Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cò Súng Tử Thần

“Cò súng tử thần” là một tiểu thuyết trinh thám kể về nhân vật chính “James Bond” đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế lại là một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế. James Bond đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ để biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ, đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế là lại một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế *** Loạt tác phẩm James Bond xoay quanh một nhân vật mật vụ người Anh hư cấu, được sáng tạo bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953. Fleming đã khắc họa Bond trong 12 cuốn tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện ngắn. Sau khi ông qua đời vào năm 1964, đã có tám tác giả tiếp tục viết tiếp các tác phẩm tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết chuyển thể về James Bond, bao gồm: Kingsley Amis, Christopher Wood, John Gardner, Raymond Benson, Sebastian Faulks, Jeffery Deaver, William Boyd và Anthony Horowitz. Forever and a Day của Anthony Horowitz, xuất bản vào tháng 5 năm 2018, là cuốn tiểu thuyết James Bond mới nhất. Ngoài ra, có thể kể đến loạt truyện viết về Bond thời trẻ của Charlie Higson hay Kate Westbrook với bộ ba tiểu thuyết dựa trên cuốn nhật ký của Moneypenny, một nhân vật từng xuất hiện trong loạt truyện. Nhân vật James Bond còn được biết tới với mã tên 007, được chuyển thể rộng rãi thành các tác phẩm truyền hình, phát thanh, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim ảnh. Loạt phim về James Bond hiện đang là loạt phim liên tục dài nhất mọi thời đại và thu về tổng doanh thu 7.04 tỉ đô la Mỹ, trở thành loạt phim có doanh thu cao thứ sáu lịch sử. Nó được khởi đầu vào năm 1962 bằng phần phim Dr. No với ngôi sao Sean Connery trong vai Bond. Tính tới năm 2020, loạt phim do Eon Productions sản xuất đã có 24 phần. Spectre (2015) là bộ phim James Bond gần nhất, có sự tham gia diễn xuất của Daniel Craig với lần thứ tư anh thủ vai mật vụ Bond trong loạt phim của Eon. Ngoài ra, còn có hai tác phẩm độc lập: Casino Royale (một phiên bản giễu nhại ra mắt năm 1967, với sự tham gia của David Niven) và Never Say Never Again (bản làm lại bộ phim do Eon sản xuất trước đó của Thunderball, ra mắt năm 1965, cả hai bản đều có sự tham gia của Connery). Năm 2015, với trị giá ước tính 19.9 tỷ đô la Mỹ, James Bond trở thành một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất từ trước tới nay. Các bộ phim về Bond nổi tiếng bởi một số điểm đặc trưng, như phần nhạc đệm với các bài hát chủ đề đã nhiều lần được đề cử Oscar và chiến thắng hai lần. Vài yếu tố xuyên suốt quan trọng khác bao gồm những chiếc xe hơi của Bond, các khẩu súng của anh và những thiết bị mà anh được Q Branch cung cấp. Mỗi phần phim cũng chú ý khắc họa mối quan hệ của Bond với nhiều phụ nữ khác nhau, đôi khi được gọi là các "Bond girl". *** Đó là lúc cả thế giới đã bão hòa. Mặt trời đã xuống tới đường chân trời, luồng ánh sáng đỏ mềm mại trườn trên lớp sóng triều, phía cao tít bên trên đàn chim đang vẽ nên những hình kỷ hà ngẫu nhiên trên bầu trời quang. Gió đã ngừng thổi và cái nóng buổi chiều trở nên ngột ngạt, ngập trong khói xăng và bụi. Xuyên qua bầu không khí đó, chiếc Crosley màu lam bất ngờ còn lại một mình chạy theo đường 13, hướng từ biển vào đất liền. Crosley là một chiếc xe nhỏ, xấu, mũi dài, khoang vuông, thân đã bị gỉ sét ăn thủng. Người lái xe, đang gập người trên vô lăng, mắt không rời khỏi con đường phía trước, đã mua nó với giá ba trăm đô la. Tay bán hàng thề thốt rằng chiếc xe có thể chạy sáu mươi cây số chỉ với ba lít xăng và còn có thể tăng tốc lên tám mươi ki lô mét một giờ. Tất nhiên là hắn nói dối… với hàm răng hoàn hảo và nụ cười thân thiện của một con phe tỉnh lẻ. Chiếc Crosley chẳng tăng tốc được thêm chút nào ngay cả trên đường lao dốc, nữa là ở đây, gần với bờ Đông Virginia, nơi địa hình đã trở nên bằng phẳng suốt nhiều cây số. Người lái xe có thể là một giáo sư hoặc một thủ thư. Gã có vẻ ngoài của một kẻ chủ yếu sống trong nhà với làn da xanh xao, những ngón tay ám nicotine và cặp kính theo thời gian đã từ từ chìm vào mũi cho đến khi trở thành một phần vĩnh viễn của khuôn mặt. Tóc gã đã thưa, lộ ra những vết đồi mồi trên trán. Gã là Thomas Keller. Mặc dù hiện đang mang hộ chiếu Mỹ, gã sinh ra tại Đức và vẫn nói tiếng mẹ đẻ trôi chảy hơn nói thứ tiếng của đất nước đã nuôi nấng gã. Không rời tay lái, Keller lật tay liếc nhìn chiếc đồng hồ quân sự Elgin 16 chân kính mà gã mua tại một cửa hiệu cầm đồ ở Salisbury, gần như chắc chắn bị vứt lại đó bởi một quân nhân đang gặp vận đen. Gã rất đúng giờ. Gã nhìn thấy lối rẽ ngay phía trước và bật xi nhan. Sau một giờ nữa thôi, gã nghĩ, gã sẽ có đủ tiền để mua một chiếc xe tử tế và một chiếc đồng hồ tử tế - đồng hồ Thụy Sĩ, tất nhiên, có thể là Heuer hoặc Rolex gì đó - và cuối cùng, một cuộc sống tử tế. Gã dừng lại trước một quán ăn, một cái hộp đẹp đẽ màu bạc trông như vừa mới lấy ra từ sau xe tải. Tên quán - Lucie - được uốn bằng đèn neon hồng ngay trên bốn món ăn đã định hình nền ẩm thực Mỹ đối với hầu hết cư dân của nó, bất kể là họ sống ở bang nào: Bánh kẹp, Xúc xích, Sữa lắc và Khoai chiên. Gã ra khỏi xe, áo sơ mi hơi bị dính vào lớp vỏ bọc ghế bằng nhựa vynil, và nhặt áo khoác để trên ghế trước. Gã đứng lặng một lúc trong không khí ấm nóng, lắng nghe một đoạn nhạc phát ra từ chiếc máy hát tự động, và nghĩ đến hành trình đã đưa gã đến đây. Thomas Keller vừa tốt nghiệp với tấm bằng vật lý và kỹ sư thì gặp được thứ rồi sẽ trở thành niềm đam mê lớn của đời gã. Chuyện xảy ra tại rạp Harmonie ở Sachsenhausen nơi gã cùng một cô gái xinh đẹp tới để xem bộ phim mới của Fritz Lang, Frau im Mond, Người đàn bà trên mặt trăng. Bộ phim bắt đầu được năm phút là gã đã quên tiệt cô gái, và vì thế, cả hy vọng được sờ soạng cô sau đó ngoài bãi đỗ xe của rạp. Thay vào đó, cảnh trên màn hình chiếu một quả tên lửa nhiều tầng đang rời khỏi quỹ đạo trái đất đã đánh thức thứ gì đó bên trong gã và từ đó trở đi hoàn toàn chiếm lĩnh gã. Có thể nói rằng gã đã được phóng đi, bằng một sức mạnh không thể cưỡng lại, đầu tiên là tới Đại học Tổng hợp Berlin, sau đó tới Verein für Raumschiffahrt - Hiệp hội Du hành Không gian - và cuối cùng là tới bờ biển Baltic và cảng biển Peenemünde. Khi đó, nghiên cứu tên lửa của Đức đã có tiến bộ hơn hẳn, vì mặc dù Hiệp ước Versailles bị nhiều người căm ghét đã đặt ra rất nhiều hạn chế đối với việc phát triển vũ khí nhưng du hành không gian lại được miễn trừ. Điều này tạo thuận lợi cho quân đội Đức, họ đã nhanh chóng nhận ra rằng tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng được phóng đi từ một bệ phóng tạm thời và tương đối đơn giản, có thể bay xa và nhanh hơn nhiều loại đạn pháo, đem tải trọng thuốc nổ của nó đến mọi thành phố lớn ở châu Âu. Keller ba mươi sáu tuổi khi gã gặp người phụ trách chương trình không gian của Đức: kỹ sư tên lửa (và là một thành viên SS-Sturmbannführer) Wernher von Braun. Con trai của một bá tước Phổ, von Braun xuất thân từ một gia đình đã từng tham chiến từ thế kỷ 13 và chưa bao giờ đánh mất những đặc trưng quý tộc của mình. Ông ta luôn đi lại khệnh khạng, quát mắng tất cả những ai tranh cãi với mình và có thể trở nên thô bạo lạnh lùng khi rơi vào một tâm trạng nhất định. Nhưng đồng thời ông ta lại vô cùng đam mê công việc, luôn đòi hỏi những điều tốt nhất từ bản thân và từ những người xung quanh. Keller kính trọng ông ta vậy nhưng cũng sợ hãi không kém. Tất nhiên, trong thời gian đó một tay hạ sĩ người Áo đã lên nắm quyền và nước Đức đang có chiến tranh. Nhưng chẳng có chuyện gì thực sự làm Keller quan tâm. Cũng giống như nhiều học giả và các nhà vật lý khác, những người bạn hiếm hoi, gã không quan tâm nhiều đến thế giới xung quanh, và nếu như Hitler lại chuyển tiền - mười một triệu mác Đức trích từ Không lực và quân đội - vào các thiết bị đánh chặn bằng tên lửa và tên lửa đạn đạo thì gã sẵn sàng lờ đi những mối bận tâm kém hấp dẫn khác của đảng Quốc xã. Thực sự là khi cuối cùng đã đến được Peenemünde, lúc những quả tên lửa V-2 đầu tiên rời bệ phóng vào mùa hè năm 1944, gã chưa từng nghĩ đến sự chết chóc và tàn phá mà chúng sẽ đem đến với trọng tải một tấn của mình. Gã là một nghệ sĩ và đây là tấm toan của gã. Việc ngắm nhìn các vụ phóng đã cho gã một giây phút xuất thần tinh khiết: những đám mây khói trắng đầy những tia lửa nhỏ từ bộ đánh lửa đột nhiên đổ xô lại với nhau thành một ngọn lửa đỏ rực rỡ, dây cáp bung ra và một tạo vật xinh đẹp, lịch lãm được tung lên bầu trời. Những rung động xuyên qua gã. Làn da gã dường như sống dậy, gã cảm thấy phấn khích khi biết rằng mình là một trong số ít các kỹ thuật viên đã giúp tạo ra nó, rằng các động cơ sẽ tạo ra công suất đáng kinh ngạc 800.000 mã lực và rằng tên lửa sẽ sớm đạt được năm lần tốc độ của âm thanh. Đám dân thường London sẽ không thể biết gì về sự hoàn hảo, về thiên tài vĩ đại của thứ vũ khí đã giết họ. Thường thì Keller không thể kiềm chế được mình. Gã rơi những giọt lệ của niềm vui thuần khiết. Một thời gian ngắn sau khi chiến tranh kết thúc, Keller tự hỏi không hiểu gã có phải đối mặt với hậu quả nhất định nào đó hay không. Thực ra gã đã có mặt khi von Braun đầu hàng người Mỹ và sau đó bị họ thẩm vấn vì cũng nằm trong Danh sách Đen nổi tiếng, mật danh dành cho các nhà khoa học và kỹ sư Đức có vai trò quan trọng đặc biệt. Nhưng gã không quá lo lắng. Những gì von Braun và nhóm của ông ta đã tạo ra quá có giá trị đối với Đồng minh và gã tin rằng công việc của họ bằng cách nào đó vẫn sẽ được tiếp tục. Gã đã đúng. Hai người họ được thả cùng một ngày. Cùng với hơn một chục nhà khoa học và kỹ thuật viên khác họ đã được đưa ra khỏi nước Đức trên cùng một chuyến bay, và cuối cùng đã tới Fort Bliss, một căn cứ quân sự Mỹ gần Al Paso, nơi mà với những ông chủ mới và trong một số trường hợp ít ỏi khác - nhân thân mới, họ lại tiếp tục công việc từ đúng chỗ trước đó họ đã bị ngắt quãng một cách thô bạo. Giờ Keller năm mươi tư và đã đi gần hết sự nghiệp. Gã sống ở Mỹ đã mười hai năm nhưng chưa bị ai nhận nhầm là người Mỹ. Gã có diện mạo và hình thể của một người nước ngoài, vụng về và chậm chạp. Lối nói chậm rãi và nặng khẩu âm luôn tiết lộ nguồn gốc của gã ngay khi gã bắt đầu mở miệng. Cũng chẳng quan trọng lắm. Chiến tranh đã đủ xa rồi. Người ta cũng chẳng còn quan tâm nữa. Vả lại, trong ý thức gã đã đồng hóa theo cách tốt hơn - và điều đó làm cho gã hoàn toàn thỏa mãn. Ba năm sau khi đến Mỹ, gã lấy một cô tiếp viên Mỹ bán cocktail mà gã gặp ở El Paso làm vợ và hai người họ chuyển đến sống trong một ngôi nhà phong cách thuần Mỹ gần Salisbury, bang Maryland. Keller được thuê làm giám sát viên tổng hợp trong Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân (NRL) tại bãi phóng tên lửa của cơ quan này trên đảo Wallops. Gã vừa ra khỏi văn phòng một giờ trước. Giờ thì gã đã đến nơi. Gã bước vào quán và ngay lập tức cảm thấy cái mát lạnh của điều hòa không khí, đúng lúc máy hát tự động phát một bài mới của Everly Brothers. Tạm biệt tình yêu Tạm biệt hạnh phúc… Keller không quan tâm đến âm nhạc Mỹ nhưng gần như không thể thoát được giai điệu này suốt mấy tháng nay. Gã cảm thấy lời bài hát có vẻ lạc quẻ một cách lạ lùng, vì gã đến đây với hy vọng và kỳ vọng vào điều hoàn toàn trái ngược. Người gã đến gặp đang chờ gã ở đúng chỗ mà hắn đã nói, cái bàn cạnh cửa sổ góc. Hắn mặc bộ vét hiệu Brooks Brothers, áo sơ mi cài hết cúc và đi giày lười, kiểu trang phục thường xuyên của hắn. Hắn đến sớm. Trên mặt bàn có một tờ báo và hắn đã điền được một phần trò ô chữ. Keller biết đến hắn với tên gọi Harry Johnson, nhưng gã không chắc đấy có phải tên thật của hắn hay không. Gã giơ tay chào, hơi lúng túng bước trên nền gạch đỏ trắng đến phía bên kia của cái bàn. Đến phút cuối gã mới nhận ra mình đã quên khoác áo vét. Thôi kệ, đằng nào thì cũng đã quá muộn. Gã quyết tâm không làm gì tỏ ra thiếu chuẩn bị hoặc vụng về. Gã đặt cái áo lên ghế bên cạnh. “Anh thế nào, Keller?” Johnson nói đều đều, giọng Manhattan. “Tôi ổn, cảm ơn anh.” Harry Johnson trẻ hơn gã đến mươi mười lăm tuổi, nhưng trông lại có vẻ già dặn hơn với khuôn mặt dài quá mức, má đầy nếp nhăn và mái tóc bạc cắt ngắn. Hắn đang xoay cái bút bi giữa những ngón tay. Trên một ngón tay, hắn đeo chiếc nhẫn vàng có khắc hình. “Thủ đô của Venezuela là gì?” hắn hỏi. “Sao cơ?” Keller sửng sốt. “Thứ chín từ trên xuống, thủ đô của Venezuela. Từ bảy chữ cái bắt đầu bằng chữ C.” “Tôi không biết,” Keller cáu kỉnh nói. “Tôi không chơi ô chữ.” “Này, không sao. Tôi chỉ hỏi thôi mà.” Johnson rời mắt khỏi ô chữ. “Thế nào, xong rồi chứ?” Lần này thì Keller hiểu ý hắn. Đây là lần thứ tư họ gặp nhau. Keller vẫn nhớ lần đầu tiên, một cuộc gặp có vẻ như tình cờ trong một quán rượu trung tâm Salisbury. Johnson bằng cách nào đó đã ở đó, ngay ghế bên. Không thể biết được hắn vào từ lúc nào. Họ đã nói chuyện với nhau. Johnson nói hắn là một doanh nhân, cũng có thể đúng là vậy thật nhưng thực sự thì nó cũng gần như chẳng có ý nghĩa gì. Hắn có vẻ phấn khích khi biết Keller là một nhà khoa học ngành tên lửa và sau ly thứ hai - Johnson đòi được trả tiền - hắn đưa ra một loạt câu hỏi đầy quan tâm nhưng vô hại, không có gì khiến cho gã phải nghi ngờ. Đương nhiên mọi thứ đã được sắp xếp từ trước. Hắn đã biết tất cả về Keller từ trước khi họ mở miệng nói chuyện với nhau. Đến cuối buổi tối hai người đã thu xếp gặp nhau lần nữa. Sao lại không cơ chứ? Johnson là một người bạn tốt, và khi ra về hắn gần như vô tình nói rằng mình có thể đề nghị việc này. “Có thể kiếm cho anh một ít tiền. Mới chợt nghĩ vậy thôi. Lần sau ta trao đổi nhé.” Nhưng đến lần sau đó hắn không nói gì. Họ so sánh vợ con, gia đình, lương lậu, khát vọng. Toàn là những câu chuyện của đàn ông, mặc dù người nói chính vẫn là Keller. Chỉ đến lần thứ ba khi họ đã hiểu nhau rõ hơn thì Johnson mới đưa ra lời đề nghị của mình. Đáng ra khi đó Keller phải tới gặp cảnh sát, hoặc hợp lý hơn nữa là phòng An ninh Hải quân ở phía Nam đảo Wallops. Tất nhiên là gã không làm thế. Johnson, hay những người đứng sau hắn, đã chọn Keller vì họ biết gã sẽ không làm thế. Có khi họ đã tìm hiểu gã nhiều tháng trời rồi. Chính xác thì họ là ai? Keller không quan tâm. Cũng chính chứng chỉ nhìn tầm gần này đã giúp gã qua được cuộc chiến. Gã không có nhu cầu nhìn toàn cảnh. Không quan trọng. Gã đơn giản chỉ tập trung vào đề nghị được đặt ra cho mình và hai trăm năm mươi ngàn đô la, miễn thuế, mà gã có thể có được nếu như làm theo đề nghị đó. Gã đồng ý gần như ngay lập tức và chỉ cần một buổi gặp nữa để thảo luận chi tiết. Rất thẳng thắn. Điều mà gã được đề nghị làm không hề dễ dàng. Nó cần có sự hiểu biết sâu sắc về cơ học chất rắn và ứng suất kéo - nhưng đó chính là lĩnh vực chuyên môn của gã. Và sau khi gã đã đo đếm tỉ mỉ mọi yếu tố thì bản thân công việc này vẫn là một vấn đề. Nhưng may mắn thì gã cũng sẽ có được bốn hoặc năm phút một mình. Có rủi ro đáng kể - nhưng phần thưởng cũng lớn. Đó là tính toán ban đầu của gã. “Thế là xong rồi chứ?” “Phải.” Keller gật đầu. “Nhiệm vụ hóa ra lại dễ hơn tội tưởng nhiều. Tôi từng được vào xưởng lắp ráp trong lúc tập dượt cứu hỏa.” Gã dừng lời. Gã đã lộ ra sự nhiệt tình quá mức và khiến điều gã đã làm được có nguy cơ mất giá. “Tất nhiên là tôi phải làm nhanh. Người ta luôn luôn tăng cường an ninh trong khi chuẩn bị phóng. Và phải làm rất cẩn thận. Có khả năng, anh hiểu chứ, người ta sẽ đi kiểm tra vào phút chót. Việc tôi làm cần phải… unsichtbar.” Gã tìm từ trong tiếng Anh. “Tàng hình.” “Động cơ sẽ hỏng chứ?” “Không. Nhưng nó sẽ không hoạt động tử tế. Lượng thuốc phóng được bơm vào buồng đốt sẽ không đủ. Tôi đã giải thích điều đó cho anh rồi. Kết quả sẽ đúng như mong muốn.” Hai người cùng im lặng khi hầu bàn đưa cà phê và nước lạnh đến. Hai cuốn thực đơn để mở trước mặt. Họ không có ý định ăn uống gì. “Thời điểm phóng thì thế nào?” Johnson hỏi. Keller nhún vai. Gã không thích cà phê. Gã đã nốc hết bao nhiêu lít món này từ khi đến Mỹ, trong lúc hút thuốc và làm việc thâu đêm? Gã đẩy cái cốc sang một bên. “Vẫn còn mười hai ngày nữa từ hôm nay. Tôi đã xem dự báo. Thời tiết tốt. Nhưng thời tiết thì không bao giờ chắc chắn được. Hướng và tốc độ gió rất quan trọng, và nếu như điều kiện không thích hợp thì…” Gã hạ giọng bỏ lửng câu nói. “Nhưng đấy không phải chuyện tôi quan tâm. Tôi đã làm điều anh yêu cầu. Anh có đem tiền không?” Người đàn ông kia không nói gì. Hắn nhìn chằm chằm gã người Đức. Sau đó hắn chìa tay ra và gỡ cặp kính mát gài trên túi áo phía trước. Đó là tín hiệu cho thấy công việc của họ đã kết thúc. “Dưới gầm bàn có một cái cặp.” “Còn tiền thì sao?” “Trong đấy hết.” Johnson toan ra về nhưng Keller ngăn hắn lại. “Tôi phải nói với anh một chuyện,” gã nói. “Quan trọng đấy.” Gã đã tập dượt điều sắp nói. Gã khá tự hào về cách nói mà gã đã nghĩ ra, về việc gã đã suy nghĩ điều đó thật kỹ càng. “Tôi sẽ không đếm tiền. Tôi sẽ coi như đã đủ. Nhưng đồng thời, tôi phải cảnh báo anh. Tôi không biết ai thuê anh, tôi không quan tâm. Rõ ràng là anh làm việc cho những người nghiêm túc. Nhưng một phần tư triệu đô là rất nhiều tiền. Cược đặt rất cao. Và vì sự an toàn của bản thân mình anh có thể chọn cách bịt miệng tôi lại. Không phải khó lắm, phải không? Theo tôi hiểu, có thể trong cái cặp ấy có thuốc nổ và tôi có thể chết trước khi ra đến xe. Hoặc có thể sẽ có tai nạn giao thông.” “Thế nên tôi muốn anh biết rằng tôi đã ghi lại tất cả những gì xảy ra giữa chúng ta với nhau và tất cả mọi thứ tôi được yêu cầu thực hiện. Không những tôi miêu tả anh, tôi còn chụp ảnh. Tôi mong là anh sẽ tha thứ cho sự lừa đảo nhỏ này của tôi, nhưng tôi chắc chắn anh sẽ thông cảm cho tình thế của tôi. Tôi cũng ghi lại thông tin về xe của anh, biển số xe. Tất cả những thứ đó được gửi ở chỗ một người bạn của tôi và gã đã được dặn là sẽ chuyển tất cả cho cơ quan có thẩm quyền nếu có điều gì đó đáng ngờ xảy ra cho tôi. Anh hiểu tôi nói gì chứ? Sẽ không có chuyện tên lửa bị hỏng nữa. Và dù cảnh sát phải tốn chút thời gian để tìm ra anh thì họ cũng đã biết về sự tồn tại của anh và sẽ theo anh mãi mãi.” Johnson yên lặng nghe hết. Keller nói xong Johnson ngờ vực chằm chằm nhìn gã. Đó là lần đầu tiên hắn thể hiện cảm xúc thực của mình. “Anh nghĩ chúng tôi là ai?” hắn hỏi. “Anh nghĩ chúng tôi là gangster à? Tôi phải nói với anh, Tom, anh đọc nhầm loại sách rồi. Chúng tôi yêu cầu anh cung cấp cho chúng tôi một dịch vụ. Anh cung cấp cho chúng tôi dịch vụ đó và anh đã được trả tiền. Nhân tiện mà nói, anh nhầm rồi. Một phần tư triệu đô cũng không phải quá nhiều trong chuyện này. Anh sẽ gặp lại chúng tôi chỉ trong trường hợp anh không làm như chúng ta đã thỏa thuận - và nếu đúng như vậy, trong trường hợp ấy, cuộc sống của anh rất có thể sẽ bị nguy hiểm một chút. Nhưng cho dù anh không tin chúng tôi thì chúng tôi vẫn có niềm tin tuyệt đối nơi anh.” Hắn ném vài đồng xu ra bàn để thanh toán tiền cà phê, cuộn tờ báo lại rồi đứng lên. “Tạm biệt.” “Chờ đã…” Keller cảm thấy xấu hổ. “Caracas,” gã nói. “Caracas?” “Ô chữ còn thiếu của anh. Thủ đô Venezuela.” Johnson gật đầu. “Tất nhiên rồi. Cảm ơn anh.” Keller nhìn hắn đi khỏi. Đúng là bài phát biểu của gã có chút khoa trương, được lấy cảm hứng từ mấy bộ phim gã từng cùng xem với vợ. Và nó cũng không thật. Không có bản ghi nào về những gì đã xảy ra, không có ảnh, không có người bạn nào đang chờ để đến gặp cảnh sát. Gã chỉ nghĩ rằng sự đe dọa này có thể là đủ để bảo vệ mình khi cần. Liệu gã có sai không? Liệu gã có tự biến mình thành thằng ngốc không? Sau đó gã nhớ đến tiền. Gã mò mẫm dưới gầm bàn và cảm thấy các khớp tay mình va phải thứ gì đó đặt sát tường. Cái cặp! Gã kéo nó ra và bật khóa, hé mở vừa đủ để có thể liếc vào trong. Có vẻ có đủ tiền trong đó: tiền năm mươi đô, được buộc thành cọc gọn gàng. Gã đóng cặp, khoác áo vét lên rồi vội vã ra ngoài. Không có dấu hiệu nào của Harry Johnson ngoài bãi đỗ. Gã ra xe, ném chiếc cặp vào ghế trước rồi chui vào xe. Mất hai mươi phút để gã lái xe về đến nhà, nơi gã biết Gloria đang chờ gã. Nghĩ đến Gloria, gã mỉm cười và thư giãn một chút sau tay lái. Xét cho cùng, mọi thứ đều là cho nàng. Nàng trẻ hơn gã mười lăm tuổi, thấp và hơi mũm mĩm theo cái cách làm gã thấy phấn khích, ngực và hông lúc nào cũng căng đầy dưới lớp quần áo. Khi hai người gặp nhau thì nàng đã ở giữa độ tuổi hai mươi, và khi gã kể với nàng về mình thì nàng thấy rạo rực. Này là một người đàn ông được đưa lậu từ châu Âu đến, làm việc cho một cơ sở nghiên cứu tuyệt mật chế tạo tên lửa không gian. Nó giống như tình tiết trong những cuốn sách bìa mềm nàng thích đọc, và mặc dù thực ra gã là người Đức, thiếu hấp dẫn và đôi khi có những yêu cầu làm nàng đau, điều đó có vẻ cũng chẳng quan trọng gì. Họ đã hạnh phúc khi lấy nhau và cả hai đã cùng quyết định chuyển lên phía Bắc, chọn Salisbury vì gần đảo Wallops. Họ đã mua nhà và cùng chọn nội thất. Nhưng từ đó trở đi mọi việc giữa họ đã không còn mấy tốt đẹp. Họ không thể có con, nàng thì phát chán vì ngôi nhà, vì cái công việc quản lý một nhà hàng địa phương hầu như không có khách trừ những ngày cuối tuần. Nàng không muốn nghe bất cứ điều gì về tên lửa và dạo này nàng chỉ miễn cưỡng đến xem các vụ phóng. Nhưng Keller vẫn còn yêu nàng. Dĩ nhiên là gã si mê nàng. Theo một cách nào đó, gã coi nàng như biểu tượng cao nhất về vị thế, sự công nhận đối với công trình của đời người. Nàng là một người vợ Mỹ. Gã xứng đáng có nàng. Gã kể với nàng về người bạn mới của mình, Harry Johnson, về đề nghị gã nhận được. Có nằm mơ gã cũng không dám nhận nếu như không có sự chấp thuận của nàng. Gã mừng là gã đã làm như vậy. Tiền cược là vô cùng cao. Gã sẽ phạm một tội ác mà nếu bị phát hiện gã sẽ bị kết tội phản quốc. Nhưng ngay từ đầu Gloria đã tỏ ra quyết tâm hơn cả gã, thúc giục gã khi lòng dũng cảm của gã không còn. Hàng tuần nay hai người họ đã trao đổi về tương lai mà họ sẽ xây dựng cùng nhau, về việc họ sẽ làm gì với số tiền, họ phải thận trọng để không tiêu hết nó quá sớm ra sao. Keller thấy hình như vợ gã đã biến đổi. Giờ thì gã nhớ lại được nàng như thế nào khi lần đầu tiên gã để mắt đến nàng. Tất cả năng lượng và lebensfreude - sức sống - của nàng đã quay trở lại. Và nàng lại khôi phục được sự thèm khát giường chiếu, hiến dâng cho gã với sự buông thả như trong đêm tân hôn của họ. Nàng đang đợi gã ngoài cửa căn nhà gỗ một cửa sổ. Đó là một ngôi nhà như bước thẳng ra từ catalogue nhà đất với khu vườn gọn gàng phía trước và dãy hàng rào màu trắng. Keller đỗ xe trên lối vào nhà và lại với nàng, tay xách cặp. Họ hôn nhau trên ngưỡng cửa. Nàng mặc chiếc váy hoa ban ngày, chiết eo. Mái tóc vàng óng của nàng đổ những lọn xoắn lên vai. Ngay lúc đó Keller thèm muốn nàng hơn bao giờ hết. “Anh làm được rồi,” nàng nói. “Phải.” “Anh đếm chưa?” “Ở đây cả mà. Không cần.” “Anh phải đếm chứ.” “Mình có thể đếm trong nhà.” Họ cùng nhau vào nhà, vào phòng khách gọn gàng có sofa, bàn cà phê và chiếc ti vi phủ tấm che cửa lật. Họ mở cặp và đếm tiền. Gloria đứng tì vai và mông vào gã, gã vòng tay ôm nàng. Khi đã chắc chắn mọi thứ đều ổn, nàng vặn người hôn má gã. “Em đã để sâm banh sẵn trong tủ lạnh rồi đấy,” nàng nói. Gã theo nàng vào bếp, đứng đó trong khi nàng lục lọi ngăn kéo. “Không thấy cái mở nút chai chết tiệt ấy đâu cả,” nàng nói. Hắn lại chỗ nàng, và chỉ khi tới nơi thì hắn mới nhớ ra là để mở sâm banh thì đâu có cần đến mở nút chai, và đó cũng là lúc nàng quay lại còn gã thì cảm thấy có cái gì đó đè vào mình. Gã cúi nhìn và thấy, không thể nào như vậy, một cái cán dao thò ra từ bụng mình. Hẳn phải có nhầm lẫn gì rồi. Không thể như thế được. Nhưng khi ngẩng lên và nhìn thấy mắt nàng thì gã biết đây chính là sự thật. Gã cố gắng cất tiếng nhưng máu đã ộc ra từ cơ thể, và cùng với nó là hơi thở và sự sống của gã. Vẫn còn ôm lấy nàng, gã khuỵu xuống, rồi, khi nàng bước sang một bên, gã đổ vật xuống sàn. Gloria nhìn xuống gã và rùng mình. Không phải cảnh tượng máu gã tràn trên lớp vải sơn làm ả ghê sợ. Mà là ký ức về đôi bàn tay gã trên thân thể ả, mùi chua chua trong hơi thở của gã. Chẳng còn gì nhiều để làm. Ả đã mua sẵn xăng. Ả vẩy xăng lên tay chồng đã chết, lên bếp, phòng khách, cầu thang. Rồi ả lấy chiếc va li, đóng gói vài thứ định mang theo và đổ tiền vào trong. Cuối cùng, ả bật diêm. Ả lấy chiếc Crosley của chồng, cho dù đấy là một cái xe kinh khủng. Ít nhất thì ả cũng có thể trông chờ vào nó để đến California, nơi ả dự tính sẽ bắt đầu cuộc đời mới. Ả đi tới cuối con phố và rẽ ra đường lớn mà không nhìn lại. Và thế là không nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên khi chúng bùng lên phía sau mình và làn khói đang lan tỏa vào không khí ban đêm.   Mời các bạn đón đọc Cò Súng Tử Thần của tác giả Anthony Horowitz & Phạm Hồng Anh (dịch).  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Lời Nói Dối
Họ tiến lại gần căn nhà cho đến khi đến đường giao giữa rừng cây và bãi cỏ. Âm thanh ban đêm bao bọc lấy họ: tiếng ếch ộp oạp, tiếng cá quẫy mình trong nước, tiếng muỗi vo ve bên tai và tiếng diều hâu từ xa kèm theo tiếng rít sợ hãi của một chú chuột. Kẻ đi săn hay kẻ bị săn. Đêm nay, họ là ai? Một loạt vụ án mạng, bắt cóc liên tiếp xảy ra ở thị trấn sau khi Jane Hardy được kế nhiệm vị trí cảnh sát trưởng của cha mình ở Cảng Pelican, Alabama. Sau khi cha bị buộc tội trộm cắp và có dính líu đến một vụ án mạng, Jane phải đối mặt với sự giám sát của công chúng trong khi cố gắng làm rõ sự trong sạch cho cha mình và chứng minh rằng phụ nữ có thể làm tốt trong những công việc thường mặc định dành cho nam giới". Liệu có phải kẻ đến từ quá khứ khủng khiếp đang cố gắng phá hủy gia đình duy nhất mà cô có - sau khi cha đưa cô trốn thoát khỏi hội cuồng giáo mười lăm năm trước? Dối trá, bí mật, giết người, cảnh giác, báo thù và xen lẫn lãng mạn, tất cả tạo nên tác phẩm MỘT LỜI NÓI DỐI hồi hộp nguyên bản và hấp dẫn. *Những đánh giá về truyện: _ “Colleen Coble lại một lần nữa khẳng định mình đang đạt đến phong độ đỉnh cao với dòng văn học kịch tính lãng mạn Ki-tô giáo. Tác phẩm gồm những nhân vật sẽ khiến bạn yêu thích, nghi ngờ rồi lại tin tưởng và những khung cảnh sẽ khiến bạn phải nín thở. Câu chuyện của Jane Hardy là hành trình khám phá mạng nhện phức tạp và rối rắm được dệt nên bằng một lời nói dối nhỏ bé.” Lisa Wingate, tác giả bán chạy nhất New Yorks Times với cuốn Before We Were Yours, nhận xét về Một lời nói dối _ “Colleen Coble luôn đưa dòng văn học hồi hộp lãng mạn lên một tầm cao mới. Tôi rất thích Một lời nói dối! Cuốn sách đã đưa tôi vào một chuyến hành trình hoang dại và tuyệt vời.”_ DiAnn Mills, tác giả bán chạy nhất _ “Một lời nói dối, cuốn sách mới nhất của Coble, là một tác phẩm giàu sức nặ Đây chắc chắn là một trong số những cuốn sách hay nhất của cô ấy. Tôi đã thức tới khuya để đọc xong cuốn sách này, vì không tài nào ngủ nổi nếu không được biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Một cuốn sách mà bạn nhất định phải đọc! Rất đáng khen!”_ Robin Caroll, tác giả bán chạy nhất với tiểu thuyết Xaga Darkwater Inn _ “Tôi đã luôn mong ngóng tác phẩm mới của Colleen Coble. Một lời nói dối là một hiện tượng mới. Tôi không biết cô ấy đã làm thế nào nhưng tài năng của cô ấy đang tỏa sáng. Chắc chắn bạn sẽ dành nhiều thời gian để đọc vì bạn sẽ không nỡ đặt sách xuống. Tôi đã ngấu nghiến cuốn sách này! Cảm ơn Colleen vì những giờ giải trí đỉnh cao. Tôi sẽ đón đọc tác phẩm tiếp theo!”_ Lynette Eason, tác giả đạt giải thưởng và bán chạy nhất với bộ sách Blue Justice _ “Ngay từ khi Colleen nhắc đến ý tưởng về Một lời nói dối, tôi đã rất muốn đọc. Cô ấy là một tác giả tuyệt vời và rất giỏi chơi đùa với câu chuyện hồi hộp trên từng trang sách. Tôi cho rằng đây là tác phẩm hay nhất của cô ấy, một lời khen rất đáng kể đấy!” _ Carrie Stuart Parks, tác giả Fragments of Fear _ “Trong Một lời nói dối, hậu quả của một lời nói dối len lỏi khắp thị trấn Cảng Pelican, tạo nên một mớ hỗn loạn và căng thẳng. Ai sẽ là người thoát ra được khỏi những nghi vấn? Một lời nói dối là tác phẩm mới nhất của Colleen Coble. Câu chuyện diễn ra ở vùng vịnh biển Alabama, với Jane Hardy là cảnh sát trưởng mới nhận chức, đang nỗ lực vì cha mình. Reid Dixon bám theo Jane để quay phim tài liệu, nhưng anh ta cũng có bí mật của riêng mình. Họ cùng nhau đối mặt với những bí mật của bản thân và liệu rằng bí mật có trở thành lời nói dối? Có lẽ nào đã quá muộn để được tha thứ?” _Cara Putman, tác giả bán chạy nhất và đạt giải thưởng *Về tác giả: Colleen Coble là tác giả bán chạy nhất USA TODAY và lọt vào vòng chung kết của RITA được biết đến nhiều nhất với các tiểu thuyết hồi hộp lãng mạn ven biển, bao gồm The Inn at Ocean’s Edge, Twilight at Blueberry Barrens, và loạt Lavender Tides, Sunset Cove, Hope Beach, và Rock Harbour.    *** Tác giả: Colleen Coble Dịch giả: Nguyễn Hải An Thể loại: Trinh thám, lãng mạn. Đánh giá cá nhân: 6.5/10 “Một nửa sự thật, không phải là sự thật” Một lời nói dối – Gánh nặng trên đôi vai của Jane – Nữ cảnh sát trưởng 30 tuổi, vừa mới nhận chức. Một gánh nặng được đặt lên cô dù cho cô gần chẳng có bất cứ một trách nhiệm gì, thậm chí là người “bị hại” – ngoài việc đón nhận những lời nói dối từ tất cả mọi người xung quanh – những người cô yêu quý hay quan trọng với cô trong cuộc đời. Lời nói dối, là then chốt, là móc xích, là toàn bộ những gì được diễn ra – dù theo hướng tích cực, hay tiêu cực đi chăng nữa. “Chúng ta nhận ra rằng. mình thường xuyên hay dối trá bằng một nửa sự thật. Vì ta không muốn làm tổn thương người khác, nhưng lại ghét sự dối trá”. Một lời nói dối – Là một tác phẩm có hơi hướng trinh thám lãng mạn. Tuy nhiên, mọi thứ không đủ sâu. Truyện có một phần dựng nên bối cảnh và nền truyện khá lâu để có thể đạt đến cao trào, cũng như nhiều chi tiết (gợi ý) được nêu ra một cách hơi phô trương, nhưng lại không có ấn tượng quá nhiều khi móc xích được gỡ bỏ. Một số nhân vật và bối cảnh, vẫn biết là đưa vào để đẩy cảm xúc của nhân vật lên, nhưng hình như chưa tới. Khi đọc tác phẩm, lúc mình cảm thấy hưng phấn và cuốn hút nhất, lại không nằm ở phút giây giải quyết mọi thứ (khi người tốt và người xấu đối mặt, giải quyết xung đột, hay cái kết cuối cùng sau khi mọi thứ kết thúc đều không mấy ấn tượng) mà là trước đó 1 đoạn. Cảm giác, mọi thứ chỉ hay khi ở 2/3 của con dốc, thì mọi thứ bị hụt hơi và không còn hay nữa. Cái kết cuối cùng, cũng không làm hài lòng, dù khi đó, sự thật được phơi bày, dù khi đó, ý nghĩa của những lời nói dối đã được gỡ bỏ. Hơi tiếc cho tác phẩm, hoặc là hơi tiếc cho cảm nhận của mình khi đọc hết tác phẩm. Nhưng, nếu 2 tập tiếp theo của Seri được xuất bản, có lẽ vẫn sẽ mua, vì văn phong của tác giả, mình khá thích. Sách được mua Online thông qua Tiki. Review ngày: 02/03/2021 Nguyễn Huy Hoàng *** Ôi trời chắc đây là lần đầu đọc sách trinh thám mà mình đoán đúng hết vụ án luôn. Vừa shock vừa ngạc nhiên vừa buồn cười vì tác giả thật sự không nỗ lực một chút nào trong việc che giấu hung thủ hết, bà ấy chỉ nỗ lực để che giấu cuộc sống riêng tư của nữ chính thôi. Thật sự cuốn sách này nếu xếp vào trinh thám thì 2 sao, vì quá dễ đoán, không có bug gì, mấy đoạn suy luận và hành động cũng bình thường lắm, nên đọc thấy chán. Nhưng xét về phương diện kiểu tôn giáo và lãng mạn thì cuốn này làm rất ổn đó chứ. Mình thích cả 3 nhân vật Jane, Reid, và Will, quá dễ thương và lành mạnh đi. Hứa hẹn phần sau của series này sẽ rất push and pull trong truyện tình yêu tình báo đây. Mình sẽ đọc tiếp cuốn 2 của series, mình thích cô Jane này. *** Tháng Năm... Nút Áo quan sát lối ra của trại và buộc mình lê bước theo sau cha mẹ, mặc cho cơn đau đang ngày càng nhói lên trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và nối gót vào hội trường của hội thánh Núi Sinai*. Khu đất của hội nằm lọt giữa những cánh rừng bang, gió thổi qua cánh cửa mang theo hương thơm của gỗ thông. Khối kiến trúc bằng gỗ trắng này từng là một nhà thờ của giáo hội Giám Lý và giờ vẫn che khuất những ô cửa kính màu ghép hướng về phía đường. Bên trong nhà thờ có khoảng bốn mươi người. Nút Áo lỉnh đến một băng ghế gần cửa sổ, còn cha mẹ cô thì tiến đến vị trí của họ ở hàng phía trên. Từ bé đến giờ cô chỉ biết đến cộng đồng nhỏ này, nhưng khi cơn đau ở lưng lớn dần và quấn quanh cái bụng khổng lồ, tất cả những gì cô mong ước bây giờ là có thể thuyết phục cha cho mình đến bệnh viện. Đôi mắt cha cô lộ rõ vẻ do dự, nhưng sau khi thấy mẹ cô lập tức từ chối lời van xin thì ánh mắt ông đanh lại và ông lắc đầu. Trưởng nhóm chưa bao giờ cho phép bất cứ ai rời đi, ít nhất không phải vì một việc tầm thường như sinh đẻ. Nhưng cô sợ. Cơn đau khiến cô run rẩy với những bất trắc mà mình có lẽ sẽ phải đối mặt. Người bạn thân nhất của cô đã qua đời trong khi sinh nở vào cuối mùa thu năm ngoái. Điều gì sẽ xảy ra nếu Nút Áo cũng qua đời và ai sẽ là người nuôi con thay cô đây? Cô muốn tự mình ôm lấy con. Cô đã dành vô số đêm băn khoăn về những gì có thể làm để trốn thoát cùng với đứa con của mình. Nhưng kể cả khi tìm được cách trốn ra khỏi cánh cổng trại, cô sẽ đi đâu đây? Làm thế nào cô có thể tự chăm sóc cho bản thân và đứa bé? Đó dường như là điều không thể. Moses* Bechtol xoa hai tay vào nhau khi đến gần bục giảng. Mọi người im lặng khi trưởng nhóm bắt đầu bài giảng của mình, một cơn sấm chớp rền vang rung chuyển những ô cửa sổ. Nút Áo co rúm người lại và nhắm mắt. Người đàn ông đó không có dáng vẻ thần thánh như anh ta nghĩ, còn Nút Áo thì ngày càng chán nghe những gì anh ta nói. Chẳng lẽ cô là người duy nhất nhìn thấu vẻ ngoài giả dối của anh ta? Đã đôi lần cô cố nói chuyện với mẹ. Nhưng bà yêu quý gã đàn ông đó. Có lẽ còn hơn cả tình cảm mà bà dành cho người chồng của mình. Nút Áo tỉnh ra từ sáu tháng trước, sau khi chiêu mộ được hai cô gái ở thị trấn gần đó. Hai người này đã mang theo vài cuốn sách, và cô đã hoàn toàn bị hấp dẫn bởi cuốn Nhật Ký Công Chúa. Cuốn sách mở ra một thế giới hoàn toàn khác với thế giới mà cô đang sống. Sự lơ đãng của Nút Áo bị cắt ngang bởi cơn đau đang lớn dần trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và lau mồ hôi túa ra trên trán. Những bức tường dường như đang đổ sụp về phía cô, bụng cô sôi réo. Cô phải ra khỏi đây. Cô muốn mẹ ở bên, nhưng lại không dám thu hút sự chú ý của mẹ. Cô lẻn ra cánh cửa sau cũ kỹ và hòa mình vào bầu không khí mát lạnh của Michigan. Những chiếc lá khô còn sót lại của mùa thu năm ngoái lướt nhanh qua tàn tích của trận bão tuyết mùa xuân. Hơi lạnh trên gò má giải thoát cô khỏi sức nóng đang sôi sục trên da thịt. Nút Áo cúi mình xuống, lảo đảo đi về phía căn nhà gỗ được chỉ định. Có khoảng hai mươi căn nhà gỗ và lều nằm lộn xộn xung quanh nhà thờ, căn của cô nằm ở phía tây. Cơn đau bóp nghẹt lưng cô giảm đi đôi chút, Nút Áo càng trở nên vội vã hơn. Cô dò dẫm tìm tay nắm cửa, và gần như ngã vào trong khi một cơn đau khác ập đến. Chất lỏng đọng lại dưới chân cô. Cô đang chết ư? Cô thở hổn hển khi cơn đau lan dần từ lưng xuống bụng. Hôm nay đứa bé sẽ chào đời. Cô mò đường đến chiếc cũi cứng trong phòng ngủ và ngã vào đó. Cô mất nhận thức về thời gian khi đau đớn dồn từng cơn. Có lẽ là hàng tiếng sau đó, cô mới cảm nhận được một bàn tay rắn chắc đặt lên trán và nhìn thấy gương mặt của mẹ mình. “Đứa bé,” Nút Áo thì thào qua đôi môi khô khốc. “Đúng thế, gần chào đời rồi.” Mẹ cô nhúng khăn vào thau nước và lau trán cho cô. “Con đang làm tốt lắm, con yêu. Mẹ đã báo cho Moses rồi.” Cô không muốn cha đứa trẻ đến đây chút nào. Cô thậm chí còn chưa từng nhìn rõ mặt anh ta. Cha mẹ đã hứa hôn cô cho người đó khi cô mới mười hai tuổi. Một năm trước, khi cô mười bốn, Moses đã buộc tay họ vào nhau. Anh ta đến với cô hai lần trước khi cô cảm thấy bản thân mình ngày càng nặng nề, và thời điểm này anh ta sẽ không còn cảm thấy thoải mái chút nào. Cô bám lấy tay mẹ. “Mẹ ơi, con đau quá! Con sợ. Con muốn đến bệnh viện.” “Mẹ biết là đau, con yêu.” Mẹ dỗ dành cô bằng bàn tay điềm tĩnh đặt lên trán. “Hít thở đều là cơn đau sẽ qua. Mẹ sẽ đỡ đẻ ngay cho con.” Thế giới xung quanh cô thu hẹp lại chỉ còn gian phòng nhỏ này, còn cơn đau thì xóa nhòa mọi thứ. Sau khoảng thời gian tưởng chừng như vô tận, tiếng khóc mỏng manh báo hiệu sự ra đời của một sinh linh cất lên. Nút Áo chẳng còn đủ sức để hỏi giới tính của đứa bé được nữa. “Một bé trai!” Mẹ Nút Áo đặt đứa bé lên ngực cô. “Khá bụ bẫm. Nghe tiếng khóc mà xem. Thằng bé đòi ăn đấy.” Nút Áo đã chứng kiến thủ tục này rất nhiều lần trong suốt những năm ở cùng cộng đồng, nhưng mẹ phải giúp thì cô mới giữ chắc con được. Cô đưa tay vuốt mái tóc đen của con. “Thằng bé kháu khỉnh quá!” Đứa trẻ có nước da đỏ hồng. Cô đưa tay lướt dọc theo cánh tay thằng bé. Mềm mại quá! Tình yêu ngập tràn và mãnh liệt dành cho con trai khiến chính cô cũng phải kinh ngạc. Cô nhắm mắt lại, hít vào mùi hương của con trong khi mẹ cô chụp vài tấm bằng máy ảnh lấy ngay. Sẽ phải có cách nào đó để thằng bé được hưởng nhiều hơn những gì cô có trong cộng đồng này. Nút Áo không để ý rằng mẹ mình đã để đứa bé vào một chiếc hộp nhỏ được chuẩn bị sẵn và cô cứ thế chìm vào giấc ngủ. Bị tiếng ồn bên ngoài đánh thức, cô bật dậy. “Mẹ ơi?” Không ai trả lời. Cô ngửi thấy mùi khói và nghe thấy những tiếng hét bên ngoài căn nhà gỗ. Có nhiều tiếng ồn hơn trước. Tiếng súng ư? Chẳng lẽ họ bị tấn công? Moses từng cảnh báo chuyện này có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cô lăn khỏi giường và lao tới để bế đứa bé ra khỏi hộp, nhưng thằng bé không có ở đó. Có lẽ mẹ đã đưa con cô đi tắm, hoặc tới chỗ cha và Moses. Cô mệt lả vì thử thách ban nãy, giờ lảo đảo bước ra khỏi phòng ngủ để đi đến phòng khách. Làn khói len lỏi qua khe gỗ và ngọn lửa liếm lấy khung cửa. “Mẹ ơi?” Con của cô đâu rồi? Cô điên cuồng nhìn khắp căn nhà nhỏ, nhưng chẳng hề thấy bóng dáng con trai hay mẹ mình. Khói đã đốt cháy cổ họng và đang len dần xuống phổi. Cô ho sù sụ, tránh xa khỏi ngọn lửa bùng lên nơi vách tưởng trước của căn nhà và lê bước ra cửa sổ. Cô phải ra khỏi đây. Tấm kính cửa sổ vỡ tan sau lưng cô, ngọn lửa bùng lên nhờ luồng không khí mát lành tràn đến. “Nút Áo!” Cô quay về hướng phát ra giọng nói của cha. Ông đã đập vỡ cửa sổ và đang đưa tay ra. “Nhanh lên, không có nhiều thời gian đâu.” Cô lao đến, cha đỡ cô trèo ra ngoài hít thở không khí trong lành. “Con của con. Mẹ và con của con đâu?” “Đi theo cha.” Cha dùng tay nhấc cô lên và bế cô đi qua làn khói dày. Lửa bùng lên từ những căn nhà xung quanh, mùi khói cay sè khiến cô bật ho. Những tiếng la hét và tiếng súng vang lên khắp nơi. Một viên đạn rít qua đầu cô, khiến cô sợ hãi vùi mặt vào ngực cha. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Cha cô đi tới bên chiếc xe Jeep cũ màu xanh lá đã móp méo với gần ba mươi năm tuổi đời. Ông đặt cô xuống cạnh cửa bên và mở nó ra. “Vào trong đi.” Cô lắc đầu quầy quậy. “Không! Con phải tìm con con. Và cả mẹ nữa!” “Mẹ con không chịu đi. Bà ấy ở lại với Moses.” Đôi mắt của Nút Áo mở to đây kinh hoàng. “Mẹ đưa con của con đi ư? Mẹ không thể giữ nó ở đây được. Nó là con của con!” Cha nhìn xuống đất. “Con yêu, đứa bé chết rồi. Chúng ta phải rời khỏi đây, nếu không tất cả sẽ phải ngồi tù. Con phải vào xe ngay.” Giọng cha mềm mỏng. Chết? Đứa con nhỏ bé hoàn hảo của cô đã chết rồi ư? “Con không tin,” cô thì thào. Cha nhìn thẳng vào mắt cô. “Chính mắt cha đã thấy đứa bé. Thằng bé tím tái và lạnh ngắt. Mẹ con đưa cha bức ảnh này để con có thể nhớ về thằng bé.” Cha dúi một tấm ảnh chụp lấy ngay vào tay cô. Mắt cô ướt nhòe. Cô gần như bất tỉnh khi ngã vào trong chiếc Jeep, được cha mình lái xe đưa qua hỏa ngục để tìm về chốn an toàn. Mời các bạn mượn đọc sách Một Lời Nói Dối của tác giả Colleen Coble & Nguyễn Hải An (dịch).
Mối Bất Hòa Truyền Kiếp
Sau Vệ sĩ vô hình, tập tiếp theo trong bộ ba tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztan của tác giả Dolores Redondo tiếp tục dẫn người đọc đến với những con đường huyền ảo của xứ Basque u tối, mưa mù nhưng lại rất quyến rũ bởi núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút  và sự hiện diện của những thế lực siêu nhiên.  Một năm sau vụ bắt giữ thủ phạm giết hại các thiếu nữ ở thung lũng Baztan, nữ thanh tra Amaia Salazar chờ đợi tham dự phiên tòa xét xử kẻ sát nhân. Nhưng hắn đã bất ngờ tự sát trong nhà vệ sinh của phòng xử án và để lại thông điệp “Tarttalo” được viết bằng máu. Đây không phải là trường hợp duy nhất, bởi trước đó một người đàn ông sau khi cưỡng hiếp và giết chết bạn gái của mình đã tự sát và để lại thông điệp khó hiểu này. Dường như ai đó đang thao túng hắn phạm tội. Và không dừng lại ở đó, thi thể nạn nhân sau khi bị sát hại đã bị cắt rời: một phần cánh tay được lưu giữ và bảo quản như một món quà lưu niệm, trong khi thủ phạm lại không hề nhớ gì về việc này. Một lần nữa, thanh tra Amaia Salazar quay về thị trấn quê hương Elizondo để điều tra về hàng loạt các vụ tử tự kỳ quái cũng như các vụ mạo phạm nhà thờ địa phương. Lần theo dấu vết, cô dần vén màn những bí mật kinh hoàng trong chính gia đình mình, cùng với quá khứ đeo bám và nỗi lo sợ cho cậu con trai mới chào đời khiến Amaia như muốn nổ tung. *** Tác giả Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả trinh thám được đọc nhiều nhất tại Tây Ban Nha năm 2017 Bà là một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. *** Review Mối Bất Hòa truyền kiếp - Doroles Redondo người viết Nguyễn Quang Huy #Review_sách #Mối_Bất_Hòa_Truyền_Kiếp #Dolores_Redondo Cuốn thứ hai trong series Trinh thám TBN về Thung lũng Báztan xứ Basque gồm 3 tập. Trong phần này Amaia đã hạ sinh một bé trai. Trước khi nghỉ sinh Amaia tham dự phiên toà xét xử Jason Medina, kẻ giết hại sau đó cưỡng hiếp tàn nhẫn cô con gái vợ, Johanna Marquez ở phần một. Không ngờ Jason Medina tự sát trong nhà vệ sinh ngay tại tòa. Trước khi chết hắn để lại dòng chữ ký khó hiểu: TARTATLO. Sau khi nghỉ sinh, Amaia được giao điều tra một vụ mạo phạm các nhà thờ trong vùng. Đồ cúng lễ bị đập phá, nhà thờ bị húc đổ cửa. Đặc biệt là sự xuất hiện của các mẩu xương trẻ em trên gian cúng lễ. Giữa lúc cuộc điều tra mạo phạm đang gặp bế tắc, thì bỗng Amaia liên tiếp nhận được tin những kẻ phạm tội bạo hành, sát hại dã man các phụ nữ trẻ xinh đẹp đều tự sát sau đó. Tất cả đều để lại một dòng chữ ký khó hiểu kia. Trước khi tự sát chúng đều đòi được đích thân Amaia thẩm vấn, và nói rằng chúng chờ đợi điều gì đó. Linh cảm có điều bất thường, Amaia nhận ra có mối liên quan giữa đống xương ở nhà thờ với đống xương trong hang đá ở cuối phần một. Cả hai đống xương này, những vụ tự sát với chữ ký ghê rợn kia tất cả đều cho thấy một âm mưu kinh hoàng, ghê rợn. Một âm mưu mà không ngờ lại có dây mơ rễ má đến những gì yêu thương nhất của Amaia, mà ban đầu chị cứ ngỡ chỉ là cơn ác mộng. Một lời khuyên cho ai đọc Mối Bất Hòa Truyền Kiếp là phải đọc phần một, Vệ Sĩ Vô Hình trước. Vì cuốn này có nhiều nội dung mà nếu không đọc phần một sẽ không thể hiểu được. Chẳng hạn như xác của Johanna Marquez có vết cắn chỗ cánh tay bị cắt cụt mà phải đến phần này nó mới được làm rõ. Dolores Redondo đã xây dựng nên không khí thung lũng Báztan còn đáng sợ hơn cả phần một. Nó vừa mang tính huyền bí, ma mị vừa mang tính kinh dị, đẫm máu rùng rợn. Bí mật trùng trùng bí mật, những cảnh hiện trường đẫm máu, bối cảnh ma mị, huyền bí hư hư thực thực và nỗi lo toan khi lần đầu tiên làm mẹ của Amaia tất cả đan xen vào nhau nhưng không hề rối, khiến mình bị cuốn hút đến không thể dứt ra. Sách dày hơn 500 trang tuy nhiên không hề khiến mình bị mệt mỏi và chán nản. Tình huống hồi hộp, rợn tóc gáy diễn ra liên tiếp. Nếu đã thấy quá khiếp sợ những cảnh hiện trường rùng rợn thì có thể được giải trí với chuyện tình giữa Thẩm phán Markina và Amaia. Vì công việc nên Amaia thường xuyên phải gặp gỡ chàng thẩm phán đẹp trai, quyến rũ, lịch thiệp nho nhã và anh ta cũng có ý định thả dê Amaia, dù biết thừa nàng đã có chồng. Những đoạn Amaia cũng thấy lòng xao xuyến trước Markina nhưng cố gắng kiềm chế đọc rất vui. Điều đó khiến câu chuyện toát lên vẻ chân thực. Ở phần này Amaia cũng gặp lại nàng tiên cô từng chỉ cho Amaia cái hang đá ở phần một. Nhiều bạn thích trinh thám thuần có lẽ rất ghét chi tiết nàng tiên cô này. Nhưng mình nghĩ với một vùng đất đậm nét huyền bí, thần thoại như thung lũng Báztan thì chuyện này là bình thường, miễn là nó không ảnh hưởng nhiều đến cốt truyện. Và chính nó tạo ra nét đặc biệt và cuốn hút của series này. Và cả phần 2 này mình cũng không đoán ra được hung thủ. Rất thú vị khi mình cảm tưởng như gặp lại Kẻ Nhắc Tuồng phần cuốn Mối Bất Hòa Truyền Kiếp này. Cùng một dạng hung thủ, cùng một phương thức tác động mọi người đọc xem sao nhé. Mối Bất Hòa Truyền Kiếp được dịch và biên tập tốt hơn nhiều so với phần một. Các đoạn khó hiểu ít hơn hẳn, mong cuốn ba sẽ được giảm thiểu. Điểm: 8/10 *** Mối bất hòa truyền kiếp là cuốn thứ 2 trong sery bộ 3 của Dolores Redondo. Tập 1 Vệ sĩ vô hình ta đã biết về thân thế, quê hương của nữ thanh tra Amaia Salazar cùng vụ án giết hại những thiếu nữ xảy ra tại thung lũng Baztán quê hương cô. Trong tập này những vụ án giết người tàn bạo lại xảy ra tại nơi đó, khởi đầu với những vụ mạo phạm nhà thờ, rồi những người phụ nữ bị giết hại dã man, 1 bên cánh tay bị cắt bởi một lưỡi dao sắc ngọt và biến mất khỏi hiện trường. Và những kẻ sát nhân đều đã tự tử, để lại 1 dòng chữ: Tarttalo. Tất cả các đầu mối đều chỉ ra 1 điều có 1 kẻ nào đó giật dây điều khiển chúng và nhắm tới nữ thanh tra Amaia. Sau một cuộc điều tra khá dài, diễn ra trong 550 trang giấy khổ lớn, ở tập này nghiệp vụ của Amaia và các đồng sự đã sắc bén hơn, khúc cua cuối truyện đã không đến nỗi ngoặt gấp như tập 1. Lại một lần nữa vụ án liên quan đến quá khứ. Phải chăng có một Mối bất hòa truyền kiếp. Tuy đã giảm bớt những yếu tố siêu nhiên song những giấc mơ báo mộng vẫn khá nhiều trong chuyện. Đọc cuốn sách này không hiểu sao tôi không tập trung được với các tình tiết của các vụ án mà cứ mải mê với đời tư của Amaia, ngay từ đầu có các vụ án ghê rợn xảy ra song tôi không nhập tâm mà cứ chú ý vào sự kiện thiên thần nhỏ của cô ấy sắp ra đời. Rồi sự bất hòa với chị gái, rồi sự tán tỉnh của thẩm phán Markina không hiểu tác giả cho vào có ý đồ gì. Đọc cuốn sách này tôi ghê sợ người mẹ của Amaia, bà ta như một loại ác quỷ hiện về chứ không phải là bệnh nhân tâm thần. Đây là một mẫu nhân vật người mẹ khá lạ lẫm… Vẫn như tập 1 tôi đánh giá cao các yếu tố trong truyện , trừ trinh thám của tập 2 bộ sách của tác giả Doroles Redondo… Huỳnh Thu Giang *** Itxusuria Lần theo vệt nước mưa rỏ giọt từ mái hiên, thật dễ tìm ra ngôi mộ. Một hình người quỳ gối, lần tìm trong quần áo một cái bay và cái cuốc chim nhỏ để phá bỏ bề mặt rắn chắc của lớp đất đen. Đất bở tơi thành những cục mềm, ẩm ướt, tỏa mùi của gỗ và rêu. Một nhát nạo cẩn thận vài xen ti mét, để lộ những mảnh vải mục nát lẫn với đất. Người đó giật mảnh vải vốn là tấm phủ giường cũi, để lộ ra một cái xác quấn trong lớp vải dầu. Chỉ còn lại những mẩu dây thừng buộc chặt cái gói, in vết hằn sâu trên vải ở những chỗ siết chặt. Gạt những mẩu dây sang một bên, người đó lần mò tìm mép mảnh vải và cảm thấy nó được quấn vài lần. Xé một đầu cái gói, mảnh vải liệm mở toang như được cắt bằng dao. Đứa trẻ được chôn sấp, vùi vào lòng đất, những chiếc xương hình như được bảo quản tốt như chính lớp vải dầu, mặc dù lấm đất đen vùng Baztán. Duỗi thẳng bàn tay gần như che kín hình hài bé xíu, người đó ấn ngực đứa trẻ vào sâu hơn trong đất và giật cánh tay phải của nó ra khỏi hốc xương. Lúc cánh tay lỏng ra, xương đòn gẫy thành tiếng tách khẽ, giống như tiếng thở dài của ngôi mộ, một lời than van vì hành động báng bổ thánh thần. Như bỗng thấy bứt rứt, hình người mờ ảo đó chùn bước đứng dậy, nhét bộ xương vào lớp vải, rồi liếc nhìn cái xác lần cuối trước khi cào đất lấp lại ngôi mộ. Mời các bạn mượn đọc sách Mối Bất Hòa Truyền Kiếp của tác giả Dolores Redondo & Đinh Thanh Vân (dịch).
Lời Nguyền Của Người Cá
Thành phố London những ngày cuối hạ đầu thu năm 1811 rúng động bởi hai vụ án mạng man rợ diễn ra. Nạn nhân là những chàng trai trẻ có địa vị cao quý hoặc gia thế giàu sang. Thi thể họ bị hành hạ theo cách thức vô cùng dã man và xác bị vứt tại những địa điểm công cộng, nhiều người qua lại. Đứng trước bài toán hóc búa, sự thúc ép ghê gớm từ cấp trên và nỗi hoang mang ngày càng tăng trong dân chúng, Chánh thẩm Henry Lovejoy buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của Sebastian St. Cyr., Tử tước Devlin. Cuộc điều tra đã dẫn anh tới một vụ án xảy ra trước đó không lâu - con trai của một vị mục sư ở hạt Kent - chàng sinh viên khoa thần học tại Đại học Cambridge - cũng bị sát hại theo cách tương tự. Chưa dừng lại ở đó, thêm một nạn nhân nữa, viên đại úy Hải quân Hoàng gia cũng thiệt mạng ngay trên bến cảng thành phố London. Chỉ có điều, khác với ba nạn nhân trước, thi thể viên đại úy vẫn còn nguyên vẹn và không có dấu hiệu bị tùng xẻo. Dân chúng xôn xao lo sợ, truyền tai nhau về nhưng vụ án mạng rùng rợn gây ra bởi kẻ được mệnh danh là “Tên đồ tể khu West End”. Càng đi sâu tìm hiểu, Sebastian càng phát hiện ra nhiều chi tiết lạ lùng về mối liên hệ giữa chuỗi án mạng những người còn sống sót trên con tàu Harmony gặp nạn ngoài khơi năm năm trước. Cha mẹ của nạn nhân từng là hành khách trên con tàu đó. Khi tàu gặp bão, bị mất hướng và hết lương thực, họ đồng ý ‘chia nhau’ một đứa bé sắp chết. Cha đứa bé biết được câu chuyện và trả thù bằng con cái họ. *** Cuốn sách kể về những vụ giết người hàng loạt, nạn nhân đều là những chàng trai trẻ tuổi quý tộc, gia thế giàu sang đến từ vùng West End, “Lời nguyền của cá” thu hút ngay từ những chương đầu tiên. Vào một buổi sáng phải sớm rời khỏi giường người tình, Sebastian bị “ném” vào vụ án rùng rợn mà nạn nhân là một chàng quý tộc mới chỉ 18 tuổi, bị cắt lìa nửa dưới và hung thủ thì cố ý bỡn cợt dư luận khi cố tình để nạn nhân ở khu công cộng với một móng guốc của một con dê trong miệng. Và đó không phải là vụ án đầu tiên trong ba tháng trở gần đây. Sebastian chẳng thích thú gì những vụ án mạng, nhưng để đền đáp hàm ơn của ngài Chánh thẩm Lovejoy đã khiến chàng không thể từ chối tham gia phá án. Anh đâu ngờ rằng vụ điều tra này lại đặt chàng và Kat, cô gái chàng yêu vào tình thế nguy hiểm khi liên tiếp có kẻ luôn muốn truy sát họ. Án mạng xảy ra càng nhiều, càng dẫn Sebtian quan tâm đến chuyến tàu Harmony từng gặp nạn nhiều năm trước, nhất là khi các nạn nhân đều liên quan đến một bài thơ. Khi bí mật năm ấy được lật tung cũng là khi người đứng sau những vụ án mạng lộ diện. Và những âm mưu, những toan tính đứng sau vụ giết người hàng loạt ấy là gì ? Hãy tìm đọc “Lời nguyền của người cá” để khám phá những bất ngờ nối tiếp bất ngờ nhé ❤️ Đỗ Như Quỳnh Tác Giả: C.S Harris. Dịch giả Thu Huyền. Điểm: 10 Mức: Rất hay (vkl). Truyện hay lắm khỏi đọc review nha mọi người mua liền đi, nhớ mua luôn tập trước để nắm được “Timeline” của truyện. Nối tiếp phần trước của vụ án mạng kinh khủng khiếp của việc sát hại dã man cô gái ở điện thờ đức mẹ trong “Khi thiên thần sợ hãi”, nối tiếp cuộc đời về tử tước Devlin sự kiện diễn ra vào dòng thời gian 8 tháng sau tử tước Devlin cool ngầu lại tiếp tục một cuộc hành trình mới với vụ án liên quan đến biển cả “Lời nguyền của người cá”. Đi hứng sao rơi Ân ái với rễ sâm độc Kể cho ta nơi thời gian thất lạc Hay kẻ nào đã xẻ chân ác quỷ Dạy ta nghe tiếng hát người cá Hay giữ cho mình khỏi châm ngòi đố kỵ…. Go and catch a falling star, Get with child a mandrake root, Tell me where all past years are, Or who cleft the devil’s foot, Teach me to hear mermaids singing, Or to keep off envy’s stinging, JOHN DONNE Trích đoạn bài thơ trên sẽ đưa ta phiêu lưu vào những miền quên lãng của quá khứ dẫn đến những vụ sát hại đẫm máu của các cậu thanh niên trai trẻ 18+. Cuộc phiêu lưu tìm ra sự thật bắt đầu nhé. Sơ lược nội dung: Thành phố London những ngày cuối hạ đầu thu năm 1811 rúng động vì những vụ án mạng man rợ. Nạn nhân là những chàng trai trẻ có địa vị cao quý hoặc gia thế giàu sang. Thi thể họ bị hành hạ vô cùng dã man như róc xương tay chân, bị rút cạn máu và bị vứt xác tại những địa điểm công cộng, nhiều người qua lại. Dân chúng xôn xao lo sợ, truyền tai nhau về những vụ án mạng rùng rợn của kẻ được mệnh danh là “Tên đồ tể khu West End”. Đứng trước bài toán hóc búa, sự thúc ép ghê gớm từ cấp trên và nỗi hoang mang ngày càng tăng trong dân chúng, Chánh thẩm Henry Lovejoy buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của Sebastian St. Cyr, Tử tước Devlin. Càng đi sâu tìm hiểu, Sebastian càng phát hiện ra nhiều chi tiết lạ lùng về mối liên hệ giữa chuỗi án mạng và những người còn sống sót trên con tàu Harmony gặp nạn ngoài khơi 5 năm trước. Họ có liên quan gì tới những vụ án gây chấn động London thời gian qua? Và bí mật động trời mà họ cố giữ kín bằng mọi giá thực sự là gì? Cũng giống như tập trước, lần này tử tước Devlin lại tiến hành độc mã điều tra vụ án mạng liên hoàng được gây ra bởi một người ra tay hết sức tàn nhẫn và ác độc ấy, sau 8 tháng kể từ sự kiện ở điện thờ Đức mẹ chỉ có hai xác chết là nữ thôi thì qua đến phần này, tác giả đã mạnh tay hơn khi tạo ra một chuỗi án mạng liên hoàn khi mà các chàng trai độ tuổi từ 18-29 lần lượt bị sát hại và để biết được sự thật đó chỉ có 1 mà thôi khi mà tử tước Devlin một lần nữa ra tay đi tìm cho ra sự thật. Xuyên suốt câu truyện là hành trình tìm kiếm những mối dây mơ rễ má liên hệ giữa các nạn nhân với nhau nhưng họ thì không có mối liên kết nào cả vì độ tuổi, tầng lớp, địa vị và gia cảnh đều rất khác nhau, thế nên một độ nghi ngờ về việc đây là việc làm có khả năng gây ra bởi một tên sát nhân “đồ tể” có mối thù với thân phụ của các nạn nhân trong quá khứ. Cuộc hành trình lần này đã có sự giúp đỡ của cô Kat và cậu bé Tom móc túi ở phần trước, giờ đã về làm tiểu đồng cho tử tước và Devlin xưng ta em với cậu bé 12 tuổi thay vì xưng ngươi ta như ở phần 1, cho thấy tử tước ngoài thông minh mẫn cán ra luôn tôn trọng mọi người, không phân biệt giai cấp. Trong quá trình điều tra thì có rất nhiều sự uẩn khuất nằm phía sau sự liên quan tới những người cha của nạn nhân khi mà họ quá khứ đã từng đi trên một chiếc tàu và sự kiện kinh khủng khiếp đã diễn ra trên con tàu ấy. khi mà trong số những hành khách trên tàu đang rơi vào khủng hoảng kẹt lương thực và đói khát nên bọn họ đã cùng nhau làm việc thật sự kinh khiếp nhất trong lịch sử hàng hải(sự việc ấy là gì mình sẽ không spoi, ai muốn biết pm mình. Phải thật sự một điều là khi đọc đến đây mình thấy rất tội cho ‘nạn nhân’ đã bị những người khách đó làm một việc để sinh tồn nhưng lại rất là thất đức
Gọi Tên Kẻ Chết
Một vụ án mạng xảy ra – nhưng vì nạn nhân là kẻ vừa mãn hạn tù, không một ai thực sự quan tâm, cho dù Thanh tra John Rebus và Hạ sĩ Siobhan Clarke đangcảm thấy còn điều gì gờn gợn…   Bấy giờ các nhà lãnh đạo thế giới đang đổ về Scotland tham dự hội nghị quốc tế G8. Giới cảnh sát đang bận rộn cho sự kiện, ngoại trừ John Rebus. Ông là người duy nhất đang trực trụ sở cảnh sát hoang vắng khi một cuộc gọi khẩn đổ chuông. Một nghị sĩ trẻ nào đó đã ngã tử vong từ trên tường cao lâu đài Edinburgh. Tai nạn, tự sát, hay là điều gì khác đáng quan tâm?Liệu có liên quan gì đến bằng chứng đáng sợ tìm thấy ở hiện trường nhiều vụ án gần đây? Trong khi phía cơ quan chính phủ và lực lượng đặc vụ chỉ nỗ lực ém nhẹm mọi chuyệnhòng đảm bảo hội nghị tầm cỡ quốc tế diễn ra êm đẹp, Rebus biết ông có không quá bẩy mươi hai giờ để tìm ra câu trả lời sinh tử…   “Một Rankin kinh điển, và nếu đã từng yêu mến một Rebus kiên định, bạn sẽ say đắm cuốn tiểu thuyết này. Một tội ác đầy tinh vi, khiến người đọc không ngừng lật trang.” - Independent   “Kết hợp một tác phẩm trinh thám hiện đại đầy lôi cuốn khiến phải lật trang liên tục vớimột tiểu thuyết chính trịđầy phức tạp luân lý.” - Irish Times *** IAN RANKIN sinh tại Fife năm 1960, Ian Rankin tốt nghiệp Đại học Edinburgh năm 1982, sau đó dành ba năm viết tiểu thuyết thay vì tập trung hoàn thành luận án Tiến sĩ Văn chương Scotland. Trước khi thành công trong nghiệp viết, ông đã từng trải nghiệm nhiều công việc như thu hoạch nho, chăn lợn, thu thuế, nhà nghiên cứu về thức uống chứa cồn, ký giả chuyên viết về hệ thống âm thanh chất lượng cao và cả công việc của một nhạc sĩ chơi nhạc punk. Series tiểu thuyết Thanh tra Rebus nổi tiếng của ông cho đến nay đã được dịch ra trên hai mươi hai thứ tiếng, nhiều tiểu thuyết trong series là sách bán chạy xuyên lục địa. Ian Rankin là thành viên ủy ban giải thưởng Hawthorden, tác gia đoạt giải thưởng Chandler Fullbirght Award cao quý, cùng với bốn giải Dao găm do Hội Nhà văn Trinh thám (CWA) trao tặng. Cho những cống hiến đối với nền văn học, ông còn được trao Huân chương Anh quốc. *** Gọi tên kẻ chết “Chúng ta phải quan tâm đến chính trị, vì chính thứ đó đẩy quay bánh xe cuộc sống của chúng ta.” Chính câu nói này đã khiến tôi có thêm động lực để nhảy vào cái hố khá sâu của tác phẩm này. Câu chuyện kéo dài gần 600 trang, theo như mọi cuốn sách ngôn tình khác, nó có thể kể hết câu chuyện tình yêu đau thương mấy đời mấy kiếp của các nhân vật, nhưng trong “ Gọi tên kẻ chết”, đó là câu chuyện vỏn vẹn trong vòng chín ngày : 1/7/205 – 9/7/205. Đây là thời gian diễn ra hội nghị thượng đỉnh của khối G8 tại Scotland, một giai đoạn lịch sử đã từng tốn không biết bao nhiêu bút mực của giới báo chí, và sự quan tâm của thế giới.   Một vụ án mạng 6 tuần ngay trước hội nghị thượng đỉnh nhưng không nhận được sự quan tâm tối thiểu nhất của giới pháp luật và cảnh sát. Cái chết của Cyril Colliar, một kẻ vừa mãn hạn tù với một lố những tiền án tiền sự và nóng hổi nhất là vụ cưỡng hiếp hắn vừa thụ án xong. Tất cả điều tra viên đều lãnh đạm không thèm dùng đến từ “ nạn nhân” như thường lệ, mà thay bằng từ “kẻ chết”, đủ hiểu bọn họ đối với hắn chán ghét cỡ nào. Cyril Colliar bị chết do nứt sọ và kẻ sát nhân đã bồi thêm cho hắn một cylinder đầy heroin nguyên chất. Một mảnh của áo khoác da hắn mặc bị cắt ra và sau đó được tìm thấy treo lủng lẳng trên cây ở một nơi gọi là Clootie Well chung với rất nhiều mảnh vải và thứ đồ dị hợm khác như một phong tục âm linh quái dị. Sau khi pháp chứng làm việc, qua một số manh mối, họ lại tìm ra được 2 nạn nhân khác và xác định đây là một vụ giết người hàng loạt, và nạn nhân là những kẻ có tiền án tiền sự và đặc biệt là đã từng dính dáng đến tội dâm ô- cưỡng hiếp hoặc quấy rối tình dục. Dự định đi theo phương hướng này để điều tra, nhưng thanh tra- sắp-về-hưu John Rebus và hạ sĩ trẻ Siobhan Clarke không được sự ủng hộ của cấp trên lẫn sự trợ giúp của các đồng nghiệp. Tất cả bọn họ đều thờ ơ với cái chết của những kẻ đã từng phạm tội và cho rằng đó chính là quả báo của cuộc sống ngoài vòng luật pháp. Trong lúc vụ án này có tiến triển thì lại một vụ án khác xảy ra, một nghị sĩ rơi từ tường cao của lâu đài Edinburgh khi buổi tiệc chào đón trước thềm G8, không nhân chứng, không một dấu vết chứng tỏ anh ấy bị giết hay tai nạn. Nhưng mối quan hệ của nạn nhân và những manh mối trong cuộc sống và công việc của anh ta để lại khiến Rebus và Siobhan không thể đánh đồng vụ này với một tai nạn. Một vụ án mạng liên hoàn còn chưa được kết thúc lại xuất hiện thêm một vụ án khác, nhưng tất cả đều bị giấu nhẹm đi và ém tin tức một cách triệt để vì hội nghị thượng đinh chính là rào cản lớn nhất với vô số bạo loạn, diễu hành, an ninh và thể diện quốc gia cần được đặt lên hàng đầu. Mọi thứ như những bánh xe trong một guồng máy phức tạp, một khi một chiếc bánh đã quay sẽ kéo theo hàng loạt thứ trượt xa hơn so với những gì ban đầu dự tính.Mở đầu tác phẩm là một không khí ảm đạm, tang thương và có phần bức bối của gia đình Rebus và các vụ án mạng, tiếp theo đó là sự náo loạn vồn vập của hội nghị thượng đỉnh và giới chính trị. Tác phẩm hội tụ đầy đủ một xã hội với giới pháp luật, chính trị, thương nhân, ký giả , tội phạm và người dân. Họ xâu xé lẫn nhau, tính kế lẫn nhau, đối địch lẫn nhau nhưng rồi lại có lúc như những sinh vật lại chạy về cộng sinh với nhau để cầu sống, cầu tài, cầu danh vọng và cầu bình an. Tác phẩm này có lẽ sẽ không để dành cho những bạn trẻ không đủ kiên nhẫn vì nó rất chậm, và rất thật. Trong một mớ bòng bong hỗn loạn và không có một đội điều tra của riêng mình, thanh tra Rebus và hạ sĩ Siobhan phải tranh thủ từng li từng tí các mối quan hệ hoặc cơ hội để gom về chút ít thông tin và manh mối từ miệng của cấp trên, những kẻ trong cuộc và ngoài cuộc, thậm chí là những con chốt được cài vào các ván cờ chính trị của những kẻ đứng sau đó. Họ chật vật với từng giây từng phút, ngột ngạt trong một mạng nhện khổng lồ càng ngày càng thít chặt họ. Họ đặt cược cả sinh mạng và tiền đồ chỉ để mong không một kẻ phạm tội nào có thể thoát được lưới pháp luật. Câu chuyện rất dài nhưng tác giả không để độc giả nghỉ ngơi trong một giây một phút nào. Không một trang giấy nào để các nhân vật chúng ta nói chuyện phiếm hay thư giãn phí hoài thời gian. Mọi mối quan hệ đều qui về công việc, mỗi trang giấy đều chạy từ đầu này của vụ án đến đầu kia của cuộc bạo loạn. Từng chi tiết, từng ngõ ngách của cuộc diễu hành, từng nét mặt của những người bạo loạn đều được mô tả kỹ càng. Kỹ năng mô tả và liên hệ của tác giả rất tốt, liên kết rành mạch từ chuyện này sang chuyện kia rồi quay lại nhưng không bị quá lố hoặc quá lan man. Tuy nhiên, vì cố gắng giăng một cái bẫy quá lớn, quá nhiều người bị kéo vào vòng xoáy vụ án này mà câu chuyện rề rà đến mức khá mệt mỏi. Chạy một vòng lớn, rất lớn, và đôi lúc bị trì trệ một cách thảm hại, các nhân vật của chúng ta lại quay trở về điểm xuất phát và phát hiện ra sự thật đơn giản sau vấn đề phức tạp. Một cái kết vô lý nhưng vô cùng hợp lý trở thành điểm trừ cho tác phẩm vì nó thực sự gây ức chế với độc giả sau chặng đường dài gian nan đã đi qua. Điểm trừ lớn nhất cho tác phẩm này chính là dich thuật và biên tập của Nhã Nam. Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi dịch thuật đầy rẫy trong cuốn sách như một chén cơm nóng đầy sạn và đá. Từ ngữ Anh-Việt được dùng lẫn lộn, danh từ chỉ tên riêng của địa danh và nhân vật lại bị dịch ra một cách không mượt mà, viết hoa tá lả linh tinh và chưa kể một số từ tiếng anh được phiên âm để đọc theo tiếng việt thực sự gây ức chế tột cùng khi đọc. Meeting- mít tinh London- Luân Đôn ( nhưng Scotland, Edinburgh và Clootie Well giữ nguyên) Blouse- Áo bờ-lu Pudding- bánh pút đinh Gothic- kiến trúc gô- tích Techno- tếch-nô Minh Hằng *** Tiếng nhạc nổi lên tiếp nối những thanh âm vang vọng của bản thánh ca. Ca khúc “Tình yêu bao trùm lên tôi” của ban nhạc Kẻ Nào. Rebus nhận ra bài hát ngay từ đoạn dạo đầu với tiếng sấm và tiếng mưa rơi đặc trưng giờ đã tràn ngập không gian nhà thờ. Chrissie cứ nhất định muốn Rebus ngồi ở hàng ghế trên. Ông thực lòng chỉ muốn lui xuống phía sau: nơi ông thường ngồi mỗi khi dự tang lễ. Con trai và con gái của Chrissie ngồi ngay bên cạnh bà. Lesley đang vỗ về mẹ, vòng tay ôm lấy người bà khẽ siết chặt mỗi khi bà nức nở. Kenny chỉ đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mặt, cố gắng kìm chặt mọi cảm xúc. Buổi sáng, khi còn ở nhà, Rebus đã hỏi tuổi cháu trai. Vào tháng tới Kenny sẽ tròn ba mươi, còn Lesley kém anh trai hai tuổi. Trông hai anh em đều rất giống mẹ, khiến cho Rebus nhớ lại những lời nhận xét kiểu như Giỏ nhà ai, quai nhà ấy mà mọi người vẫn nói về Michael và ông. Michael… mà mọi người vẫn quen gọi là Mickey. Em trai của Rebus, giờ đang lặng thinh nằm đó trong chiếc quan tài có tay cầm sáng bóng, ra đi ở tuổi năm mươi tư, cái tuổi mà theo tiêu chuẩn của xứ Scotland này thì chỉ ngang với tuổi thọ người dân ở một nước nghèo thuộc thế giới thứ ba. Có rất nhiều giả định - nào là lối sống, chế độ ăn, rồi cả yếu tố di truyền. Biên bản khám nghiệm tử thi đầy đủ vẫn chưa được thực hiện. Qua điện thoại, Rebus được Chrissie cho hay đó là một cơn đột quỵ nghiêm trọng, trấn an ông rằng mọi chuyện xảy ra “hoàn toàn đột ngột” - cứ như thể như thế thì có gì khác biệt. Đột ngột - tức là Rebus chẳng thể nói lời từ biệt với em trai. Cũng có nghĩa những lời cuối cùng giữa hai anh em chỉ là một mẩu chuyện phiếm trên điện thoại hồi ba tháng trước về câu lạc bộ Raith Rovers mà Michael yêu mến. Một chiếc khăn quàng của đội Raith, màu xanh lục pha trắng, được vắt ngang qua quan tài, kế bên vòng hoa tang. Kenny đeo chiếc cà vạt mà bố Michael từng dùng, trên có tấm khiên biểu tượng của đội Raith - con mãnh thú gì đó đang giơ cao một cái đai lưng. Rebus đã hỏi về ý nghĩa của biểu tượng đó nhưng Kenny chỉ khẽ nhún vai. Dõi mắt dọc theo hàng ghế, Rebus thấy người chỉ dẫn làm dấu. Tất cả những người dự tang lễ đều đứng lên. Chrissie chậm rãi bước dọc lối đi, hai người con theo sát ở hai bên. Người chỉ dẫn đưa mắt nhìn Rebus, nhưng ông vẫn đứng yên tại chỗ. Xong ngồi xuống để ra hiệu cho em dâu và các cháu không phải chờ mình. Bài hát mới được nửa chừng. Đó là ca khúc cuối cùng trong đĩa nhạc Quadrophenia. Michael vẫn luôn là fan hâm mộ cuồng nhiệt của nhóm Kẻ Nào, còn cá nhân Rebus thì lại yêu thích ban nhạc Rolling Stones hơn. Dù vậy vẫn phải công nhận rằng các album như Tommy và Quadrophenia đã làm được những điều mà The Rolling Stones không tài nào có thể. Giọng ca Daltrey của ban nhạc đang phấn khích gào về việc muốn uống rượu. Rebus cũng đồng tình, nhưng còn phải tỉnh táo cả chặng lái xe trở về Edinburgh. Phòng họp của một khách sạn địa phương đã được đặt trước. Đứng trên bục giảng kinh, vị mục sư chủ tọa nhắc nhở rằng tất cả bạn bè thân hữu đã tới chia buồn đều được mời. Những ly whisky và những tách trà được bưng ra, rồi bánh kẹp cũng sẽ được mang lên. Mọi người sẽ cùng nhau ôn lại những câu chuyện và kỷ niệm thân thương về người quá cố, mỉm cười an ủi, trầm ngâm đồng cảm với nhau và cùng chia sẻ nỗi buồn qua ánh mắt. Các nhân viên khách sạn sẽ rút lui trong lặng lẽ, để tôn trọng bầu không khí. Rebus cố gắng sắp xếp câu chữ trong đầu mình, những từ ngữ sẽ thay ông xin lỗi. Chrissie à, tôi cần phải trở về ngay. Có quá nhiều việc. Ông có thể nói dối và đổ lỗi cho hội nghị thượng đỉnh G8. Buổi sáng nay, trước khi ra khỏi nhà, Lesley đã nói rằng Rebus chắc hẳn đang rất bận rộn với công tác chuẩn bị cho hội nghị này. Ông đã có thể nói thế này với cô cháu gái, Ta là viên cảnh sát duy nhất mà dường như họ không cần tới. Cảnh sát được triệu tập từ khắp mọi nơi. Chỉ tính riêng ở Luân Đôn đã có tới mười lăm nghìn sĩ quan. Thế nhưng thanh tra John Rebus dường như lại trở thành người thừa trong cuộc điều động nhân lực khổng lồ này. Phải có người ở lại chèo lái con thuyền chứ - những lời từ chính miệng tổng thanh tra James Macrae, đi kèm kiểu cười thầy dòng tự mãn đáng ghét quăng lại. Thanh tra Derek Starr đoan chắc mình sẽ trở thành người kế vị ngai vàng của triều đại Macrae. Rồi sẽ có ngày hắn nắm trong tay quyền điều hành Sở Cảnh sát quảng trường Gayfield này. John Rebus chẳng thể nào là một mối họa cho viễn cảnh đó, còn chưa đầy một năm nữa là đến ngày ông phải về hưu. Chính Starr cũng đã nói những lời đại loại như: John à, sẽ không ai chê trách anh về việc tụt dốc trong nghề đâu. Ai ở độ tuổi của anh cũng vậy cả. Có thể là đúng vậy thật, nhưng các thành viên nhóm The Rolling Stones đều già hơn Rebus; cả Daltrey và Townshend cũng nhiều tuổi hơn ông. Ấy vậy mà họ vẫn chơi nhạc, vẫn cứ đi lưu diễn đấy thôi. Bài hát đang dần đi vào đoạn kết, Rebus lại nhỏm người đứng dậy. Lúc này chỉ còn mình ông trong nhà thờ. Đưa mắt nhìn về phía tấm màn nhung màu tía lần cuối. Chiếc quan tài có thể vẫn nằm sau tấm màn; nhưng cũng có thể nó đã được chuyển tới khu khác của lò hỏa táng. Rebus ngẫm nghĩ nhớ lại thời niên thiếu, hai anh em ông hào hứng thưởng thức những ca khúc của thập niên 45 trong căn phòng chung trên con phố High của thị trấn Kirkcaldy, bài ”Thế hệ của Tôi” và ”Sự thay thế”, Michael thắc mắc về cách mà Daltrey nhấn nhá ca từ trong bài hát đầu tiên, còn Rebus thì nói ông đã từng đọc được ở đâu đó rằng việc hát như thế là có dính líu đến chất kích thích. Hồi ấy, chất kích thích duy nhất mà hai anh em cùng ham mê là chất cồn, những ngụm đầy tràn từ các chai trên chạn bếp, một can bia đen mùi tanh tanh được khui ra, vậy là say sưa trong bóng đêm sau giờ tắt đèn. Mickey đứng trên khu phố tản bộ của Kirkcaldy, hướng ánh nhìn chăm chú ra ngoài biển, miệng lẩm nhẩm lời hát “Tôi có thể trông qua hàng dặm trường”. Nhưng liệu khung cảnh này có thực sự là những gì đã xảy ra không nhỉ? Đĩa nhạc này ra lò vào những năm 66-67, khoảng thời gian ấy Rebus vẫn đang phục vụ trong quân ngũ. Ắt hẳn là một kỳ nghỉ phép của Rebus. Phải rồi, Mickey khi ấy để tóc dài ngang vai, cố gắng bắt chước phong cách của thần tượng Daltrey, còn Rebus để kiểu đầu quân nhân đặc trưng, bịa những mẩu chuyện nhằm tô hồng cho cuộc sống quân ngũ, Bắc Ai-len vẫn đang ở phía trước…   Mời các bạn mượn đọc sách Gọi Tên Kẻ Chết của tác giả Ian Rankin & Trịnh Xuân Thắng (dịch).