hồn của họ và không phải sắc đẹp của họ mà chính là cái chất nữ tính nguyên thủy và tinh tế đã khiến họ đều có sức thu hút khủng khiếp với đàn ông. Trong truyện, mối tình được khắc họa chi tiết nhất là giữa Esteban Trueba và Clara. Esteban là một mẫu đàn ông phấn đấu cho sự nghiệp, khởi đầu với chỉ một cái tên quý tộc và một gia đình sa sút nghèo hèn, anh làm việc như súc vật để đổi đời, để có tiền lấy được vị hôn thê là Rosa người đẹp. Đáng tiếc cô tiên tóc xanh này không phải là người của cõi trần, cô sớm ra đi để lại anh thanh niên cay đắng và điên giận số phận. Anh bộc lộ hết phần xấu xa của con người mình : làm việc như điên, bóc lột nông nô, hiếp dâm thôn nữ, sống như một kẻ man rợ. Clara là người mang anh trở lại với sự cân bằng, cô lấy hôn phu của người chị đã mất. Mỏng manh, lơ đãng, vui tươi và thần bí, Clara luôn là một cái gì đó mà Esteban không bao giờ nắm bắt được, quyền hành của anh không bao giờ áp đặt nổi cá tính của cô, những cơn giận dữ thô bạo của anh không bao giờ có tác dụng với cô, sự dâm đãng của anh không làm cô sợ hãi, quà tặng xa xỉ của anh không làm cô vui sướng, sự ngoại tình của anh không làm cô ghen tức. Từ khi lấy cô cho đến tận khi anh chết, rất lâu sau khi cô qua đời, Esteban luôn yêu cô đến mức mất cả lý trí. Tôi thực sự vui thích khi đọc những dòng Allende miêu tả cảm giác của Esteban về vợ, những suy nghĩ bực tức mà trìu mến, bất lực trong sự say mê của một kẻ vốn thô lỗ, chuyên quyền, không biết diễn đạt cảm xúc của mình, không hiểu rằng muốn được vợ yêu, chỉ có duy nhất một cách đấy là anh phải trở thành người tốt và không chỉ tốt với cô : “Căn bệnh kéo dài đã làm sứt mẻ cơ thể tôi và tính nết tôi càng trở nên tồi tệ… Đến cả Clara, người chưa bao giờ sợ hãi cơn cáu bẳn tồi tệ của tôi, một phần vì tôi cũng hết sức giữ gìn để không nổi giận với em, cuối cùng cũng đi đến sợ hãi. Nhìn em sợ hãi mình, tôi càng thấy trong người căng thẳng. Dần dà Clara tới chỗ có nhiều thay đổi. Em có dáng mỏi mệt và tôi thấy em như xa cách mình. Em đã không còn cảm tình với tôi, những cơn đau của tôi không còn khiến em thương hại mà lại làm em khó chịu, và tôi nhận thấy em như muốn tránh mặt tôi… Clara càng xa cách, tôi lại thấy sự cần thiết về tình yêu của em càng lớn. Nỗi thèm muốn mà tôi có khi cưới em đã không giảm bớt, tôi vẫn muốn được em hoàn toàn, đến tận những ý nghĩ sâu thẳm nhất của em, nhưng người phụ nữ trong vắt như không khí kia đi qua bên tôi như một hơi thở, và dù cho tôi có nắm giữ em bằng đôi bàn tay và ôm hôn em một cách tàn nhẫn, tôi vẫn không thể cầm giữ được em. Tinh thần em không ở cùng tôi … Chúng tôi chỉ gặp nhau trong giờ ăn, và lúc đó tôi là người vừa nói vừa nghe hết cuộc chuyện trò, vì em dường như bay trên những tầng mây lơ lửng. Em trở nên rất ít nói và để mất đâu nụ cười tươi mát và mạnh bạo, cái vẻ mà tôi thích thú nhất trong người em. Bây giờ em đã thôi không còn ngả đầu ra đằng sau mà há miệng cười ha hả. Hầu như không cả mỉm cười… …có lẽ tôi chẳng phải là một anh chồng tế nhị, lúc nào cũng biết tặng hoa và nói những chuyện có duyên, hay đẹp. Nhưng tôi cố gần em. Sao lại định nhỉ, lạy chúa ! Tôi đột nhập vào buồng em khi em đang say mê viết những cuốn vở ghi chép cuộc đời hoặc đang ngồi bên chiếc bàn gọi hồn. Tôi định cố chia sẻ cùng em cả những trò đó nữa, nhưng em không thích người khác xem những điều em ghi chép, và sự có mặt của tôi cắt đứt hứng thú của em khi đang chuyện trò với những hồn ma, cho nên tôi phải từ bỏ ý đồ… Có thể chúng tôi cũng có những sự hiểu lầm bởi nhiều lý do khác. Trên thực tế, rất ít khi chúng tôi đồng ý với nhau về một sự việc gì. Không phải tính nóng nẩy cáu bẳn của tôi là cái tội gây ra tất cả những cuộc tranh cãi và bất đồng ý kiến đó, vì tôi là một người chồng tốt, không còn chút nào bóng dáng của anh chàng điên cuồng khi chưa vợ xưa kia. Và em, em là người phụ nữ duy nhất của tôi. Cho đến bây giờ vẫn thế. Một hôm Clara cho đặt một khóa ngang trong cửa phòng em và không để cho tôi vào nằm cùng giường, ngoài những trường hợp tôi thúc ép ghê quá, dọa rằng nếu từ chối có nghĩa là cắt đứt hoàn toàn… việc đó kéo dài nhiều tuần lễ, tôi liền quyết định phải nói với em. Bình tĩnh em giải thích cho biết quan hệ vợ chồng giữa chúng tôi đã bị tổn thương, và vì vậy sự sẵn sàng đón nhận những yêu đương nhục thể trong em đã mất. Em diễn giải một cách tự nhiên rằng nếu đã chẳng còn gì để nói với nhau, thì cũng không có lý do gì nằm cùng một giường, và tỏ vẻ ngạc nhiên thấy suốt ngày tôi giận dữ với em, mà đến đêm lại muốn được em vuốt ve âu yếm. Tôi cố sức nói cho em rõ về phương diện đó đàn ông và đàn bà có đôi chút khác nhau, và tôi yêu quý em dù cho tôi có nhiều tai quái, nhưng tất cả đều vô ích… Điều lạ lùng là vấn đề tình dục của tôi, theo năm tháng trôi qua, trở nên có chọn lọc hơn, nhưng hầu như vẫn bừng bừng dễ cháy như thể trong thời trai tráng. Tôi thích ngắm nhìn phụ nữ, đến bây giờ vẫn như vậy. Nó như một khoái cảm thẩm mỹ, tinh thần. Nhưng chỉ riêng Clara bao giờ cũng khơi dậy trong tôi một thèm muốn cụ thể, tức khắc, bởi trong cuộc chung sống lâu dài, chúng tôi đã hiểu biết rõ về nhau, và người nọ bằng ngón tay của mình đã thông thuộc cái địa lý chính xác của người kia. Em biết đâu là những điểm nhạy cảm nhất của tôi, và có thể nói cho tôi biết đúng điều tôi cần nghe. Vào độ tuổi mà số đông nam giới đã chán vợ mình và cần thiết có sự kích thích của những người phụ nữ lạ để có thể tìm thấy tia lửa thèm muốn, tôi vẫn tin chắc chắn rằng chỉ có cùng Clara tôi mới có thể thực sự yêu đương, như thể trong thời kỳ trăng mật, không biết mệt. Nên tôi không hề có ý định đi tìm những người đàn bà khác. Tôi bắt đầu bao vây em khi bóng đêm đổ xuống. Về buổi chiều khi em ngồi viết, tôi giả vờ thưởng thức píp thuốc, nhưng thực tế tôi liếc mắt dò xét trộm. Nhẩm tính rằng em sắp sửa rút về phòng, vì thấy em đã bắt đầu lau ngòi bút và gấp những quyển vở lại, tôi liền đi trước ngay. Tôi khập khiễng bước vào phòng tắm, lau rửa, mặt một áo khoác trong nhà bằng nhung tơ mà tôi đã mua nhằm quyến rũ em, nhưng hình như em chưa bao giờ chú ý đến sự tồn tại của nó ; tôi dán tai vào cánh cửa và chờ em. Khi tôi thấy tiếng em bước trên hành lang, liền chạy ra ôm liền. Tôi đã thử đủ mọi cách, từ trút đầy người em những lời khen ngợi và tặng phẩm, cho đến dọa nạt sẽ tống ra khỏi cửa và dần cho một trận ba-toong dừ người, nhưng chẳng cách nào có thể lấp nổi vực thẳm ngăn cách giữa hai chúng tôi… Clara lảng tránh tôi bằng vẻ lơ đãng mà tôi rất ghét. Tôi không thể hiểu được cái gì đã làm cho em có sức hấp dẫn tôi đến thế. Em là một phụ nữ đã có tuổi, không đỏm dáng chút nào, khi bước đi hơi lê đôi chân, và đã không còn tính vui vẻ vô cớ nó làm cho em rất duyên dáng trong thời kỳ thanh niên. Clara cũng chẳng có vẻ quyến rũ hoặc dịu dàng âu yếm với tôi. Chắc chắn em không hề yêu tôi. Thật chẳng có lý do gì làm cho tôi phải thèm muốn em đến độ không mực thước và thô bạo nó đẩy tôi tới chỗ thất vọng và lố lăng như vậy. Thế nhưng tôi vẫn chẳng tránh được điều đó. Dáng đi đứng nhỏ nhẹ của em, mùi sạch sẽ của quần áo và xà phòng của em, ánh sáng của đôi mắt em, cái duyên dáng của chiếc gáy gầy nhỏ có những mớ tóc loăn xoăn bướng bỉnh rối tung của em, tất cả những thứ đó trong em tôi đều thấy thích. Sự mảnh dẻ của em gây cho tôi một cảm giác dịu hiền không chịu nổi, lại muốn che chở bênh vực em, ôm ấp làm cho em cười vang như những ngày xưa, lại cùng ngủ bên nhau, đầu em gục trên vai tôi, đôi chân thật nhỏ và ấm của em co dưới đôi chân tôi, tay em đặt trên ngực tôi, ôi thật dễ thương và quý giá. Đôi lần tôi có ý định trừng phạt em bằng lối giả vờ hờ hững, nhưng chỉ sau một vài ngày là tôi chịu thua ngay, vì em có vẻ yên tâm và sung sướng nhiều hơn trong thời gian tôi tỏ vẻ quên em. Tôi đục một lỗ thủng trên tường buồng tắm để nhìn trộm em, nhưng việc đó lại đẩy tôi vào một tình trạng nôn nao xáo động gớm ghê nên tôi lại phải bịt nó lại bằng vôi vữa…” Thật sự là chỉ có một người phụ nữ nhạy cảm và thông minh mới viết ra được những dòng này, thứ văn dịu dàng và tình cảm làm tôi cười nhiều lần khi gõ lại như thế này không thể là của một người đàn ông. Cũng không thể là của một cô bé như kiểu Banana Yoshimoto. Tôi nghĩ, giá mà Allende cứ tiếp tục viết như thế này thì sẽ hay biết mấy, một câu chuyện thuần chất phi chính trị, đi sâu vào đời sống và tâm hồn con người Chile nói riêng và Mỹ latin nói chung… Cuộc chiến giữa hai phe cực tả và cực hữu, giữa quân phiệt và cộng sản, những cuộc tàn sát ở phần hai đã làm câu chuyện có tính thời cuộc hơn, và bớt tính phi thời gian hơn. Nhiều năm trôi qua, sự khác biệt này giữa Ngôi nhà của những hồn ma và Trăm năm cô đơn đã lộ rõ. Isabel Allende không bằng được Garcia Marquez, nhưng tôi thấy bà cũng đã quá thành công.   Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Của Những Hồn Ma của tác giả Isabel Allende.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lâu Đài Cát - Magdalena Witkiewicz
Bằng ngôn ngữ của nhà văn và sự nhạy cảm của phụ nữ, Magdalena Witkiewicz đem tới những cảm xúc hỗn độn của một người đàn bà trước vực thẳm hôn nhân. Veronika và Marek quen nhau khi còn là học sinh trung học. Sáu năm hẹn hò của họ kết thúc bằng một đám cưới hạnh phúc. Với Veronika, được kết hôn với mối tình đầu là một điều tuyệt vời. Mặc kệ những lời trêu chọc của cô bạn thân lẳng lơ Dominika: "Sẽ chán chết nếu chỉ kè kè với một người đàn ông", Veronika vẫn mỉm cười hạnh phúc, bởi người chồng Marek là quá đủ với cô. Họ luôn ở bên nhau, tận hưởng những cảm xúc ngọt ngào của tình yêu cho đến khi những bất ổn xuất hiện. Khi những cặp tình nhân xung quanh đã làm cha mẹ, Veronika và Marek vẫn là vợ chồng son. Veronika rất yêu trẻ con và luôn mơ ước sẽ sinh cho Marek những đứa con xinh xắn. Nhìn con gái đáng yêu của cô bạn thân Eva, ước mơ đó càng mãnh liệt. Cô bắt đầu bàn bạc nghiêm túc với chồng về chuyện sinh con. Cô bắt chồng ăn uống và sinh hoạt điều độ để khả năng thụ thai cao hơn. Điều này làm Marek không thoải mái và mâu thuẫn dần nảy sinh giữa hai người. Nhưng mọi thứ vẫn không như ý muốn. Cuối cùng, cả hai quyết định tìm đến bác sĩ. Kết quả kiểm tra sức khỏe như một lưỡi dao chĩa thẳng vào cuộc hôn nhân của họ. Mọi vấn đề đến từ phía Marek. Tinh trùng của anh quá yếu để thụ thai. Để tình hình được cải thiện anh buộc phải điều trị bằng thuốc. Marek bắt đầu thấy ngột ngạt khi Veronika lúc nào cũng đề cập đến vấn đề con cái. Ngược lại, Veronika bực bội khi thấy chồng hút thuốc và uống bia. Cô còn có cảm giác như chính Marek đã cướp đi cơ hội làm mẹ của mình. Đúng lúc đó Kuba xuất hiện. Bằng sự tinh tế và nhạy cảm của một người đàn ông từng trải, anh mang đến cho Veronika những lời khuyên hữu ích, làm tâm trạng của cô nhẹ nhàng hơn. Họ bắt đầu gọi điện và gửi email cho nhau. Cùng thời gian này, Veronika nghi ngờ Marek gian díu với Dominika. Cộng thêm việc anh suốt ngày vắng nhà và lấy lý do bận bịu công việc khiến khoảng cách giữa hai vợ chồng ngày một lớn. Marek quyết định ra đi để cho cả anh và Veronika có thời gian suy nghĩ thông suốt mọi chuyện. Ban đầu, tình cảm giữa Veronika và Kuba chỉ là tình bạn thuần túy. Nhưng khi Marek ra đi, họ đã trở thành bạn tình của nhau. Veronika hoàn toàn hài lòng với mối quan hệ này. Chỉ đến khi biết mình có thể đã mang thai với Kuba, cô mới nhận ra mọi khúc mắc trong lòng bấy lâu. Cô rất mong mỏi có con, nhưng khi biết mình có thể đang mang thai, Veronika lại không cảm thấy hạnh phúc như cô vẫn nghĩ. Cô nhận ra, cô yêu chồng nhiều hơn cả việc cô muốn có một đứa con. Bao lâu nay khát khao có con đã làm cô quên đi điều đó... Lần đầu tiên trong đời, Veronika cảm thấy may mắn khi mình không mang thai. Cô quyết định cắt đứt với Kuba và cho cuộc hôn nhân của mình thêm một cơ hội. Cuốn tiểu thuyết khép lại với cái kết hạnh phúc dành cho Veronika và Marek. Họ trở về bên nhau và có một cô con gái xinh xắn. "Hôn nhân không chỉ là sống cùng nhau và đeo nhẫn cưới mà là phải thấu hiểu và thông cảm cho đối phương" là ý nghĩa Veronika tìm được cũng là thông điệp của câu chuyện. Bằng bút pháp tinh tế của một nhà văn và sự từng trải của một người phụ nữ có gia đình, Magdalena Witkiewicz đã vẽ nên một bức tranh sống động và chân thực về tình yêu và hôn nhân. Tác giả không cho rằng tình yêu là vĩnh cửu. Bằng câu chuyện đầy thực tế, tác giả cho người đọc thấy, dẫu có là tình yêu đích thực vẫn luôn có một đặc tính: mong manh dễ vỡ. Giữ gìn một tình yêu cũng giống như xây một lâu đài cát, ta phải luôn để mắt đến nó để giữ không cho sóng cuốn đi. Lâu đài cát không chỉ là câu chuyện về một về một người phụ nữ đau khổ trước hôn nhân tan vỡ. Đó còn là câu chuyện của niềm khát khao làm mẹ đến vô bờ. Chính nỗi khát khao đó khiến con người ta đứng trước nhiều lựa chọn khó khăn. Magdalena Witkiewicz đã rất khéo léo khi xây dựng tính cách các nhân vật. Một Veronika với vẻ ngoài cứng cỏi nhưng bên trong lại rất yếu mềm. Cô là một người phụ nữ trưởng thành nhưng đôi lúc lại ngây thơ như một thiếu nữ.  Đó là Marek - một người chồng vừa cứng rắn, vừa cương quyết, nhưng vẫn tràn đầy yêu thương và luôn điềm tĩnh. Còn Kuba - người đàn ông tinh tế và mạnh mẽ - tưởng chừng rất tuyệt vời hóa ra lại là một người đàn ông nhu nhược và chỉ biết trốn chạy. *** Magdalena Witkiewicz là một cái tên quen thuộc trong dòng văn học lãng mạn Ba Lan. Ngoài Lâu đài cát, tác giả có một số cuốn tiểu thuyết khá nổi tiếng về đề tài phụ nữ và gia đình, đã ra mắt độc giả Việt Nam như: Trường học dành cho các bà vợ, Chuyện kể của người đàn bà không chung thủy... Lâu đài cát do Nguyễn Thị Thanh Thư chuyển ngữ, vừa được Nhà xuất bản Trẻ phát hành tại Việt Nam. *** “Lâu đài cát” – chúng tôi đã suy nghĩ rất lâu về tựa đề này. Tôi đã khăng khăng đòi cuốn sách phải có tên là “Trên khúc ngoặt”. Bởi nó nói về chuyện đó. Về những khúc ngoặt của cuộc đời, mà đôi khi chúng xảy ra hoàn toàn bất ngờ. Và đôi khi tưởng như sẽ dẫn đến một con đường thẳng. Nhưng lúc này, khi đọc lại một lần nữa toàn bộ cuốn sách, tôi hiểu rằng sự mong manh của lâu đài cát là phù hợp hơn cả... Tất nhiên là có một số người mà tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn vì sự ủng hộ trong quá trình viết. Nếu không có các bạn, thì cuốn sách sẽ không giống như cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay. Trước hết, xin cám ơn các bạn đọc nữ của tôi, nhưng người rất hiểu về chủ đề của cuốn sách và đã viết cho tôi. Tôi không thể kể hết tên các bạn ra đây được. Cám ơn Kasia Drywa vì sự giúp đỡ và Cô gái trên chiếc tàu xoáy cao tốc (có thể cuối cùng thì bạn ấy đã rời khỏi chiếc tàu cao tốc) vì cuốn nhật ký. Cám ơn cô bạn gái thân thiết của tôi, Gosia Lorek vì sự ủng hộ không ngừng nghỉ trong tất cả các giai đoạn hình thành nên tiểu thuyết này. Vì điều đó, tôi cũng cám ơn Ola Kucewicz-Nastaly – nhờ bạn mà những cái thai trong sách không đến nỗi quá hiển nhiên... Và như vậy sẽ hay hơn. Và nhờ bạn mà những calo được sử dụng trong phạm vi sáng tạo đã không bị phí phạm... Xin cám ơn! Cám ơn Ania Jarmolovska và Monika Borovska vì cuộc nói chuyện của chúng ta ở khu vui chơi. Nhờ các bạn mà tôi đã nảy ra những ý tưởng rất rối rắm... Và còn nữa Ania – cám ơn vì những tư vấn về tâm lý đối với các nhân vật của tôi. Tôi cũng xin cám ơn chuyên gia lớn nhất trong lĩnh vực thần thoại – cô gái hai mươi tuổi Sonia Domaradzka, người mà khi nghe tôi hỏi rằng, trong thần thoại Hy Lạp có nhân vật nào muốn có con nhưng không thể, đã suy nghĩ chỉ trong ba giây và trầm ngâm trả lời: “trong thần thoại Hy Lạp thì em không biết, nhưng trong thần thoại Ai Cập thì có Neftyda, người...” – và ở đây tôi đã biết đến mọi mối liên kết giữa Neftyda với các vị thần Hy Lạp... Cám ơn em, Sonia!!! Michalina Malczewska, xin cám ơn vì phần âm nhạc tuyệt vời và sự thể hiện ca khúc do tôi viết lời cho riêng tiểu thuyết này. Michalina đã đưa vào âm nhạc chính xác cái không khí của cuốn sách. Mời các bạn nghe ca khúc này trên trang web của tôi www.magdalenawitkiewicz.pl. Cám ơn Ania Grzyb vì sự ủng hộ trong từng giai đoạn viết cuốn sách này; Slawek – vì những tư vấn liên quan đến xe máy và không chỉ có vậy. Cám ơn Ivona Grodzka-Górnik, vì điều này: trên bảng của chị ấy tôi đã nhìn thấy sơ đồ cuốn sách của chị được viết ra rất tuyệt vời và tôi đã bỏ qua ý tưởng ấy. Cám ơn Kasia Bondz vì đã dạy Ivonka lập bảng kế hoạch. Các bạn có biết rằng đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi được viết theo sơ đồ dựng sẵn? Cám ơn mẹ tôi vì đã quán xuyến mọi việc (nhất là các con tôi), khi deadline hối thúc. Và Mai Witkiewicz, người đã trông nom các con tôi một cách kiên cường khi tôi ở Amalka để viết cuốn sách này. Kamilia Wyroślak, vì những bức ảnh đẹp, như mọi lần! Cám ơn ông xã tôi vì hình như anh đã nhất trí với việc tôi sẽ là nhà văn. Và cám ơn các con tôi – đơn giản vì sự hiện hữu. Vô cùng cám ơn Olga và Marysia. Vì sự tận tâm và vì các bạn yêu những gì mình làm. Hay ít ra cũng có vẻ như vậy. Và các bạn, NHỮNG BẠN ĐỌC YÊU QUÍ CỦA TÔI! Không có các bạn chắc sẽ không có tôi. Như thường lệ, tôi hết sức muốn biết nhận xét của các bạn về cuốn sách của tôi, về đứa con tinh thần thứ bảy này. Tôi chờ mail của các bạn ([email protected]) và xin mời các bạn đến với những cập nhật mới nhất trên Facebook www.facebook.com/witkiewicz. Magdalena Witkiewicz Mời các bạn đón đọc Lâu Đài Cát của tác giả Magdalena Witkiewicz.
Đói - Knut Hamsun
Harald Hjärne, Chủ tịch Uỷ ban Nobel Viện Hàn lâm Thụy Điển Căn cứ vào các qui chế của Quĩ Nobel, Viện Hàn lâm Thuỵ Điển đã trao giải Nobel văn chương năm 1920 cho nhà tiểu thuyết người Na Uy - Knut Hamsun, với tác phẩm Nhựa của đất (1917) (Markens grøde). Sẽ là thừa nếu đưa ra một tuờng trình chi tiết về quyển sách mà chỉ trong một thời gian ngắn đã được phổ biến rộng rãi khắp mọi nơi, cả bằng nguyên tác và bản dịch. Qua sự độc đáo về cốt truyện và phong cách, cuốn tiểu thuyết đã dấy nên sự quan tâm vô cùng sống động ở nhiều nước và được tiếp nhận nồng nhiệt bởi nhiều tầng lớp độc giả khác nhau. Mới đây, một nhà điểm sách hàng đầu và bảo thủ người Anh đã viết rằng quyển sách này chỉ mới xuất hiện ở Anh năm nay nhưng đã được dư luận ngợi khen là một kiệt tác. Lí do của thành công không thể phủ nhận này chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của giới phê bình văn học trong một thời gian dài, nhưng ngay từ bây giờ, với những ấn tượng đầu tiên, thiết tuởng cần chỉ ra những lí do ấy, ít nhất là những nét chính. Bất chấp những ý kiến hiện nay về thời đại chúng ta, những ai cho rằng trong văn học, cái cao hơn tất cả là sự tái hiện trung thành hiện thực thì sẽ thấy trong Nhựa của đất , sự tái hiện một cuộc sống là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của bất cứ xã hội nào nơi con người sinh sống và tạo dựng. Những miêu tả này không bị bóp méo bởi bất cứ hoài niệm nào về một quá khứ văn minh lâu dài. Hiệu quả tức thì ở chỗ khơi lên cuộc đấu tranh gay gắt ngay từ đầu giữa con người tích cực (dĩ nhiên trong những điều kiện bên ngoài khác nhau) bền bỉ chống lại một thiên nhiên bất phục và khắc nghiệt. Khó lòng hình dung sự đối lập nào choáng ngợp hơn giữa cuốn sách này với những tác phẩm thường được gọi là "cổ điển". Tuy nhiên, ta vẫn có thể gọi tác phẩm này một cách chính tắc là cổ điển, nhưng theo nghĩa sâu xa hơn, nếu ta dùng tính ngữ này thể hiện một điều gì đó khác hơn và nhiều hơn một lời ngợi khen mơ hồ. Cái cổ điển, trong nền văn hóa mà chúng ta thừa kế từ xa xưa, chỉ phần nào là cái hoàn thiện buộc ta bắt chước, còn phần nhiều là những gì có ý nghĩa, được rút ra trực tiếp từ đời sống và tái hiện dưới dạng một giá trị bền vững với cả các thời đại sau. Theo ý niệm này, những gì không có ý nghĩa, những gì tự chúng không quan trọng, chỉ có thể xem như cùng một loại với những gì được chính thức coi là tạm bợ hay khiếm khuyết. Nhưng ngoài ra, bất cứ điều gì quí giá trong cuộc sống con người, dù có vẻ bình thường, đều có thể xếp vào cùng một phạm trù với cái khác thường và cái sáng láng, với một ý nghĩa và dạng thức giá trị tương đương, chừng nào nó được hiển bày lần đầu tiên trong ánh sáng đích thực của nó. Với ý nghĩa này, không hề nói quá nếu cho rằng trong Nhựa của đất , Hamsun đã mang đến cho thời đại chúng ta cái cổ điển có thể so với cái đẹp nhất mà chúng ta từng có. Trong khía cạnh này, cái cổ xưa không có đặc quyền bất khả xâm phạm đối với các thế hệ sau, vì cuộc sống luôn luôn mới và phong phú vô tận, và có thể được tái hiện dưới những hình thức mới bởi những thiên tài mới. Tác phẩm của Hamsun là một bản hùng ca về lao động, trong đó tác giả nói về lao động bằng những áng thơ hoành tráng. Đây không phải là chuyện phân công lao động vốn chia rẽ những con người mà là chuyện lao động cần cù, tập trung, thứ lao động mà trong hình thức thuần khiết nhất của mình tạo nên toàn bộ con người, xoa dịu và mang lại gần nhau những tâm hồn chia cách, bảo vệ và gia tăng thành quả của mình trong một quá trình đều đặn và liên tục. Sức lao động của người tiên phong và người nông dân đầu tiên, với tất cả những khó khăn, dưới ngòi bút của nhà thơ, mang tính cách một cuộc đấu tranh anh hùng không hề thua kém chút nào so với cái vĩ đại của sự hi sinh lẫm liệt cho tổ quốc và chiến hữu. Cũng như nhà thơ nông dân Hesiod miêu tả lao động trên đồng ruộng, Hamsun đặt lên hàng đầu trong tác phẩm người lao động lí tưởng, người hiến trọn cuộc đời và sức lực mình cho việc vỡ đất và vượt qua những trở ngại mà con người và thiên nhiên dựng lên để chống lại anh. Nếu Hamsun đã vứt bỏ sau lưng mọi hoài niệm nặng nề về văn minh, thì tác phẩm của ông cống hiến một cách hiểu chính xác về nền văn hóa mới mà kỉ nguyên chúng ta đang chờ đợi sẽ nảy sinh từ tiến trình lao động chân tay như một sự tiếp nối nền văn minh cổ xưa. Hamsun không đưa ra cái gọi là "loại hình nhân vật" trên sân khấu của ông. Các nhân vật nam và nữ của ông đều sống động, ngay cả trong những tình huống khiêm nhường nhất. Vài người trong số họ, những người tốt nhất, có những mục tiêu và tư tưởng mà chúng ta không thể hình dung, ví dụ nổi bật là nhân vật chính, người nông dân trầm lặng và lao động không mệt mỏi. Những người khác thì buông xuôi phó mặc, bất an và thậm chí hoang mang bởi những khát vọng ích kỉ và ý nghĩ xuẩn ngốc. Tất cả họ đều mang dấu ấn của dòng máu Na Uy, tất cả đều bị nhào nặn bởi những "quả của đất". Một trong những đặc tính của các ngôn ngữ cùng gia đình Scandinavie chúng ta, đó là cùng một từ biểu thị những sắc thái ý nghĩa rất khác nhau thông qua những hình ảnh mà chúng gợi nên. Khi người Thụy Điển chúng ta nói "quả của đất", ta nghĩ ngay đến một thứ gì đó màu mỡ, dồi dào, ngon lành, nhất là ở một vùng nông nghiệp nào đó đã được canh tác lâu đời. Tư duy trong tác phẩm của Hamsun không đi theo chiều hướng này. "Đất" ở đây là một vùng đất hoang sơ hung hiểm, gồ ghề sỏi đá. Trái quả của nó không tự rơi xuống như là lộc của trời, trái quả của nó là tất cả những gì có thể nảy mầm và lớn lên trên một mảnh đất khô cằn, dù tốt hay dở, đẹp hay xấu, giữa con người hay động vật cũng như trong rừng hay trên đồng ruộng. Đây là những loại quả mà tác phẩm của Hamsun mang lại cho mùa gặt của chúng ta. Tuy nhiên, người Thuỵ Điển chúng ta, hay ít nhất là nhiều người Thuỵ Điển, không cảm thấy xa lạ về những phong tục, tập quán được miêu tả ở đây. Ta phát hiện nơi đây, bầu không khí miền Bắc với một phần hoàn cảnh tự nhiên và xã hội, với nhiều điểm tương đồng hai phía biên giới (giữa Na Uy và Thuỵ Điển, ND). Hơn nữa, Hamsun cũng miêu tả những người Thụy Điển bị lôi cuốn đến vùng đất mới khai phá và hầu hết bọn họ, không nghi ngờ gì nữa, đều bị hấp dẫn bởi ảo ảnh về thành công kinh tế, bởi những thành phố dọc theo bờ biển Na Uy xuất hiện nơi chân trời như cám dỗ về cuộc sống trần thế huy hoàng, nó quyến rũ những trái tim dễ xiêu lòng muốn thoát khỏi cảnh lao động nặng nhọc của vùng đất này. Những tái hiện tâm lí đó, cũng như nhiều tái hiện khác, đầy tính người, hoàn toàn không làm giảm mà càng củng cố thêm ấn tuợng nhờ nội dung mang tính cổ điển của câu chuyện. Chúng xua đi nỗi sợ có thể nảy sinh trong ta khi nhìn thấy ánh sáng chân lí với cái giá phải trả là sự thật. Chúng đảm bảo tính chân thực trong từng chi tiết, của hình ảnh và nhân vật. Tính toàn nhân loại của chúng không bỏ sót một ai. Bằng chứng là tác phẩm đã được đón nhận bởi những người có tính cách, ngôn ngữ và phong tục khác nhau. Hơn nữa, bằng nụ cười hài hước nhẹ nhàng khi tái hiện những sự việc đau buồn nhất, tác giả chứng tỏ lòng cảm thông đối với số phận con người và bản tính con người. Nhưng trong câu chuyện, ông không bao giờ xa rời sự trong sáng nghệ thuật toàn bích nhất. Phong cách của ông loại bỏ mọi trang trí màu mè, chỉ tập trung vào tính chân thực và sự rõ ràng, và người đọc có thể phát hiện trong đó, dưới một hình thức độc đáo và mạnh mẽ, tất cả sự phong phú về sắc thái trong ngôn ngữ mẹ đẻ của nhà văn. Thưa Ngài Knut Hamsun! Khi đương đầu với thời tiết khắc nghiệt cũng như nỗi mệt mỏi sau chuyến đi dài - mà trong thời gian này lại càng thêm bội phần cực nhọc - để đến nhận giải thuởng trao tặng cho Ngài, Ngài đã mang lại niềm vui lớn cho Viện Hàn lâm Thuỵ Điển, niềm vui nhất định sẽ được chia sẻ bởi tất cả mọi người có mặt trong buổi lễ trọng đại này. Thay mặt Viện Hàn lâm, trong khoảng thời gian ngắn ngủi cho phép, tôi đã cố gắng trình bày ít nhất những lí do chính tại sao chúng tôi đánh giá cao tác phẩm vừa được đăng quang của Ngài như vậy. Vì vậy, giờ đây, với tư cách cá nhân, tôi không muốn nhắc lại với Ngài những gì tôi đã nói. Tôi chỉ còn mỗi việc thay mặt Viện Hàn lâm chúc mừng Ngài và hi vọng Ngài sẽ giữ mãi những kỉ niệm về cuộc gặp gỡ của chúng ta, và đó sẽ là mối dây thắt chặt mối quan hệ giữa Ngài với chúng tôi trong tương lai. Trần Tiễn Cao Đăng và Tân Đôn dịch (Theo VietNamNet) *** Knut Hamsun tên thật là Rnud Pedersen, (04.8.1859 - 19.02.1952) nhà văn Na Uy đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Ông là nhà văn làm đổi mới văn xuôi Na Uy và là người luôn cố gắng thể hiện đời sống tâm hồn vô thức.   Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Một số tác phẩm: - Den Gaadefulde. En kjærlighedshistorie fra Nordland (Con người bí ẩn, dưới tên Knud Pedersen, 1877), tiểu thuyết - Bjørger (dưới tên Knud Pedersen Hamsund, 1878), tiểu thuyết  - Fra det moderne Amerikas Aandsliv (Cuộc sống tinh thần của xã hội Mỹ hiện đại, 1889), tiểu luận  - Sult (Đói, 1890), tiểu thuyết  - Fra det ubevidste sjaceleliv (Từ cuộc sống vô thức của tâm hồn, 1890), tiểu luận  - Mysterier (Những điều bí ẩn, 1892), tiểu thuyết  - Redaktør Linge (Biên tập viên Linge, 1893)  - Ny Jord (Đất mới, hoàn tất năm 1893)  - Pan (Quý ngài, 1894), tiểu thuyết  - Ved Rigets Port (Nơi cổng vương quốc, 1895), kịch  - Livets Spil (Trò đời, 1896)  - Aftenrøde. Slutningspil (Hoàng hôn, 1898), kịch  - Victoria. En kjærlighedshistorie (Victoria, 1898), tiểu thuyết  - Munken Vendt. Brigantines saga I (1902), kịch thơ  - Det vilde Kor (Bản hợp xướng hoang dã, 1904), thơ  - Under Høststjærnen. En Vandrers Fortælling (Dưới ngôi sao mùa thu, 1906), tiểu thuyết  - Benoni (1908), tiểu thuyết  - En Vandrer spiller med Sordin (Kẻ lang thang chơi đàn không dây, 1909), tiểu thuyết  - Den sidste Glæde (Niềm vui cuối cùng, 1912), tiểu thuyết  - Børn av Tiden (Những đứa con của thế kỉ, 1913), tiểu thuyết  - Segelfoss By (Thị trấn Segelfoss, 2 tập, 1915), tiểu thuyết  - Markens Grøde (Nhựa của đất, 2 tập, 1917), tiểu thuyết  - Konerne ved Vandposten (Những người đàn bà bên giếng, 2 tập, 1920), tiểu thuyết  - Siste Kapitel (Chương cuối, 2 tập, 1923), tiểu thuyết  - Landstrykere (Những kẻ lang thang, 2 tập, 1927), tiểu thuyết  - August (Tháng Tám, 2 tập, 1930), tiểu thuyết  - Ringen sluttet (Vòng vây đã khép, 1936), tiểu thuyết  - Paa gjengrodde Stier (Theo lối mòn hoang, 1949) *** Ha, ha, với lũ chó ấy thì phải thế mới được! Ðồ vô lương tâm! Ðó là cách dạy cho chúng kính trọng người khác, bắt chúng phải run sợ... Tôi rất hài lòng với mình và lại bắt đầu khe khẽ hát. Trong trạng thái bị kích thích mạnh, quên cả đau, thậm chí không cảm thấy khó chịu chút nào và với lòng lâng lâng, tôi đi hết quảng trường đến chợ, rẽ sang nhà thờ Ðấng cứu thế và ngồi xuống một chiếc ghế dài ở đó. Suy cho cùng thì trả lại mười curon kia hay không cũng đều thế cả. Người ta gửi cho tôi, có nghĩa chúng là của tôi, ai gửi hoàn toàn không quan trọng. Người đưa thư được lệnh đưa cho tôi, vậy thì tôi phải nhận. Chẳng nhẽ lại cho anh ta? Và quả là ngu ngốc nếu bây giờ tôi hoàn lại cho người gửi mười đồng curon khác chứ không phải mười đồng tôi đã nhận. Nếu vậy thì chẳng còn biết làm gì nữa. Tôi cố gắng tập trung nhìn quảng trường sôi động đầy những người là người và nghĩ về những việc không liên quan gì đến tôi, nhưng điều này không mang lại mấy kết quả - mười đồng curon kia vẫn chẳng chịu chui ra khỏi đầu. Cuối cùng tôi bừng bừng tức giận, bóp chặt nắm đấm. "Nếu ta trả lại số tiền đó, nàng sẽ cảm thấy bị xúc phạm, - tôi tự bảo mình. - Thế thì còn gì nữa phải suy nghĩ?" Bao giờ tôi cũng rất cao đạo, không chịu nhận quà cáp. Trong những trường hợp ấy, tôi chỉ kiêu hãnh lắc đầu và nói: "ồ không, cảm ơn, rất cảm ơn". Và kết quả là gì? Tôi lại lang thang ngoài phố. Tôi không ở lại căn phòng ấm cúng của mình, mặc dù tôi có đầy đủ khả năng làm điều ấy. Tôi là người tự trọng, nên chỉ cần nghe một câu nào đấy khiếm nhã, là không chịu nổi và sẽ quẳng ngay những đồng mười curon vào mặt người nói rồi bỏ đi hẳn... Tôi tự trừng phạt mình, tự rời bỏ căn phòng của mình và lại lần nữa rơi vào tình cảnh khó khăn này. Nhưng thôi, quỷ tha ma bắt chúng đi! Tôi không ngửa tay xin những đồng curon ấy, và chúng cũng chẳng ở trong tay tôi lâu. Liền sau đó tôi đưa chúng cho người khác, tôi trả tiền nhà cho những người xa lạ mà tôi sẽ chẳng bao giờ thấy lại. Tôi là người thế đấy, khi cần, có thể cho tới đồng xu cuối cùng. Nếu Ilaialy đúng là người như tôi tưởng, nàng sẽ không hối hận rằng đã gửi tiền cho tôi. Thế thì còn băn khoăn gì nữa? Ðiều ít nhất nàng có thể làm được là thỉnh thoảng gửi cho tôi mười curon. Vì cô gái tội nghiệp này yêu tôi mà, thậm chí yêu một cách tuyệt vọng. Hồi lâu tôi tự an ủi mình bằng ý nghĩ này. Không nghi ngờ gì nữa - nàng yêu tôi, tội nghiệp... Năm giờ. Cơn kích thích thần kinh đã lắng, đầu tôi lại bắt đầu trống rỗng, chỉ còn tiếng ù ù trong đó. Tôi nhìn vào khoảng không bằng đôi mắt đờ đẫn và không hiểu sao lại nhìn thấy một hiệu thuốc trước mặt. Cơn đói tiếp tục cấu xé, làm tôi vô cùng khổ sở. Tôi cứ ngồi như thế, trân trân nhìn phía trước. Dần dần tôi nhìn thấy một hình người. Hình người ấy cứ rõ dần và cuối cùng tôi nhận ra đó là người đàn bà bán bánh rán bên hiệu thuốc. Tôi hít thở thật sâu, ưỡn thẳng lưng trên ghế và bắt đầu nhớ lại. Vâng, tất nhiên đó chính là bà bán bánh rán lần trước, với cái bàn bánh ấy và vẫn ngồi ở chỗ ấy. Tôi huýt sáo mấy lần, bật ngón tay rồi đứng dậy khỏi ghế, đi về phía hiệu thuốc. Khi lại gần, tôi nhìn bà ta một chốc rồi ngồi xuống cạnh. Tôi mỉm cười, gật đầu với bà ta như người quen. ... Mời các bạn đón đọc Đói của tác giả Knut Hamsun.
Đẹp Và Buồn
Kawabata viết tiểu thuyết cuối cùng mang tên Đẹp và buồn như để thêm một lần nữa khẳng định quan niệm mỹ học truyền thống lâu đời của Nhật Bản, và cũng là đúc kết lại toàn bộ tư tưởng sáng tác xuyên suốt trong sự nghiệp văn chương của ông. Câu chuyện chính của Đẹp và buồn kể về mối quan hệ tình yêu tay ba đầy bi kịch và tuyệt vọng của Oki với tình nhân Otoko, và người vợ Fumiko. Những nỗi đam mê, nhục cảm trong mỗi cõi đẹp đẽ đến điên rồ. Cái đẹp nằm trong tình yêu, sự ham muốn, và lòng hận thù, để rồi miên viễn trong một cuộc truy lùng, đeo đuổi, đi đến cái đích tận cùng của chiêm nghiệm, ấy là cái chết. "Chết là vĩnh viễn từ chối mọi lý giải của người khác. Không ai biết lý do hành động tự hủy của một người, cũng không ai có quyền phán đoán người đi tìm cái chết". Câu chuyện đầy trầm mặc được đặt trong bối cảnh chính là cố đô Kyoto, với tiếng chuông chùa cuối năm tĩnh lặng, với ngọn đồi êm ả dưới ánh trăng... Kawabata đã thả bút mà vẽ nên những nét đẹp thuần khiết nhất, nhưng cũng ẩn giấu những bất an nhất, thầm kín nhất của cái đẹp. Độc giả say đắm Kawabata, đi xuống từng tầng sâu cùng cõi đẹp Kawabata, đều sẽ luôn nhận ra rằng, Kawabata giữ gìn khoái cảm về cái đẹp ấy, miên viễn ngay trong sự tàn lụi. Đẹp và buồn chính là một lời tuyên ngôn cuối cùng của Kawabata. Đó là cuốn tiểu thuyết mang đầy dự cảm về một chuyến đi cuối cùng của đời người. Mặc dù trong diễn văn đọc tại buổi lễ nhận giải Nobel, Yasunari đã lên án cách kết thúc cuộc đời con người bằng cách tự vẫn, một cách chết "rất Nhật Bản" đã cướp đi nhiều người thân của ông. Năm 1972, Kawabata đã tự tử bằng khí đốt trong một căn phòng tại Hayama. Vì không để lại thư tuyệt mệnh, nên cái chết của ông vẫn đặt ra rất nhiều nghi vấn và tranh cãi cho những nhà nghiên cứu sau này. *** Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ngày 14.6.1899, là tiểu thuyết gia người Nhật Bản đầu tiên và là người châu Á thứ đoạt giải Nobel Văn chương. Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ảnh nhiều phương diện của văn hóa cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật Bản. Mồ côi từ năm mới có hai tuổi, Kawabata và chị gái sống cùng ông bà ngoại. Khi ông lên bảy thì bà ngoại qua đời, lên chín thì mất chị, mười bốn tuổi thì mất cả ông ngoại, ông phải về sống với gia đình người dì. Ở tuổi đôi mươi, Kawabata lại đánh mất một người mà ông hết lòng yêu thương, ông đã cùng nàng hứa hôn nhưng khi mọi việc chuẩn bị xong, nàng bất ngờ từ hôn, không một lời giải thích. Kawabata chỉ còn biết tựa mình vào năng lực sáng tạo, phong kín vết thương tâm hồn bằng cuộc tìm kiếm mê mải cái đẹp trong cuộc đời. Cảm thức cô đơn trong văn phẩm Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu và tuổi trẻ của ông. Cái cô đơn ấy bắt đầu với tập Nhật ký tuổi mười sáu, được xuất bản năm 1925, tác phẩm đầu tay này có lẽ đã được viết lại dù trong đó, ấn tượng của một thiếu niên trước cái chết của người thân (ông ngoại) vẫn còn rõ nét. Những ngày cuối cùng khốn khổ của một người già yếu mù lòa, cuộc sống cô độc của một thiếu niên nhỏ bé đối diện với sinh ly tử biệt được thể hiện chân thực. Bên cạnh viết văn, Kawabata còn làm phóng viên cho một số tờ báo. Mặc dù đã từ chối tham gia vào sự hăng hái quân phiệt trong Thế chiến II, ông cũng thờ ơ với những cải cách chính trị của Nhật Bản sau chiến tranh, nhưng rõ ràng chiến tranh có ảnh hưởng lớn lao đối với ông (cùng với cái chết của cả gia đình khi ông còn trẻ). Sau đó, ông nói rằng kể từ đó ông chỉ còn khả năng viết những tác phẩm bi ca mà thôi. Năm 1972, Kawabata tự tử bằng khí đốt. Nhiều giả thuyết đã được đưa ra: sức khoẻ kém, cuộc tình bị cấm đoán, sốc do vụ tự tử của người bạn văn năm 1970. Kawabata không để lại thư tuyệt mệnh, các tác phẩm của ông cũng không có manh mối gì, nên đến nay không ai biết được nguyên nhân thật sự của cái chết đó. Trong diễn văn của Viện Hàn lâm Thụy Điển khi trao giải Nobel Văn chương cho ông vào năm 1968, đã tôn vinh Kawabata: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người.” *** Keiko tới trà thất Kiyamachi thấy Taichiro đã quần áo chỉnh tề đứng đợi ngoài sân thượng. “Em chào anh ạ. Anh ngủ có ngon không?” Keiko bước lại bên anh. Tựa lan can, cô gái hỏi tiếp: “Anh đợi em?” Taichiro nói: “Tôi dậy từ sớm. Tiếng sông làm tôi thức giấc. Tôi ra đây ngắm mặt trời mọc trên dẫy đồi đông.” “Anh dậy sớm thế à...?” “Đúng vậy. Nhưng dẫy đồi gần quá, nên rạng đông mà không có cảm tường là mặt trời đang mọc. Chỉ khi mặt trời đã lên cao, dẫy đồi mới đột ngột hiện rõ ra màu lục, và nắng mới làm sông sáng lên như bạc...” “Anh ngắm cảnh lâu nhỉ...” “Coi mấy xóm bên kia sông thức giấc và sinh hoạt náo nhiệt trở lại, cũng thú vị lắm.” “Vậy thì anh ngủ đâu có được nhiều. Khách sạn thiếu tiện nghi phải không?” Rồi cô gái thầm thì: “Anh mà bảo tại nhớ em mà mất ngủ thì em sướng lắm...” Taichiro yên lặng. Keiko năn nỉ: “Anh không chịu nói cho em câu đó sao?” “Có chứ. Keiko, tôi ngủ không được là vì nhớ cô.” “Anh nói chỉ vì em van xin anh.” “Nhưng Keiko, đêm qua cô ngủ ngon phải không?” Keiko lắc đầu: “Anh đoán sai rồi.” “Tôi đoán vậy tại mắt cô tươi rói.” “Tại vì tim em tươi rói. Mà tim em tươi rói là tại vì anh. Còn mắt em thì sợ gì một hai đêm không ngủ.” Keiko nhìn Taichiro chằm chặp, đôi mắt ướt long lanh. Anh nắm lấy tay cô gái. Keiko nói: “Sao mà tay anh lạnh thế.” “Còn tay cô thì ấm quá.” ... Mời các bạn đón đọc Đẹp Và Buồn của tác giả Yasunari Kawabata.
Cuộc sống và Thời đại của Michael K - John Maxwell Coetzee
Michael K, đó là tên của nhân vật chính trong tác phẩm đoạt giải Booker năm 1983. Mỗi cái tên thôi cũng đủ nói lên một thân phận mịt mờ. Nhưng sau K của Kafka, lịch sử văn học lại có thêm một nhân vật K kỳ diệu, K của người đoạt giải Nobel văn học 2003 J.M.Coetzee. K, với chiếc môi rách và thân hình mong manh như một đứa trẻ mồ côi, im lặng ngẫm nghĩ và sống trong thế giới của riêng mình - một thế giới may mắn còn màu xanh của bí ngô và mây trời. Nhưng chiến tranh như cái bóng theo đuổi anh đến tận mọi ngõ ngách, ở bất cứ nơi nào anh đến... Với một thân phận chiến tranh, mọi giá trị cuộc sống cũng bị hoán đổi. Thực phẩm, tình dục, sức khỏe, sự liên đới với đồng loại... đều không phải là nhu yếu của K. K hờ hững với tất cả. Trên tất cả là sự thèm muốn “cắn miếng bánh của Tự Do”. Cái tâm nguyên sơ của anh, cách anh tuyệt thực vì không ăn được “thức ăn của con người”, sự hoang mang và ngơ ngác của anh trước sự quan tâm của một người xa lạ... làm người đọc ứa nước mắt. Cuộc sống và thời đại của K đã tước đoạt mất ở anh cả ý niệm về tình thương và lòng trắc ẩn giữa con người với con người! Sự tàn nhẫn của chiến tranh được ẩn giấu khéo léo trong câu chuyện, nhưng tội ác chiến tranh không bao giờ che giấu được. Còn mong đợi nào hơn một thời đại mở ra một niềm tin nhân ái: chiến tranh không tiếp diễn, và không số phận nào có mặt ở cuộc đời này bị lãng quên? *** *** John Maxwell Coetzee (sinh ngày 9/2/1940) sinh trong gia đình gốc Đức tại miền Tây Nam Phi, từ nhỏ đã giỏi cả tiếng Anh và tiếng Đức; học các trường đại học tổng hợp Cape Town và Texas; dậy tiếng Anh và văn học; bắt đầu viết văn từ năm 1969 và ngay lập tức được dư luận chú ý từ cuốc sách đầu tiên, nổi tiếng thế giới với tiểu thuyết Giữa miền đất ấy (In the heart of the country, 1977) viết về tính bạo lực và thói ghẻ lạnh là bản chất của chính sách thuộc địa của người da trắng. “Ruồng bỏ” (Disgrace) của John Maxwell Coetzee – Một nhà văn hai lần đoạt giải Booker: Cuộc sống và thời đạicủa Michael K. (1983) và Ruồng bỏ (1999) – và đoạt giải Nobel Văn học năm 2003. Những tác phẩm của Coetzee được viết bằng giọng văn điềm đạm, ngắn gọn, ít phô diễn kĩ thuật, người mới đọc dễ nắm bắt được mạch tác phẩm của ông và hiểu được cốt truyện. Tất nhiên, để hiểu toàn bộ kĩ thuật hay dụng ý của Coetzee lại không đơn giản lắm. Các tác phẩm của ông thường đi sâu vào cuộc sống và suy nghĩ riêng của một người nào đó đặt trong một bối cảnh có biến động, phức tạp vì chính trị hoặc bị xô đẩy bởi chiến tranh, như trong Cuộc sống và thời đại của Michael K. thì là hành trình của K. Ruồng bỏ là hành trình của David Lurie, hay Tuổi sắt đá là về bà Curren, một giáo sư sống và chết dần vì bệnh ung thư. *** Ăn thêm chút nữa là anh có thể đi dạo được rồi - Tôi dỗ Michaels. Tuy nhiên, thứ anh ta thực sự cần là vật lý trị liệu thì chúng tôi lại không thể có. Anh ta thích một trong những đồ chơi Ịàm bằng cái que và hai sợi cao su. Anh ta cần một chế độ ăn kiêng từ từ, những bài tập nhẹ nhàng và vật lý trị liệu để sớm trở lại với sinh hoạt trại, có dịp diễu hành lên xuống qua trường đua, hô to các khẩu hiệu và chào cờ, rồi đào hố và lấp chúng lại. Tôi tình cờ nghe lỏm ở căngtin “Bọn trẻ thấy khó mà thích nghi với cuộc sống trong nhà. Chúng thực sự buồn nh ớ khu vườn rộng rãi và những con vật cưng của chúng. Chúng tôi phải sơ tán theo cách này: báo trước có ba ngày. Tôi có thể khóc khi nghĩ đến những thứ đã bỏ lại.” Người nói là một phụ nữ có gương mặt hồng hào, mặc bộ váy áo chấm tròn to, tôi cho là v ợ của một trong những NCO [ [4] ] . (Trong các giấc mơ về ngôi nhà bị từ bỏ của bà, một người đàn ông lạ đi cả giày nằm ườn ra trên tấm vải trải giường, hoặc mở tủ lạnh và nhổ bọt vào món kem). ... Mời các bạn đón đọc Cuộc sống và Thời đại của Michael K của tác giả John Maxwell Coetzee.