Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ma Cà Rồng Ở Dallas

Khi chàng ma cà rồng Bill Thompton tiếp nhận vị trí Điều tra viên khu vực Số Năm, Sookie Stackhouse mặc nhiên được những ma cà rồng quyền lực nhất vùng bảo vệ. Nhưng, được coi như món đồ thuộc quyền sở hữu của Bill, cô buộc phải sử dụng khả năng đọc tâm trí của mình để phục vụ những kẻ khát máu. Với điệp vụ đầu tiên trong vai trò một tay lính đánh thuê, cô phải lặn lội cùng Bill tìm lời giải đáp cho sự mất tích bí ẩn của một ma cà rồng đồng tính tận Dallas. Cô những tưởng mình chỉ cần đọc tâm trí một vài người thường nào đó. Cô cũng đã tưởng mình có thể bảo vệ những con người liên quan đến vụ việc. Chỉ có điều, mối nguy hiểm không phải lúc nào cũng chỉ đến từ phía ma cà rồng. Và, lý thuyết bao giờ cũng đơn giản hơn thực tế… Một lần nữa, chính mạng sống của cô lại bị treo trên đầu sợi tóc… Charlaine Harris (sinh 25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood. “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà.” – The Monroe News-star “Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” – Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” – The Toronto Stars *** Andy Bellefleur đã say khướt. Chuyện này chẳng bình thường với Andy chút nào - tin tôi đi, tôi biết hết mấy tay nát rượu ở Bon Temps. Nhờ nhiều năm làm việc trong quán bar của Sam Merlotte, tôi đã quen mặt tất cả bọn họ. Nhưng Andy Bellefleur, người gốc địa phương và là thanh tra trong lực lượng cảnh sát ít ỏi ở thị trấn Bon Temps, thì trước giờ chưa từng say xỉn ở quán Merlotte. Tôi cực kỳ tò mò muốn biết vì sao tối nay lại là ngoại lệ. Vì Andy và tôi chẳng hề quen thân nên tôi không thể hỏi thẳng anh ta được. Nhưng vẫn còn vài cách khác mà, thế là tôi quyết định dùng các cách ấy. Mặc dù tôi luôn cố hạn chế sử dụng khiếm khuyết, hay tài năng của mình, muốn gọi sao cũng được, để tìm ra những thứ có thể ảnh hưởng đến tôi hoặc những thứ thuộc về tôi, nhưng đôi lúc sự tò mò lại thắng thế. Tôi hạ rào chắn tâm trí xuống để đọc suy nghĩ của Andy. Rồi tôi lại thấy hối hận. Sáng nay Andy đã tóm một tên bắt cóc. Gã đàn ông đó đã bắt cóc cô bé hàng xóm mới mười tuổi mang vào rừng hãm hiếp. Cô bé đó hiện đang ở bệnh viện, còn gã kia đang ở trong tù, nhưng tổn hại mà hắn đã gây ra thì chẳng thể nào khắc phục được. Tôi buồn đến phát khóc. Tội ác ấy chạm vào sâu thẳm quá khứ của chính tôi. Sự trầm uất của Andy làm tôi thấy thích anh ta hơn một chút. “Này Andy Bellefleur, đưa chìa khóa xe anh đây,” tôi nói. Gương mặt to bành của Andy ngước lên nhìn tôi, ngơ ngác. Sau một hồi lâu ngẩn ngơ để cho lời tôi nói thẩm thấu vào trí óc rối bời của mình, Andy thò tay lục túi quần kaki rồi đưa tôi một chùm chìa khóa nặng trịch. Tôi đặt thêm một ly bourbon pha coca trên quầy bar trước mặt anh ta. “Tôi mời,” tôi nói, rồi lấy điện thoại ở cuối quầy bar gọi cho Portia, em gái Andy. Hai anh em nhà Bellefleur sống ở một căn biệt thự lớn kiểu tiền Nội Chiến hai tầng màu trắng trước đây hẳn rất tráng lệ nhưng giờ đang xuống cấp, nằm trên con phố xinh xắn nhất trong khu vực đẹp nhất thị trấn Bon Temps. Trên đường Magnolia Creek, mọi ngôi nhà đều quay mặt ra phía dải công viên có dòng suối nhỏ len qua, bắc rải rác ngang con suối là những cây cầu hoa hòe hoa sói chỉ dành riêng cho người đi bộ; đường lộ chạy dọc hai bên công viên. Trên đường Magnolia Creek còn có vài căn nhà xưa khác nữa, nhưng tất cả đều được chăm chút hơn nơi ở của gia đình Bellefleur, căn Belle Rive. Việc duy tu căn nhà Belle Rive vượt quá khả năng chi trả của Portia, một luật sư, và của Andy, một cảnh sát, vì số tiền để duy trì căn nhà cùng đất đai vườn tược chung quanh đã hết từ lâu rồi. Nhưng bà của họ, Caroline, lại gàn bướng không chịu bán. Portia nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ hai. “Portia à, tôi là Sookie Stackhouse đây,” tôi phải lên giọng để át đi âm thanh ồn ã trong quán bar. “Hẳn là cô vẫn đang ở chỗ làm.” “Phải rồi. Andy đang ở đây, say mèm rồi. Tôi đã thu chìa khóa xe của anh ấy. Cô đến đón Andy được không?” “Andy quá chén à? Hiếm nhỉ. Được rồi, tôi sẽ đến đó trong vòng mười phút,” cô ta hứa, rồi cúp máy. “Cô tốt bụng quá, Sookie,” tự nhiên Andy thốt lên. Anh ta đã nốc cạn ly rượu tôi vừa rót. Tôi gạt cốc ra chỗ khuất mắt, mong rằng anh ta không đòi thêm nữa. “Cảm ơn anh, Andy,” tôi nói. “Anh cũng là người tốt bụng mà.” “Bạn trai… đâu ấy nhỉ?” “Ngay đây này,” một giọng nói lạnh lùng đáp lại, và Bill Compton xuất hiện ngay đằng sau Andy. Tôi mỉm cười với anh qua đầu Andy lúc này đang gục xuống. Bill cao khoảng một mét tám, tóc và mắt cùng một màu nâu sẫm. Anh có bờ vai rộng và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp như của người đã lao động chân tay suốt nhiều năm liền. Trước khi đi lính, Bill đã làm việc ở trang trại, đầu tiên là cùng bố, sau đó làm một mình. Trong cuộc Nội Chiến thì phải. “Chào M.B.!” Micah, chồng của Charlsie Tooten, cất tiếng. Bill phẩy tay đáp lại, Jason, anh trai tôi, thì chào hỏi vô cùng lịch sự, “Chào buổi tối nhé, ma cà rồng Bill.” Jason, trước đây không mấy sẵn lòng đón chào Bill bước vào gia đình nhỏ của chúng tôi, nhưng giờ lại thay đổi thái độ hoàn toàn. Trong thâm tâm tôi gần như vẫn nín thở chờ xem thái độ được cải thiện này có tồn tại mãi không. “Này Bill, anh là một tay hút máu tốt bụng đấy,” Andy nói vẻ đánh giá, rồi xoay người đối mặt Bill. Tôi lại nâng cấp quan điểm của mình về Andy khi say xỉn, vì khi tỉnh táo có bao giờ anh ta tỏ ra sẵn lòng chấp nhận ma cà rồng vào xã hội con người trên đất nước này đâu cơ chứ. “Cảm ơn anh,” Bill đáp bằng giọng khô khốc. “Với một tay nhà Bellefleur thì anh cũng đâu quá tệ.” Anh rướn người qua quầy hôn tôi. Đôi môi anh cũng lạnh như chính giọng nói. Phải làm quen với điều này thôi. Như khi ngả đầu lên ngực anh, chẳng ai nghe thấy được nhịp tim đập trong ấy. “Chào buổi tối, cưng à,” anh nói nhỏ. Tôi đẩy qua quầy bar một ly B trừ, loại máu nhân tạo được Nhật Bản phát chế, anh ngửa cổ nốc cạn rồi liếm môi. Gần như ngay lập tức trông anh hồng hào hẳn. “Cuộc họp sao rồi cưng?” tôi hỏi. Bill đã ở Shreveport hầu như cả đêm hôm nay. “Anh sẽ kể cho em sau.” Tôi hy vọng những chuyện liên quan đến công việc của anh không quá bi thương như chuyện của Andy. “Được thôi. Em mong là anh sẽ giúp Portia dìu Andy ra xe cô ấy. Cô ấy đến kia kìa,” tôi nói, hất đầu về phía cửa. Đấy là lần đầu tiên tôi không thấy Portia vận bộ đồng phục váy công sở, sơ mi, áo khoác, tất dài cùng giày đế bệt. Portia đã thay quần jean xanh và một chiếc áo lạnh Sophie Newcomb nhàu nhĩ. Thân hình Portia to cao như người anh mình, nhưng cô có mái tóc màu hạt dẻ dài và dày. Chăm sóc cho mái tóc mình đẹp đẽ là một nét đặc trưng của bản thân mà Portia chưa muốn từ bỏ. Cô chỉ đưa mắt khắp đám đông om sòm chăm chăm tìm một thứ. “Ôi, anh ấy xỉn quá rồi, hay nhỉ,” cô thốt lên, thẩm định tình trạng ông anh trai của mình. Portia cố phớt lờ Bill, người đang làm cô thấy hết sức khó chịu. “Chuyện này không xảy ra thường xuyên đâu, nhưng nếu đã muốn uống thật là anh ấy sẽ uống quắc cần câu luôn.” “Portia này, Bill có thể dìu anh ấy ra ngoài xe giúp cô,” tôi nói. Andy cao và đậm người hơn Portia, rõ ràng là nặng quá sức cô em gái. “Tôi nghĩ mình có thể tự lo được,” Portia quả quyết với tôi, vẫn không thèm nhìn qua Bill, lúc này đang nhướn mày nhìn tôi. Thế là tôi để cô vòng tay qua người ông anh trai, cố nhấc anh ta ra khỏi ghế. Andy vẫn ì ra đó. Portia liếc nhìn quanh tìm Sam Merlotte, chủ quán bar, tuy anh này có vẻ ngoài nhỏ thó gầy gò nhưng thật ra lại rất khỏe. “Sam đang đi pha chế rượu cho một buổi tiệc kỷ niệm ở câu lạc bộ ngoại ô mất rồi,” tôi nói. “Tốt hơn hết là cứ để Bill giúp đi.” “Ừ thôi cũng được,” cô luật sư cứng nhắc đáp, mắt nhìn chăm chăm lên mặt gỗ quầy bar bóng loáng. “Cảm ơn rất nhiều.” Trong chớp mắt Bill đã xốc Andy lên đi ra phía cửa, mặc cho hai chân Andy cứ muốn nhũn như chi chi. Micah Tooten bật dậy mở cửa, để Bill có thể dìu Andy thẳng ra ngoài bãi đỗ xe. “Cảm ơn cô, Sookie,” Portia nói. “Tiền rượu anh ấy đã trả hết chưa?” Tôi gật đầu. “Được rồi,” cô nói, vỗ nhẹ tay xuống bàn để ra hiệu là cô về đây. Cô phải nghe hàng đống lời khuyên đầy thiện chí khi theo bước Bill ra khỏi cửa chính của quán Merlotte. Đó là lý do vì sao mà chiếc Buick cũ kỹ của thanh tra Andy Bellefleur lại đỗ trong bãi xe quán Merlotte suốt đêm đến tận ngày hôm sau. Sau này hẳn anh ta sẽ thề rằng dĩ nhiên không có ai trong chiếc Buick ấy khi mình bước ra khỏi xe đi vào quán. Hẳn anh ta cũng sẽ khai rằng trước đó do quá bận tâm về cơn hỗn loạn nội tâm nên đã quên khóa cửa. Đâu đó trong khoảng thời gian từ tám giờ tối, khi Andy bước vào quán Merlotte, đến mười giờ sáng hôm sau, khi tôi đến để giúp mở cửa tiệm, xe của Andy đã có thêm một hành khách mới. Người này chắc chắn sẽ gây ra một nỗi xấu hổ trầm trọng cho viên cảnh sát. Hắn đã chết. Đáng lẽ ra tôi không nên đến đây làm gì. Đêm trước tôi đã làm ca khuya, và nhẽ ra tối hôm sau tôi lại phải làm ca khuya nữa. Nhưng Bill đã yêu cầu tôi đổi ca với một đồng nghiệp khác, bởi anh cần tôi đi cùng đến Shreveport, và Sam đã không phản đối. Tôi đã nhờ chị bạn Arlene đổi ca với tôi. Hôm ấy là ngày nghỉ của chị, nhưng Arlene luôn muốn kiếm những món tiền boa hậu hĩnh hơn khi làm việc ca tối, nên chị đồng ý đến quán vào lúc năm giờ chiều. Kỳ thực, lẽ ra Andy đã phải đến lấy xe buổi sáng hôm đó, nhưng anh ta vẫn còn quá váng vất không đủ sức làm trò buộc Portia cho quá giang đến quán Merlotte, quán này thì không nằm trên đường tới đồn cảnh sát. Cô bảo buổi trưa sẽ đến đón anh ở chỗ làm, và cả hai sẽ dùng bữa ở quán. Sau đó thì anh ta có thể lấy xe. Thế nên chiếc Buick, cùng vị hành khách câm lặng của mình, đã phải chờ lâu hơn thời gian cần thiết mới được phát hiện. Tôi đã ngủ khoảng sáu tiếng đêm trước đó, nên cảm thấy trong người khá khỏe khoắn. Hẹn hò với ma cà rồng có thể sẽ làm khó cho sự cân bằng của bạn nếu bạn thực là người sống về ban ngày, như tôi đây này. Tôi giúp mọi người đóng cửa quán, rồi về nhà với Bill trước một giờ sáng. Hai chúng tôi cùng tắm trong bồn tắm nước nóng nhà anh, rồi làm vài chuyện khác nữa, nhưng tôi đã đi ngủ sau hai giờ một chút, và mãi đến gần chín giờ sáng mới thức dậy. Lúc đó thì Bill đã xuống lòng đất từ lâu rồi. Tôi uống thật nhiều nước, nước cam cùng một viên vitamin tổng hợp và một viên bổ sắt vào bữa sáng, đó là chế độ dinh dưỡng của tôi kể từ khi Bill bước vào đời tôi và mang theo (cùng với tình yêu, trò phiêu lưu, lẫn sự phấn khích) mối đe dọa triền miên của chứng thiếu máu. Thời tiết đang dần trở nên mát mẻ hơn, tạ ơn Chúa, khi tôi ngồi trước hiên nhà Bill, mặc áo len móc dài tay và chiếc quần dài màu đen mà chúng tôi vẫn mặc làm việc ở quán Merlotte mỗi khi trời quá lạnh không thể mặc quần soóc được. Chiếc áo sơ mi đánh gôn trắng của tôi có thêu chữ BAR MERLOTTE’S bên ngực trái. Khi đang đọc lướt qua tờ báo buổi sáng, một phần tâm trí khác của tôi giúp tôi nhận ra một thực tế rõ ràng là cỏ mọc không nhanh như trước kia. Có vẻ như một vài ngọn cỏ bắt đầu ngả màu dần. Tình trạng sân bóng trong trường trung học chắc hẳn sẽ khá xấu vào tối thứ Sáu tới đây. Mùa hè ở Louisiana cứ dùng dằng mãi không dứt, kể cả ở miền Bắc Louisiana cũng thế. Mùa thu đến rất miễn cưỡng, cứ như thể bất cứ lúc nào mùa thu cũng có thể bỏ cuộc để lại nhường chỗ cái nóng hầm hập của tháng Bảy vậy. Nhưng tôi vốn mẫn cảm, và có thể điểm mặt được những dấu hiệu của mùa thu vào buổi sáng hôm nay. Mùa thu và mùa đông đến có nghĩa là đêm được dài hơn, thời gian ở bên Bill được lâu hơn, và giấc ngủ được thêm vài giờ nữa. Nên tôi đi làm với tâm trạng vui vẻ. Khi thấy chiếc Buick vẫn còn đỗ một mình trước quán bar, tôi nhớ lại chầu rượu say bí tỉ bất thường của Andy tối qua. Phải thú thật rằng, tôi đã mỉm cười khi nghĩ đến cảm giác của anh ta sáng nay. Ngay khi chuẩn bị vòng xe ra đằng sau để đỗ xe cùng với những nhân viên khác, tôi nhác thấy cửa sau của xe Andy mở he hé. Nếu cứ để như vậy thì đèn trần chắc chắn sẽ sáng hoài, phải không nào? Và ắc quy xe anh ta sẽ cạn mất. Và chắc hẳn anh ta sẽ cáu điên lên, rồi phải vào trong quán bar mà gọi xe đến cẩu đi, hoặc nhờ ai đó làm nóng xe cho mình… nên tôi đỗ xe vào bãi rồi ra khỏi xe, cứ để máy nổ. Hóa ra đây lại là một sai lầm tai hại vì lạc quan quá mức. Tôi ẩy cánh cửa vào, nhưng nó chỉ nhích tới có một phân. Thế nên tôi tì cả người vào cánh cửa, nghĩ rằng nó sẽ dập khóa lại và tôi có thể đi làm việc khác. Nhưng một lần nữa, cánh cửa không chịu sập lại. Tôi sốt ruột giật toang cửa ra để xem thứ gì kẹt trong cửa xe. Một luồng hôi thối ùa tràn ra bãi đỗ xe, một mùi hôi thối chết chóc. Tôi nghẹn họng mất hết tinh thần, vì tôi chẳng xa lạ gì với mùi hôi thối ấy. Tôi thò đầu vào trong băng ghế sau của xe, tay bịt chặt miệng, dù rằng làm thế cũng chẳng ngăn được thứ mùi này. “Ôi, trời ơi,” tôi thì thào. “Ôi, chết tiệt.” Lafayette, tay bếp làm một ca ở quán Merlotte, đã bị nhồi vào ghế sau. Trần truồng. Chính bàn chân nhỏ màu nâu của Lafayette với những móng chân sơn màu mận chín đã ngăn không cho cánh cửa đóng sập lại, và chính cái xác của Lafayette đã tạo ra thứ mùi xóc cả óc đó. Tôi vội nhảy phắt ra sau, lẩy bẩy leo vào xe mình rồi lái vòng ra phía sau quán, bấm còi inh ỏi. Sam chạy ra từ phía cửa dành cho nhân viên, tạp dề cột quanh eo. Tôi tắt máy xe và lao bắn ra ngoài nhanh đến nỗi chính bản thân còn không nhận thức được mình đã ra khỏi xe, và tôi ôm choàng lấy anh như một chiếc tất tích điện. “Chuyện gì thế?” Tiếng Sam vang lên trong tai tôi. Tôi ngửa người ra sau ngước nhìn anh, chẳng phải ngước lên quá cao làm gì vì Sam hơi nhỏ con. Mái tóc vàng hoe hoe đỏ của anh lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. Cặp mắt xanh biêng biếc đang mở to khiếp đảm. “Lafayette đó,” tôi nói, bắt đầu thút thít. Khóc lóc thì kỳ cục, ngớ ngẩn và vô tích sự thật, nhưng tôi không kìm lại được. “Anh ấy chết rồi, trong xe của Andy Bellefleur ấy.” Vòng tay của Sam siết chặt sau lưng tôi khi anh lại kéo tôi sát vào lòng. “Sookie, thật tiếc là em đã phải nhìn thấy cảnh ấy,” anh bảo. “Chúng ta sẽ gọi cảnh sát. Lafayette tội nghiệp.” Việc làm đầu bếp ở quán Merlotte không nhất thiết đòi hỏi tay nghề bếp núc cao siêu gì, vì Sam chỉ bán vài món sandwich và khoai tây chiên, nên vị trí này thay người luôn. Nhưng bất ngờ thay, Lafayette lại là người làm việc ở đây được lâu nhất. Lafayette là người đồng tính, đồng tính kiểu hoa hòe hoa hoét, kiểu trang-điểm-và-để-móng-tay-dài. Người dân miền Bắc Louisiana vẫn còn khó chấp nhận được chuyện này hơn dân ở New Orleans, nên tôi ngờ rằng Lafayette, một người da màu, đã phải hứng chịu khó khăn gấp đôi. Mặc cho - hay nhờ vào - những khó khăn đó, anh ấy vẫn luôn vui vẻ, lém lỉnh khôi hài, thông minh, và là đầu bếp giỏi thực thụ. Anh ấy đã chế một loại xốt đặc biệt để ướp hamburger, và người ta gọi món burger Lafayette khá thường xuyên. “Anh ấy có người thân nào ở đây không nhỉ?” tôi hỏi Sam. Chúng tôi tự giác rời nhau ra và rảo bước về phía tòa nhà, vào văn phòng của Sam. “Anh ấy có một tay anh em họ nào đó,” Sam vừa nói vừa nhấn 9-1-1. “Làm ơn đến quán Merlotte trên đường Hummingbird ngay,” anh nói với người trực tổng đài. “Có một xác chết đàn ông trong xe ở đây. Phải, trong bãi đỗ xe, ngay trước cửa quán. À, chị cũng làm ơn báo cho Andy Bellefleur đi. Xe của anh ta đấy.” Từ chỗ đang đứng, tôi có thể nghe thấy tiếng trả lời bai bải ở phía đầu dây bên kia. Danielle Gray và Holly Cleary, hai phục vụ bàn ca sáng, bước vào qua cửa sau, cười hô hố. Hai cô này đều đã ly dị lúc hai lăm hai sáu tuổi, là bạn với nhau từ thuở thiếu thời, có vẻ như đều khá hài lòng với công việc này miễn là được làm việc cùng nhau. Holly có một cậu con trai năm tuổi đang học mẫu giáo, còn Danielle có một cô con gái bảy tuổi và một cậu con trai chưa đến tuổi đi học để ở nhà cho bà trông khi cô ấy đến quán Merlotte làm việc. Tôi chẳng bao giờ gần gũi được với hai người phụ nữ này - dù rằng họ cũng sàn sàn tuổi tôi - bởi họ luôn chăm chắm quan tâm tới nhau mà thôi. “Có chuyện gì vậy?” Danielle hỏi khi cô ta nhìn thấy mặt tôi. Khuôn mặt choắt và đầy tàn nhang của cô ta lập tức trở nên lo lắng. “Sao xe của Andy ở trước cửa quán vậy?” Holly hỏi. Có thời cô ấy đã cặp kè với Andy Bellefleur, tôi chợt nhớ ra. Holly có mái tóc vàng tém ngắn lòa xòa quanh mặt như những cánh hoa cúc dại héo rũ, và làn da đẹp nhất mà tôi từng thấy. “Anh ta ngủ qua đêm trong xe à?” “Không phải,” tôi đáp, “mà là người khác kia.” “Ai?” “Lafayette ở trong xe.” “Andy để một tay lập dị da đen ngủ trong xe của mình sao?” Câu này của Holly, người khi nào cũng thẳng thừng vô duyên. “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta thế?” Câu này của Danielle, người thông minh hơn trong hai cô. “Tụi này không biết nữa,” Sam đáp. “Cảnh sát đang trên đường đến đây.” “Ý anh là,” Danielle nói, thật chậm rãi từng chữ một, “anh ta đã chết.” “Phải,” tôi bảo cô ta. “Đó chính xác là ý của tụi này.” “Này, một giờ nữa là chúng ta phải mở cửa rồi,” Holly chống tay lên bờ hông tròn trịa của mình. “Chúng ta sẽ xử lý chuyện này ra sao đây? Nếu cảnh sát cho chúng ta mở cửa, ai sẽ làm bếp chứ? Mọi người vào quán, họ sẽ muốn dùng bữa trưa.” “Tốt hơn là cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, để đề phòng thôi,” Sam nói. “Dù tôi đang nghĩ là mãi đến chiều mình mới được phép mở cửa kia.” Anh vào văn phòng để bắt đầu gọi cho mấy tay đầu bếp thay thế. Thật lạ lẫm khi phải làm những việc chuẩn bị thường ngày trước khi mở cửa quán, cứ như thể Lafayette sẽ đi vào bất cứ lúc nào cùng một câu chuyện về buổi tiệc nào đó mà anh ấy đã tham dự, như mới vài ngày trước đây anh cũng đã đi vào như thế. Tiếng còi hụ của xe cảnh sát vang vọng từ con đường chạy ngang qua trước quán Merlotte. Tiếng bánh xe nghiến lạo xạo trên bãi xe rải sỏi của Sam. Đến khi chúng tôi hạ hết ghế xuống, bày biện bàn ăn, cuộn thêm vài bộ dao nĩa dự phòng vào khăn ăn để sẵn sàng thay thế cho những bộ dao nĩa đã được dùng đến, thì cảnh sát bước vào. Quán Merlotte nằm ngoài phạm vi thị trấn, nên viên cảnh sát trưởng địa phương, Bud Dearborn, sẽ đảm trách vụ này. Bud Dearborn là một người bạn rất thân của ba tôi trước kia, giờ đây mái tóc đã điểm bạc. Ông có khuôn mặt bèn bẹt, như người mang mặt chó Bắc Kinh, và đôi mắt nâu mờ đục. Khi ông bước vào cửa trước quán, tôi nhận ra Bud vẫn còn đang đi đôi bốt nặng nề và đội chiếc mũ lưỡi trai đội bóng Saints. Chắc hẳn ông bị gọi đến khi vẫn đang làm việc ngoài nông trại. Bud đi cùng Alcee Beck, viên thanh tra da màu duy nhất trong lực lượng cảnh sát địa phương. Da Alcee đen đến nỗi chiếc sơ mi trắng của anh ta sáng lóa lên vì tương phản. Chiếc cà vạt được thắt ngay ngắn, bộ vét hết sức chỉnh tề. Còn đôi giày da thì được đánh bóng loáng lấp lánh. Bud và Alcee thay phiên nhau coi quản trong vùng… ít nhất thì cũng có vài người quan trọng hơn để giữ cho khu vực này còn hoạt động. Mike Spencer, giám đốc công ty mai táng kiêm nhân viên pháp y của địa phương, cũng là người có vai vế trong địa phương, là bạn thân của Bud. Tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng lúc này Mike đã ra ngoài bãi xe, tuyên bố Lafayette tội nghiệp đã chết. Bud Dearborn hỏi, “Ai là người phát hiện ra cái xác?” “Tôi đây.” Bud và Alcee liếc nhìn nhau đầy ẩn ý và bước về phía tôi. “Sam à, bọn tôi mượn văn phòng của cậu được chứ?” Bud hỏi. Không cần đợi Sam trả lời, ông ta hất đầu ra dấu cho tôi đi vào. “Chắc chắn rồi, thẳng vào trong ấy đấy,” ông chủ của tôi đáp khô khốc. “Em ổn chứ, Sookie?” “Không sao đâu mà, Sam.” Tôi không chắc điều này có thật hay không, nhưng Sam có phản ứng kiểu gì với cái yêu cầu này thì cũng gặp rắc rối hết, vô ích thôi. Mặc dù Bud ra dấu cho tôi ngồi xuống, tôi lắc đầu khi ông ta và Alcee an vị trên hai cái ghế trong văn phòng. Bud, tất nhiên là ngồi trên cái ghế to bành của Sam, còn Alcee thì giành lấy chiếc ghế phụ vẫn còn ngon, chiếc ghế vẫn còn lại chút ít nệm lót ấy. “Kể cho chúng tôi nghe về lần cuối cùng cô gặp Lafayette còn sống đi,” Bud gợi ý. Tôi suy nghĩ. “Anh ấy không làm việc tối qua,” tôi nói. “Mà là Anthony. Anthony Bolivar.” “Ai thế nhỉ?” Vầng trán rộng của Alcee nhăn lại. “Không nhận ra cái tên đó.” “Anh ta là bạn của Bill. Anh ta đang lang bạt qua vùng này, và cần một công việc. Anh ta có kinh nghiệm.” Anh ta đã làm việc tại quán ăn trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. “Ý cô là tay đầu bếp tạm thời ở đây là một ma cà rồng? “Thì sao chứ?” tôi hỏi lại, khóe miệng cong lên ương bướng, lông mày nhíu lại, và tôi biết rằng khuôn mặt mình đang dần toát lên vẻ giận dữ. Tôi đang cố hết sức để không phải đọc tâm trí của họ, cố bằng mọi giá để hoàn toàn không thông tâm gì cả, nhưng việc này không dễ dàng. Bud Dearborn thì thường thường thôi, nhưng Alcee thì phóng suy nghĩ ra cứ như kiểu ngọn hải đăng truyền phát tín hiệu vậy. Ngay lúc này đây anh ta đang tỏ vẻ ghê tởm và kinh sợ. Trong thời gian trước khi gặp Bill, và nhận ra anh quý trọng khiếm khuyết của tôi - là tài năng, như cách anh nhìn nhận - tôi đã cố hết sức để dối gạt bản thân và lừa phỉnh mọi người rằng tôi thực sự không biết “đọc” tâm trí. Nhưng kể từ khi Bill giải thoát tôi khỏi lao tù nhỏ bé mà tôi tự xây lên cho bản thân, thì tôi đã thực tập và trải nghiệm, trong sự khuyến khích của Bill. Vì anh, tôi đã mô tả thành lời những thứ mà mình đã và đang cảm nhận suốt hàng mấy năm trời. Có vài người gửi đi những thông điệp hết sức mạnh mẽ, rõ ràng, như Alcee đây. Còn đâu thì hầu hết mọi người lúc này lúc khác, như Bud Dearborn vậy. Theo như những gì tôi biết thì chuyện này phụ thuộc rất nhiều vào việc cảm xúc của họ mãnh liệt đến đâu, mức độ tỉnh táo của họ ra sao, thời tiết như thế nào. Còn có vài người thì kín như bưng đến nỗi gần như không thể biết được họ đang nghĩ gì. Có lẽ tôi có thể đọc được tâm trạng của họ, nhưng tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thừa nhận rằng nếu được chạm vào người khác khi cố đọc tâm trí họ, thì bức tranh trở nên sáng sủa hơn - như sử dụng đường truyền cáp sau khi dùng ăng ten ấy. Và tôi cũng phát hiện ra rằng nếu mình “gửi” những hình ảnh thư giãn cho người ta, thì tôi có thể len lỏi vào tâm trí của họ dễ như bỡn. Tôi thì không muốn thâm nhập vào suy nghĩ của Alcee Beck chút nào. Nhưng tôi đang hoàn toàn miễn cưỡng đón nhận bức tranh toàn cảnh về phản ứng mê tín đến độ cực đoan của Alcee khi anh ta nhận ra có một ma cà rồng làm việc ở quán Merlotte, về nỗi khiếp sợ của anh ta khi phát hiện ra tôi là người phụ nữ mà anh ta đã nghe nói đang hẹn hò với ma cà rồng, về lời kết tội từ trong sâu thẳm của anh ta cho rằng tên đồng tính công khai Lafayette là một nỗi ô nhục cho cộng đồng người da màu. Alcee đoán rằng ai đó hẳn là muốn chơi khăm Andy Bellefleur, khi tống xác của một gã đồng tính da màu vào xe của Andy. Alcee đang băn khoăn không rõ Lafayette có bị nhiễm AIDS không, rồi liệu làm sao đấy mà con virút ấy có thấm vào ghế xe Andy và cứ tồn tại ở đó không. Alcee sẽ bán xe ngay, nếu đó là xe của anh ta. Nếu chạm vào Alcee, hẳn là tôi sẽ biết được luôn cả số điện thoại và cỡ áo ngực của vợ anh ta nữa. Bud Dearborn nhìn tôi kỳ kỳ. “Chú vừa nói gì ạ?” tôi hỏi. “Phải. Ta thắc mắc không biết cháu có gặp Lafayette ở đây suốt tối qua không. Anh ta có ghé vào quán uống ẩm gì chăng?” “Cháu chẳng bao giờ gặp anh ấy ở đây cả.” Ngẫm lại chuyện này, thì tôi chẳng bao giờ thấy Lafayette uống rượu. Lần đầu tiên, tôi mới nhận ra rằng mặc dù đám người đến ăn trưa có cả người da màu và người da trắng, nhưng những vị khách đến quán buổi tối hầu như rặt là người da trắng. “Anh ta hay tụ tập ở đâu?” “Cháu chịu.” Tất cả những câu chuyện Lafayette kể đều được thay đổi tên họ để bảo vệ danh tính những người vô tội. À ừ, thực ra, là những kẻ có tội thì đúng hơn. “Lần cuối cùng cháu gặp anh ta là khi nào?” “Đã chết, nằm trong xe.” Bud cáu kỉnh lắc đầu. “Lúc còn sống cơ, Sookie à.” “Hừmm, cháu nghĩ là… cách đây ba ngày. Anh ấy vẫn ở đây khi cháu đến làm ca của mình, và bọn cháu chào nhau. À, anh ấy có kể cho cháu nghe về một buổi tiệc mà mình đã đến dự.” Tôi cố nhớ lại chính xác những lời của anh. “Anh ấy bảo đã đến một ngôi nhà nơi diễn ra đủ kiểu làm tình hoang đàng trụy lạc.” Hai người đàn ông há hốc nhìn tôi. “Vâng, anh ấy đã bảo thế đấy! Cháu cũng không biết chuyện đó có bao nhiêu phần sự thật.” Tôi hình dung ra khuôn mặt của Lafayette khi anh ta kể tôi nghe chuyện này, cái cách anh ta điệu đà đặt ngón tay ngang môi ngụ ý rằng anh ta sẽ không nói cho tôi biết bất kể cái tên hay địa điểm nào cả. “Cháu không nghĩ là người khác phải biết chuyện này à?” Bud Dearborn trông bàng hoàng. “Đó là một bữa tiệc riêng tư. Sao cháu phải kể cho người khác chứ?” Nhưng kiểu tiệc tùng như thế không được phép diễn ra trong địa phận của hai người này. Hai người đàn ông vẫn chằm chằm nhìn tôi. Bud hỏi qua kẽ răng, “Lafayette có kể cho cháu nghe gì về chuyện sử dụng ma túy trong buổi gặp gỡ ấy không?” “Không, theo cháu nhớ thì không.” “Bữa tiệc đó được tổ chức ở nhà người da trắng hay người da đen?” “Da trắng,” tôi đáp, rồi lại ước gì mình đã lấy cớ không biết. Nhưng Lafayette đã thật sự ấn tượng với ngôi nhà - mặc dù không phải vì căn nhà mỹ miều hay to lớn gì. Thế sao anh ấy bị ấn tượng đến thế? Tôi không chắc Lafayette sẽ thấy ấn tượng với những thứ gì, anh đã sinh ra, lớn lên và mãi đến bây giờ vẫn trong cảnh nghèo khó, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ấy đã kể về nhà của một người da trắng nào đó, vì anh ấy có nói, “Tất cả ảnh trên tường đều chụp những người trắng như hoa huệ và mỉm cười như cá sấu.” Tôi không kể lời nhận xét đó ra cho đám cảnh sát, và họ cũng không hỏi gì thêm. Rời khỏi văn phòng của Sam, sau khi giải thích lý do trên hết vì sao xe của Andy lại ở trong bãi xe, tôi trở ra đứng sau quầy. Tôi không muốn quan sát những gì đang diễn ra ở bãi đỗ xe, và chẳng có khách hàng nào để phục vụ cả, vì mọi lối vào bãi đỗ xe đã bị cảnh sát chặn hết rồi. Sam đang sắp xếp những chai rượu đằng sau quầy, vừa đi vừa phủi bụi chúng, còn Holly và Danielle đã ngồi phịch xuống một bàn ở khu vực hút thuốc để Danielle có thể hút một điếu. “Mọi chuyện thế nào?” Sam hỏi. “Cũng chẳng có gì nhiều. Họ không thích nghe chuyện Anthony làm việc ở đây, và họ cũng không ưa những gì em kể về bữa tiệc mà Lafayette cứ lải nhải hôm trước ấy. Anh có nghe thấy anh ấy kể với em không? Cái vụ làm tình tập thể ấy?” “Có, anh ta cũng kể mấy chuyện đó với anh nữa. Buổi tối hôm đó với anh ta hẳn là đã lắm. Nếu quả thật là có bữa tiệc kiểu đó.” “Anh nghĩ rằng Lafayette bịa chuyện sao?” “Anh không nghĩ ở Bon Temps lại có nhiều buổi tiệc kiểu tạp chủng, lưỡng tính thế đâu,” anh đáp. “Nhưng đó chẳng qua là vì không có ai mời anh cả thôi,” tôi nói thẳng ra. Tôi băn khoăn không hiểu liệu mình có biết tí gì về những chuyện diễn ra nơi thị trấn nhỏ bé này không. So ra với tất cả mọi người ở Bon Temps thì tôi phải là người biết rõ mọi thứ từ trong ra ngoài, vì mọi thông tin ít nhiều gì cũng sẵn ra đấy, nếu tôi muốn bới móc tìm hiểu, “Ít nhất thì, theo em đây là lý do chứ nhỉ?” “Ừ đấy là lý do đấy,” Sam đáp, khẽ mỉm cười với tôi trong lúc chùi một chai whiskey. “Em nghĩ thiệp mời của em cũng bị thất lạc ở bên bưu điện mất rồi.” “Em có nghĩ rằng Lafayette trở lại đây tối hôm qua là để kể cho anh hoặc em nghe về bữa tiệc đó không?” Tôi nhún vai. “Có lẽ anh ta chỉ hẹn gặp ai đó ở bãi đỗ xe thôi. Dù sao thì, ai cũng biết quán Merlotte ở đâu mà. Mà anh ấy đã lấy lương chưa?” Đã cuối tuần rồi, thường thì đây là lúc Sam trả tiền cho bọn tôi. “Chưa. Có lẽ anh ấy đến cũng vì chuyện đó, nhưng anh định hôm sau mới đưa cho anh ta. Hôm nay này.” “Em thắc mắc không biết ai đã mời Lafayette đi dự tiệc.” “Câu hỏi hay đấy.” “Anh không nghĩ rằng anh ta ngu đến nỗi cố tống tiền ai đó chứ nhỉ?” Sam cọ cọ lớp gỗ giả trên mặt quầy bằng một chiếc giẻ sạch. Quầy đã sạch bóng lên rồi, nhưng anh vẫn cứ thích luôn chân luôn tay, tôi nhận thấy thế. “Anh không nghĩ vậy,” anh nói sau một hồi suy nghĩ. “Không thể nào, họ hẳn đã chọn nhầm người rồi. Em biết Lafayette tám đến cỡ nào mà. Anh ta không chỉ kể cho chúng ta nghe việc mình đi đến một buổi tiệc như thế - anh dám cá là anh ta không được phép kể - mà còn muốn lợi dụng buổi tiệc để làm tiếp những chuyện mà mấy người khác, à ừ, mấy người tham gia ấy, sẽ phải khó chịu.” “Kiểu như là, giữ liên lạc với những người cũng từng tham gia bữa tiệc ấy? Nháy mắt đưa tình với họ ở chốn đông người?” “Đại loại như thế.” “Em nghĩ rằng nếu ta có làm tình với ai đó, hoặc xem họ làm tình với nhau, ta sẽ cảm thấy rằng mình ngang hàng với họ.” Tôi không quả quyết lắm khi nói ra điều này, vì không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ấy lắm, nhưng Sam lại đang gật gù. “Điều Lafayette mong muốn nhất là được mọi người chấp nhận bản chất con người mình,” anh nói, và tôi buộc phải đồng ý. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Ở Dallas của tác giả Charlaine Harris & Thiện Hoàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thần Đạo Đan Tôn - Cô Đơn Địa Phi
Truyện Thần Đạo Đan Tôn của Cô Đơn Địa Phi nói về Đan Đế Lăng Hàn - Một cường giả tuyệt thế tiên hiệp vì truy cầu con đường thành thần nên vẫn lạc trên khi sắp chạm tay vào bí ẩn thành thần. Lão thiên dường như không muốn tuyệt đường người nên để hắn trọng sinh về một thiếu niên cùng tên và thật may mắn "Bất Diệt Thiên Kinh" vẫn còn ấn ký trong tâm thức hắn. Từ nay về sau phong vân dũng động, Lăng Hàn phải tranh phong cùng vô số thiên tài, lại bắt đầu một con đường truyền kỳ mới chứng minh với thiên địa: Ta mạnh nhất giữa Vạn Cổ Chư Thiên! Phân chia cảnh giới: Luyện Thể, Tụ Nguyên, Đại La Thiên Tôn, Dũng Tuyền, Linh Hải, Thần Thai, Sinh Hoa, Linh Anh, Hóa Thần cùng Thiên Nhân Cảnh..... Mỗi cảnh giới trong truyện online chia làm chín tầng : tầng một đến ba là tiền kỳ, tầng bốn đến sáu gọi là trung kỳ và tầng bảy đến chín gọi là hậu kỳ và đỉnh Cảnh giới Đan Sư: Hoàng cấp,Huyền cấp, Địa cấp, Thiên cấp... Thần Cảnh: Nhật Nguyệt Cảnh, Sơn Hà Cảnh, Tinh Thần Cảnh, Hằng Hà Cảnh, Sáng Thế Cảnh Mỗi cảnh giới chia làm: Tiểu Cực Vị, Trung Cực Vị, Đại Cực Vi, Đại Viên Mãn trong một Cực Vị lại chia làm: Tiền kỳ, Trung kỳ, Hậu kỳ, Viên mãn Cảnh giới Tiên Vực:Trảm Trần Cảnh (Nhất Trảm-Nhị Trảm-Tam Trảm-Tứ Trảm-Ngũ Trảm),Phân Hồn Cảnh (Dương Hồn-Âm Hồn-Thiên Hồn-Địa Hồn), Tiên Phủ Cảnh, Thăng Nguyên Cảnh, Tiên Vương có 9 tầng từ 1 đến 9, bên trên Tiên Vương là Thiên Tôn Cảnh giới Đan Sư ở Tiên Vực:Nhất Tinh, Nhị Tinh , Tam Tinh, Tứ Tinh ,Ngũ Tinh Đan Sư. *** Vũ Quốc, Lăng Gia ở Thương Vân Trấn, trăng treo giữa trời. Lăng Hàn bỏ ra ròng rã mười giây, mới rốt cục khẳng định, hắn xác thực chuyển thế sống lại. Đối với một cường giả Thiên Nhân Cảnh mà nói, cần mất mười giây mới có thể khẳng định một chuyện, đây tuyệt đối khó mà tin nổi, nhưng cũng đồng dạng chứng minh, sự tình phát sinh ở trên người hắn, là khó mà tin nổi cỡ nào. Đời trước, hắn đứng trên đỉnh cao của võ đạo, ở đan đạo cũng có thành tựu cổ kim chưa thấy, khai sáng Tam Hỏa Dẫn thuật, gợi ra một hồi cách mạng ở Luyện Đan giới, được người tôn là Đan Đế. Nhưng hắn vẫn chưa thỏa mãn, còn muốn tiến thêm một bước, đạt đến Phá Hư Cảnh, Phá Toái Hư Không, hóa Phàm thành Thần trong truyền thuyết. Vì thế, hắn thăm dò vô số di tích, cuối cùng tiến vào Hắc Huyết Cốc, trải qua tầng tầng nguy hiểm, sau đó tìm tới một Cổ Tháp thần bí. Không có để hắn thất vọng, trên Cổ Tháp có văn tự màu vàng, chính là một bộ công pháp vô thượng, tên là Bất Diệt Thiên Kinh, luyện đến cảnh giới tối cao, thân thể bất hư bất hủ, cùng thiên địa đồng thọ! Nhưng cho dù lấy tu vi Thiên Nhân Cảnh của Lăng Hàn, vẫn cảm thấy Bất Diệt Thiên Kinh kia khó hiểu mịt mờ, thật giống như xem một quyển thiên thư, hoàn toàn không có manh mối. Hắn mạnh mẽ ghi nhớ bản công pháp kia, đang muốn nghiên cứu Cổ Tháp một chút, thì Cổ Tháp lại chấn động, bắn ra một đạo thần quang vô lượng, trong nháy mắt liền đánh nát cơ thể của hắn. Nhưng quái lạ chính là, linh hồn của hắn lại không tiêu tan, rơi vào một loại trạng thái tỉnh tỉnh mê mê, kéo dài hơn vạn năm. Ở chỗ này vạn năm, linh hồn của hắn vẫn suy diễn Bất Diệt Thiên Kinh, ngoại trừ chuyện đó, thì hắn không làm được chuyện gì, mười ngàn năm sau, hắn rốt cục lĩnh ngộ tầng thứ nhất của công pháp. Một cường giả Thiên Nhân Cảnh, bỏ ra 10000 năm, mới lĩnh ngộ được tầng thứ nhất của một môn công pháp, khái niệm này nghĩa là gì? Phải biết cường giả Thiên Nhân Cảnh, tuổi thọ cũng không tới ngàn năm, bình thường mà nói, thế gian căn bản không ai có thể tu thành Bất Diệt Thiên Kinh, bởi vì còn chưa có bắt đầu đã chết già. Nhưng Lăng Hàn lại lấy loại phương thức quái lạ này, nắm giữ tầng thứ nhất của Bất Diệt Thiên Kinh, sau đó, hắn lại đột nhiên trùng sinh, chuyển thế sống lại ở trên người một thiếu niên mười sáu tuổi, đồng dạng tên là Lăng Hàn. Khó mà tin nổi! - Mặc kệ xảy ra chuyện gì, nói chung ta đã sống lại! - Tuy bộ thân thể này mới chỉ là Luyện Thể tầng hai, phế vật đến không thể lại phế vật, nhưng ta đã từng là cường giả Thiên Nhân Cảnh, đứng ở đỉnh phong của võ đạo, lại là đan đạo đại sư, tư chất kém thì dùng đan dược tu bổ, không tin không thể trở lại đỉnh cao. - Hơn nữa, ta rốt cục có thể tu luyện Bất Diệt Thiên Kinh, đây là một công pháp vô thượng, thậm chí... Khả năng không phải ở Phàm Giới, mà đến từ Thần giới trong truyền thuyết, bằng không làm sao có khả năng cần mười ngàn năm mới có thể hiểu được tầng thứ nhất? - Đời này, ta nhất định có thể vượt qua tiền nhân, thành tựu Thần vị! - Còn có, thân thể này đến tột cùng là xảy ra chuyện gì, mười sáu tuổi mới tu luyện tới Luyện Thể tầng hai, lẽ nào là bởi vì võ đạo bây giờ quá mức héo tàn? Oanh, vô số ký ức tràn vào trong đầu, đây là ký ức thuộc về một Lăng Hàn khác, mà trong quá trình này, hai người hoàn toàn khác nhau đã dung hợp làm một. - Ta đã rõ ràng. Lăng Hàn gật đầu, sở dĩ hiện tại hắn mới là Luyện Thể tầng hai, nguyên nhân ở chỗ linh căn của hắn quá kém. Muốn tu luyện thành Võ Giả, có một điều kiện tiên quyết, chính là nhất định phải nắm giữ linh căn. Có linh căn, mới có thể hấp thu linh khí trong trời đất, rèn luyện bản thân, hóa thành nguyên lực của bản thân. Có linh căn hấp thu linh khí nhanh, có linh căn thì chậm, bởi vậy linh căn chia làm bốn đẳng cấp Thiên Địa Huyền Hoàng, mỗi đẳng cấp lại chia làm ba phẩm giai thượng trung hạ, lấy Thiên Cấp thượng phẩm tốt nhất, Hoàng Cấp hạ phẩm kém nhất. ... Mời các bạn đón đọc Thần Đạo Đan Tôn của tác giả Cô Đơn Địa Phi.
Hình Xăm Định Mệnh - Melissa Marr
Trong một thế giới của bóng tối và hiểm nguy mà con người chẳng hề biết tới, một cuộc đấu tranh giành quyền lực đang ngấm ngầm bùng nổ…. Ngay sau khi công ty IPM ra mắt cuốn tiểu thuyết VẺ ĐẸP NGUY HIỂM – cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong Series tiểu thuyết WICKED LOVELY của Melissa Marr – đối thủ nặng ký của Stephanie Meyer – vào ngày 15 tháng 03 năm 2010, VẺ ĐẸP NGUY HIỂM đã được đông đảo độc giả đón nhận nồng nhiệt và ngay lập tức lọt vào danh sách các cuốn sách bán chạy nhất trong tháng 3 năm 2010 (theo VB). Tiếp theo thành công này, để đáp ứng sự ủng hộ của độc giả cả nước, Công ty IPM sẽ chính thức phát hành tập 2 của Series tiểu thuyết hấp dẫn với tự đề HÌNH XĂM ĐỊNH MỆNH Trong một thế giới của bóng tối và hiểm nguy mà con người chẳng hề biết tới, một cuộc đấu tranh giành quyền lực đang ngấm ngầm bùng nổ. Sau hàng thế kỷ bình ổn, sự cân bằng giữa các Vương Triều của Giới Tinh đã thay đổi, và Irial, người cai trị Vương Triều Bóng Tối, đang chiến đấu dễ giữ cho những dân tinh bất trị của mình trong một trật tự ổn định. Nếu anh thất bại, thì cảnh đổ máu và bạo lực sẽ lan tràn. Cô gái 17 tuổi Leslie không hề biết gì về những con tinh hay các âm mưu của bọn họ. Khi cô bị cuốn hút bởi một hình xăm đẹp đẽ lạ kỳ, hình đôi mắt và đôi cánh, tất cả những gì cô biết chỉ là cô cần phải có được nó, tin chắc rằng nó là biểu tượng hữu hình của những sự thay đổi mà cô đang vô cùng khao khát cho cuộc sống của chính mình. Hình xăm đó có mang tới sự thay đổi – không phải là kiểu thay đổi mà Leslie vẫn mơ tới, mà là những thay đổi tai hại nhưng hấp dẫn. Những thay đổi đó sẽ trói buộc Leslie và Irial lại với nhau, kéo Leslie ngày càng ngập sâu vào thế giới của những con tinh, không thể cưỡng lại sức cám dỗ của nó, và không có khả năng chống lại được những nguy hiểm của nó. Melissa Marr tiếp tục những chuyện kể của mình về Thế giới Tinh trong một câu chuyện tối tăm, mê đắm về sự cám dỗ và những hậu quả của nó, và về sự anh hùng, cao thượng khi ít được kỳ vọng nhất. ***  Bộ sách Vẻ đẹp nguy hiểm gồm có:  - Vẻ đẹp nguy hiểm ( Wicked Lovely);  - Hình xăm định mệnh (Ink Exchange); - Vĩnh Hằng Mong Manh (Fragile Eternity); - Bóng Tối Nguy Hiểm (Radiant Shadows). *** Melissa Marr ( sinh ngày 25 tháng 7 năm 1972) là một nhà văn Mỹ chuyên sáng tác cho lứa độc giả trẻ tuổi, hiện đang sinh sống tại Washington D.C. Ngoài công việc sáng tác, Melissa là một giảng viên đại học về văn học dân gian. Một thời gian trước đó cô còn làm bartender. Melissa nói cô rất yêu công việc giảng dạy cũng như pha chế ở quầy bar vì nhờ chúng, cô được tiếp xúc và trò chuyện với rất nhiều người thú vị. Đôi khi rảnh rỗi, Melissa thích thăm thú các bảo tàng hoặc gặp gỡ các bạn cùng sở thích xăm mình. Các trải nghiệm này cũng xuất hiện trong Vẻ đẹp nguy hiểm.  Tác giả mà Melissa Marr yêu thích là William Faulkner, cô nói rằng “ông ấy có tất cả những tố chất tôi mong muốn có, nhưng không bao giờ có được”.  *** Irial quan sát cô gái đi lững thững trên phố: cô ta là một mớ khiếp sợ và giận dữ. Anh đứng trong bóng tối của ngõ hẻm bên ngoài tiệm xăm mình, nhưng ánh mắt anh không rời cô một bước trong khi anh hút nốt điếu thuốc. Anh bước ra ngay khi cô đi qua. Mạch cô đập qua nhanh bên dưới làm da cô khi cô nhìn thấy anh. Cô thẳng vai lên - không bỏ trốn hay lùi lại, mà rất cứng rắn bất chấp bóng tối cứ bám níu lấy cô - cô ra hiệu về phía cánh tay anh, nơi tên và dòng dõi của anh được viết theo kiểu chữ ogham (Bảng chữ cái từ đầu thời Trung Cổ, được sử dụng chủ yếu để viết ngôn ngữ Ai-len cổ), bao quanh là những đường xoắn ốc và nút thắt được tạo hiệu ứng để biến hình thành những con chó săn cách điệu. "Đẹp quá. Tác phẩm của Rabbit phải không?" Anh gật đầu và bước tiếp vài bước về phía tiệm xăm mình. Cô gái giữ nhịp bước cùng anh. "Tôi cũng đang nghĩ đến việc xăm hình gì đó. Nhưng tôi chưa biết nên xăm gì." Lúc nói điều này, trông cô có vẻ ngang ngạnh. Và khi anh không đáp, cô nói thêm, "Tôi là Leslie." "Irial." Anh nhìn cô loay hoay cố gắng mà vẫn không tìm được thêm lời nào để nói, để làm cho anh để ý đến cô. Cô ấy đang khao khát điều gì đó. Nếu anh lấy con người làm đồ chơi, thì cô ấy sẽ là món đồ chơi vui đấy, nhưng anh đến đây vì công việc, chứ không phải để kiếm mấy món đồ vụn vặt rẻ tiền, nên anh vẫn giữ im lặng khi mở cánh cửa tiệm Pins & Needles cho cô. Bên trong tiệm xăm, Leslie đi vơ vẩn và nói chuyện với một cô gái tóc màu sẫm. Cô này thận trọng quan sát họ. Còn có những người khác trong tiệm, nhưng chỉ có cô gái tóc sẫm đó là quan trọng. Vì anh đã đặt ra một lời nguyền trói buộc mùa hè từ nhiều thế kỷ trước, nên Irial biết rõ cô ta là ai: chính là Nữ Hoàng Mùa Hè đang còn thiếu, chính là "vấn đề". Cô ta sẽ thay đổi tất cả. Và sớm thôi. Irial đã cảm thấy điều đó ngay từ khoảnh khắc mà Keenan lựa chọn cô ta và lấy đi sự sống bình thường của cô. Đó là lý do Irial tới chỗ Rabbit: sự thay đổi đang đến. Giờ thì Vua Mùa Hè sẽ được giải thoát - và có thể trả đũa những kẻ đã ngăn chặn anh hàng thế kỷ, lần đầu tiên trong hàng thế kỷ, chiến tranh thực sự có khả năng sẽ xảy ra. Thật không may, rất có thể cả trạng thái trật tự quá đỗi cũng sẽ thế. "Rảnh chút không, Rabbit?", Irial hỏi, nhưng đó là một câu cho đúng nghi thức hơn là một câu hỏi. Rabbit có thể không phải hoàn toàn thuộc giới tinh, nhưng anh ta sẽ không từ chối vua của Vương Triều Bóng Tối, không phải bây giờ, không bao giờ. "Ra đằng sau," Rabbit nói. Irial lướt bàn tay trên một trong những chiếc tủ đựng đồ trang sức có khung bằng thép khi anh đi ngang qua, biết rõ rằng Leslie vẫn đang để ý đến mình. Anh đóng cửa lại và đưa cho Rabbit những chiếc lọ nhỏ bằng thủy tinh màu nâu - máu và nước mắt của Vương Triều Bóng Tối. "Tôi cần vụ trao đổi hình xăm diễn ra sớm hơn kế hoạch. Sắp hết thời gian rồi". "Sức mạnh của giới tinh" - Rabbit ngừng và nói lại cho rõ - "nó có thể giết họ mất, mà người thường đang phục hồi không được tốt lắm". "Thế thì hãy tìm cách mà thực hiện hiệu quả. Ngay." Irial cố mỉm cười, làm nét mặt của mình dịu đi, một điều mà anh rất hiếm khi làm đối với những con tinh bóng tối. Rồi anh biến thành vô hình và theo Rabbit quay trở lại căn phòng chính của tiệm. Một sự tò mò chẳng lợi ích gì bỗng khiến anh dừng lại bên cạnh Leslie. Những người khác đã ra về, nhưng cô vẫn đang đứng nhìn những hình ảnh bằng đèn chiếu trên tường, còn ít hơn những gì Rabbit có thể xăm lên da của cô, nếu có cơ hội." "Hãy mơ về tôi, Leslie", Irial thì thầm, hai cánh của anh vòng quanh cả hai bọn họ, như buộc họ lại với nhau. Có thể cô gái này sẽ đủ mạnh để chịu đựng được một lần trao đổi hình xăm với một trong số những con tinh đã được lựa chọn. Còn nếu không, anh vẫn luôn có thể giao cô ấy cho một trong những con tinh yếu hơn. Có vẻ sẽ rất đáng tiếc nếu bỏ phí một món đồ chơi bị vỡ đáng yêu như vậy. ... Mời các bạn đón đọc Hình Xăm Định Mệnh của tác giả Melissa Marr.
Vẻ Đẹp Nguy Hiểm - Melissa Marr
Vẻ đẹp nguy hiểm trải ra trước mắt người đọc thế giới của chính họ, nhưng là một thế giới kỳ bí, đa màu sắc và nhiều tầng hơn. Thông qua một chiếc kính vạn hoa đặc biệt có tên gọi Khả năng Thấu thị, Melissa Marr giúp người đọc nhìn sâu vào khoảng không quanh mình. Giơ ống kính đó lên, chúng ta sẽ thấy thành phố hiện đại của thế kỷ XXI không chỉ có cao ốc, đường phố trải nhựa hay công viên xanh ngát, mà còn có vương triều mùa hè, vương triều mùa đông, vương triều bóng tối, còn nhung nhúc những người-vỏ-cây, người-xương-cốt, người-sói, người-sư-tử... và các sinh thể tương tự. Chúng có vảy, có cánh, có dây leo khắp mình, và đặc biệt nhất là chúng đầy sức mạnh, biết tàng hình hoặc khoác vỏ bọc phàm nhân để hiện thân. Chúng đi loanh quanh bên con người, xô đẩy, cấu véo, sờ soạng, hăm dọa, gầm gừ với họ, nhưng không ai trông thấy và do đó không cảm nhận được... nhưng Aislinn Foy thì khác. 17 tuổi, xinh đẹp, Aislinn sở hữu Khả năng Thấu thị đặc biệt giúp cô nắm bắt mọi động tĩnh của bọn yêu tinh. Tuy vậy nó khiến cô khốn khổ thay vì thích thú. Bởi sở hữu khả năng đặc biệt này đồng nghĩa với việc mấp mé mối nguy hiểm thường trực. Lũ yêu tinh mạnh mẽ kia coi tàng hình là một trong các ưu đãi của giống loài mình, chúng sẽ trừng phạt dã man những kẻ bất hạnh nhìn thấy chúng, có thể là móc mắt, cắt lưỡi hoặc giết chết. Vì vậy Aislinn đã phải giấu kín bí mật này bằng cách tuân theo các nguyên tắc bất di bất dịch của gia đình: Nguyên tắc 3: không nhìn vào những con tinh vô hình Nguyên tắc 2: không nói chuyện với những con tinh vô hình Nguyên tắc 1: không thu hút sự chú ý của chúng. 3 nguyên tắc này đã giúp Aislinn gắng gượng yên ổn sống suốt 17 năm. Mặc dù lúc nào cô cũng thấp thỏm trước cảnh những con tinh quấy phá người thường và cả chính bản thân cô, nhưng nhờ luyện tập kiềm chế thái độ và hành xử, mọi việc có vẻ miễn cưỡng êm xuôi. Cho đến một ngày, một nam tinh đẹp đẽ và đầy quyền lực ra mặt săn đuổi Aislinn. Anh ta hiện hình thành người thường và tìm mọi cách quyến rũ cô. Cao trào của câu chuyện bắt đầu.  Bộ sách Vẻ đẹp nguy hiểm gồm có:  - Vẻ đẹp nguy hiểm ( Wicked Lovely);  - Hình xăm định mệnh (Ink Exchange); - Vĩnh Hằng Mong Manh (Fragile Eternity); - Bóng Tối Nguy Hiểm (Radiant Shadows). *** Melissa Marr ( sinh ngày 25 tháng 7 năm 1972) là một nhà văn Mỹ chuyên sáng tác cho lứa độc giả trẻ tuổi, hiện đang sinh sống tại Washington D.C. Ngoài công việc sáng tác, Melissa là một giảng viên đại học về văn học dân gian. Một thời gian trước đó cô còn làm bartender. Melissa nói cô rất yêu công việc giảng dạy cũng như pha chế ở quầy bar vì nhờ chúng, cô được tiếp xúc và trò chuyện với rất nhiều người thú vị. Đôi khi rảnh rỗi, Melissa thích thăm thú các bảo tàng hoặc gặp gỡ các bạn cùng sở thích xăm mình. Các trải nghiệm này cũng xuất hiện trong Vẻ đẹp nguy hiểm.  Tác giả mà Melissa Marr yêu thích là William Faulkner, cô nói rằng “ông ấy có tất cả những tố chất tôi mong muốn có, nhưng không bao giờ có được”.  *** CÁC NHÀ TIÊN TRI, hay những người có LINH CẢM...đã có những cuộc chạm trán rất đáng sợ với [những con tinh, họ gọi là Sleagh Maith, hay Những Người Tốt Đẹp]. -Trích từ The Secret Commonwealth, của Robert Kirk và Andrew Langm (1893) "Bóng bốn, lỗ mười". Aislinn thúc cây cơ về phía trước bằng một cú chọc nhanh gọn; trái bóng rơi vào lỗ với một tiếng "cạch" hài lòng. Người bạn chơi cùng cô, Denny làm một cú đánh mạnh hơn, một cú cân băng. Cô đảo mắt " Gì thế? Cậu vội à?". Cậu ta dùng cây cơ để chỉ. "Đúng". Tập trung và kiểm soát, đó là tất cả những gì cần làm. Cô đánh bóng số 2 vào lỗ. Cậu ta gật đầu, gần nnhư một lời khen ngợi. Aislinn đi vòng qua bàn, dừng một chút, bôi lơ vào gậy. Xung quanh cô, tiếng lạch cạch của những trái bóng chạm nhau, những tiếng chạm khẽ và cả dòng chảy vô tận của những bản nhạc đồng quê và nhạc blue đang giúp cô đứng vững trong thế giới thực: thế giới của con người, thế giới an toàn. Đây không phải là thế giới duy nhất, dù Aislinn có muốn thế đến mức nào đi nữa. Nhưng dù sao, nó cũng che khuất được một thế giới khác- thế giới đáng sợ- trong một vài khoảnh khắc ngắn ngủi. "Bóng ba, lỗ góc". Cô ngắm theo cây cơ. Một cú đánh rất tốt. Tập trung. Kiểm soát. Rồi cô bỗng cảm thấy điều đó: luồng hơi nóng trên da. Một con tinh, hơi thở nóng rực của hắn tràn trên cổ cô, hít mạnh vào mái tóc cô. Cái cằm nhọn của hắn ấn vào da cô. Tất cả sự tập trung trên thế giới này cũng không làm cho cái cách "quan tâm" của Mặt Nhọn dễ chịu hơn chút nào. Cô đánh sượt: trái bóng duy nhất rơi vàp lỗ là bóng cái. Denny nhặt trái bóng lên. " Sao thế?" "Trình kém?" Cô cố mỉm cười, nhìn Denny, nhìn xuống bàn, nhìn bất kỳ đâu trừ một đàn những con tinh đang bước vào cửa. Ngay cả khi cô quay đi thì cô vẫn nghe thấy chúng: tiếng cười cợt và la hét, tiếng nghiến răng và đập cánh, một mớ tạp âm mà cô không thể lẩn trốn. Chúng đang ùa ra, có vẻ tự do thoải mái hơn khi bóng tối buông xuống, tỏa khắp không gian của cô, chấm dứt bất cứ cơ hội bình yên nào mà cô đang tìm kiếm. Denny không săm soi cô, không hỏi những câu hỏi khó. Cậu ta chỉ ra hiệu cho cô bước ra khỏi bàn bi-a và gọi to, " Grace, chơi bài gì cho Ash đi". Ở chỗ cái máy hát, Grace bấm một trong số vài bài không-phải-nhạc-đồng-quê-hay-blue: "Break Stuff" của Limp Bizkit. Khi lời ca dịu dàng một cách kì quặc đó được cất lên bởi giọng hát khàn khàn, tạo ra một cảm xúc mãnh liệt như làm quặn lòng, Aislinn chợt mỉm cười. Nếu mình có thể bất chấp như thế, hãy để cho những năm tháng thù hận đổ vào những con tinh... Cô lướt tay lên cây cơ gỗ trơn mịn, quan sát Mặt Nhọn đang xoay tròn bên Grace. Mình sẽ bắt đầu với chính hắn. Ngay ở đây, ngay bây giờ. Cô cắn môi. Tất nhiên, tất cả mọi người sẽ nghĩ cô cực kì điên nếu cô bắt đầu khua cây cơ vào những kẻ vô hình. Tất cả mọi người, trừ con tinh. Trước khi bài hát kết thúc, Denny đã dọn xong bàn. "Tốt". Aislinn bước ra chỗ cái giá trên tường và thả cây cơ vào một chỗ trống. Đằng sau cô, MẶt nhọn cười rúc rích- giọng cao the thé- và giật mạnh vài lọn tóc của cô. "Làm ván nữa không?" Nhưng giọng Denny đã thể hiện điều mà cậu ta không nói thành lời: rằng cậu biết câu trả lời từ trước khi hỏi. Câu không biết tại sao, nhưng câu có thể nhìn thấy những dấu hiệu như thế. Mặt Nhọn thả những lọn tóc của cô lướt qua mặt hắn. Aislinn hắng giọng. "Dịp khác nhé?". "Được". Denny bắt đầu tháo cây cơ của cậu ta. Những người quen thân không bao giờ bình luận gì về những tâm trạng thay đổi kỳ cục và những thói quen không thể giải thích nổi của cô. ... Mời các bạn đón đọc Vẻ Đẹp Nguy Hiểm của tác giả Melissa Marr.
Tản Mạn Xứ Kim Chi - Seung Hyeon
Dung Trai Tùng Thoại là cuốn sách ghi chép nhiều câu chuyện thuộc thể loại tạp kí của tác giả Seung Hyeon (Thành Hiện) vào giữa thời đại Joseon (Triều Tiên). Tác giả đã ghi chép lại từ những câu chuyện liên quan tới vương gia, các sĩ đại phu, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến những câu chuyện về phong tục, địa lý, chế độ, âm nhạc, văn hóa, chuyện cười từ thời Koryo (Cao Li) đến đời vua Seung Jong (Thành Tông) thời đại Triều Tiên. Dung Trai Tùng Thoại lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1525 (năm thứ 20 đời vua Jung Jong (Trung Tông). Khi lần đầu tiên được xuất bản,Dung Trai Tùng Thoại được xem là cuốn sách quý hiếm nên đã có nhiều bản sao chép viết tay được lưu truyền. Dung Trai Tùng Thoại gồm 324 câu chuyện, trong đó có 196 chuyện kí thực, 27 chuyện hài hước, 16 chuyện kì dị, 85 chuyện tạp luận. Trong số này, nhiều nhất là chuyện kí thực. *** Truyện kể của Dung Trai (Dung Trai tùng thoại) mà ấn bản tiếng Việt chúng tôi đặt tựa là “Tản mạn xứ Kim Chi” , nhằm giúp bạn đọc dễ dàng liên tưởng đây là tác phẩm nhiều màu sắc và hương vị của văn học Hàn, được viết vào đầu thế kỷ mười sáu, tác giả là Seung Hyeon (Thành Hiện, 1439-1540) nhà văn đa tài đầu thời Triều Tiên. Ngoài các tác phẩm văn chương, ông còn tỏ ra tinh thông âm nhạc với bộ “ Nhạc học quý phạm” và nhuận sắc các bài trường ca dân gian như Lý Sương Khúc, Song Hoa Điếm... “Tản mạn xứ Kim Chi” đến nay đã lan rộng ảnh hưởng đến nhiều ngành nghiên cứu nhân văn ở Hàn Quốc nhưng trước hết nó thuộc về văn học với 324 truyện kể thuộc nhiều thể loại khác nhau như ký thực, hài hước, truyện nhân vật, thơ ca, truyện háo sắc... Đấy là những truyện không ghi trong chính sử nhưng lại trình bày một bức tranh toàn cảnh của xã hội thời kỳ đầu của kỷ nguyên (chủ yếu là thế kỷ 15) Triều Tiên. Chính vì thế mà những truyện kể trong cuốn sách này rất đời thường, thú vị và hấp dẫn tuy nhiều khi không tránh khỏi sa vào những ghi chép vụn vặt. Đôi khi tác giả làm ta bất ngờ vì những nhận xét quá thẳng thắn và táo bạo về chính dân tộc mình, bày ra một bức biếm họa về người Triều Tiên đáng cười: “Người Triều Tiên ăn nhiều, uống cũng nhiều. Nếu phải nhịn một bữa là người Triều Tiên cảm thấy đói bụng không chịu nổi. Người nghèo đến nhà giàu vay mượn để ăn mà còn lãng phí, không biết tiết kiệm, nên dễ lâm vào cảnh khốn cùng. Còn người giàu sang phú quý thì bày biện nhiều thức ăn mà không biết chán. Nếu có binh lính xuất chinh thì hết một nửa số binh lính phải vận chuyển lương thực. Người chuẩn bị lên đường đi đâu đó chỉ chừng vài dặm mà hành lý chất trên ngựa của anh ta lấp kín cả lối đi...” Ở đây ta không thấy một chủ nghĩa dân tộc nào mà là một tinh thần tự phê phán rất mạnh, đáng nể phục. Trong những truyện kỳ dị thì Dung Trai có lối kể ma rất độc đáo, như “Chuyện ma của bà Trịnh” . Tác giả bắt đầu: “Bà Trịnh là bà ngoại của tôi... Nhà bà có một con ma tới ở...”. Đó là một con ma hiền lành, có giọng nói như sơn ca hót, ở trên xà ngang vào ban đêm, biết hết mọi bí mật trong xóm. Nó cố gắng đem lại nhiều điều tốt lành cho gia đình bà. Nhưng cuối cùng cũng có người đuổi nó đi. Con ma khóc lóc thảm thiết mà ra đi! Con ma đó chỉ muốn ở với người. Truyện ngắn gọn mà đáng yêu. Nhiều truyện rất ngắn, tương đương với thể loại truyện rất ngắn hiện đại, như truyện “Sự ngờ nghệch của anh chàng mù háo sắc” . Có một anh chàng mù lén vợ nhờ người tìm cho một cô gái đẹp. Đến điểm hẹn, anh ta làm lễ động phòng với cô. Ân ái với cô, anh ca ngợi cô hết lời và chê bai vợ chính cũng hết lời. Nhưng thật ra cô gái đẹp ấy không ai khác hơn là... Anh đã bị lừa. “Tản mạn xứ Kim Chi” còn cung cấp bao nhiêu tri thức thuộc về thiên nhiên (suối nước nóng, ao hồ, sản vật...), con người (mọi tầng lớp), ngôn ngữ (sáng chế chữ Hangul), thơ ca... thông qua những câu chuyện thường ngắn gọn, nhiều khi lạ lùng, nhiều khi hài hước, có giọng đạo lý ngay ngắn nhưng cũng có giọng phóng khoáng tự do... Đây là giọng kể đa thanh điệu. Một “con ma” biết hết mọi điều về một thời để sống và để chết, để đam mê và để hiểu biết. Một “con ma” muốn sống với người. Một cuốn sách phong phú hơi thở. Nhật Chiêu *** “ Dung Trai tùng thoại ( 慵齋叢話 )” là cuốn sách ghi chép nhiều câu chuyện thuộc thể loại tạp kí của tác giả Seung Hyeon ( 成俔 : Thành Hiện) vào giữa thời đại Jo Seon (Triều Tiên). Tác giả đã ghi chép lại từ những câu chuyện liên quan tới vương gia, các sĩ đại phu, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến những câu chuyện về phong tục, địa lý, chế độ, âm nhạc, văn hóa, chuyện cười từ thời Koryo (Cao Li) đến đời vua Seung Jong (Thành Tông) thời đại Triều Tiên. Tuy tác phẩm không rõ năm sáng tác nhưng nội dung sách có ghi chép những chuyện đã xảy ra đến năm 1499 (năm thứ 5 đời vua Yeon San [ 燕山 : Yến Sơn]), và tác giả Seung Hyeon qua đời vào năm 1504. Như vậy, có thể nói “ Dung Trai tùng thoại ” được viết trong khoảng thời gian từ năm 1499 - 1504. Seung Hyeon đã trực tiếp ghi chép “ Dung Trai tùng thoại ” để nói lên mối quan tâm của tác giả về những câu chuyện thuộc thể loại tạp kí của các nhà văn thuộc tầng lớp quan lại vào đời vua Seung Jong. Đặc biệt, Seung Hyeon đã ảnh hưởng rất nhiều từ hai người anh trai là Seung Im ( 成任 : Thành Nhâm) và Seung Kan ( 成侃 : Thành Khản). Seung Im và Seung Kan có cái nhìn về văn học khác với các học giả kinh điển. Seung Im đã để lại các tác phẩm như “ Thái bình quản kí tường tiết ( 太平廣記詳節 )”, “ Thái bình thông tái ( 太平通載 )”. Cùng thời còn có các học giả Seo Keo Jung ( 徐居正 : Từ Cư Chính) với những tác phẩm như “ Bút uyển tạp kí ( 筆苑雜記 )”, “ Thái bình nhàn thoại hoạt kê truyện ( 太平閑話滑稽傳 )”, Kang Hee Maeng ( 姜希孟 : Khương Hi Mạnh) với tác phẩm “ Thôn đàm giải di ( 村談解 頤 )”, Lee Ryuk ( 李陸 : Lí Lục) với tác phẩm “ Thanh pha kịch đàm ( 靑坡劇談 )”. Lee Ryuk vừa là người bạn thân thiết vừa là anh em cột chèo với Seung Hyeon. Trong hoàn cảnh như vậy, việc Seung Hyeon ghi chép “ Dung Trai t ùng thoại ” đã diễn ra một cách tự nhiên. Xuất bản tác phẩm “ Dung Trai tùng thoại ” “ Dung Trai tùng thoại ” lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1525 (năm thứ 20 đời vua Trung Tông [ 中宗 : Jung Jong]). Con trai của Thành Hiện (Seung Hyeon) là Thế Xương ( 世昌 : Sei Jang) đã cố gắng xuất bản cuốn sách này ở phủ Khánh Châu ( 慶州 : Gyeong-ju). Có thể xác minh sự thật đó qua nội dung: “Sau tiết Trọng Dương [1] mùa thu năm Ất Dậu mấy ngày, Phủ doãn phủ Khánh Châu là Hoàng Bút (Hwang Pil) đã viết lời bạt cho cuốn sách”. Năm 1544 (năm thứ 9 đời vua Minh Tông [ 明宗 : Myeong Jong]), “ Dung Trai tùng thoại ” còn được ghi vào “Danh mục sách đã xuất bản trên toàn quốc” của cuốn “ Khảo sự toát yếu ( 攷事撮要 )” của tác giả Ngư Thúc Quyền ( 魚叔權 : Eo Sook Kwon). Còn những sự thật về sau không được xác minh. Khi lần đầu tiên được xuất bản, “ Dung Trai tùng thoại ” được xem là cuốn sách quý hiếm nên đã có nhiều bản sao chép viết tay được lưu truyền. Về những tài liệu được xác nhận tác giả, ở thư viện Khuê Chương Các (Kyu-jang-gak) hiện có 3 bộ và 3 quyển sách có tên tác giả, 2 tài liệu được làm bằng đá, và quyển “ Đại đông dã thừa ( 大東野乘 )”; ở trường đại học Yonsei hiện có 5 bộ và 5 quyển sách được làm bằng gỗ; ở trường đại học Koryo có bộ sách không đầy đủ. Trong cuốn “ Danh mục tổng hợp sách cổ Hàn Quốc ” của nhà sử học Fujita Ryôsaku có giới thiệu một quyển sách được làm bằng gỗ nhưng hiện chưa được xác minh. Bộ sách không đầy đủ ở trường đại học Yonsei gồm năm quyển từ quyển 1 đến quyển 5. Bộ sách này giống trong quyển “ Đại đông dã thừa ” . Kết quả đối chiếu những tài liệu ở thư viện Khuê Chương Các với quyển “ Đại đông dã thừa ” cho thấy, nội dung và số câu chuyện thì giống nhau nhưng hình thức thì có sự khác biệt. Hai nguồn tài liệu này đều không có lời mở đầu mà chỉ có lời bạt. Ở phần cuối của quyển 2 trong bộ sách ở thư viện Khuê Chương Các có lời bạt của Hoàng Bút nhưng có một số lỗi về hình thức, còn trong cuốn “ Đại đông dã thừa ” thì nội dung được viết một cách đầy đủ. Về sau, đến năm 1909, “ Dung Trai tùng thoại ” trong cuốn “ Đại đông dã thừa ” được Hiệp hội xuất bản sách cổ Triều Tiên xuất bản và phổ biến rộng rãi. Năm 1934, “ Dung Trai tùng thoại ” được ghi bằng chữ quốc ngữ trong quyển 1 của bộ sách “ Triều Tiên dã sử toàn tập ( 朝鮮野史全集 )” do Nhà xuất bản Quý Dậu (Kye-yu) ấn hành. Năm 1957, dịch giả Hong Ki Moon đã dịch “ Dung Trai tùng thoại ” từ “ Tuyển tập Đại đông dã thừa ” sang chữ quốc ngữ và được nhà xuất bản quốc gia thành phố Bình Nhưỡng xuất bản. Năm 1964, Viện nghiên cứu văn hóa dân tộc của trường đại học Koryo đã xuất bản cuốn sách tổng hợp “ Quốc ngữ phá nhàn tập - Dung Trai tùng thoại ”. Năm 1969, nhà xuất bản Hyon-am (Huyền Nham) đã xuất bản cuốn “ Dung Trai tùng thoại ” bằng chữ quốc ngữ trong danh mục những cuốn sách nổi tiếng của Hàn Quốc. Năm 1971, Ủy ban xúc tiến văn hóa dân tộc đã xuất bản cuốn “ Quốc ngữ Đại đông dã thừa”. Năm 2000, trường đại học Gyeong-san đã chụp ảnh và xuất bản tác phẩm “ Dung Trai tùng thoại ” để kỉ niệm 20 năm ngày thành lập trường. Đối chiếu với những tài liệu bằng gỗ được bảo quản ở thư viện trường đại học Koryo, trường đại học Yonsei, trường đại học Sungkyunkwan và tài liệu viết tay ở thư viện quốc gia và thư viện Khuê Chương Các, cuốn sách ảnh này đã chỉnh sửa lỗi chính tả và những kí sự trùng lắp. Sau khi được xuất bản, cuốn sách ảnh này đã trở thành tài liệu gốc hoàn hảo cho việc nghiên cứu “ Dung Trai tùng thoại”.   Mục đích biên soạn “ Dung Trai tùng thoại ” Seung Hyeon có ghi lời kiến giải của ông về thể loại tạp kí trong cuốn “ Thôn trung bỉ ngữ tự ( 村中鄙語序 )” như sau: “Anh bạn Jae Soo ( 蔡壽 : Thái Thọ) của tôi sau khi cáo quan trở về cuộc sống thường dân, lúc nhàn rỗi anh đã ghi lại những câu chuyện thường nhật và những câu chuyện đàm tiếu với bạn bè, dù đó chỉ là những mẩu chuyện vụn vặt. Nếu anh không chăm chỉ, nỗ lực và không am tường về văn học thì sao anh có thể viết được. Khả dĩ văn chương của anh là những điều răn dạy cho thế hệ sau, là niềm vui của tuổi già, và là việc làm lúc anh nhàn rỗi.” Lời kiến giải như trên thường thấy trong thể loại tạp kí của các nhà văn thuộc tầng lớp quan lại triều đình thời vua Seung Jong thời đại Triều Tiên. “ Dung Trai tùng thoại ” chính là tác phẩm thực tiễn cho lời kiến giải đó. Trong phần “ Lời bạt của Dung Trai tùng thoại ”, Hoàng Bút cũng có ghi nội dung như sau: “Nhìn chung, văn chương của đất nước chúng ta ghi chép tất cả những điều liên quan đến cao thấp theo thời đại, phong tục hay dở nơi đô thành, những vui - buồn - yêu - ghét liên quan tới triều đình, dân chúng và nghệ thuật, từ âm nhạc, bói toán cho đến thư họa đều là những câu chuyện đàm tiếu làm vui lòng người không thể tìm thấy trong sử sách Hàn Quốc.” Hoàng Bút cũng nhấn mạnh rằng, tuy “ Dung Trai tùng thoại ” chỉ là những mẩu chuyện giải trí lúc nhàn rỗi nhưng những nội dung phong phú được ghi chép trong đó thì không thể tìm thấy trong sử sách Hàn Quốc. Thực tế, khi viết cuốn sách này, trong số những câu chuyện về lời răn dạy, những câu chuyện thường nhật trong cuộc sống, hay những câu chuyện lúc nhàn rỗi, Seung Hyeon coi trọng những câu chuyện thường nhật trong cuộc sống hơn cả. ... Mời các bạn đón đọc Tản Mạn Xứ Kim Chi của tác giả Seung Hyeon.