Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghĩ Lớn Để Thành Công - Donald Trump & Bill Zanker

Hai trong số các doanh nhân thành đạt nhất thế giới đã tiết lộ bí quyết suy nghĩ lớn để đạt được những thành công ngoạn mục. Hãy áp dụng quan điểm của Donald để truyền cảm hứng cho chính bạn, nhằm phá vỡ những hạn chế của bản thân. Bạn luôn có hai lựa chọn, hoặc bằng lòng với những suy nghĩ bình thường như bao người khác hoặc có thể suy nghĩ lớn. Đúng như Donald đã nói: "Nếu đã có thể suy nghĩ, hãy nghĩ lớn. Đó là lựa chọn của bạn. Dù bạn ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì không ai có thể ngăn bạn suy nghĩ lớn. Và một khi đã thích suy nghĩ lớn và học được cách hành động để thành công, bạn sẽ có động lực để tiếp tục và những phần thưởng xứng đáng sẽ đến với bạn. Đó chính là bí quyết của Donald Trump về việc suy nghĩ lớn để thành công. Hãy thực hành bí quyết này, và bạn cũng sẽ đạt được thành công cả trong cuộc sống cũng như trong công việc". *** VƯƠN ĐẾN SỰ LỚN MẠNH Trước khi tôi gặp Donald Trump, The Learning Annex chỉ là một công ty nhỏ. Nhưng giờ đây, The Learning Annex thực sự là một công ty tầm cỡ vì tôi đã tiếp thu được quan điểm thành công của Donald Trump. Cách đây hai mươi tám năm, khi còn là sinh viên theo học các khóa phim ảnh tại The New School ở thành phố New York, tôi đã phải tự kiếm tiền để trang trải cuộc sống. Vì vậy năm 1979, mới 26 tuổi, tôi đã khởi nghiệp với The Learning Annex bằng khoản tiền 5.000 đô-la kiếm được từ công việc làm thêm tại quán bar Mitzvah. Ban đầu, tôi chỉ xem The Learning Annex như một trường học dành cho những người hướng dẫn làm dòng phim thể nghiệm chia sẻ hiểu biết và kinh nghiệm của họ với các nhà làm phim tâm huyết. Nhưng người bạn gái của tôi lúc ấy, một giáo viên dạy nghề gốm, đã gợi ý với tôi về việc mở rộng chương trình giảng dạy và xây dựng một ngôi trường có phương pháp học hoàn toàn khác, mục đích giúp các học viên nhanh chóng học hỏi và tiếp thu những điều mà họ không thể tìm thấy ở bất cứ đâu. Và The Learning Annex ra đời. Những ngày đầu, trong trang phục của một chú hề, tôi đứng trên các đường phố ở Manhattan để phát tờ rơi giới thiệu về khóa học. Tôi bảo mọi người hãy gọi điện tới số máy văn phòng in trên tờ rơi và cứ nói rằng có một chú hề bảo họ đăng ký ngay để được giảm 5 đô-la tiền học. Sau đó tôi chạy về văn phòng và trả lời điện thoại. Và thật thú vị khi có rất nhiều người gọi đến kể về chuyện một chú hề dễ thương nói với họ về khoản tiền được giảm khi đăng ký tham gia khóa học. Tôi ghi tên từng học viên theo lớp rồi gửi thư xác nhận cho họ. Khi không còn cuộc gọi đăng ký nào, tôi lại lo tìm giáo viên. Tôi đã thành lập và điều hành The Learning Annex như vậy từ căn hộ thuê 325 đô-la một tháng ở phía Thượng tây Manhattan. The Learning Annex đã thành công và tôi thật sự hài lòng vì điều đó. Tôi đã tìm thấy niềm đam mê của mình và nhận ra rằng tôi là một nhà tổ chức thiên bẩm. Tôi đã thay đổi quan điểm giáo dục rằng chỉ có học, học và học mới đạt được thành công do nhận thấy hình thức "Giáo - Trí" (vừa học vừa giải trí) mang lại hiệu quả hơn. Trong thời đại ngày nay, mọi thứ đều diễn ra rất nhanh. Không ai có thời gian để học tập theo kiểu truyền thống như trước. Sự phát triển của truyền thông và Internet đã tạo ra một thế hệ những con người muốn mọi thứ trở nên nhanh chóng và thú vị hơn. Vì vậy tôi quyết định mời những nhân vật tầm cỡ về dạy học, bởi tôi muốn các giáo viên đứng lớp của mình phải là những người có danh tiếng và uy tín lớn. Sức hút của những tên tuổi nổi tiếng khiến số lượng học viên đăng ký tăng vọt. Ngày càng nhiều người có uy tín sẵn sàng đồng ý lời mời về dạy cho các lớp học của tôi. Cùng với hàng trăm tên tuổi khác, những nhân vật nổi tiếng như Sarah Jessica Parker, Harrison Ford, Richard Simmons, Henry Kissinger, P. Diddy, Suze Orman, Barbara Bush, Larry King, Desmond Tutu, Renee Zellweger, Deepak Chopra và Rudy Giuliani đã làm rạng rỡ cho bục giảng của The Learning Annex. Bạn có thắc mắc làm thế nào mà tôi mời được những ngôi sao này không? Do không có nhiều tiền nên tôi phải thuyết phục những nhân vật nổi tiếng bằng một cách khác không nặng về tiền. Đó là trách nhiệm. Tôi đã nói với họ: "Quý vị đã thành công. Vậy tại sao quý vị không đáp đền xã hội?". Tôi còn nhớ, ông trùm điện ảnh Harvey Weinstein là một người cực kỳ khó thuyết phục. Để có được cái gật đầu đồng ý của Harvey, tôi đã phải ra sức nài nỉ ông: "Vì lòng hảo tâm, xin ngài hãy dành cho các học viên của Learning Annex chỉ một giờ đồng hồ thôi". Và Harvey đã thực sự làm người nghe phải sửng sốt bởi sự hiểu biết sâu sắc cũng như những câu chuyện vô cùng thú vị khi ông kể về cách ông đã gia nhập vào Hollywood qua buổi diễn thuyết trong suốt mấy tiếng đồng hồ. Quả thực, tiền nong không còn là vấn đề với hầu hết những người có uy tín lớn như vậy. Riêng Donald Trump thì khác. Ông không nghe bất cứ cuộc gọi nào của tôi. Một hôm, tôi gọi đến văn phòng của Trump và được nối máy tới thư ký riêng của ông, cô Norma. Tôi biết mình không thể thu hút sự chú ý của Trump theo cách thường dùng bởi Trump thậm chí chẳng buồn tiếp chuyện tôi. Vì vậy tôi đã làm cách khác để Trump phải chú ý - sử dụng tiền để thu hút sự quan tâm của ông. Đây không phải là cách tôi thường dùng, nhưng vì thực sự muốn gặp được Trump nên tôi quyết định thực hiện. Tôi đã đề nghị một khoản tiền "khổng lồ" đối với mình khi đó: 10.000 đô-la. Thư ký của ông hỏi: "Chỉ thế thôi sao?" và từ chối lời đề nghị của tôi như thể số tiền đó chỉ đáng mua một chai Chianti rẻ tiền. Cô ta còn buông thêm một câu cộc lốc: "Tôi không nghĩ ngài Trump sẽ đồng ý" rồi dập máy. Vẫn không nản lòng, vài ngày sau đó tôi lấy hết can đảm gọi điện lại cho Norma và nói: "Tôi sẽ trả ông Trump 25.000 đô-la". Norma đáp lại: "Không! Ngài Trump không quan tâm đâu". Nghe câu trả lời, tôi đã rất choáng váng. Sau đó, tôi nhận ra mình vẫn còn quá dè dặt. Một tuần sau, tôi mạnh dạn đưa ra đề nghị 100.000 đô-la. Đó là số tiền lớn nhất mà tôi từng đề nghị cho một diễn giả. Nhưng Norma chẳng hề lung lay và đã trả lời không chút do dự: "Không! Ngài Donald sẽ không nhận lời đâu". Tôi ngồi phịch xuống và nghĩ thật kỹ xem tiếp theo mình nên làm gì. Tôi nên từ bỏ ý định mời Donald Trump hay tiếp tục cố gắng? Tôi không biết mình phải làm gì nữa. Rồi tôi nhớ lại lời nói của Tony Robbins: "Nếu muốn thành công, anh phải đẩy mình ra khỏi những giới hạn của bản thân. Anh phải tự tin và đặt mình vào trạng thái tinh thần cao nhất. Và anh phải tự thân vận động vì không ai có thể làm việc này thay anh". Tôi nhất định phải thành công. Bởi với tôi, Donald Trump là Trùm của những ông Trùm. Trong cuộc sống, ai cũng thần tượng một người nào đó và với tôi, Donald chính là một vị anh hùng. Nếu muốn làm việc cùng Trump, tôi phải tự đưa mình lên một tầm cao mới. Tôi căng vai, ưỡn ngực, hít một hơi thật sâu và thu hết toàn bộ sinh lực, sau đó, tôi gọi điện cho Norma ở văn phòng của Donald Trump và đề nghị 1 triệu đô-la cho một giờ diễn thuyết của Donald Trump tại The Learning Annex. Vào thời điểm đó, The Learning Annex chưa bao giờ đạt doanh thu hơn 5,5 triệu đô-la cả năm. Thử nghĩ xem, tôi đề nghị Trump đến 1 triệu đô-la trong khi chỉ kiếm được 5,5 triệu đô-la một năm. Mà họa hoằn lắm tôi mới có một lớp được hơn vài trăm người, thế nên vào thời điểm đó, việc thu lại số tiền lớn như vậy vượt quá khả năng của tôi. Nhưng tôi không còn cách nào khác. Tôi biết mình cần phải làm như vậy. Vì thế, tôi nghe theo sự thúc giục trong lòng và quyết định gọi lại. Vừa nghe tôi nói xong, Norma đáp ngay: "Tuyệt đấy! Tôi sẽ nói lại với ngài Donald về chuyện này". Tôi cúp máy, lao vào phòng tắm và nôn thốc nôn tháo. Đầu óc tôi quay cuồng còn tim đập thình thịch. Tôi vừa làm gì thế này? Nếu mọi chuyện không thành công, tôi có thể mất tất cả. Chỉ trong phút chốc mà tôi đã đặt chân đến một ngưỡng mới trong cuộc đời mình, và chuyện đó không dễ chịu chút nào. Tôi vừa làm một việc rất điên rồ, nhưng cảm giác trong tôi thật tuyệt vời. Chưa đầy một giờ sau, đích thân Donald gọi điện cho tôi. Khi nghe máy, tôi không thể tin rằng mình đang nói chuyện với Donald Trump. Tôi nghĩ có lẽ một người bạn nào đó đang đùa. Nhưng đúng là Donald. Ông nói: "Bill này, tôi thích The Learning Annex và anh đã đưa ra một đề nghị thật dễ chịu. Nhưng tôi muốn biết anh tính sẽ có khoảng bao nhiêu người tham gia sự kiện này?". Lúc đó, hầu hết các lớp học của chúng tôi chỉ có khoảng từ 500 đến 700 người, và lớp đông nhất là một lớp học về tâm linh. Chúng tôi chưa bao giờ vượt khỏi ngưỡng vài trăm học viên cho bất cứ sự kiện nào. Vì thế tôi đã trả lời Trump: "Tôi nghĩ sẽ có 1.000 người". Trong suy nghĩ của tôi, 1.000 người là con số rất lớn. Nhưng Trump lại ra điều kiện: "Tôi sẽ đồng ý nếu anh hứa với tôi sẽ có 10.000 người tham dự". Mười nghìn người! Ngay cả trong những giấc mơ điên rồ nhất của mình, tôi cũng chưa bao giờ tưởng tượng đến con số đó. Nhưng chuyện đã đến nước này nên tôi liều lĩnh trả lời: "Không thành vấn đề. Sẽ có 10.000 người". Trump nói: "Tuyệt lắm! Luật sư của tôi sẽ gửi các giấy tờ cần thiết cho anh". Và thế là mọi việc đã được thỏa thuận xong. Đồng ý với Trump cũng có nghĩa là tôi đã cam kết chắc chắn rằng mình phải thật táo bạo, táo bạo hơn trước đây rất nhiều. Thời khắc đó đã thay đổi cuộc đời tôi. Donald Trump đã đưa tôi đến một vị trí hoàn toàn mới. Tôi bắt đầu làm những việc mà trước đây chưa từng làm bao giờ. Tôi bắt đầu nghĩ đến một quy mô lớn hơn nhiều. Tôi phải có 10.000 người đến nghe Donald nói chuyện. Quả là một điều không hề đơn giản. Nhưng bạn thử đoán xem điều gì đã xảy ra? Mọi người đều muốn học hỏi Donald và muốn nghe ông nói chuyện, thế nên các bản đăng ký bắt đầu được gửi đến tới tấp. Nhờ thế mà chúng tôi đã tổ chức được Hội thảo Đầu tư The Learning Annex. Khi đó, số người đến tham dự hội thảo còn nhiều hơn cả con số 10.000 mà tôi đã hứa với Trump. Đã có hơn 31.500 người tham dự Hội thảo Đầu tư The Learning Annex đầu tiên của chúng tôi vào năm 2004. Đó là một con số đáng kinh ngạc. Nhờ vậy, tôi dễ dàng trả được khoản thù lao cho Donald Trump. Rõ ràng là Trump biết tôi hoàn toàn có thể làm được điều đó. Về phần tôi, tôi cảm ơn Trump vì đã mang lại cho tôi một thách thức giúp tôi thay đổi tư duy của mình. Kinh nghiệm đã chứng minh cho tôi thấy rõ rằng khi dám nghĩ lớn, nhất định ta sẽ thành công. Kể từ khi tôi gặp được Donald Trump, công ty của tôi tăng trưởng hơn 400% mỗi năm; chuyển từ một công ty nhỏ với doanh thu 5,5 triệu đô-la một năm thành một công ty lớn đạt mức 102 triệu đô-la vào năm ngoái. The Learning Annex đã được tạp chí Inc(1). ghi nhận là một trong những công ty tăng trưởng nhanh nhất trong vòng hai năm qua. Tất cả là nhờ tôi đã học được những nguyên tắc NGHĨ LỚN để THÀNH CÔNG mà bạn sẽ đọc được trong cuốn sách này. Cơ hội làm việc với Donald Trump đã thay đổi hoàn toàn tư duy của tôi. Dù đã từng nghe tới thuật ngữ "nghĩ lớn" nhưng tôi chưa bao giờ thực sự hiểu được. Nghĩ lớn cũng là một phương châm sống của Donald Trump. Tôi học được từ ông rằng để thực sự nghĩ lớn, bạn phải vứt bỏ cảm giác thiếu tự tin. Tôi cũng học được rằng để thành công, bạn không bao giờ được bỏ cuộc. Mọi vấp ngã đều là một nấc thang trên con đường dẫn tới thành công. Donald Trump luôn có suy nghĩ mình sẽ làm được mọi thứ và không bao giờ giới hạn khả năng của bản thân. Hãy là chính mình. Hãy làm những gì mình muốn. Đừng để ai khác điều khiển cuộc sống của bạn. Đừng để người khác chèn ép bạn. Nếu ai đó gây trở ngại cho bạn, đừng chịu khuất phục mà hãy nắm lấy cơ hội để chiến đấu và đánh bại họ. Hãy đề ra những quy tắc của riêng mình và đừng quan tâm xem người khác nghĩ gì. Đó là tất cả những gì mà Donald Trump muốn nhắn nhủ. Qua thái độ và tấm gương của bản thân mình, Donald Trump đã dạy tôi cách thực sự nghĩ lớn. Và giờ đây tôi đang sống một cuộc sống tràn đầy năng lượng, với nhiều mục tiêu quan trọng hơn và thu nhập cũng cao hơn nhiều. Quan điểm mới này giúp tôi tự tin hơn rất nhiều. Tôi không còn lo lắng khi thực hiện các kế hoạch lớn hay mời những nhân vật nổi tiếng đứng lớp, cho dù đó là Warren Buffett, Rupert Murdoch hay thậm chí là Tổng thống Clinton. Tôi không còn sợ bất cứ điều gì nữa. Cả công việc kinh doanh lẫn cuộc sống cá nhân của tôi đều biến đổi nhờ tình bạn với Donald Trump. Tôi sống bản lĩnh và tự tin hơn. Tôi đã trở thành một triệu phú giàu có hơn trước rất nhiều. Tôi coi trọng bản thân hơn và điều đó đã giúp cho cuộc sống cá nhân tôi tốt hơn. Đối với vợ con, tôi là một người chồng, người cha mẫu mực. Vợ tôi thích quan điểm mới của tôi, còn các con tôi rất kính trọng tôi. Cuộc sống của chúng nhờ đó cũng có sự thay đổi. Sau khi thấy đám đông khoảng 50.000 người chen lấn để được vào tham dự buổi hội thảo, con trai tôi - Dylan bắt đầu cảm thấy thích thú hơn với công việc kinh doanh. Còn hai con gái tôi là Ediva và Vera, sau khi nghe Donald Trump diễn thuyết cũng đã sống với nhiều đam mê hơn. Vợ tôi, Debbie, khâm phục sự mạo hiểm của tôi và hết lòng ủng hộ những đầu tư táo bạo của chồng trong kinh doanh. Nếu bạn là chủ một doanh nghiệp thì việc được người bạn đời ủng hộ là điều rất quan trọng. Với tôi, mỗi khi lo lắng, chỉ cần biết vợ mình luôn ở phía sau động viên là tôi cảm thấy an tâm hơn rất nhiều. Điều hành một doanh nghiệp khiến bạn phải đối mặt với nhiều rủi ro; đó là một cuộc chiến và trong cuộc chiến này, việc gia đình luôn ở bên cạnh và khuyến khích bạn là điều vô cùng quan trọng. Tôi đã phải làm việc 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần để chuẩn bị cho Hội thảo Đầu tư The Learning Annex đầu tiên vào năm 2004. Bốn giờ sáng hôm diễn ra hội thảo, tôi đến một cửa hàng bán thức ăn phục vụ 24/24, gần trung tâm hội nghị Jacob K. Javits để mua chiếc bánh sinh nhật cho một thành viên trong nhóm. Anh chàng đã bỏ qua sinh nhật mình để chuẩn bị cho buổi hội thảo và đó là điều tối thiểu tôi có thể làm cho cậu ta. Ngay lúc đó, tôi nhận được điện thoại của Harry Javer, người điều hành buổi hội thảo. Anh ta nói: "Anh đến đây ngay đi. Chúng ta đang gặp phải một vấn đề nghiêm trọng. Nhiều dòng người đang chặn hết các cửa ra vào. Trung tâm Javits sẽ phát điên mất. Họ chưa bao giờ thấy nhiều người đến vậy, và vào lúc 4 giờ sáng như thế này!". Năm 2004, khi thực hiện buổi hội thảo lớn đầu tiên đó, chúng tôi không hề nghĩ xem việc mình làm sẽ đi đến đâu. Nếu trước đó chúng tôi nói với ai đó rằng chúng tôi định thu hút hơn 30.000 người trong chương trình đầu tiên này, họ sẽ cho rằng đó là điều hoang tưởng. Bởi vì thực tế là hầu hết các "chuyên gia" đều nói rằng chúng tôi thậm chí sẽ không có nổi 5.000 người. Vì chưa có kinh nghiệm thực hiện các chương trình lớn nên chúng tôi không biết điều gì tốt hay không tốt. Buổi sáng đầu tiên, dòng người đổ đến trung tâm Javits kéo dài đến tám dãy nhà. Chúng tôi đã chi một khoản tiền rất lớn để quảng bá cho sự kiện này. Mọi người đều muốn gặp Donald Trump và tìm hiểu những bí quyết thành công của ông. Việc quảng bá của chúng tôi đã thành công: rất nhiều người đã đến. Ước mơ của một nhà doanh nghiệp đã trở thành sự thật. Tôi đã đánh cược rất lớn và tôi đã thắng. Giờ đây tôi đã trở thành một tín đồ theo những chiến lược NGHĨ LỚN của Donald Trump. Sau cuộc hội thảo đầu tiên, The Learning Annex đã thực hiện thêm nhiều buổi Hội thảo khác với Donald Trump và chúng đều mang lại những kết quả đáng kinh ngạc. Ở San Francisco có hơn 70.000 người tham dự và hai tuần sau đó, tại Los Angeles là 62.500 người. Quả là ngoài sức tưởng tượng. Mọi việc đều diễn ra rất suôn sẻ. Vì thế tôi đã gọi điện cho Trump và ngỏ ý muốn ký hợp đồng với ông để thực hiện thêm 20 chương trình trong năm tới. Trump đã khẳng khái trả lời: "Tuyệt! Nhưng tất cả những người này đến là vì tôi. Tôi muốn tăng thêm tiền". Tôi nói: "Không, thưa ngài Trump. Tôi đã làm việc cật lực và phải thực hiện toàn bộ việc quảng bá. Đó cũng là lý do vì sao chương trình thành công đến vậy". Nhưng Trump đã phản bác: "Vô lý. Đó là nhờ tôi. Bây giờ tôi muốn 1,5 triệu đô-la". Tuy có hơi choáng váng, nhưng sau cùng tôi đã đồng ý, bởi Trump xứng đáng với khoản tiền đó. Ông đang thay đổi cuộc sống không chỉ của tôi mà của cả những người theo học tại The Learning Annex. Đó chỉ là một ví dụ nhỏ về quan điểm của Trump. Trump biết giá trị của mình và ông yêu cầu người khác phải trả xứng đáng với điều đó. Với Trump, việc diễn thuyết tại The Learning Annex không phải vì tiền bởi ông là người luôn tràn đầy nhiệt huyết trong mọi việc. Trump thích kết giao, giúp đỡ và chia sẻ kiến thức với mọi người. Nếu bạn coi việc quảng cáo, quảng bá sự kiện hay mọi thứ The Learning Annex thực hiện là để nâng cao thương hiệu Trump thì bạn cần biết rằng Donald đã dành phần lớn số tiền hơn 1,5 triệu đô-la cho mỗi lần phát biểu của mình tại The Learning Annex vào hoạt động từ thiện. Donald Trump là một người rất cứng rắn và luôn có những đòi hỏi vô cùng khắt khe. Donald Trump cũng là một ông trùm đô-la. Song thật lạ khi ông lại là người dễ chịu nhất trong số những tên tuổi lớn tôi từng cộng tác. Trump rất chuyên nghiệp và luôn chuẩn bị kỹ lưỡng cho những buổi nói chuyện của mình. Ông cũng luôn mang đến cho tôi và các sinh viên tại The Learning Annex nhiều hơn những gì tôi mong đợi cũng như những gì thuộc trách nhiệm của ông. Trump cũng là một trong những người trung thành nhất mà tôi từng biết. Đối với Donald Trump, lòng trung thành thực sự rất quan trọng và là một phẩm chất tuyệt vời phải có trong công việc. Donald Trump muốn chia sẻ quan điểm về thành công của ông với nhiều người hơn nữa. Ông biết mình cần đền đáp lại xã hội như thế nào. Ông giúp mọi người tiếp cận quan điểm và trải nghiệm của mình theo cách nhẹ nhàng nhất, đó là qua các câu chuyện có thật. Dựa trên những câu chuyện đời thường, cuốn sách này đề cập đến một điều thực sự ý nghĩa - suy nghĩ lớn. Khi đọc, bạn hãy dành chút thời gian suy ngẫm về những câu chuyện đó. Tôi dám chắc rằng, khi một tình huống xảy đến trong cuộc sống của chính bạn, bạn cũng sẽ nhớ tới một trong những câu chuyện của Trump và cách xử trí khôn ngoan của ông. Điều đó sẽ khiến bạn xử lý tình huống theo cách khác hẳn. Và đó chính là lý do vì sao cuốn sách này lại ý nghĩa như vậy. Hãy đọc và suy ngẫm. Tôi đảm bảo cuốn sách này sẽ thay đổi quan điểm cũng như cuộc sống của bạn ngay cả khi bạn chưa kịp nhận ra điều đó. Hãy đọc từng chương một để quan điểm của Trump thấm nhuần và mang lại cho bạn những bài học bổ ích. Hãy làm quen với quan điểm nghĩ lớn của Trump để điều chỉnh cuộc sống của bạn cũng như lấy đó làm động lực để phá bỏ những giới hạn do chính bạn đặt ra cho mình. Trong cuộc sống, bạn luôn có hai lựa chọn: suy nghĩ bình thường hoặc suy nghĩ lớn. Như Trump từng nói: "Một khi đã suy nghĩ, hãy nghĩ lớn. Đó là lựa chọn của bạn. Bất kể trong hoàn cảnh nào cũng không ai có thể ngăn cản bạn nghĩ lớn". Khi đã chọn cách nghĩ lớn và học được cách hành động để thành công, bạn sẽ có động lực để tiếp tục tiến về phía trước, và sự thành đạt sẽ đến với bạn. Đó chính là bí quyết nghĩ lớn để thành công của Donald Trump. Hãy vận dụng điều đó và bạn cũng sẽ trở thành một người thành công trong công việc cũng như trong cuộc sống. Tôi yêu quý và kính trọng Donald Trump. Trump đã làm thay đổi công việc cũng như cuộc sống riêng của tôi. Tôi mang ơn Trump, thế nên tôi rất vui mừng khi có thể chia sẻ với bạn những điều Trump đã dạy. Tôi đảm bảo rằng những điều đó sẽ tạo nên sự thay đổi trong cuộc sống của bạn cũng như chúng đã từng tạo nên sự khác biệt đối với cuộc sống của tôi và những sinh viên theo học tại The Learning Annex. Cám ơn ngài, Donald, vì đã dạy cho tôi bí quyết NGHĨ LỚN ĐỂ THÀNH CÔNG. Bill Zanker, Chủ tịch - Người sáng lập The Learning Annex Mời các bạn đón đọc Nghĩ Lớn Để Thành Công của tác giả Donald Trump & Bill Zanker.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Câu Chuyện Heineken
Vào một ngày mùa đông buồn tẻ vài năm trước, trụ sở chính của công ty quảng cáo Franzen Hey & Veltman (FHV) ngay bên ngoài Amsterdam đang ở trong tình trạng bất thường. Hai trong số các giám đốc của công ty, Giep Franzen và Tejo Hollander, đang lo lắng nhìn từ hành lang qua cơn mưa lất phất, nhìn một đoàn xe bất thường lướt tới lối vào. Ở phía sau xe giữa, một chiếc Bentley bọc thép khổng lồ, ngồi Alfred 'Freddy' Heineken, người nắm giữ đế chế bia Heineken trong tay. Chiếc xe limousine của anh ta bị kẹp giữa những chiếc xe hạng nặng của những 'cậu bé' đi cùng nhà sản xuất bia kể từ khi anh ta bị bắt cóc vào năm 1983. Ngày hôm trước, ba người trong số họ đã kiểm tra kỹ lưỡng tòa nhà FHV, khám xét căn phòng nơi Freddy ở để xem hai quảng cáo được đề xuất. và thậm chí kiểm tra máy chiếu để tìm các thiết bị bắn tiềm năng. Đội ngũ của FHV đã chuẩn bị cho màn chào sân sắp tới đến từng chi tiết cuối cùng. Họ không lãng phí nhiều thời gian vào các bài thuyết trình giới thiệu vì họ biết rằng Freddy không thể làm phiền khi nghe họ. Vào đêm trước của những sự kiện căng thẳng như vậy, đó là danh sách khách mời đứng đầu chương trình. 'Theo kinh nghiệm, chúng tôi biết rằng Freddy thích thể hiện sức mạnh của mình bằng cách đưa ra những quyết định gây sốc. Và lượng khán giả càng đông thì càng thôi thúc không thể kìm nén được ', một người trong số họ giải thích. "Vì vậy, mẹo là giữ cho danh sách lời mời càng ngắn càng tốt." Mặc dù nhiều doanh nhân cứng rắn bước qua các hành lang của công ty, những chuyến thăm hai lần một năm của Freddy luôn khiến những người trong giới quảng cáo phải bối rối. Họ đánh giá cao nhà tài phiệt lanh lợi vì bản năng quảng cáo và khả năng sáng tạo của ông. 'Nó không bao giờ ngừng làm chúng tôi ngạc nhiên. Marlies Ponsioen, cựu quản lý tài khoản Heineken tại FHV, cho biết. Nhưng các môn đệ của Freddy cũng biết rằng tâm trạng thất thường khó lường của anh ta có thể rất tàn khốc. Allan van Rijn, người đã đạo diễn các quảng cáo Heineken của FHV vào thời điểm đó, biết chính xác cách Freddy và những người phụ trách quảng cáo của anh ta hoạt động. Anh ấy giải thích rằng để chuẩn bị cho chuyến thăm của Freddy 'các nhân viên lễ tân đều đã làm tóc, dọn dẹp đống lộn xộn và những người quản lý mặc bộ đồ bà ba đẹp nhất của họ. Rốt cuộc, các khoản thế chấp của họ đang bị đe dọa. Sau đó, Freddy bước ra khỏi chiếc xe limo của mình với một bộ đồ nhàu nát và anh ta bước thẳng qua tất cả những chuyện nhảm nhí này. ' Bản thân Freddy thích nhắc lại rằng mối quan hệ huyền thoại của anh với quảng cáo được truyền cảm hứng từ một chuyến đi học đến trường của tập đoàn điện tử và chiếu sáng Philips ở Eindhoven. 'Họ không bán bóng đèn; họ bán ánh sáng, ông giải thích. Kể từ khi anh ấy trở về sau hai năm thực tập mở rộng ở Hoa Kỳ vào những năm đầu đôi mươi, cháu trai của người sáng lập Heineken đã tỉ mỉ xây dựng bản sắc của thương hiệu để nó thu hút người tiêu dùng trên toàn thế giới. Theo kế hoạch, ông trùm nhỏ bé đã đến sớm vào buổi chiều. Sau một vài cái bắt tay ở hành lang, anh được dẫn vào phòng họp đơn giản ở tầng một của văn phòng FHV, nơi có một máy chiếu được giấu sau tấm gương một chiều và một bên là màn hình ở phía bên kia. Khi đèn tắt và rèm được kéo ra, tất cả những người có mặt đều kín đáo quay sang Freddy Heineken và lo lắng xem xét những đường rãnh sâu trên khuôn mặt giống như chú chó chăn bò của anh ta. Các Một chút căng thẳng trên môi, một cái cau mày gợi ý quan tâm - ngay cả cách anh ta phì phèo điếu thuốc cực nhẹ dường như không bao giờ dứt của mình - có thể là điềm báo về một thảm họa sắp xảy ra. Xét cho cùng, Heineken là một trong những tài khoản được theo dõi nhiệt tình nhất trong lĩnh vực quảng cáo, và Freddy đã cai trị nó với góc cạnh chuyên chế đặc trưng cho toàn bộ vai trò lãnh đạo của ông. Kể từ khi giành lại được phần lớn cổ phần của gia đình mình tại Heineken vào những năm giữa hai mươi tuổi, Freddy đã cai trị một tập đoàn sản xuất bia hiệu quả chuyên sản xuất ra một loại rượu bia giòn. Điều này, ông đã biến thành một tập đoàn sản xuất bia với phạm vi quốc tế vô song, đồng thời vẫn theo dõi một cách gần như hoang tưởng về hoạt động kinh doanh rực rỡ và đặc biệt là danh tiếng của thương hiệu. Rất ít người bên ngoài Hà Lan nhận ra rằng Heineken không chỉ là tên của một loại bia mà còn là tên của vị vua chưa đăng quang của Hà Lan - một tỷ phú ngông cuồng nhưng hoàn toàn bình thường, người có thể vừa quyến rũ khó cưỡng lại vừa thô tục. Một số người phản đối, ông được những người khác ca ngợi vì đã biến một loại bia tương đối nhạt nhẽo thành một thương hiệu toàn cầu mang tính biểu tượng. Freddy có một vài quy tắc nghiêm ngặt để thành công. Chỉ ở Vương quốc Anh, Heineken mới làm sai công thức của mình - theo nhiều cách. Tuy nhiên, ngay cả ở đó, Freddy Heineken cũng được ca ngợi nhiều vì đã ủng hộ một chiến dịch quảng cáo kỳ quái đã trở thành biểu tượng và đưa Heineken đi đầu trong cuộc Cách mạng Lager. Nhân viên quảng cáo của FHV và Heineken đã dành khoảng ba tháng và 1,2 triệu guilders để xem quảng cáo của ông trùm. Sao chép một khái niệm trước đó, chúng bao gồm các đoạn phim ngắn, cắt nhanh đi kèm với các đoạn âm thanh phù hợp - ví dụ, có một ly bia văng qua quầy bar với âm thanh của động cơ gầm rú. 'Một lần nữa, ông Heineken?' Franzen nhẹ nhàng hỏi khi trục quay dừng lại. Bởi vì thông thường, khi Freddy thích quảng cáo, anh ấy mỉm cười hài lòng và yêu cầu xem chúng một lần nữa. Nhưng lần này chủ tịch trông có vẻ kém cỏi. "Không vui chút nào", anh ta càu nhàu - và điều đó, trong từ vựng của Heineken, tương đương với một bản án tử hình. Một trong những người tham gia cho biết: 'Nó giống như một ngọn núi lửa phun trào vào mặt chúng tôi'. 'Có một sự im lặng đến choáng váng. Tất cả chúng tôi đều trở nên trắng bệch. Chúng tôi biết rằng sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu phản đối. ' Vài tuần sau, những người làm quảng cáo bị sốc chỉ phát hiện ra điều gì đã xúc phạm Freddy: một đoạn phim ngắn với hai con chó đang âu yếm nhau dưới ghế quầy bar. Nó có nghĩa là một chút khó khăn, nhưng khi nhìn lại, ngay cả giám đốc cũng thừa nhận rằng Heineken đã đúng. Van Rijn nói: “Trước buổi thuyết trình, Freddy có lẽ đã uống một ly trong quán bar ở Amsterdam với Joe Bloggs. 'Anh ấy biết người xử lý máy chiếu ở cơ quan thậm chí còn giỏi hơn các giám đốc. Bằng cách đó, anh ấy có thể nói, không thất bại, công chúng sẽ phản ứng như thế nào. ' Thông thường trong những trường hợp như vậy, bụi sẽ nhanh chóng lắng xuống. Cảnh quay với những con chó đang chảy nước dãi đã được chỉnh sửa và sử dụng các quảng cáo. Một lần nữa Freddy Heineken đã có cách của mình, và với những bình luận ngắn gọn nhất. Trong những năm trước, Heineken đã gây chú ý vì nhiều lý do khác nhau, từ những món đồ chơi bắt mắt và cuộc phiêu lưu của tỷ phú đến tình bạn hoàng gia và vụ bắt cóc ngoạn mục. Nhưng khi đến với công ty của mình, Heineken đã tỏ ra không ngừng nỗ lực và hoàn toàn kiên định. Ông là người đứng sau câu chuyện phi thường của Heineken, được tạo nên từ những giao dịch mạo hiểm, cách tiếp thị thông minh và mức độ phù hợp. *** BARBARA SMIT là một nhà báo đã viết về các doanh nghiệp lớn choFinancial Times , International Herald Tribune và những người khác. Cuốn sách này được xây dựng dựa trên cuốn tiểu sử của cô về Heineken được xuất bản năm 1996, đã bán được gần 70.000 bản chỉ riêng ở Hà Lan. Cô cũng là tác giả của Pitch Invasion: Adidas, Puma and the Making of Modern Sport , được Metro mô tả là 'giống như Triều đại được viết lại bởi Le Cárre'. Cô ấy sống ở Pháp. *** Tất cả hoặc không có gì! Alfred 'Freddy' Heineken, người Hà Lan gây dựng thương hiệu sau Thế chiến thứ hai, thường thừa nhận rằng tài sản của ông bắt đầu từ họ của mình. Nếu có một chương trình máy tính để nghĩ ra các nhãn hiệu bia lý tưởng, nó có thể đã tạo ra 'Heineken'. Giống như nhiều loại bia phổ biến khác, cái tên này có ba âm tiết, nghe có vẻ thân thiện và mang âm hưởng của người Đức, gợi nhớ đến truyền thống sản xuất bia của tổ tiên. Kỳ lạ nhỏ, vì tên của bia Hà Lan là của Đức. Tên này có thể bắt nguồn từ Bremen, thành phố cảng Hanseatic ở miền bắc nước Đức. Được thành lập tốt trong thị trấn, Heinekens tự hào có huy hiệu của riêng họ, được phân chia theo một đường thẳng đứng với một bông hoa huệ ở bên phải và một cánh tay mở ở bên trái. Nhưng vào thế kỷ thứ mười tám, một số Heinekens đã định cư ở Cộng hòa Hà Lan, một quốc gia nổi tiếng với nền thương mại sung mãn cũng như thái độ tiến bộ đối với khoa học và tôn giáo. Hai thế hệ sau, những người nhập cư đã đến được Amsterdam, nơi họ điều hành một doanh nghiệp thịnh vượng và rất Hà Lan: Gerard Adriaan Heineken, người sáng lập nhà máy bia, là con trai của một nhà kinh doanh bơ và pho mát. Vào giữa thế kỷ 19, khi Gerard đang lớn, Amsterdam dường như đang ở trong tình trạng suy tàn. Những ngôi nhà đổ nát và mùi hôi thối nồng nặc bốc lên từ các con kênh đã nói lên sự suy tàn của một thành phố chỉ hai thế kỷ. trước đó, là một trong những cảng nổi tiếng nhất ở Châu Âu. Kể từ đó, thương mại đường biển đã làm cho Amsterdam trở nên giàu có đã bị người Anh và người Pháp tiếp quản. Được thúc đẩy bởi Cách mạng Công nghiệp, Anh, Đức và Hoa Kỳ đã trải qua quá trình mở rộng kinh tế khổng lồ khiến Hà Lan bị tụt hậu. Bốn cuộc chiến tranh Anh-Hà Lan từ năm 1652 đến năm 1684 đã làm kiệt quệ tài chính và càng làm suy yếu ảnh hưởng của Amsterdam. Gần một nửa số người của thành phố được đăng ký là người nghèo khổ và nghèo khổ. Heinekens sống tương đối thoải mái. Việc buôn bán pho mát đã được ông nội của Gerard khéo léo gây dựng và được cha anh, Cornelis Heineken, mở rộng quy mô. Gia đình càng trở nên sung túc hơn khi Cornelis kết hôn với Anna Geertruida van der Paauw. Là một góa phụ bụ bẫm, bà mang đến cuộc hôn nhân hai đứa con và gia đình chồng trước tích cóp được ở đồn điền Tây Ấn. Cornelis và Anna tiếp tục có bốn người con. Thứ hai của họ, Gerard, sinh năm 1841, là con trai đầu lòng của họ. Vào thời điểm này, dịch bệnh đã tàn phá các thị trấn của Hà Lan, và chỉ có ba người con của gia đình đến tuổi trưởng thành. Họ được nuôi dưỡng để tôn vinh công việc khó khăn, và Gerard lớn lên thành một chàng trai siêng năng, 'thích phiêu lưu và trái tim nhân hậu'. Khi cha qua đời vào năm 1862, Gerard, khi đó mới 21 tuổi, có thể dễ dàng dành những ngày còn lại của mình để sống nhờ tài sản của gia đình. Thay vào đó, anh giao việc buôn bán pho mát cho các thành viên khác trong gia đình và tìm cách tạo nên tên tuổi của chính mình. Vào tháng 6 năm 1863, ông phát hiện ra một nhà máy bia để bán không xa ngôi nhà của gia đình. Gerard nhanh chóng tổ chức một cuộc họp với hai trong số các giám đốc của nhà máy bia, và ngay tối hôm đó, anh đã viết một bức thư khẩn cấp cho mẹ mình để yêu cầu bà hỗ trợ tài chính. Den Hoyberch (The Haystack) đã từng là một nhà máy bia nổi tiếng - một trong những nhà máy lớn nhất ở Cộng hòa Hà Lan - nhưng nó đã giảm mạnh trong vài thập kỷ. Gerard biết rất ít về sản xuất bia, nhưng anh chắc chắn rằng mình có thể vực dậy vận may của Haystack. Vì vậy, ông đề xuất tiếp quản hoàn toàn nhà máy bia. 'Tất cả các! Hoặc không có gì! Nếu không sẽ rất lãng phí thời gian! ' anh ấy đã viết thư cho mẹ mình. Anna Geertruida có lý do riêng để hỗ trợ tài chính cho con trai mình. Vào giữa thế kỷ 19, gin đã trở thành thức uống được lựa chọn của người Hà Lan (như ở London). Nó đã gây ra cảnh tượng khó coi ở Amsterdam và khốn khổ cho hàng trăm gia đình Hà Lan. Mỗi sáng Chủ nhật, khi lên đường đến nhà thờ, Anna Geertruida phải thương lượng với những gã say rượu ngâm rượu gin ngang dọc trên đường để chửi thề. Nếu con trai cô ấy sản xuất ra một loại bia sạch và đáng tin cậy, anh ấy có thể khuyến khích những người uống rượu từ bỏ loại rượu phá hoại của họ. Với sự ủng hộ của mẹ, Gerard Heineken theo đuổi các cuộc đàm phán để tiếp quản The Haystack. Nhà máy bia chính thức được đăng ký là tài sản của Heineken vào ngày 15 tháng 2 năm 1864, khi Gerard thành lập Heineken & Co. Mời các bạn đón đọc Câu Chuyện Heineken của tác giả Barbara Smit.
Bốn Sắc Thái Của Màu Xám - Nền Tảng Kindle Của Amazon
Làm thế nào ai đó có thể tạo ra một trò chơi đột phá cho điện thoại di động hoặc một tác phẩm nghệ thuật hấp dẫn cho môi trường 3D nhập vai mà không hiểu rằng điện thoại di động và môi trường 3D là hai loại nền tảng máy tính khác nhau? Các nghệ sĩ, nhà văn, lập trình viên và nhà thiết kế giỏi nhất nhận thức rõ về cách một số nền tảng tạo điều kiện thuận lợi cho một số loại biểu hiện và đổi mới tính toán nhất định. Tương tự như vậy, khoa học máy tính và kỹ thuật từ lâu đã xem xét cách thức các hệ thống máy tính cơ bản có thể được phân tích và cải tiến. Các phương pháp tiếp cận khoa học và kỹ thuật cũng quan trọng như công việc của các nghệ sĩ sáng tạo, chúng tôi cũng có nhiều điều để học hỏi từ nghiên cứu nhân văn, chuyên sâu, bền vững về truyền thông kỹ thuật số. Chúng tôi tin rằng đã đến lúc các nhà nhân văn cần nghiêm túc xem xét mức độ thấp nhất của các hệ thống máy tính và mối quan hệ của chúng với văn hóa và sự sáng tạo. Loạt bài Nghiên cứu nền tảng đã được thành lập để thúc đẩy việc điều tra các hệ thống máy tính cơ bản và cách chúng kích hoạt, hạn chế, định hình và hỗ trợ công việc sáng tạo được thực hiện trên chúng. Loạt bài nghiên cứu nền tảng của phương tiện kỹ thuật số — các hệ thống máy tính, cả phần cứng và phần mềm, mà các nhà phát triển và người dùng phụ thuộc vào để phát triển nghệ thuật, văn học và trò chơi. Các cuốn sách trong bộ sách chắc chắn sẽ khác nhau về cách tiếp cận, nhưng tất cả chúng sẽ có chung một số tính năng nhất định: • Tập trung vào một nền tảng duy nhất hoặc một nhóm nền tảng có liên quan chặt chẽ • Kỹ thuật chặt chẽ và điều tra chuyên sâu về cách hoạt động của công nghệ máy tính • Nhận thức và thảo luận về cách các nền tảng máy tính tồn tại trong bối cảnh văn hóa và xã hội, được phát triển trên cơ sở các khái niệm văn hóa và sau đó đóng góp vào văn hóa theo nhiều cách khác nhau — ví dụ, bằng cách ảnh hưởng đến cách mọi người nhận thức về máy tính   Lời cám ơn   Four Shades of Grey đã được củng cố rất nhiều nhờ những gợi ý chu đáo từ các đồng nghiệp bao gồm Daniel Allington, Greg Barnhisel, Giles Bergel, Kathi Inman Berens, Chiara Bernardi, Karen Boyle, Inga Bryden, Dorothy Butchard, Eddy Borges-Rey, Daniel Boswell, Nick Canty, Laura Dietz, Beth Driscoll, Toke Riis Ebbesen, Carolin Esser-Miles, Andrew Ferguson, Molly Flatt, Simon Frost, Danielle Fuller, Alan Galey, Matt Hayler, Richard Haynes, Leslie Howsam, Matthew Kirschenbaum, Anouk Lang, Marcus Leaning, Fran Mason, John Maxwell, Tom Mole, Jim Mussell, Sarah Mygind, Simone Murray, Naomi Nelson, Corinna Norrick-Rühl, Stephen Pihlaja, Melanie Ramdarshan-Bold, Padmini Ray Murray, Staci Rowlison, Jonathan Rose, Matt Rubery, Mark Sample, Matt Schneider, Greg Singh, Claire Squires, Bronwen Thomas, Whitney Trettien và Maria Velez Serna. Julian McAuley đã hào phóng chia sẻ bộ dữ liệu Amazon của anh ấy với tôi. Nghiên cứu được hỗ trợ bởi một học kỳ nghỉ nghiên cứu tại Đại học Stirling vào mùa thu năm 2018 và một khoản trợ cấp SHARP-RBS để tham dự khóa học Sinh học Kỹ thuật số: Lý thuyết và Thực hành tại Trường Sách Hiếm. Nghiên cứu lưu trữ tại Stanford và Bảo tàng Lịch sử Máy tính đã được hỗ trợ bởi nguồn tài trợ hào phóng từ Hiệp hội Thư mục Hoa Kỳ và một Khoản tài trợ Khuyến khích Nghiên cứu Niềm tin của Carnegie. Lập luận của tôi cũng được hưởng lợi từ phản hồi trong các cuộc nói chuyện được mời tại Hội thảo Lịch sử Truyền thông, Trung tâm Lịch sử Sách của Đại học Edinburgh, và Khoa Nghiên cứu Thông tin của UCL, cũng như các bài báo hội nghị tại SHARP, By the Book, NUI Galway, Digital Nhân văn 2014, Người đọc trong Phong cách học, Mạng đọc kỹ thuật số, Học bổng xã hội về văn bản, Sách trong kỷ nguyên kỹ thuật số và Phục hồi sách. Nghiên cứu này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự giúp đỡ của các thủ thư và những người làm công tác lưu trữ. Các bộ phận cho mượn liên thư viện tại các trường Đại học Southampton, Stirling và Winchester đã hỗ trợ trong việc định vị tài liệu. Aurora Tucker và Sydney Olson là công cụ giúp tôi truy cập vào các tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Lịch sử Máy tính, cả bằng văn bản và máy. Toàn bộ nhóm tại Bộ sưu tập Đặc biệt của Đại học Stanford đã đặc biệt hữu ích, bao gồm cả Tim Noakes và Leif Anderson. Tôi cũng biết ơn sự hỗ trợ từ MIT Press, từ những gợi ý ban đầu hữu ích của Nick Montfort và Ian Bogost về việc cải thiện đề xuất của tôi thông qua sự hỗ trợ của Liz Agresta, Susan Clark, Bill Henry, Doug Sery và Noah Springer trong việc chuyển bản thảo thành sách. Những đề xuất hữu ích của ba nhà phê bình ẩn danh đã đảm bảo cuốn sách cuối cùng mạnh mẽ hơn nhiều. Các phần của chương 1 trước đây đã xuất hiện trong “Ebookness,” Convergence 23, không. 3 (2015): 289–305; và các phần của chương 7 xuất hiện trong “Đặt chung khu vực công cộng: Đọc tác phẩm kinh điển về mặt xã hội trên Kindle,” Ngôn ngữ và Văn học 25, không. 3 (2016): 211–225, cả hai đều xuất hiện với sự cho phép của SAGE. Các phần của chương 7 đã được xuất bản trước đây là “Giới hạn của Dữ liệu lớn để phân tích việc đọc,” Phần tham gia 16, không. 1 (2019): 237–257, một tạp chí truy cập mở. Cuốn sách này sẽ không tồn tại nếu không có sự hỗ trợ và lòng tốt của Marina, Michaela, Chris, Karen, Hannah, Will, Ellie, Pam và Geoff.   Lưu ý về chính tả   Sách điện tử: Thuật ngữ “sách điện tử” có ba cách viết chính: sách điện tử, sách điện tử, sách điện tử. Cũng giống như email bị mất dấu gạch ngang, tôi sử dụng "ebook" để phản ánh quá trình nhập tịch đã xảy ra trong thập kỷ qua. Ngoại lệ duy nhất sẽ là khi tham chiếu các thương hiệu đã sử dụng cách viết biến thể (ví dụ: Franklin eBookMan, Open eBook). Amazon : Mặc dù tên công ty đầy đủ là Amazon.com Inc., để dễ đọc, tôi sử dụng “Amazon” để chỉ Amazon.com Inc. và biểu thị các biến thể theo khu vực (ví dụ: Amazon.co.uk) nếu thích hợp. “Amazon” cũng sẽ kết hợp các công ty con như Amazon Technology. Hệ thống đọc : Khi nói về sự kết hợp giữa phần cứng và phần mềm và ảnh hưởng của nó đối với sự xuất hiện của văn bản ebook, tôi sử dụng “hệ thống đọc”, một thuật ngữ được đặt ra cho đặc tả EPUB gần tương đương với thuật ngữ trình duyệt web “tác nhân người dùng”.   Giới thiệu   Khi Jeff Bezos thành lập Amazon vào năm 1994, ông đã chọn bán sách như một quyết định kinh doanh thực dụng chứ không phải từ một tình cảm gắn bó với bản in. Sách có thể tồn tại trong sự khắc nghiệt của hệ thống bưu điện và dễ dàng cất giữ trong kho. Trong hai thập kỷ qua, Amazon đã phát triển từ một công ty khởi nghiệp bán sách trở thành một gã khổng lồ công nghệ trị giá hơn 1 nghìn tỷ USD vào tháng 2 năm 2020, với Bezos được vinh danh là người đàn ông giàu nhất thế giới kể từ năm 2017 ngay cả sau một vụ ly hôn trong khu vực 40 tỷ đô la. 1 Mặc dù Amazon đã phát triển các dịch vụ vượt xa phạm vi xuất bản, sách vẫn là một phần cốt lõi của thương hiệu công ty trong trí tưởng tượng của nhiều người. Amazon đã củng cố mối liên hệ này với sự ra mắt của Kindle vào năm 2007, thể hiện cam kết của công ty đối với sách mặc dù có tới 35% doanh số bán hàng đến từ các sản phẩm “phi truyền thông” vào năm 2006. 2 Sau nửa thập kỷ trì trệ đối với sách điện tử theo lời hứa vào đầu những năm 2000, Kindle là một sự can thiệp cần thiết và thúc đẩy phương tiện này từ một thị trường ngách trở thành một nguồn doanh thu ổn định cho các nhà xuất bản. Trong một thập kỷ kể từ khi Kindle ra mắt, sách điện tử đã bị các nhà xuất bản truyền thống tấn công liên tục. 3 Arnaud Nourry, Giám đốc điều hành của Hachette Book Group, đã phản đối sách điện tử trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2018, cho rằng “sách điện tử là một sản phẩm ngu ngốc. Nó giống hệt như bản in, ngoại trừ nó là bản điện tử. Không có sự sáng tạo, không có sự nâng cao, không có trải nghiệm kỹ thuật số thực sự ”. 4 Tuyên bố của Nourry phản ánh sự cạnh tranh thường thấy giữa sách điện tử và báo in hơn là cách hai định dạng ảnh hưởng lẫn nhau. Bất chấp nhiều hạn chế của Kindle và khả năng chống xuất bản theo định hướng in, Amazon xâm nhập vào phần cứng ebook xuất bản đã thay đổi không thể thu hồi. Thiết bị này đã có tác động mạnh mẽ đến quy trình công việc kỹ thuật số bằng cách khuyến khích các nhà xuất bản áp dụng các quy trình mới nhằm nâng cao chất lượng của tất cả các ấn phẩm, cả vật lý và kỹ thuật số, vì người đọc giờ đây sẽ mong đợi một ấn bản sách điện tử. Ngoài việc thúc đẩy các nhà xuất bản nắm lấy các hình thức kỹ thuật số, Kindle đã trao quyền cho một số độc giả bị thiệt thòi trước đây. Sự xuất hiện của các độc quyền Kindle chứng tỏ nhu cầu về các thể loại không được các nhà xuất bản ủng hộ theo truyền thống. Người đọc không được phục vụ bởi xu hướng xuất bản theo định hướng in ấn hướng tới những người bán chạy nhất giờ đây có thể tìm thấy vô số tài liệu đọc. Sách điện tử cũng cung cấp các tiện nghi vật lý mới: cha mẹ có thể cầm Kindle bằng một tay khi chăm sóc con mình, nhưng sách in có thể thích đọc trên giường hơn. Người đọc điện tử yêu cầu ít không gian hơn sách vật lý cho những người không thể xây dựng một thư viện lớn. Độc giả bị khiếm thị về vận động hoặc thị giác có thể được hưởng lợi từ khả năng thay đổi kích thước phông chữ hoặc sử dụng các tính năng chuyển văn bản thành giọng nói và sự ra đời của phông chữ OpenDyslexic vào năm 2015 đã đáp ứng nhu cầu của những độc giả có sự khác biệt trong học tập. Bất chấp những cải tiến này, các nhà phê bình và nhà xuất bản cho rằng xuất bản kỹ thuật số nên tích hợp các yếu tố đa phương tiện, thực tế ảo và trò chơi điện tử. Nhận xét của Nourry phản ánh mối quan hệ đối kháng giữa Amazon và việc buôn bán sách xuất phát từ những lo ngại liên tục về các chiến lược bán hàng của Amazon. Các cuộc thảo luận về sách điện tử thường là những cuộc luận chiến xung quanh "sự gián đoạn" hoặc tính chất trọng yếu và mùi vị của bản in. 5 Các nhà xuất bản đã phát triển một thị trường thích hợp cho các ấn bản bìa cứng sang trọng để đáp lại những độc giả vẫn cam kết in. Truyền giáo kỹ thuật số cạnh tranh chống lại chủ nghĩa Tin Lành trên báo in, nhấn mạnh các quan điểm cực đoan hơn là coi hai phương tiện truyền thông là bổ sung cho nhau. Trong cuốn sách này, tôi vượt ra khỏi sự đối kháng này để đánh giá tác động của các nhà xuất bản và ngành công nghiệp sách nói chung, nhường lại sự phát triển của sách điện tử cho một công ty tiêu biểu cho sự thái quá của chủ nghĩa tư bản muộn và văn hóa giám sát. Thông qua ống kính này, tôi phân tích Kindle đã mang lại lợi ích như thế nào cho việc xuất bản trong khi đồng thời hạn chế các cơ hội phát triển một nền tảng kỹ thuật số toàn diện và có tư duy tương lai. Cái tên "Kindle" phản ánh những căng thẳng đã gây ra cho nền tảng này. Cái tên này đã vấp phải những phản ứng tiêu cực do có mối liên hệ tiềm ẩn với cuốn tiểu thuyết Fahrenheit 451 của Ray Bradbury và việc đốt sách. Bezos vô tội, cho rằng cái tên này là một nỗ lực “nói về tương lai của việc đọc, nhưng theo một cách nhỏ nhặt, không phải khoe khoang,” để khơi dậy trí tưởng tượng thông qua việc đọc. 6 Anh ấy hy vọng Kindle sẽ trở thành đồng nghĩa với ebooks như một động từ giống như googling: "Khi tôi bị kẹt ở sân bay hoặc trên đường, tôi có thể Kindle tờ báo của mình, blog yêu thích hoặc nửa tá cuốn sách mà tôi đang đọc." 7 Theo Brad Stone, một phóng viên công nghệ của Businessweek , sự phát triển của nền tảng được thúc đẩy bởi mong muốn "phát triển mạnh mẽ như một người bán sách trong kỷ nguyên kỹ thuật số mới, [thông qua việc sở hữu] công việc kinh doanh sách điện tử giống như cách mà Apple kiểm soát lĩnh vực kinh doanh âm nhạc." 8 Sau thành công của iMac khi Steve Jobs trở lại Apple, công ty nhận thấy một thị trường âm nhạc kỹ thuật số đang phát triển. Để tận dụng xu hướng này, Apple đã phát hành iTunes vào tháng 1 năm 2001, với iPod sau đó 9 tháng. Sự kết hợp đã hợp pháp hóa việc tiêu thụ nhạc kỹ thuật số vào thời điểm Napster và các mạng ngang hàng khác thống trị trí tưởng tượng của công chúng. IPod cũng loại bỏ các rào cản gia nhập thông qua tích hợp dọc phần cứng, phần mềm và dịch vụ từ việc mua nhạc đến nghe khi đang di chuyển. Đây là khoản đầu tư đáng kể từ Apple. Sách điện tử cũng ở vị trí tương tự vào năm 2007, với một cộng đồng trung thành gồm những người có sở thích tận tụy nhưng không có chất xúc tác duy nhất để tiếp nhận rộng rãi hơn.   Mời các bạn đón đọc Bốn Sắc Thái Của Màu Xám - Nền Tảng Kindle Của Amazon của tác giả Simon Peter Rowberry.
Miniso - Cuộc Cách Mạng Bán Lẻ Toàn Cầu
Tại Việt Nam, lâu nay những sản phẩm của Miniso – một thương hiệu bán lẻ nổi tiếng vài năm gần đây tại nhiều quốc gia châu Á, thường được người tiêu dùng mua theo đường “xách tay”. Dù trước mắt vẫn còn đang nổ ra tranh cãi về thương hiệu này, rằng nó là hàng Nhật thật hay thực ra là của Trung Quốc thì vẫn không thể phủ nhận, tin Miniso về Việt Nam vẫn làm các tín đồ shopping, nhất là những người thích mấy vật dụng xinh xinh yêu yêu tỏ ra háo hức. Vậy cuối cùng Miniso là gì? Miniso: Chuỗi cửa hàng mọc lên như nấm khắp nơi Gõ cụm từ “Miniso” trên google, có tới gần nửa triệu kết quả hiện ra cho bạn. Theo thông tin từ website chính thức của Miniso, thương hiệu bán lẻ này được thành lập bởi nhà thiết kế Nhật Bản Miyake Jyunya và doanh nhân Trung Quốc Ye Guo Fu. Bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 9 năm 2013. Miniso cũng đã bắt đầu “xâm lược” thị trường Đông Nam Á gần đây. Ở các nước như Philippines, Thái Lan, Singapore, Miniso gửi gắm hàng chục cửa hàng. Đến nay, hãng mong muốn một ngày nào đó sẽ sánh ngang chuỗi siêu thị 7-Eleven nổi tiếng. Không chỉ ở châu Á, thương hiệu Miniso đã bước đầu có mặt ở các thị trường khó tính tại Bắc Mỹ và châu Âu. Mục tiêu của Miniso là nâng số lượng cửa hàng trên toàn thế giới lên con số 6,000 trong vòng 5 năm tới. Miniso: Siêu thị thập cẩm Miniso đúng là một cửa hàng “lẩu thập cẩm” đúng nghĩa đen, họ có từ chiếc bút chì kẻ mắt giá 90 nghìn đồng đến chiếc tai nghe giá 900 nghìn, thậm chí cả máy hút ẩm và thiết bị massage cổ cũng có luôn. Những thành công và bài học từ Miniso Tính đến thời điểm hiện tại, MINISO được đánh giá là một trong những thương hiệu bán lẻ có mức tăng trưởng đột phá trên toàn cầu. Với hơn 3,000 cửa hàng tại hơn 78 quốc gia và vùng lãnh thổ, MINISO chạm mốc 750 triệu USD doanh thu toàn cầu vào 2015 và gần 1,5 tỷ USD vào 2016. Năm 2017, thương hiệu MINISO đạt ngưỡng 1,8 tỷ USD doanh thu và đã có mặt tại rất nhiều quốc gia phát triển như Mỹ, Canada, Nga, Singapore, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất, Hàn Quốc, Malaysia, Hong Kong với trung bình có thêm 80-100 cửa hàng mới khai trương mỗi tháng trên toàn cầu. Để có được sự phát triển và thành công như hiện tại, thương hiệu này đã luôn theo đuổi một cách nhất quán triết lý về phát triển thương hiệu và thiết kế sản phẩm, và xem đó là những giá trị cốt lõi làm nên sức mạnh của MINISO như hiện nay. Khi người tiêu dùng trở nên “luôn vận động” họ ưa thích những sản phẩm hoặc dịch vụ tiện lợi phục vụ tốt nhất cho cuộc sống bận rộn. Thói quen tiêu dùng của người Việt cũng thay đổi. Nếu như trước đây khách hàng chỉ mua đồ theo nhu cầu sử dụng thì giờ nhu cầu đó thường phát sinh vì bị thu hút bởi hình thức và sự khác biệt sản phẩm về màu sắc, kiểu dáng thời trang Miniso đang nắm bắt đúng xu hướng này. Các sản phẩm của Miniso được sáng tạo, thiết kế theo xu hướng thời trang mới nhất trên thế giới để biến những sản phẩm tiêu dùng thông thường thành những phụ kiện thời trang theo phong cách cá nhân. Để tỏ rõ là nhà bán lẻ theo xu hướng thời trang nhanh (fast fashion), cứ 3 tháng Miniso lại cho ra đời một mẫu sản phẩm mới. Những ngày đặc biệt trong năm như Năm mới, giáng sinh, lễ tình yêu, mùa hè hàng năm đều có bộ sưu tập đặc trưng theo đúng chủ đề. Trong khi các cửa hàng khác nhập hàng theo tháng, Miniso nhập theo tuần, hàng hóa sẽ được điều chuyển 3 ngày/lần. Hiện Miniso có gần 10.000 danh mục sản phẩm, tại Việt Nam có hơn 6.000 sản phẩm. Các sản phẩm này được nhập khẩu 100%, trong đó, 80% từ Trung Quốc, còn lại sản xuất tại Hàn Quốc, Thái Lan Hiện có trên 600 nhà sản xuất, gia công sản phẩm cho Miniso. Trong số đó, có 200 nhà máy Miniso mua lại, đầu tư nâng cấp từ các nhà máy cũ, năng suất sản xuất thấp để giảm thiểu chi phí, đồng thời tận dụng được cơ sở hạ tầng, nhân lực. Nhờ chiến lược này, Miniso có thể quản lý tốt giá thành và giảm chi phí hoạt động, chi phí đầu tư. Không chỉ vậy, các sản phẩm của Miniso luôn được săn lùng vì có mức giá rẻ, giao động từ 43.000 đồng – 129.000 đồng, phù hợp với mọi đối tượng, lứa tuổi. Với màn chào sân ấn tượng và tốc độ phủ sóng nhanh như vậy nên chỉ sau khi Miniso xuất hiện ở Việt Nam (năm 2016), có nhiều thương hiệu cùng mô hình ra đời. Trong đó có nhiều thương hiệu cùng sử dụng một số yếu tố gây hiểu nhầm tới Miniso. MINISO Cuộc cách mạng bán lẻ toàn cầu Cuốn sách “MINISO Cuộc cách mạng bán lẻ toàn cầu” không đơn giản là giúp những ai muốn tìm hiểu về nguồn gốc của Miniso, mà nó là sự thấu lược về sự vận động của hàng hóa, người tiêu dùng và thị trường hiện nay. Gía trị sản phẩm không chỉ nằm ở giá trị mang lại ở nó, mà còn ở dán lên mã thương hiệu Điều làm nên giá trị của một sản phẩm đôi khi không chỉ nằm ở việc đó là sản phẩm chất lượng ra sao, hữu dụng thế nào mà còn ở chỗ nó thuộc thương hiệu gì? Làm nên một thương hiệu phổ biến trong tâm trí người tiêu dùng vô cùng khó. Và việc đầu tiên chính là cần tìm được một ý nghĩa thương hiệu làm kim chỉ nam định hướng cho hành trình phát triển của thương hiệu. Sự chạm trán giữa kinh doanh truyền thống và kinh doanh hiện đại Các xu hướng kinh doanh đang dần thay đổi, được điều chỉnh và không ngừng hoàn thiện trên nền các ý tưởng mới, dựa vào công nghệ. Thêm vào đó, cùng một nền tảng, nhưng sự thành công hay thất bại của một mô hình kinh doanh mới hoàn toàn dựa vào cách triển khai, cách tiếp cận thị trường và cách vận hành, trên cơ sở nghiên cứu kỹ nhu cầu khách hàng là gì để tạo ra mô hình mới sáng tạo hơn. Miniso - Cuộc Cách Mạng Bán Lẻ Toàn Cầu Vấn đề đặt ra là những mô hình kinh doanh, dịch vụ mới ra đời sẽ tác động thế nào đến kinh doanh truyền thống? Nhiều ý kiến cho rằng, thương mại truyền thống sẽ không mất đi mà nó sẽ được hỗ trợ bởi kênh bán hàng trực tuyến (online) để trở thành mô hình bán hàng đa kênh (omni-channel). Các doanh nghiệp phải học nhiều hơn để bắt kịp xu thế, cộng với lợi thế sân nhà, chuẩn bị sẵn sàng trước sự thay đổi của khách hàng trong kỷ nguyên số. Bên cạnh đó, DN truyền thống phải dần chuyển sang mô hình bán hàng đa kênh để thích ứng tốt với nền kinh tế chia sẻ, nếu không sẽ bị tụt hậu. Sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt trên thị trường Kinh tế thị trường đã kinh doanh là phải có cạnh tranh. Cạnh tranh thường thông qua giá, thời gian, chất lượng phục vụ và tính linh hoạt. Các DN phải chấp nhận sự thật này để chủ động bước vào cạnh tranh. Phải tìm hiểu xem đối thủ hơn mình ở điểm nào để từ đó khắc phục các điểm yếu. Chẳng hạn, trong kinh doanh taxi, các DN đang áp dụng một biểu giá phẳng, còn Grab thì áp dụng mức giá rất linh động, tùy từng thời điểm. Vậy các DN có thể tính toán giá linh động được không? Mặt khác, phải nâng cao thái độ phục vụ của nhân viên theo các tiêu chí tiện lợi, nhanh chóng, rõ ràng, minh bạch về giá và thời gian đi. Nói chung là DN cần phải làm minh bạch về dịch vụ của mình để thu hút khách. Trong kinh doanh dịch vụ, DN càng chú ý đến các nhu cầu chi tiết nhất của khách hàng thì tỷ lệ thành công càng cao. Thực tế cho thấy, những dịch vụ được đề cập trong bài viết chỉ là những sản phẩm khởi đầu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Theo dự báo, sẽ còn hàng loạt loại hình dịch vụ ra đời ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong tương lai cũng sẽ được số hóa từ điểm đầu cho đến điểm cuối. Các dịch vụ này hoàn toàn có thể thực hiện xuyên biên giới, sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh còn khốc liệt hơn so với hiện nay. Sự biến đổi liên tục của công nghệ sẽ còn tiếp tục tạo ra thách thức mới, khó thể thỏa mãn xung đột giữa cái cũ và cái mới. Nhiều ý kiến cho rằng, đã đến lúc các cơ quan quản lý nhà nước phải ngồi lại để bàn bạc, tạo ra cơ chế chính sách phù hợp, tạo sân chơi bình đẳng cho các DN. Ví dụ, hiện nay thuế áp dụng cho các DN nội địa thế nào thì với DN FDI cũng phải có chính sách thuế tương đương, làm sao các mô hình kinh doanh này vẫn tồn tại nhưng bảo đảm cạnh tranh công bằng. Không để xảy ra tình trạng mô hình kinh doanh này phải nộp thuế, mô hình kia thì không. Các cơ chế, chính sách mới vừa đảm bảo sự khuyến khích kinh doanh truyền thống thay đổi, vừa không hạn chế kiểu kinh doanh mới xuất hiện, nhưng không làm méo mó thị trường. Sự thay đổi trên thị trường diễn ra hàng ngày, hàng giờ, chúng ta muốn bắt kịp xu thế, muốn không lạc hậu, muốn tạo ra những giá trị cho hoạt động kinh doanh thì buộc phải hiểu và đánh giá được tình thế đang diễn ra trên thị trường hiện nay. “Miniso cuộc cách mạng bán lẻ toàn cầu” sẽ là cẩm nang trang bị cho bạn những kiến thức mới mẻ, phong phú về thương hiệu Miniso nói riêng nhưng sẽ là hệ thống kinh doanh trên thị trường nói chung hiện nay.
Hội chứng Uniqlo
Hội chứng Uniqlo không phải là một trong số những cuốn sách ca tụng về Uniqlo đang tràn ngập trên thị trường, cũng không phải cuốn chỉ dẫn về phương thức hoạt động của Uniqlo hay phân tích về sự phát triển của Fast Retailing (Tập đoàn bán lẻ lớn của Nhật, công ty mẹ của Uniqlo). Nó cũng không nghiên cứu về sự nghiệp của ngài Yanai Tadashi (Người sáng lập và Chủ tịch của Fast Retailing, chủ nhân thương hiệu Uniqlo). Nếu muốn tìm hiểu về những điều đó, các bạn hoàn toàn có thể tìm đọc những cuốn sách do chính ngài Yanai viết là Một lời, chín lỗ hay Có thể đánh mất thành công chỉ sau một ngày. Hội chứng Uniqlo sẽ chỉ ra sự thật rằng bối cảnh cho sự thành công bất ngờ của Uniqlo chính là một nền văn hóa tiêu dùng đang suy thoái do sự sụt giảm của kinh tế và kìm hãm cảm tính của giới trẻ, đồng thời làm rõ hiện tượng sụt giảm tiêu dùng trong xã hội được gọi tên là “hội chứng Uniqlo”, mở rộng chủ đề nghiên cứu từ phong cách tiêu dùng toàn cầu hóa đến cấu trúc nền kinh tế. Trong bối cảnh làn sóng toàn cầu hóa với số lượng người trẻ ngày càng sụt giảm, Nhật Bản dần mất đi sức cạnh tranh và trở nên tụt hậu so với một châu Á đang trên đà phát triển. Chúng ta cần xem xét từ cả hai phía, nước Nhật và châu Á, để tìm ra đối sách phù hợp nhằm thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Thêm vào đó, tôi muốn đưa ra những nhận định, dự đoán xem liệu Uniqlo – thương hiệu chất lượng cao đang độc chiếm thị trường Nhật Bản, được thiết kế dành riêng cho thị trường trong nước nay đã gặt hái được thành công ở một số quốc gia đã và đang phát triển – liệu có đạt được mục tiêu dài hạn là đến năm 2020 vượt mốc doanh thu 5.000 tỉ yên và lợi nhuận 1.000 tỉ yên hay không. Lập trường của cuốn sách Hội chứng Uniqlo này không phải là khẳng định và nghiên cứu những thành công của Uniqlo mà là phân tích trực diện tình hình thị trường và mô hình doanh nghiệp ở Nhật Bản, so sánh với các mô hình doanh nghiệp không chỉ ở Âu Mỹ mà còn ở cả châu Á bằng cái nhìn tỉnh táo để tìm ra điểm mạnh cũng như điểm yếu, đồng thời xác định những cơ hội và thách thức của Uniqlo nói riêng và Fast Retailing nói chung trong tương lai. Với những nghiên cứu về Uniqlo từ trước đến giờ, cuốn sách này sẽ mang lại những đánh giá về Uniqlo trên góc độ toàn cầu, từ đó đưa ra những cảnh báo cũng như triển vọng trong tương lai của giới kinh doanh. *** Thông qua cuốn sách Hội chứng Uniqlo (Uniqlo Syndrome), tác giả Kensuke Kojima chỉ ra sự thật rằng bối cảnh cho sự thành công bất ngờ của Uniqlo chính là một nền văn hóa tiêu dùng đang suy thoái do sự sụt giảm của kinh tế và kìm hãm cảm tính của giới trẻ, đồng thời làm rõ một hiện tượng sụt giảm tiêu dùng trong xã hội, được gọi là “Hội chứng Uniqlo”, mở rộng chủ đề nghiên cứu từ phong cách tiêu dùng toàn cầu hóa đến cấu trúc nền kinh tế. Vào khoảng những năm 2000, thị trường thời trang giá rẻ của Nhật Bản rơi vào trạng thái hỗn loạn. Hàng loạt “ông lớn” như Aeon, Jeans Mate hay Right – On đều bị rơi vào những “bi kịch”. Nền thời trang giá rẻ Nhật Bản bị đặt trong tình trạng báo động. Nguyên nhân đến từ đâu? Có một “kẻ đứng sau”, và cho đến bây giờ, “kẻ đứng sau” đó vẫn sẽ luôn bị chỉ trích là “kẻ châm ngòi” cho cuộc chiến giữa các thương hiệu giá rẻ đã làm hỗn loạn thị trường Nhật Bản. Vậy, “kẻ đứng sau” là ai? Câu trả lời chính là: Uniqlo Uniqlo (còn được gọi là GU cấp thấp) đã từng làm chao đảo thị trường đồ jeans của các thương hiệu quốc gia. Đây là các thương hiệu lớn, nổi tiếng trên phạm vi toàn quốc (gọi là các NB – National Brand), tuy nhiên, tất cả đều lao đao trong một cuộc chiến giá bán, mà ở đó, “kẻ châm ngòi” chính là Uniqlo. Ngày 10/03/2009, hãng GU thuộc tập đoàn Fast Retailing cho ra mắt mẫu quần jeans có giá chỉ 990 yên (khoảng hơn 200.000 VNĐ). Một cuộc cạnh tranh về giá đã nổ ra. Aeon và Daiei đáp trả với mức giá 880 yên, đỉnh điểm là Don Quijote tung ra mức 660 yên. Tiếp sau là GAP tặng miễn phí 500 cặp quần kỉ niệm được thiết kế riêng cho dịp này. Jeans Mate cũng nhân dịp khai trương cửa hàng ở Shinsaibashi đã tặng sản phẩm cho 100 vị khách đầu tiên trong 4 ngày liên tiếp. Cuộc chiến về giá trên thị trường đồ jeans dường như không có điểm dừng. Nó kéo dài và dần trở thành một cuộc phá giá sản phẩm jeans, khiến nhiều người không còn biết đâu là giá trị thực của mặt hàng này. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do CEO của Fast Retailing, ngài Yanai Tadashi, đã quyết định tiến hành chiến lược về giá khi bắt đầu phát triển sản phẩm jeans 990 yên của GU. Những cửa hàng giá rẻ của GU buộc phải đặt cược và giảm giá đến một nửa để hướng đến mục tiêu tăng trưởng nhanh. Chính vì vậy, sản phẩm 990 yên được tung ra thị trường như một món hàng chấp nhận lỗ để thu hút khách hàng. Nhờ chiến lược ấy, doanh số bán hàng của GU tăng lên nhanh chóng, nhưng mặt trái là hãng không chỉ phá giá thị trường đồ jeans mà còn khiến cả thị trường tiêu dùng hỗn loạn. Không chỉ vậy, trong cơn bão phá giá, hàng loạt nhà cung cấp vải và sợi cho thị trường đồ jeans cũng phải chuyển dịch sang các nước có chi phí sản xuất thấp hơn như Trung Quốc để tránh nguy cơ sụp đổ toàn bộ thị trường. Chiến lược phá giá của GU đã làm chao đảo cả thị trường thời trang Nhật Bản, khi mà cơn sốt jeans bắt đầu qua đi từ mùa xuân năm 2006. Hậu quả là, thị trường hàng may mặc Nhật không ngừng thu nhỏ lại, bởi hai lý do sau: Sự suy thoái của các NB Người tiêu dùng đang phải cắt giảm các khoản chi tiêu dành cho mua sắm Hàng loạt hệ quả kéo theo. Thị trường may mặc Nhật thu nhỏ dẫn tới hệ thống cửa hàng bách hóa suy thoái. Sự suy thoái này kéo theo việc những thương hiệu thời trang lớn dần rời khỏi kệ hàng của các cửa hàng bách hóa. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường các cửa hàng tiêu thụ hàng tồn kho, dẫn tới thị trường này ngày càng mở rộng. Chưa bao giờ thị trường may mặc giá rẻ tại Nhật Bản lại trở nên hỗn loạn đến như vậy. Hội chứng Uniqlo không có điểm dừng Trước sự phát triển thần kỳ của Uniqlo, việc những cửa hàng bán lẻ và bán buôn muốn tìm hiểu phương pháp phát triển sản phẩm và công nghệ kỹ thuật của hãng là lẽ đương nhiên. Cùng với đó, các trung tâm mua sắm và cửa hàng bách hóa cũng nhập các sản phẩm của Uniqlo vào kinh doanh. Tuy nhiên, phong trào này diễn ra ồ ạt mang đến hiệu quả ngược, do những công ty đi trước đã thâu tóm thị trường không phù hợp với mình và cuộc cạnh tranh về giá dần khiến doanh thu và lợi nhuận giảm sút. Những thương hiệu ra đời sau phải cạnh tranh trong một môi trường đầy biến động, không có hiệu quả và chứa rất nhiều rủi ro. Trong hoàn cảnh như vậy, các doanh nghiệp không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi làn sóng Uniqlo. Hiện tượng này được gọi chính xác nhất là “Hội chứng Uniqlo”. Uniqlo mở rộng đối tượng khách hàng với nhiều nhóm sản phẩm phong phú như áo khoác, tất chân, khăn quàng và gần đây còn tiến tới cả áo, quần bó với rất nhiều chủng loại.  Chiến lược bán hàng đã đưa doanh thu đạt đỉnh. Việc kết hợp phát tờ rơi và chính sách giảm giá (giới hạn số lượng) đã thực sự thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, khi nhận xét về bản chất của việc mở rộng phạm vi khách hàng bằng phương pháp phát triển từng chủng loại sản phẩm của Uniqlo, ngài Yanai Tadashi cho rằng: “Trong ngành may mặc, âu phục đồng nghĩa với thời trang, và rất nhiều khách hàng thông thường phù hợp và có đủ khả năng chi trả cho mặt hàng này. Nếu cung cấp mặt hàng chất lượng với mức giá hợp lý để trở thành một phần trong cuộc sống của khách hàng, thị trường của công ty có thể mở rộng không giới hạn”. Những chuỗi cửa hàng và các nhà bán lẻ không hiểu được bản chất này mà chỉ chăm chăm học theo Uniqlo thì sẽ rất khó nắm bắt được tâm lý khách hàng. Có rất nhiều ý kiến về thế giới thời trang và ngành bán lẻ mà Uniqlo đang tham gia nhưng không ai có thể phủ nhận rằng với châm ngôn “Thay đổi trang phục, thay đổi nhận thức, thay đổi thế giới”, Uniqlo đã mang đến sự độc đáo và mở rộng đối tượng khách hàng của mình. Một minh chứng điển hình cho hội chứng Uniqlo chính là bộ phận bán lẻ hàng may mặc của Aeon. Sau khi bùng nổ làn sóng sản phẩm lông cừu, Aeon đã tiếp nối những sản phẩm đặc thù của Uniqlo như quần bó và áo len cashmere. Họ đáp trả sản phẩm đồ jeans 990 yên của GU bằng thương hiệu 880 yên. Kết quả là, dẫu nhiều người lầm tưởng rằng bộ phận bán lẻ hàng may mặc của Aeon đã phát triển gần tương xứng với Uniqlo nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Thị phần của sản phẩm 880 yên bị thị phần của các sản phẩm 1.990 và 2.990 yên nuốt gọn, cân bằng giữa các nhóm sản phẩm dần bị phá vỡ. Điều tồi tệ nhất chính là trong khi mải theo đuổi và tìm kiếm những dòng sản phẩm bán chạy, bộ phận hàng may mặc của Aeon đã chìm vào vòng xoáy khủng hoảng, khiến cán cân thương mại mất cân bằng. Thêm vào đó, từ mùa xuân năm 2006, khi nền kinh tế có dấu hiệu đi lên, Aeon lại chọn phương hướng hoạt động giống những cửa hàng bách hóa, lãng phí thời gian và tài nguyên vào những mặt hàng xa rời nhu cầu của người tiêu dùng. Do vậy, dù tình hình kinh tế có khởi sắc, doanh thu của Aeon vẫn bị giảm. Như vậy, có thể thấy, dù là Aeon hay bất cứ thương hiệu lớn nào khác, nếu không tập trung vào khách hàng của mình mà chỉ chăm chăm học hỏi chiến lược kinh doanh của các đơn vị khác thì khó có thể thành công. Dù là hội chứng Uniqlo, hay “cải cách”, hay đi theo đường lối của các cửa hàng bách hóa, các công ty cũng không được phép xa rời nhu cầu thực tế của khách hàng. Quỹ đạo tăng trưởng của Uniqlo Theo thông tin tổng hợp từ Thời báo Kinh tế Nhật Bản cuối năm 2009, Uniqlo đứng đầu tất cả các hạng mục sản phẩm trong suốt 10 năm đầu của thế kỷ XXI. Fast Retailing cũng là một trong những doanh nghiệp có sức tăng trưởng nhanh nhất trong thập niên đầu thế kỷ XXI. Sau “20 năm đánh đổi”, doanh thu của Uniqlo đã tăng 115 lần (chỉ tính thị trường quốc nội), đồng thời tận dụng tốt tình trạng giảm phát để trở thành doanh nghiệp tượng trưng cho lối sống ngày càng giản dị của nước Nhật. Từ thương hiệu quốc gia thành thương hiệu quốc tế Uniqlo là hình mẫu trong việc duy trì hình ảnh sản phẩm cho mọi lứa tuổi, mọi giới tính. Bắt đầu từ một cửa hàng thường phục bên đường, Uniqlo dần phát triển thành chuỗi cửa hàng dành cho người dân địa phương, sau này còn phát triển thêm những sản phẩm thể thao và những sản phẩm mang phong cách Mỹ. Công ty luôn cố gắng để cân bằng giữa việc theo đuổi xu hướng và việc sản xuất những mặt hàng thông dụng để duy trì doanh thu. Sau làn sóng áo khoác thể thao, tính đại chúng của công ty cũng tăng dần lên, các sản phẩm về sau như những mẫu thường phục cao cấp hay áo giữ nhiệt cũng dần được khách hàng đón nhận khiến công ty khẳng định được vị thế là một thương hiệu thường phục nổi tiếng toàn quốc. Một cuộc khảo sát đã được thực hiện để điều tra xem liệu Uniqlo có thể đáp ứng được nhiều tầng lớp khách hàng khác nhau không. Theo khảo sát xu hướng người tiêu dùng được Brand Data Bank thực hiện trong giai đoạn từ tháng 12 năm 2008 đến tháng 1 năm 2009, với hơn 30.000 người trên toàn quốc, Uniqlo chiếm ưu thế tuyệt đối với nữ giới trừ những người trong độ tuổi từ 60 đến 64 và nam giới trong độ tuổi 20 đến 54. Điều này chứng minh rằng công ty đã thành công trong việc kinh doanh mặt hàng thường phục và những sản phẩm cơ bản đồng thời được công nhận là một thương hiệu quốc gia. Lý do Uniqlo nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi là việc khiến khái niệm “chất lượng cao” trở thành một khái niệm dễ hiểu. Đó không phải là những khái niệm cao xa chỉ có người trong ngành mới hiểu, mà là những tiêu chuẩn, những “chuẩn mực cơ bản của ngành thời trang” khiến các đối tượng đại chúng cũng có thể dễ dàng đánh giá. Cụ thể là những tiêu chuẩn như nguyên liệu hay độ bền của mũi khâu, dù sử dụng hay giặt giũ cũng không dễ bị sứt chỉ hay hỏng hóc, không quan trọng là nguyên liệu đó có cao cấp hay không. Với phương châm “quá nhiều cũng đồng nghĩa với thừa thãi, không cần thiết”, Uniqlo đã xây dựng một tiêu chuẩn căn bản, dễ hiểu cho ngành thời trang, không thiếu cũng không thừa. Việc tuân thủ quá chặt chẽ tiêu chuẩn từ các chuyên gia ngược lại khiến thương hiệu không thể duy trì được sự ủng hộ, cũng như tiêu tốn nhiều kinh phí. Chính nhờ việc áp dụng phương pháp loại bỏ những giá trị không cần thiết để tập trung tạo nên một “sản phẩm vừa đủ những yếu tố quan trọng”, Uniqlo nhận được sự ủng hộ của đông đảo mọi tầng lớp. Đây chính là con đường để Uniqlo trở thành thương hiệu được đón nhận ở cả những nước phát triển và những nước đang phát triển, đặt nền móng cho sự mở rộng phát triển trên phạm vi toàn cầu. Khi đã nhận được sự ủng hộ đông đảo từ người tiêu dùng trong nước và trở thành một NB, việc Uniqlo chuyển mình thành một thương hiệu toàn cầu không hề khó. Uniqlo bước chân vào thị trường quốc tế với hàng loạt những cửa hàng được mở ra tại London, Thượng Hải, Seoul, New Jersey, New York, Paris, Singapore,.... Kết quả là, đến cuối tháng 2 năm 2010, thị trường Âu Mỹ đã có 17 cửa hàng, Trung Quốc, Đài Loan có 59 cửa hàng, Hàn Quốc có 46 cửa hàng, Singapore có 3 cửa hàng, tổng cộng là 125 cửa hàng. Sau đó, lần lượt tại Moscow, Đài Bắc cũng có sự xuất hiện của các cửa hàng Uniqlo. Câu chuyện về sự chuyển mình của Uniqlo từ thương hiệu quốc gia thành thương hiệu toàn cầu đang diễn ra một cách sôi nổi. Tuy đã trở thành một thương hiệu quốc gia nhưng số lượng những người ghét Uniqlo cũng không phải là ít. Có không ít người “cảm thấy xấu hổ khi mặc đồ Uniqlo”. Nguyên nhân chính là do đây là một thương hiệu giá rẻ và được sử dụng tràn lan bởi số đông. Uniqlo mang đến cảm giác về một thương hiệu được sản xuất đại trà theo quy mô công nghiệp và thiếu bản sắc riêng, tạo ra một khoảng cách không nhỏ giữa “những người xấu hổ” với những người yêu thích sự độc đáo của các thương hiệu như Giordano hay Benneton. Những người không thể chấp nhận được những sản phẩm thuộc thời đại số hóa hay mang sắc thái công nghiệp thì sau này cũng không thể trở thành khách hàng của Uniqlo. Uniqlo là một hình mẫu doanh nghiệp cổ điển Có thể nói ngay từ đầu Uniqlo đã lựa chọn phát triển một cách đầy sáng tạo theo hình mẫu doanh nghiệp kiểu SPA. SPA là gì? Nó là một hình thức kinh doanh mới, xuất phát từ hình thức kinh doanh tên là “Specialty store retailer of Private label Apparel” – Cửa hàng bán lẻ đặc quyền của thương hiệu may mặc quốc gia. Sau đó, hình thức này được mở rộng ra với những công ty vừa sản xuất vừa mở cửa hàng bán lẻ các sản phẩm may mặc, được gọi là SPA. Hình thức SPA luôn tồn tại mối quan hệ mật thiết giữa nhà sản xuất và nhà bán lẻ. Nhà sản xuất sẽ thực hiện toàn bộ quy trình từ lên kế hoạch, phát triển và quản lý quá trình sản xuất. Tuy nhiên, trong giai đoạn quá độ chuyển đổi sang hình thức SPA, để vượt qua những trở ngại về nguồn lao động và đẩy nhanh tốc độ phát triển, các công ty này đã phải bắt tay với những công ty thương mại hay những công ty trong ngành công nghiệp phụ trợ. Ngay từ đầu, trong ngành sản xuất các sản phẩm may mặc, SPA được coi là định hướng phát triển theo chiều dọc, tuy nhiên, có rất nhiều công ty chỉ tập trung phát triển giá trị gia tăng của riêng mình bằng cách tận dụng bối cảnh sản xuất và tự lên kế hoạch, định dạng thương hiệu riêng. Trái với xu hướng đó, Uniqlo chú trọng đến việc phát triển nguyên vật liệu và quản lý sản xuất. Theo chiến lược điều chỉnh dựa trên những tiêu chuẩn đồng đều, lợi nhuận của công ty sẽ được thể hiện bằng một đường cong nụ cười, không thể đứng ngoài sự sụt giảm chung của chuẩn mực thế giới. Quá trình hội nhập ngày càng phát triển người ta càng nghi ngờ liệu rằng Uniqlo với chiến lược hội nhập theo chiều dọc có thể duy trì được những lợi thế về chi phí sản xuất hay không. Hình thức sản xuất của Uniqlo giống hệt những nhà sản xuất đồ điện gia dụng hợp tác với các dịch vụ sản xuất may mặc và thuê nhà máy sản xuất từng phụ tùng. Thực tế, hình thức này không có bất cứ ưu điểm nào về chi phí cũng như tốc độ. Có thể Uniqlo sẽ trở thành một khối hóa thạch bị kìm kẹp trong câu chuyện về chất lượng sản phẩm đi ngược với chuẩn mực thế giới mà mức chi phí lại trên trời, bước theo vết xe đổ của Toyota. Cũng có thể Uniqlo sẽ ưu tiên giảm chi phí và phá bỏ câu chuyện thần thoại về chất lượng đã tồn tại từ lâu. Cũng giống như Toyota, Uniqlo không thể tránh khỏi những khó khăn do việc tự mâu thuẫn. Trong bối cảnh như vậy, có lẽ chúng ta nên thừa nhận thương hiệu GU đã chấp nhận hi sinh chất lượng để hình thành định dạng “thương hiệu giá rẻ” mới đúng là đường hướng phát triển của thị trường toàn cầu, bao gồm cả những thị trường mới nổi. Uniqlo – “Người mở đường” hay “Kẻ châm ngòi”? Dẫu còn quá vội vàng khi kết luận Uniqlo là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế nhưng không thể phủ nhận rằng đây chính là thương hiệu mở đường cho làn sóng hàng may mặc giá rẻ. Trong xã hội ngập tràn “Fast fashion” như hiện nay, Uniqlo không chỉ nên tập trung vào phân khúc sản phẩm giá rẻ đã tấn công mà sau bốn năm phát triển với “tuyên ngôn giá rẻ”, giờ là lúc hãng phải nâng cao giá trị sản phẩm ở khía cạnh chất lượng, tạo ra một thương hiệu dựa trên cơ sở “mức giá tương đương với chất lượng sản phẩm”. Thế nhưng, trong lĩnh vực đồ jeans, Uniqlo vẫn sẽ luôn bị chỉ trích là kẻ châm ngòi cho cuộc chiến giữa các thương hiệu giá rẻ đã làm hỗn loạn thị trường. Kết Trong bối cảnh làn sóng toàn cầu hóa với số lượng người trẻ ngày càng sụt giảm, Nhật Bản dần mất đi sức cạnh tranh và trở nên tụt hậu so với một châu Á đang trên đà phát triển. Một cách khách quan, cần xem xét từ cả hai phía, nước Nhật và châu Á, để tìm ra đối sách phù hợp nhằm thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Thêm vào đó, tác giả Kensuke Kojima muốn đưa ra những nhận định, dự đoán xem liệu Uniqlo – thương hiệu chất lượng cao đang độc chiếm thị trường Nhật Bản, được thiết kế dành riêng cho thị trường trong nước nay đã gặt hái được thành công ở một số quốc gia đã và đang phát triển –  liệu có đạt được mục tiêu dài hạn là đến năm 2020 vượt mốc doanh thu 5.000 tỉ yên và lợi nhuận 1.000 tỉ yên hay không. Hội chứng Uniqlo không phải là một cuốn sách ca tụng thương hiệu Uniqlo, hiện đang tràn ngập trên thị trường, cũng không phải là cuốn sách chỉ dẫn phương thức hoạt động của Uniqlo hay phân tích về sự phát triển của Fast Retailing – Tập đoàn bán lẻ lớn của Nhật, công ty mẹ của Uniqlo. Nó cũng không nghiên cứu về sự nghiệp của ngài Yanai Tadashi – Người sáng lập và Chủ tịch của Fast Retailing, chủ nhân thương hiệu Uniqlo. Lập trường của cuốn sách này không phải là khẳng định và nghiên cứu những thành công của Uniqlo, mà là phân tích trực diện tình hình thị trường và mô hình doanh nghiệp ở Nhật Bản, so sánh với các mô hình doanh nghiệp không chỉ ở Âu Mỹ mà còn ở cả châu Á, bằng cái nhìn tỉnh táo để tìm ra điểm mạnh cũng như điểm yếu, đồng thời xác định những cơ hội và thách thức của Uniqlo nói riêng và Fast Retailing nói chung trong tương lai. Với những nghiên cứu về Uniqlo từ trước đến giờ của tác giả Kensuke Kojima, cuốn sách Hội chứng Uniqlo sẽ mang lại những đánh giá về Uniqlo trên góc độ toàn cầu, từ đó đưa ra những cảnh báo cũng như triển vọng trong tương lai của giới kinh doanh. Tác giả: DO   Mời các bạn đón đọc Hội chứng Uniqlo của tác giả Kensuke Kojima & Vũ Linh (dịch).