Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Phóng Đãng Thần Thánh - Suzanne Enoch

Kẻ Phóng Đãng Thần Thánh là tập thứ hai của bộ sách Lessons in Love. Kẻ phóng đãng thần thánh là câu chuyện giữa một tiểu thư đoan trang và một gã vô lại bậc nhất London. Hai nhân vật tưởng như hoàn toàn đối lập nhưng họ lại bị chính tính cách của đối phương cuốn hút. Với những đoạn đối đáp hết sức thú vị và những tình tiết vô cùng hấp dẫn, câu chuyện Kẻ phóng đáng thần thánh hứa hẹn sẽ mang đến cho độc giả những giờ phút giải trí thú vị. *** Suzanne Enoch sinh ra tại miền Nam California. Hiện bà đang sống ở Placentia, California với hàng trăm loại cá nước ngọt và cá nhiệt đới, cùng những chú chim sẻ vô cùng đáng yêu. Ngoài ra, bà còn sở hữu một bộ sưu tập các bức tượng và mẫu vật trong các bộ phim Chiến tranh giữa các vì sao, Chúa tể những chiếc nhẫn, X-men và Cướp biển vùng Caribbean. Đó chính là những điều khơi nguồn cảm hứng cho các tác phẩm của bà.   Trong khi nhiều người mơ ước được làm một phi hành gia hay nghệ sĩ nổi tiếng. Suzanne lại luôn mong muốn trở thành nhà văn từ khi còn rất nhỏ. Bà đã viết rất nhiều những câu chuyện của riêng mình trong suốt thời gian niên thiếu. Ngoài niềm say mê văn học, bà còn yêu phiêu lưu và khám phá mọi miền trên thế giới. Những trải nghiệm về hành trình đầy hiểm nguy song cũng không kém phần thú vị ấy đã giúp bà viết nên các trang sách đầy ấn tượng.   Suzanne Enoch bắt đầu sự nghiệp văn học với dòng lãng mạn kỳ bí trong hai năm đầu sau khi tốt nghiệp Đại học California Irvine, sau đó chuyển nguồn cảm hứng sang dòng lãng mạn thời nhiếp chính Anh (regency romance) và lãng mạn đương đại pha trinh thám (contemporary romance suspence).   Năm 1995, bà cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay, The Black Duke’s Prize. Đến năm 1998, tác phẩm thứ hai của bà, Angel’s Devil, đã giành giải cuốn sách thuộc thể loại regency romance ăn khách nhất do độc giả của Romantic Times bình chọn.   Ngoài ra, bà còn viết hai mươi chín cuốn tiểu thuyết khác, gồm hai tuyển tập (One True Love và The Best of Both Worlds) cùng một series đương đại năm phần, và nhận được đánh giá rất cao của độc giả Publishers Weekly.   Năm 2007, tác phẩm Twice the Temptation đã lọt vào danh sách năm cuốn sách lãng mạn ăn khách nhất.   Năm 2010, Suzanne tiếp tục cho ra đời các cuốn tiểu thuyết lịch sử lãng mạn khi làm việc cho tòa soạn St.Martin’s. Tháng 3 năm 2012, bà xuất bản cuốn sách thứ ba mươi mốt, Kẻ phóng đãng bất trị (series Scandalous brides). Hai tác phẩm thuộc series này, A Beginner’s Guide to Rakes và Rules to Catch a Devilish Duke, cũng sẽ được Bách Việt giới thiệu tới độc giả trong thời gian tới.   Các nhân vật hài hước, những người đàn ông vô lại nhưng đầy hấp dẫn, những cuộc đối thoại dí dỏm song lại vô cùng thông minh, sắc sảo là điển hình cho phong cách viết của Suzanne. Bà hiện là một trong các tác giả lãng mạn ăn khách nhất của New York Times, USA Today và Publishers Weekly.   Bachviet Books *** “Một quý ông nên hiểu rằng một quý cô cũng có đầu óc như ai, vì Chúa.” Evelyn Ruddich đặt tách trà xuống cạch một cái, ngạc nhiên khi cuộc trò chuyện về cách cư xử của cánh đàn ông giữa cô và các bạn lại trở nên… sôi nổi đến vậy. Cô tưởng mình đã chấp nhận tất cả đàn ông đều quá quắt, nhưng từ trong sâu thẳm trái tim nổi loạn của mình, rõ ràng là cô không vui vì chuyện đó. Những lời chỉ trích dí dỏm của Lucinda Barret và Lady Georgiana Halley lúc nào cũng đúng, và thật chết tiệt, cô cũng ngán bị những thành viên đeo cà vạt của loài người áp đảo lắm rồi. Phải có cách cư xử đúng mực cho đám đàn ông. Nghe thật nghịch lý, nhưng rõ ràng cần có người làm gì đó với cái tính ngạo mạn và bảo thủ của họ. Lucinda đứng dậy, đi tới chiếc bàn bên kia phòng. “Nên viết những điều này ra,” cô nói, rút một xấp giấy từ ngăn kéo rồi mang chúng trở lại. “Bọn mình có rất nhiều ảnh hưởng, nhất là với những kẻ gắn mác quý ông mà các quy tắc này sẽ áp dụng.” “Và chúng ta lại còn giúp được những quý cô khác nữa,” Georgiana lên tiếng, nét mặt trở nên đăm chiêu khi nỗi chán chường dành cho cánh đàn ông đã dịu đi. “Nhưng một bản danh sách thì giúp được gì cho ai ngoài chúng ta chứ?” Dù còn hoài nghi về tác dụng của một việc như thế, song Evelyn vẵn cầm cây bút chì Lucinda đưa cho. “Ồ có chứ - khi ta đưa các quy tắc vào thực tiễn,” Georgiana bác lại. “Mình đề nghị mỗi người hãy chọn lấy một quý ông và dạy anh ta cách thức để tạo ấn tượng sâu sắc với một quý cô.” “Đúng thế, vì Chúa lòng lành!” Lucinda đấm tay xuống mặt bàn. Evelyn nhìn qua nhìn lại hai cô bạn. Anh trai cô rất có thể sẽ quở trách cô vì đi lãng phí thời gian vào những chuyện vô bổ, nhưng anh ấy không cần phải biết. Có lẽ anh ấy sẽ ở Ấn Độ mãi mãi, và họ sẽ bớt đi một kẻ vô lại cần cải tạo. Cô mỉm cười trước ý nghĩ ấy và kéo tờ giấy trắng trơn của mình lại gần. Thành thực mà nói, cảm giác này sảng khoái như thể cô đang làm việc gì đó hữu ích, bất luận là tác dụng của danh sách đó có nhỏ bé cỡ nào. Georgiana vừa khúc khích cười vừa bắt đầu viết. “Chúng ta có thể cho xuất bản những quy tắc này ấy nhỉ! Những bài học tình yêu. Tác giả: Ba Quý Cô Xuất Chúng.” Danh sách của Evelyn. 1. Không bao giờ ngắt lời một quý cô khi cô ấy đang nói chuyện với bạn, như thể điều bạn cần nói quan trọng hơn. 2. Khi bạn hỏi xin ý kiến, hãy nghiêm túc chờ đợi, chớ cười cợt. 3. Cử chỉ lịch thiệp không đơn giản là mở cửa cho các quý cô: để tạo dấu ấn với họ, bạn phải quan tâm đến những mong muốn của cô ấy, chí ít cũng nhiều như quan tâm đến mong muốn của bạn. 4. Khi một quý cô đảm nhận một công việc hay một mục tiêu nào đó, đừng cho rằng họ làm chỉ vì “sở thích”. Evelyn ngồi xuống nhìn lại những gì mình vừa viết, rồi thổi đi những vụn chì vương vãi. Đó, đã xong. Giờ tất cả những gì cô cần là một nạn nhân – hay đúng hơn, một học viên. Cô toét miệng cười. “Sẽ rất vui đây.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Phóng Đãng Thần Thánh của tác giả Suzanne Enoch.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kiếp Người - W. Somerset Maugham
Cuốn tiểu thuyết nửa tự thuật của Somerset Maugham thể hiện tính trung thực đầy hoang dại và tài năng kể chuyện đỉnh cao của tác giả. Trong Aspects of the Novel (tạm dịch: Những mặt của văn chương), EM Foster viết: “Bước kiểm tra cuối cùng cho một tác phẩm là tình cảm của ta dành cho nó, cũng như là cách ta kiểm tra bạn bè, hay bất kì điều gì ta không thể lý giải.” Có lẽ là ông đang viết về kiệt tác của Somerset Maugham, tác phẩm Kiếp người. Đối với các độc giả Anh Quốc, đó là một Bildungsroman1 chúng ta thường bắt gặp khi còn là thiếu niên. Nó nằm trong danh sách này bởi sự cần kiệm đầy sắc sảo những lời tường thuật tối tăm, hay đôi khi là tàn nhẫn hơn bởi phong cách (ở mức bình thường) hoặc bởi tính nhân văn (sự đau khổ). Bức phác họa đáng nhớ của Maugham về Philip Carey là một hình ảnh mà các thiếu niên thông thường sẽ thấm nhuần như bị nghiện, quan trọng bởi Maugham đưa rất nhiều điều về bản thân vào cốt truyện và bởi nhân vật chính mà họ có thể đồng cảm một cách kì lạ. Có lẽ kể từ thời David Copperfield (thứ 15 trong danh sách) mới có một nhà văn người Anh khai thác cuộc sống của bản thân một cách đầy đủ hay một cách liên tục như vậy. Philip Carey là một đứa trẻ mồ côi khao khát tình yêu và trải nghiệm. Cũng như Maugham, một người đồng tính với tật nói lắp tồi tệ, cậu bé là một người tàn tật với bàn chân khoèo. Được nuôi dưỡng bởi một người chú là mục sư, cậu bé bị giam cầm trong cuộc sống tại nhà xứ cuối thời Victoria, mơ ước về việc thoát khỏi ràng buộc và cầu nguyện đến vị chúa trời thờ ơ để mong dị tật của mình được chữa khỏi. Sau khi quan sát kĩ con đường đi qua trường nội trú, Philip trốn đến học tai Heidelberg, tận hưởng một khoảng thời gian ngắn với tư cách một nghệ sĩ khó khăn nhưng thất bại tại Paris, rồi trở về nhà. Tại đây bắt đầu những dòng sầu thảm và đáng nhớ nhất của cuốn tiểu thuyết, quan hệ tình cảm vô vọng của Carey với cô hầu bàn Mildred.      Maugham là một người đồng tính tự ghét bỏ bản thân mình, và bức phác họa Mildred của ông với tư cách là đối tượng yêu của Philip phản ánh những thử nghiệm của một chàng trai đồng tính trẻ tuổi sau hậu quả của trường hợp Oscar Wilde. Mildred giống như một chàng trai, khiếm nhã và coi thường người tình tàn tật của cô. Cô thường phản bội anh, đi chơi với những người bạn trai của anh, ăn trộm của anh, và khinh miệt bản năng giới tính của anh. Mối quan hệ của họ đầy đau buồn và thất thường, là khoảng thời gian cô có thai với người đàn ông khác, khi mà Philip vẫn yêu một cách đầy ám ảnh. Cuối cùng, sau một cơn khủng hoảng vô cùng khi Mildred phá hỏng căn hộ và đập nát tủ đồ của anh, cô rời đi rồi trở thành gái gọi ở đại lộ Shaftesbury. Chỉ khi đó Philip mới nhận ra anh không còn yêu cô nữa. Anh trốn thoát khỏi bùa mê của cô để lấy lại chính bản thân, và cưới một cô gái tên là Sally, một kết thúc đầy tình cảm không làm nổi bật tính trung thực hoang dại thấm sâu vào trái tim cuốn tiểu thuyết. Ghi chú về tác phẩm  Kiếp người ban đầu được gọi là The Artistic Temperament of Stephen Carey (tạm dịch: Khí chất nghệ sĩ của Stephen Carey), sau đó là Beauty from the Ashes (tạm dịch: Vẻ đẹp từ tro bụi), một trích dẫn từ Isaiah. Khi Maugham phát hiện ra rằng tiêu đề đó đã được sử dụng, ông lấy tựa đề cuối cùng từ một trong những cuốn sách trong bộ Ethics của Spinoza. Tiểu thuyết được xuất bản tại Anh bởi William Heinemann vào ngày 13 tháng Tám năm 1915, một năm đáng nhớ của văn học Anh. Danh sách này đã đề cập đến The Good Soldier, The Thirty-Nine Steps và The Rainbow.  Trong danh sách dài những cuốn sách xuất bản năm đó, tôi cũng đã loại trừ một vài tên tuổi lớn: The Voyage Out của Woolf, Psmith Journalist của Wodehouse’s, và Victory của Conrad. Lịch sử của cuốn sách rất thú vị. Maugham lần đầu viết bản thảo cho Kiếp người năm 23 tuổi, khi mới lấy bằng y khoa sau năm năm học tại St Thomas. Ông gửi bản thảo đến Fisher Unwin, nơi mà khi ông vẫn còn là một sinh viên ngành y, đã xuất bản cuốn tiểu tuyết đầu tiên của ông Liza of Lambeth và nhận được một số lời khen ngợi. Maugham yêu cầu được ứng trước 100 Bảng nhưng bị từ chối. “Bị khước từ”, sau đó ông viết, “tôi đã vứt bỏ bản thảo.” Ông chuyển sang viết cho các sân khấu, nơi mà ông có được thành công đáng kể. “Ngay khi được chính thức công nhận là nhà viết kịch nổi tiếng nhất khi đó,” ông viết, “thì tôi một lần nữa lại bắt đầu bị ám ảnh bởi những kỉ niệm đầy ắp trong quá khứ.” Vậy nhưng, Maugham cố gắng nhấn mạnh rằng đó “không phải là một cuốn tự truyện, mà là một cuốn tiểu thuyết có yếu tố tự truyện.”  Nói ngắn gọn, đó là sự kết hợp giữa sự thật và tưởng tượng, được thêm thắt những cảm xúc cá nhân, kể cả khi một vài tình tiết được mượn từ đâu đó. Dù cho quá trình sáng tác thế nào đi nữa thì nó cũng đã làm hài lòng nhà văn. “Tôi thấy bản thân thoát khỏi những nỗi đau và kí ức bất hạnh đã từng dày vò tôi,” ông viết. Maugham luôn tự phê bình bản thân một cách dữ dội. “Tôi biết tôi không có tài năng về ngôn từ,” ông viết. “Tôi có vốn từ vựng eo hẹp và không có nỗ lực nào mà tôi có thể làm để mở rộng nó giúp ích cho tôi. Tôi hầu như không có khả năng ẩn dụ; sự ví von ấn tượng và độc đáo hiếm khi xảy ra với tôi.”  Nhưng ông có khả năng kể chuyện mang tính bản năng. Nhiều người sẽ nói rằng những chuyện ngắn của ông là hiện thân cho những tác phẩm tốt nhất của ông, và ông giữ vai trò là một cây bút quan trọng trong nền văn chương đầu thế kỉ 20. Dù rằng danh tiếng trước đây của Maugham đã có phần mờ dần đi thì Kiếp người vẫn được coi là kiệt tác của ông, một tác phẩm tiếng Anh kinh điển của thế kỉ 20 với những người hết lòng ủng hộ. Ba tác phẩm khác của Somerset Maugham The Moon and Sixpence (1919); Cakes and Ale (1930); The Razor’s Edge (1944). Thảo Hiếu (bookaholic.vn - theo Guardian) *** William Somerset Maugham là nhà văn Anh, sinh năm 1874 và sống ở Pháp cho đến khi lên mười. Học xong đại học ở Anh, ông làm thầy thuốc tại bệnh viện. Có khiếu văn chương, ông sớm bắt đầu viết tiểu thuyết và thành công với vài tác phẩm đầu tay, rồi chuyển hẳn sang sáng tác văn học. Ông nổi tiếng với hai truyện dài Kiếp người (Of Human Bondage) (1914) và Mặt trăng và đồng sáu xu (The Moon and sixpence) (1919). Trong số sách được xuất bản sau đó có: Bức Bình phong (The Painted Veil) (1925), Quý Ngài trong phòng khách (The Gentleman in the Parlour) (1930), Don Fernando (1935), Lưỡi dao cạo (The Razor’s Edge) (1944), Sổ tay nhà văn (A Writer’ Notebook) (1949), Cách nhìn thiên vị (Points of View) (1958), …   W.S. Maugham đồng thời còn là một nhà soạn kịch trứ danh với những sáng tác như: Phu nhân Frederick (Lady Frederick) (1907), Smith (1909), Đất hứa (The Land of Promise) (1913).   Ông cũng là tác giả nhiều truyện ngắn rất được hoan nghênh. Toàn tập truyện ngắn của ông được tái bản nhiều lần với số lượng mấy trăm nghìn bản, ví dụ như Mưa.   Mời các bạn đón đọc Kiếp Người của tác giả W. Somerset Maugham.
Hè Của Cô Bé Mất Gốc - Dương Thụy
Bắt đầu viết văn từ năm mười lăm tuổi, tôi tự nhủ “Mình sẽ trở thành nhà văn kiếm được rất nhiều tiền”. Tuy nhiên, khi truyện ngắn đầu tiên được đăng báo, tôi không còn quan tâm đến tiền bạc nữa. Lúc này, văn chương mang một ý nghĩa khác “cao thượng” hơn giá trị vật chất. Đó là niềm vui được chia sẻ cuộc sống hồn nhiên của mình cùng các bạn đồng trang lứa, là hạnh phúc được độc giả viết thư khen ngợi, là niềm hân hoan thấy truyện của mình làm độc giả có động lực hơn trong cuộc sống. Dù cuộc sống trở nên bận rộn hơn, tôi luôn cố gắng sắp xếp thời gian để tiếp tục viết. Và dù đã qua thời học trò, qua thời cắp sách đến trường, qua thời “sáng nắng chiều mưa” của tuổi teen, tôi nhận ra rằng: tôi thành công nhất khi viết về lứa tuổi đẹp này. Thông qua những truyện ngắn của mình, tôi muốn truyền đến các độc giả nhỏ tuổi một cuộc sống hồn nhiên vô tư lự, một bến bờ hạnh phúc vì được gia đình che chở, một hy vọng lớn lao vì thầy cô luôn ủng hộ. Có thể đâu đó trong những câu chuyện của tôi, vẫn có những nốt nhạc buồn, những ánh mắt thất vọng, những tiếng thở dài day dứt. Nhưng tôi muốn độc giả hiểu rằng cuộc đời là một món quà, chúng ta hãy trân trọng và tận hưởng mọi cơ hội cuộc đời đưa đến. Hoặc nếu ai đó than phiền “Tôi nhận quà không xứng đáng”, hãy tự tạo cơ hội cho chính mình thông qua các hành động tích cực. Truyện của tôi luôn có kết thúc đẹp, và độc giả sẽ nhận ra: chúng ta làm chủ cuộc đời mình. *** Hè Của Cô Bé Mất Gốc gồm có: Con Gái Sài Gòn Mưa Phùn Cắt Đuôi Con Quỷ Nhỏ Hai Người Đến Từ Phương Xa Thực Tập Trường Đời Người Anh Việt Kiều Những Con Cọp Trong Gia Đình Người Mẫu Về Hưu Con Gái Việt Nam Gái Hôm Rằm Hương Đầu Mùa Yêu Và Quý Ông Nhỏ Công Tử Bạc Liêu Lòng Hâm Mộ Hạnh Ngộ Đầu Xuân Viên Đạn Thứ Tư Mây Trắng Colette Củ Khoai Lang Sống Nửa Cuộc Đời Ngôi Sao Của Tôi Một Ca Cấp Cứu Hè Của Cô Bé Mất Gốc *** Dương Thụy có lẽ là một cái tên không còn xa lạ đối với nhiều độc giả trẻ. Nữ nhà văn sinh năm 1975 này được biết đến khá sớm qua những bài viết trên báo Hoa Học Trò và Sinh viên Việt Nam.  Cô tên thật là Dương Thụy Phương Khanh, được coi là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ trẻ "100% tp. Hồ Chí Minh" bởi cô sinh ra đúng năm Sài Gòn giải phóng.   Dương Thụy đã từng học qua các trường: Trung học Lê Quý Đôn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM (Cử nhân văn chương Pháp), Trung tâm văn hóa Pháp - Việt đào tạo quản lý (Thạc sĩ Quản trị), Đại học Liège - Vương Quốc Bỉ (Thạc sĩ quản trị kinh doanh).   Công việc hiện nay của cô là làm giám đốc Truyền thông - Đối ngoại của tập đoàn dược phẩm Sanofi - Avenis tại Việt Nam   Dương Thụy có điều kiện tham dự các khóa du học dài hạn và ngắn hạn tại Bỉ, Anh, Pháp bởi vậy cô không chỉ là cây bút trẻ có vốn tri thức dày dặn mà còn đủ vốn sống về mảng đề tài mà các nhà văn trong nước rất khó đụng đen: cuộc sống của giới sinh viên Việt ở châu Âu.   Các cuốn sách đã xuất bản Năm 1997: Dấu lặng trong điệp khúc Năm 1999: Người thổi kèn  Năm 2002: Hai người đến từ phương xa  Năm 2003: Con gái Sài Gòn  Năm 2004: Cắt đuôi Năm 2004: Bồ câu chung mái vòm  Năm 2005: Hành trình của những người trẻ  Năm 2007: Oxford thương yêu  Năm 2008: Cáo già, gái già và tiểu thuyết diễm tình Năm 2009: Venise và những cuộc tình Gondola  Năm 2010: Nhắm mắt thấy Paris Năm 2010: Hè của cô bé mất gốc Năm 2011: Trả lại nụ hôn  Năm 2011: Oxford thương yêu Mời các bạn đón đọc Hè Của Cô Bé Mất Gốc của tác giả Dương Thụy.
Hai Người Đến Từ Phương Xa - Dương Thụy
“Quê hương mỗi người chỉ một  Như là chỉ một mẹ thôi  Quê hương nếu ai không nhớ  Sẽ không lớn nổi thành người” Vâng! Hai tiếng “quê hương” rất thân thương và gần gũi. Cho nên dù đi đâu, ở đâu và làm gì không một ai có thể quên đi nguồn cội của mình. Mang dòng máu Việt Nam sinh sống và học tập trên khắp các nước trên thế giới, nhưng ngôn ngữ, những phong tục tập quán cùng những nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc không thể xóa nhòa trong trái tim Việt. Việc tôn trọng, lưu giữ qua các thế hệ và giới thiệu cho bè bạn năm châu biết những giá trị tinh thần cao đẹp đó cũng chính là tôn vinh văn hóa cá nhân của mỗi người… Dẫu cách biệt không gian và thời gian, dẫu phải trên đường mưu sinh nơi đất khách nhưng phải làm sao để đất nước Việt Nam mãi là một đất nước với sự thân thiện, hiếu khách. Mỗi câu chuyện như một gói hành trang nhỏ cho những người xa quê hương, nhất là các bạn trẻ. Và, Hai người đến từ phương xa, dù cách xa địa lý nhưng tâm hồn sẽ không còn cách xa… *** Mọi người trong lớp gọi tôi là “bà lớn” chẳng phải vì tôi có tướng tá phì nhiêu hay có chức tước gì quan trọng mà đơn giản họ gọi thế để ghép đôi tôi với “ông lớn”. “Ông lớn” thì quả là lớn về mọi mặt. Đó là thầy Christophe dạy chúng tôi môn Poésie. Thầy bệ vệ cao một mét tám và nặng cỡ ba ông con trai “cò ma” lớp tôi cột lại bỏ lên cân. Vì mỗi lần đọc tên thầy khó khăn quá, phải uốn lưỡi thật cong nên chúng tôi làm biếng gọi là “ông lớn” cho dễ phát âm, lại mang tính tượng hình. Còn việc mọi người xúm lại gọi tôi là “bà lớn” thì cũng chả có gì éo le. Sinh viên! Chỉ cần tôi bưng cho thầy ly nước theo nhiệm vụ lớp trưởng và thầy cười rạng rỡ cảm ơn là họ đã có đủ bằng chứng để chuyện nhỏ xé to, đồn ùm lên và đặt biệt danh cho tôi từ đó. “Ông lớn” hoàn toàn không biết rằng trên đời này tồn tại một “bà lớn” mảnh mai, mỗi buổi học hay tận tụy chăm sóc mình bằng những chai Tribeco. Ông chỉ biết hồn nhiên đón nhận một cách vui vẻ và nhiệt tình uống đến giọt cuối cùng để không phụ lòng cô sinh viên bé nhỏ. Về phần “bà lớn”, dẫu biết rằng mình chỉ “có tiếng” mà không “có miếng”, bà vẫn vui lòng tiếp tục nhiệm vụ cao cả vào mỗi buổi học và kiêu hãnh đem danh “bà lớn” ra hù dọa mấy tên con trai có ý đồ mờ ám. - Ê! Hoài ơi! - Tôi hổn hển gọi với theo - Xách cặp giùm Phương coi. Mệt quá! - Đưa đây! Anh chàng bí thư chi đoàn đưa tay đỡ chiếc cặp to đùng đựng đủ thứ đồ của tôi, cảm thấy hơi xấu hổ vì không tự nguyện hỏi giúp tôi trước khi tôi mở miệng nhờ. Con trai Việt Nam dở ẹc! Tuy vậy, một khi anh ta đã ra tay giúp đỡ rồi thì tôi cũng không tiếc gì một lời cảm ơn. - Cảm ơn nhe! Học chi mà lên tận trời xanh ba bốn tầng lầu. Mệt đứt hơi! - Tội nghiệp Phương - Hoài nghiêng đầu ngó tôi cười thông cảm - Ai biểu xách chi cái cặp nặng dữ vậy? - Tại đựng đủ thứ đồ nghề cho lớp mình nè: phấn, khăn trải bàn, sổ điểm, hai ba xấp bài photo bài tập - Tôi thở ra mệt mỏi rồi tự an ủi - mà tụi mình được vinh hạnh ngồi trên đầu trên cổ thiên hạ nên phải chịu cực leo cầu thang chút đỉnh! - Phương lúc nào cũng nói chuyện nghe phách lối - Hoài cau mày - Làm “bà lớn” riết rồi quen thói! Tôi định xạc anh chàng cao kều cái tội dám lên lớp phu nhân của “ông lớn” như mọi lần có ai làm chọc nọc tôi nhưng chúng tôi đã lên đến nơi và đụng đầu nhiều người trong lớp đang đứng nói chuyện. - Trời ơi! Coi thằng Hoài xách cặp giùm “bà lớn” kìa! ... Mời các bạn đón đọc Hai Người Đến Từ Phương Xa của tác giả Dương Thụy.
Đâu Mái Nhà Xưa - Hermann Hesse
Hình như trong mỗi con người của chúng ta đều có Một mái nhà xưa để mà hướng vọng, quay về sau những phen thăng trầm, điêu đứng. "Mái nhà xưa chưa về nhưng tâm hồn vẫn chảy tuôn về cõi trú, nơi ấy từng đêm đen những tiếng lang thang gào thét nhẹ nhàng".  Mái nhà xưa ở đây, có thể là một hoài niệm xanh xao của tuổi trẻ đã dần dà trôi tuột mà bao nhiều mộng đời, mộng nước chỉ còn thoảng lại một chút dư thanh lăng lắc ở bèn trời lận đận, với một tâm sự bi hùng "đầu tiên bạch"; Mái nhà xưa ở đây cũng có nghĩa là một cuộc tình mong manh vội tắt mà hai kẻ yêu nhau chỉ còn biết ngoảnh mặt bước đi để từng đêm nghe âm thầm réo lên biết bao là tiếc nuối; Mái nhà xưa ở đây cũng có nghĩa là một tiếng Đạo đầy tròn viên mãn mà con người băn khoăn thao thức muốn tìm ra để nương náu cho qua mấy cơn phũ phàng gió bụi. Nhưng với Hermann Hess trong tác phẩm này, thì Mái nhà xưa ấy còn có tên là Rosshalde, một ngôi biệt trang lộng lẫy, huy hoàng mà vì mối bất hòa của đôi vợ chồng cho nên cái chốn "Rosshalde tuyệt vời, hạnh phúc, đẹp đẽ... đó đã thành ra một chốn thống khổ và ghê tởm" Dường như dấy là cái bi lụy lớn nhất của con người. Và với Hermann Hesse thì điều đó lại là một điều không sao chịu nổi. Từ đấy viết lách đối với ông là một ghi nhận trung thành cái hệ lụy nhân sinh ấy với một tấm lòng xót xa vô hạn. Do đấy, toàn bộ tác phẩm của ông không phải là một ghi nhận bất cứ tiến trinh kỹ thuật văn chương nào, mà là tiếng nói phát xuất từ con tim, tiếng nói người-rất-người của một tâm hồn đã trải qua mấy mùa ở địa ngục. Cho nên ta không lấy làm lạ gì vào thuở sinh thời Hermann Hesse đã được rất nhiều nam nữ thanh niên ngưỡng mộ, hàng năm họ đã tấp nập hành hương đến "khu vườn nho nhỏ" của ông để thăm hỏi ông và hằng năm ông nhận được không biết bao nhiêu là thư từ cậy nhờ giải đáp những thắc mắc, khó khăn mà họ gặp phải trong cuộc sống. Hầu hết các tác phẩm của ông đều phần nào phản ảnh cuộc sống của ông một cách nồng nàn và ray rứt. Đâu mái nhà xưa chính là phản ảnh cuộc tan vỡ hôn nhân của ông, (Hesse đã trải qua ba lần kết hôn) và nhân vật chính trong tác phẩm này, nhà danh họa nổi tiếng thế giới Johann Veragutli có phần nào bóng dáng của ông vậy. Đây cũng là tác phẩm cảm thương nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Ta thử tưởng tượng xem có gì cay đắng và xót xa hơn khi hai vợ chồng cùng sống trong một ngôi nhà, cùng ăn một bàn, lại như là hai kè xa lạ với nhau mà còn có phẩn căm hận với nhau nữa. Và cái gạch nối duy nhất giữa "hai kẻ cô đơn" ấy là một đứa con khôn ngoan dễ thương như một thiên thần, rồi một ngày kia cũng giã từ mặt đất mà đi! Ôi, đất ơi, cái đó có ý nghĩa gì? Về một khía cạnh khác, đây còn là một cáo buộc hùng hồn về sự tranh chấp của người lớn đã làm di hại đến cái thế giới thuần khiết trinh nguyên của tuổi trẻ. Ta còn thấy rõ ẩn dụ ấy ở các cuộc tranh chấp của các Quốc gia, và kết quả là người dân đen vô tội phải gánh chịu hết mọi tai ương. Cho nên ta không lạ gì khi tliấy Hermann Hesse sắp hàng bèn cạnh Romain Rolland (đây cũng là một con người rất người, một á thánh nữa vậy) trong công cuộc pacifits trong cuộc đệ nhất Thế chiến để nhận lãnh bao nhiêu lời thóa mạ nặng nề, nào là "Kẻ đê tiện", "Kẻ phản bội di sản Đức quốc" chỉ vì ông không đồng ý ở cái tinh thần hãnh tiến quốc gia để giết hại bất kỳ ai. ° ° ° Đâu mái nhà xưa kết thúc một cách nửa vời như một Sonate dang dở của Beethoven; (bản Sonate Fa thăng trưởng ấy vẫn còn thiên thu vang vọng nhưng Beethoven biết tìm Nữ Bá tước Theres Brunsvik ở nơi đâu với bức chân dung tự họa của nàng và mấy lời đề tặng rất là "lịch sự": "Xin tặng nhà nghệ sĩ vĩ đại, một thiên tài hiếm có, một người lương thiện") ° ° ° Và sau cùng khi bi kịch đã phóng thích ông, Veraguth đã lên đường sang Đông Phương nơi ông hy vọng "một khung cảnh mới mẻ thuần khiết và tự do từ lỗi lầm và khốn khổ sẽ bao bọc cưu mang ông". Hình như suốt cuộc đời băn khoăn thao thức của Hermann Hesse đã làm nổi bật lèn một bức tranh mầu nhiệm: tác phẩm The Decline of the West của Oswald Spengler nổi bật trên nền lửa đạn của hai cuộc Thế chiến. Và cũng hình như trong những đêm tối máu lửa của Việt Nam, có một câu hỏi âm thầm thảng thốt đặt ra: Chúng ta là người ở Phương Đông, bao giờ thì chúng ta cũng Trở về với Mái Nhà Xưa? - Bao giờ? Bao giờ? Vườn cô liêu giữa mùa hoa Hồng Thảo Hoài Khanh *** Mặt trời chiếu đỏ rực qua những đường viền của những đám mây đã tạnh mưa khi tiểu gia đình về nhà từ đám tang của Pierre. Bà Adele ngồi thẳng đon trong chiếc xe; gương mặt bà đã ráo hoảnh, hình như sáng rỡ và cứng ngắc một cách lạ lùng khi nhìn từ giữa chiếc nón đen và chiếc áo cắt cao. Khóe mắt Albert Sling vù lên và suốt cuộc hành trình cậu nắm chặt tay mẹ cậu. - Thế là ngày mai con sẽ ra đi rồi - Veraguth nói trong cố gắng làm cho họ xao lãng - Đừng có lo lắng về sự việc ấy, ba sẽ theo dõi mọi sự cho xong xuôi. Ngẩng mặt lên đi, con. Tại Rosshalde, khi họ từ chiếc song mã bước xuống những nhánh cây dẻ nhỏ xuống từng giọt lấp lánh dưới ánh sáng. Bị lóa mắt, họ bước vào ngôi nhà im lặng, nơi đây các chị giúp việc, trong y phục tang tóc, đã nói thì thầm khi họ chờ đợi, Veraguth khóa căn phòng của Pierre lại. Cà phê đã sẵn sàng và ba người ngồi vô bàn. - Tôi sẽ lấy phòng cho bà ở Montreux - Veraguth nói - Thấy rằng bà có một cuộc nghỉ ngơi tốt lành. Tôi cũng sẽ ra đi nữa, ngay khi tôi đã hoàn tất tại đây. Robert sẽ ở lại giữ cho nhà cửa được ngăn nắp. Hắn sẽ có địa chỉ của tôi. Không ai nghe ông; một sự trống rỗng hổ thẹn sâu xa đã đè nặng lên tất cả bọn họ như một lớp sương mù. Bà Adele nhìn cố định yào khoảng không và gom lại các mẩu vụn từ chiếc khăn trải bàn. Bà giam mình trong nỗi thống khổ của bà, không muốn đứng dậy, và Albert đã bắt chước bà. Bây giờ bé Pierre đã chết rồi, tất cả sự hợp nhất ngoài mặt trong gia đình đã biến mất, cũng như sự lịch sự được duy trì bởi một nỗ lực của ý chí biến mất khỏi gương mặt một người ngay sau khi một người khách có quyền uy và gây hoảng sợ đã đi mất. Veraguth một mình nổi bật trên những cảnh ngộ đó, thủ cái vai trò của ông và bảo toàn sự che đậy giấu diếm của ông cho đến giây phút cuối cùng. Ông ngại rằng một cái cảnh nhi nữ thường tình có thể làm hư hỏng sự chia tay của ông với Rosshalde, và trong tâm hồn ông, ông đã đợi chờ một cách nồng nhiệt cho cái phút giây khi mà hai người bọn họ sẽ ra đi. Chưa bao giờ ông cô đơn như thế như lúc ngồi trong cái tiểu phòng của ông vào chiều hôm ấy. ở đằng ngôi biệt trang, vợ ông đang thu xếp hành lý. Ông đã viết các bức thư cho Burkhardt, người mà tuy vậy vẫn chưa được kể về cái chết của Pierre, cho biết việc đi đến của ông; viết cho luật sư ông và ngân hàng, giao cho họ những chỉ thị sau cùng của họ. Rồi, khi chiếc bàn của ông đã dọn trống, ông dựng bức hình vẽ bé Pierre lâm chung trước mặt ông. Bây giờ thì em đã nằm dưới lòng đất rồi, và Veraguth tự hỏi không biết sẽ có bao giờ ông lại hiến dâng tâm hồn ông cho bất kỳ ai khác nữa như ông đã có với Pierre hay không, có bao giờ lại sẻ chia một cách sâu đậm với nỗi khốn khổ của bất kỳ ai khác nữa thế kia hay không. Bây giờ thì ông cô đơn trơ trọi. Trong một lúc lâu ông nhìn vào bức họa của ông, đôi má tóp vô, đôi mi mắt khép lại trên cặp mắt sâu trũng xuống, đôi môi mỏng dán dính chặt vào nhau, đôi tay gầy gò một cách tàn nhẫn. Rồi ông bỏ cất họa phẩm của ông vào họa phòng, lấy chiếc áo khoác và đi ra ngoài. Trời đã về đêm trên trang viên và mọi vật đều yên tĩnh. Ở đằng ngôi nhà, một vài cánh cửa sổ đèn đã thắp lên; chúng chẳng có liên quan gì với ông nhưng ở dưới những cây dẻ đen đúa, trong con đường lát sỏi các bóng cây nhỏ đã ướt sũng nước mưa, và trong vườn hoa vẫn còn cái hơi thở của đời sống và kỉ niệm. Tại đây đã có lần Pierre - không phải mới những năm trước đây sao? - chỉ cho ông xem một con chuột nhỏ bị bắt, và ở kia cạnh cây hoa giáp trúc đào em đã nói chuyện với đàn bướm xanh, và em đã đặt ra những cái tên tưởng tượng âu yếm cho các bông hoa. Tại đây, giữa chuồng gà và chuồng chó, trên bồn hoa và trên lối đi dưới những cây quất, em đã hướng dẫn cái đời sống nhỏ bé của em và chơi các trò chơi của em; đây là ánh sáng của em, sự tự do, tiếng cười trẻ thơ và tất cả sự quyến rũ của tính ương ngạnh, bản chất độc lập vôn tự nhiên của em. Tại đây, không được quan sát bởi một người nào cả, em đã tận hưởng những lạc thú như con trẻ của em và sống trong những chuyện thần tiên của em và một đôi khi có lẽ em đã tức giận hay khóc lóc khi em cảm thấy bị phủ nhận hay hiểu lầm. Veraguth đi lang thang đây đó trong bóng tối, thăm viếng mỗi địa điểm mà nó duy trì một hoài niệm về đứa con bé bỏng của ông. Sau cùng ông quỳ bên cạnh đông cát của Pierre và làm mát lạnh tay ông trong cát ẩm. Tay ông gặp phải một cái gì bằng gỗ và nhặt nó lên, ông nhận ra là cái xuổng xúc cát của Pierre, và rồi ông bẽ gãy đi, ý chí của ông đã bỏ mặc ông, và lần đầu tiên trong ba ngày khủng khiếp đó, ông đã khóc mà không kềm chế lại. Ngày hôm sau ông có một cuộc nói chuyện cuối cùng với bà Adele. - Hãy cố vượt qua nó đi - Ông nói - và chớ có quên rằng Pierre thuộc về tôi. Bà sẽ trao nó cho tôi rồi, và tôi cảm ơn về điều đó một lần nữa. Dẫu rằng tôi đã biết là nó sẽ chết, nhưng đó là lòng quảng đạx của bà. Và giờ đây hãy sống đúng như bà ưa thích, và đừng có hối hả về bất cứ điều gì. Hiện tại cứ giữ lại Rosshalde, bà có thể hối tiếc nếu bà bán nó đi quá sớm. Chưởng khế sẽ cho bà biết, ông ta nói rằng đất cát quanh đây chắc chắn lên giá. Tôi chúc bà được may mắn tốt nhất. Chẳng có gì lưu lại đây thuộc về tôi ngoại trừ đồ đạc trong họa phòng, tôi sẽ mang chúng đi sau đó. ... Mời các bạn đón đọc Đâu Mái Nhà Xưa của tác giả Hermann Hesse.