Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiến Tranh và Hòa Bình

CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH là một bộ tiểu thuyết sử thi được nhà xuất bản Russki Vestnik in lần đầu từ năm 1865 đến 1869. Đây là tác phẩm phản ánh một giai đoạn bi tráng của toàn xã hội Nga, từ giới quý tộc đến nông dân, trong thời đại Napoleon.   CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH không chỉ là một trong những cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất của Lev Tolstoy mà còn cả của nhân loại với hơn 580 nhân vật, trong đó những nhân vật lịch sử và những nhân vật hư cấu đã cùng nhau khắc họa lại một giai đoạn lịch sử hào hùng của nước Nga.   CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH đã thể hiện một cách trọn vẹn nhất tư tưởng của Lev Tolstoy về sự vô nghĩa của chiến tranh và khắc họa được những tính cách điển hình của con người, đất nước Nga. *** Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир, Voyna i mir) là một bộ tiểu thuyết sử thi của Lev Nikolayevich Tolstoy, được nhà xuất bản Russki Vestnik in lần đầu từ năm 1865 đến 1869. Đây là tác phẩm phản ánh một giai đoạn bi tráng của toàn xã hội Nga, từ giới quý tộc đến nông dân, trong thời đại Napoléon, và được coi là một trong hai kiệt tác chính của Tolstoy (tác phẩm thứ hai là Anna Karenina). Chiến tranh và hòa bình cũng đồng thời được đánh giá là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất của văn học thế giới. Chiến tranh và hòa bình mở đầu với khung cảnh một buổi tiếp tân, nơi có đủ mặt các nhân vật sang trọng của giới quý tộc Nga tại kinh kỳ Sankt-Peterburg. Bên cạnh những câu chuyện thường nhật của giới quý tộc, người ta bắt đầu nhắc đến Hoàng đế Napoléon I và cuộc chiến tranh chống Pháp sắp tới mà Nga sắp tham gia. Trong số những tân khách hôm ấy có công tước Andrei Bolkonsky - một người trẻ tuổi, đẹp trai, giàu có, có cô vợ Liza xinh đẹp mới cưới và đang chờ đón đứa con đầu lòng. Và một vị khách khác là Pierre người con rơi của lão bá tước Bezoukhov, vừa từ nước ngoài trở về. Tuy khác nhau về tính cách, một người khắc khổ về lý trí, một người hồn nhiên sôi nổi song Andrei và Pierre rất quý mến nhau và đều là những chàng trai trung thực, luôn khát khao đi tìm lẽ sống. Andrei tuy giàu có và thành đạt nhưng chán ghét tất cả nên chàng chuẩn bị nhập ngũ với hy vọng tìm được chỗ đứng của một người đàn ông chân chính nơi chiến trường. Còn Pierre từ nước ngoài trở về nước Nga, tham gia vào các cuộc chơi bời và bị trục xuất khỏi Sankt-Peterburg vì tội du đãng. Pierre trở về cố đô Moskva, nơi cha chàng đang sắp chết. Lão bá tước Bezoukhov rất giàu có, không có con, chỉ có Pierre là đứa con rơi mà ông chưa công nhận. Mấy người bà con xa của ông xúm quanh giường bệnh với âm mưu chiếm đoạt gia tài. Pierre đứng ngoài các cuộc tranh chấp đó vì chàng vốn không có tình cảm với cha, nhưng khi chứng kiến cảnh hấp hối của người cha lúc lâm chung thì tình cảm cha con đã làm chàng rơi nước mắt. Lão bá tước mất đi để lại toàn bộ gia sản cho Pierre và công nhận chàng làm con chính thức. Công tước Kuragin không được lợi lộc gì trong cuộc tranh chấp ấy bèn tìm cách dụ dỗ Pierre. Vốn là người nhẹ dạ, cả tin nên Pierre rơi vào bẫy và phải cưới con gái của lão là Hélène, một cô gái có nhan sắc nhưng lẳng lơ và vô đạo đức. Về phần Andrei chàng quyết định gởi vợ cho cha và em chăm sóc sau đó gia nhập Quân đội Nga. Khi lên đường Andrei mang một niềm hy vọng là có thể tìm thấy ý nghĩa cuộc sống cũng như công danh trên chiến trường. Chàng tham chiến trận đánh Austerlitz - nơi Napoléon I đã đánh tan nát quân Liên minh Nga - Áo, bản thân chàng thương nặng, bị bỏ lại chiến trường. Khi tỉnh dậy chàng nhìn thấy bầu trời xanh rộng lớn và sự nhỏ nhoi của con người, kể cả những mơ ước, công danh và kể cả Napoléon I - vốn là một thần tượng của chàng. Andrei được đưa vào trạm quân y và được cứu sống. Sau đó, chàng trở về nhà chứng kiến cái chết đau đớn của người vợ trẻ khi sinh đứa con đầu lòng. Cái chết của Lisa, cùng với vết thương và sự tiêu tan của giấc mơ Toulon - cầu Arcole đã làm cho Andrei tuyệt vọng. Chàng quyết định lui về sống ẩn dật. Có lần Pierre đến thăm Andrei và đã phê phán cách sống đó. Lúc này, Pierre đang tham gia vào hội Tam điểm với mong muốn làm việc có ích cho đời. Một lần, Andrei có việc đến gia đình bá tước Rostov. Tại đây, chàng gặp Natalia (Natasha) con gái gia đình của bá tước Rostov. Chính tâm hồn trong trắng hồn nhiên và lòng yêu đời của nàng đã làm hồi sinh Andrei. Chàng quyết định tham gia vào công cuộc cải cách ở triều đình và cầu hôn Natasha. Chàng đã được gia đình bá tước Rostov chấp nhận, nhưng cha chàng phản đối cuộc hôn nhân này. Bá tước Bolkonsky (cha của Andrei) buộc chàng phải đi trị thương ở nước ngoài trong khoảng thời gian là một năm. Cuối cùng, chàng chấp nhận và xem đó như là thời gian để thử thách Natasha. Chàng nhờ bạn mình là Pierre đến chăm sóc cho Natasha lúc chàng đi vắng. Natasha rất yêu Andrei, song do nhẹ dạ và cả tin nên nàng đã rơi vào bẫy của Anatole con trai của công tước Vassili, nên Natasha và Anatole đã định bỏ trốn nhưng âm mưu bị bại lộ, nàng vô cùng đau khổ và hối hận. Sau khi trở về Andrei biết rõ mọi chuyện nên đã nhờ Pierre đem trả tất cả những kỷ vật cho Natasha. Nàng lâm bệnh, người chăm sóc và thông cảm cho nàng lúc này là Pierre. Vào lúc này, nguy cơ chiến tranh giữa Pháp và Nga ngày càng đến gần. Cuối năm 1811, quân Pháp tiến dần đến biên giới Nga, quân Nga rút lui. Đầu năm 1812, quân Pháp tiến vào lãnh thổ Nga. Cuộc Chiến tranh Vệ quốc Nga bùng nổ. Vị tướng già Mikhail Koutouzov được cử làm Tổng tư lệnh quân đội Nga. Trong khi đó, quý tộc và thương gia được lệnh phải nộp tiền và dân binh. Pierre cũng nộp tiền và hơn một ngàn dân binh cho quân đội. Andrei lại gia nhập quân đội, ban đầu vì muốn trả thù tình địch, nhưng sau đó chàng bị cuốn vào cuộc chiến, bị cuốn vào tinh thần yêu nước của nhân dân. Trong trận Borodino, dưới sự chỉ huy của vị Nguyên soái Koutouzov quân đội Nga đã chiến đấu dũng cảm tuyệt vời, với kết quả là chiến thắng lớn lao về mặt tinh thần. Andrei cũng tham gia trận đánh này và bị thương nặng. Trong lán quân y, chàng gặp lại tình địch của mình cũng đang đau đớn vì vết thương. Mọi nỗi thù hận đều tan biến, chàng chỉ còn thấy một nỗi thương cảm đối với mọi người. Chàng được đưa về địa phương. Trên đường di tản, chàng gặp lại Natasha và tha thứ cho nàng. Và cũng chính Natasha đã chăm sóc cho chàng cho đến khi chàng mất. Sau trận huyết chiến ở Borodino, quân Nga rút khỏi Moskva. Quân Pháp chiếm được Moskva nhưng có tâm trạng vô cùng lo sợ. Pierre trở về Moskva giả dạng thành thường dân để ám sát Napoléon. Nhưng âm mưu chưa thực hiện được thì chàng bị bắt. Trong nhà giam, Pierre gặp lại Platon Karataev, một triết gia nông dân. Bằng những câu chuyện của mình, Platon đã giúp Pierre hiểu thế nào là cuộc sống có nghĩa. Quân Nga bắt đầu phản công và tái chiếm Moskva. Quân Pháp rút lui trong hỗn loạn. Nước Nga thắng lợi bằng chính tinh thần của cả dân tộc Nga chứ không phải do một cá nhân nào, đó là điều Koutouzov hiểu còn Napoléon thì không. Sau chiến thắng, Koutouzov muốn cho nước Nga được nghỉ ngơi chứ chẳng muốn can thiệp thêm gì vào tình hình châu Âu. Trên đường rút lui của quân Pháp, Pierre đã trốn thoát và trở lại Moskva. Chàng hay tin Andrei đã mất và vợ mình cũng vừa mới qua đời vì bệnh. Chàng gặp lại Natasha, một tình cảm mới mẻ giữa hai người bùng nổ. Pierre quyết định cầu hôn Natasha. Năm 1813, hai người tổ chức đám cưới. Bảy năm sau, họ có bốn người con. Natasha lúc này không còn là một cô gái vô tư hồn nhiên mà đã trở thành một người vợ đúng mực. Pierre sống hạnh phúc nhưng không chấp nhận cuộc sống nhàn tản. Chàng tham gia vào những hội kín - đó là các tổ chức cách mạng của những người tháng Chạp. *** Vài lưu ý trong ấn bản eBook này Tên phiên âm đã được chuyển thành tên riêng tiếng Anh dựa trên bản của Huy Hoàng phát hành năm 2017 & bản của Delphi Classics, Complete Works of Leo Tolstoy, xuất bản năm 2012; Những câu in nghiêng được chú thích bằng tiếng Pháp được loại bỏ vì quá nhiều và không ảnh hưởng đến cốt truyện; Lỗi chính tả, hiển nhiên, cũng được sửa theo bản mới; Bìa eBook được lấy trên internet.   amylee tve-4u.org Ngày 10 tháng 09 năm 2022 Những đóng góp cho eBook được hoàn thiện thuộc về: cailubietdi, Anan Két, machine, soloshevcento, amylee v.v. *** LỜI GIỚI THIỆU   Tôi là người học trò nhỏ của nhà văn vĩ đại Tolstoy Hồ Chí Minh   Nguyễn Du từng lo không biết ba trăm năm sau có ai khóc mình không... Nhưng như Tố Hữu viết: Tiếng đàn xưa đứt ngang dây Hai trăm năm lại càng say lòng người   L. Tolstoy cũng đã từng băn khoăn: “Thú thật tôi hoàn toàn không biết một trăm năm sau liệu có ai đọc tác phẩm của tôi không...” (thư ông gửi cho nhà nghiên cứu người Anh William Roston ngày 27-12-1878). Lenin vĩ đại của chúng ta đã giải đáp được nỗi băn khoăn đó: “Tolstoy đã mất rồi và nước Nga trước cách mạng đã chìm vào dĩ vãng. Nhưng trong di sản của ông thì có cái không chìm vào dĩ vãng, có cái thuộc về tương lai. Di sản đó, giai cấp vô sản Nga đón lấy và nghiên cứu nó.” Chiến tranh và hòa bình của L. Tolstoy chính là loại tác phẩm thuộc về tương lai. Trong những ngày đánh trả mãnh liệt cuộc chiến tranh phá hoại man rợ bằng không quân của đế quốc Mỹ xâm lược, trên miền Bắc, sinh viên Việt Nam vẫn viết những đề tài nghiên cứu về chiến tranh nhân dân, về con đường đi tìm lý tưởng của Andrew Bolkonski, Pierre Bezukhov trong tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình. Aragon cho biết: Đã có một thời ở Pháp, người ta không thể đi trên xe lửa mà không thấy những người đọc Chiến tranh và hòa bình của Tolstoy. Cuốn tiểu thuyết này có lẽ là tác phẩm lớn nhất chưa từng thấy, được người Pháp say mê vào những năm 1942-1943. Năm 1943, một nhà thơ lớn, một người cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu dịch nửa đầu Chiến tranh và hòa bình ở trong tù. Và kỳ diệu thay, năm 1943, giữa lòng thành phố Leningrad anh hùng đang bị giặc Đức vây hãm ngặt nghèo, Chiến tranh và hòa bình được in lại với số lượng 100.000 cuốn! Năm 1960, một nhà văn Pháp đã nói rất hay về sức sống của tác phẩm Tolstoy: “Khi đọc lại Chiến tranh và hòa bìnhtôi cảm thấy trước mắt tôi không phải là một giai đoạn đã qua mà là bí mật đã mất.”   CON SƯ TỬ CỦA VĂN HỌC NGA   L.N. Tolstoy sinh năm 1828 trong một gia đình quý tộc lâu đời tại trại ấp Yasnaya Polyana (ở gần khu Tula, cách Moskva 200 km về phía nam). Ông bắt tay vào viết bộ Chiến tranh và hòa bình năm 35 tuổi, sau khi cưới vợ được một năm, vào lúc ông cảm thấy hạnh phúc, sung sức cả về trí tuệ lẫn tinh thần. Lúc ấy ông đã bước vào làng văn được mười một năm, có vốn sống và vốn văn hóa khá là phong phú. Trại ấp Yasnaya Polyana đẹp tuyệt vời đã trở thành cái nền thiên nhiên kỳ thú trong tác phẩm Thời thơ ấu. Bạn đọc cũng có thể thấy hình bóng của nó qua những trang miêu tả trại ấp Lysaya Gora trong Chiến tranh và hòa bình. Đến cuối đời Tolstoy, Yasnaya trở thành nơi gặp gỡ của nhiều danh nhân Nga và thế giới với nhà văn vĩ đại, và đó cũng là nơi Tolstoy đã yên giấc ngàn thu. Nhiều bà con thân thích của Tolstoy đã trở thành một phần những nguyên hình, những nguyên mẫu để ông dựa vào đó vẽ nên những nhân vật sinh động trong Chiến tranh và hòa bình. Tolstoy học ở đại học Kazan hai năm rồi bỏ dở, năm 1847 ông trở về Yasnaya Polyana. Từ năm 1851 ông đi Kafka rồi nhập ngũ, chính tại Kafka Tolstoy đã bắt đầu bước vào hoạt động văn học. Tác phẩm đầu tay Thời thơ ấu của ông (1852) được hoan nghênh nhiệt liệt. Ông viết tiếp Thời niên thiếu (1854) và Thời thanh niên (1857). Năm 1856, nhà phê bình dân chủ cách mạnh Chernyshevsky đánh giá cao hai tập đầu trong tác phẩm bộ ba tự thuật này, nêu lên một số đặc điểm của tài năng Tolstoy và tiên đoán: “Chúng tôi nói trước rằng tất cả những gì Tolstoy hiện nay đã đem đến cho văn học chúng ta chỉ là bảo đảm cho những gì ông ta sẽ hoàn thành...”. Sau khi giải ngũ (1856), Tolstoy lo toan nhiều đến việc cải thiện đời sống cho nông dân trong trại ấp của mình. Ông mở trường dạy cho con em nông dân, tự mình viết sách học vỡ lòng, làm giáo viên, ra tạp chí giáo dục mang tên “Yasnaya Polyana”. Khi làm thẩm phán hòa giải ở huyện nhà, Tolstoy bảo vệ quyền lợi nông dân nên bị địa chủ căm ghét. Ông đã đề ra một số dự án cải cách để giải phóng nông nô trong trại ấp của mình (có 330 nông nô) nhưng không thực hiện được. Tolstoy đã sáng suốt tỏ ý “không tin một lời nào” trong bản tuyên ngôn giải phóng nông nô đầy giọng ban ơn hứa hẹn suông của Nga hoàng Alexander II tháng Hai năm 1861. Từ lúc còn trẻ ông đã quan tâm thật sự đến đời sống nhân dân, đã dần dần “am hiểu một cách kỳ diệu nước Nga nông thôn, đời sống của địa chủ và của nông dân” (Lenin). Truyện ngắn Buổi sáng của một địa chủ (1856) của Tolstoy thể hiện những suy nghĩ bước đầu của ông về mỗi quan hệ địa chủ – nông dân. Đó là bức tranh sinh động về cuộc sống tăm tối, bị đè nén của nông dân Nga. Tolstoy ra nước ngoài hai lần (1856-1857 và 1860-1861), đi thăm nhiều nước, tiếp xúc với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội, giáo dục phương Tây. Chính tại London, ông đã gặp gỡ nhà cách mạng Nga nổi tiếng A.Gercen buộc phải lưu vong. Tolstoy phê phán lối sống ích kỷ tàn nhẫn của giai cấp tư sản phương Tây trong bút ký Luserne (1857). Nhưng cũng chính trong bút ký này Tolstoy đã bộc lộ sự bế tắc của mình trong việc giải quyết những mâu thuẫn xã hội gay gắt diễn ra hàng ngày quanh ông. Ông nêu lên “tinh thần toàn thế giới” như một nguyên tắc tinh thần đạo đức vĩnh cửu chi phối toàn bộ cuộc sống của loài người. Trước khi viết Chiến tranh và hòa bình, Tolstoy đã luyện bút qua nhiều truyện về binh lính và truyện chiến đấu. Ông có mặt từ tháng Mười một năm 1854 đến tháng Tám năm 1855 tại Sevastopol tức là gần suốt thời gian cuộc chiến đấu anh hùng chống quân Anh, Pháp, Thổ trong cuộc chiến tranh Krym (1853-1856). Chính Tolstoy đã cùng binh sĩ chiến đấu dũng cảm tại pháo đài 4 “thần kỳ”. Mời các bạn đón đọc Chiến Tranh và Hòa Bình của tác giả Lev Tolstoy.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nam Cực Tinh Huy
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** ...Trong dinh quan Thứ-sử, cửa tư bề đóng chặt, người cũng vắng bóng lại qua; duy trước hiên chị nguyệt dỡn hoa đào và bên chái ngọn đèn chờ bạn ngọc. Trống vừa trở canh tư thì thấy quan Thứ-sử Ngô-Quyền ở trong phòng bước ra, bưng đèn đem để trên án, rồi sẻ lén mở cửa đi ra ngoài. Bóng trăng tỏ rạng, soi sáng cả mình, mới thấy người tuổi vừa mới quá bốn mươi, vóc to, sức mạnh, trán rộng, mặt ngang, mày rậm, râu dài, cặp mắt lớn mà lại sáng, trông hình dạng thì đủ biết là một người chí khí cao, độ lượng lớn. Quan Thứ-sử xem trăng rồi lần bước đi lại gần mấy hàng hoa đào, thấy bụi hoa nào tốt rờ rẩm sâm soi, còn dòm bụi hoa đèo thì châu mày ủ mặt. Xem hoa xong rồi mới chậm chậm đi thẳng ra hồ sau, thấy dưới cội lý có mấy cái ghế bèn lại đó mà ngồi. Bóng trăng soi mặt nước như vàng gieo bạc chảy, tiếng dế kêu dưới cội như câu hát giọng đờn; quan Thứ-sử ngồi một mình nhắm cảnh thanh vật tịnh rồi lòng bắt nhớ chuyện sẽ tới, nhớ người ở xa, nhớ tổ quán cố hương, nhớ ơn cha nghĩa bạn....    HỒI THỨ NHỨT Trong màng loan Dương phu nhơn mộng quái,  Dưới cột lý Ngô Thứ-sử trần tình Năm mậu tuất (năm 938) đêm rằm tháng giêng, lúc gần hết canh ba, mảnh nguyệt treo giữa trời soi sơn-thủy, giọt nước sương chan mặt đất rưới cỏ cây; nẻo lợi danh vắng-vẻ bước con người, mùi cam khổ tạm bay xa trần thế.  Ái-châu thành 1 là chỗ địa-đầu thị-tứ, dân cư trù mật, quan quân nhộn nhàng; chánh là một trường cạnh tranh lợi danh, mà cũng là chánh một chốn nực nồng cam khổ. Đêm nay canh khuya, trời lạnh người người đều ngơi-nghỉ, nhà nhà đều im-lìm, tưởng là bóng âm che khuất lòng trần, nào dè cách một hồi nghe tiếng chuông trên chùa cúng Phật, mới hay đêm tuy khuya, tiết tuy lạnh, chim trong rừng tuy ngủ, cây trên núi tuy yên, nhưng mà người đời chưa rảnh được nợ trần, hoặc còn mưu kế sanh tồn, hoặc đương tính về phương siêu độ.  Trong dinh quan Thứ-sử, cửa tư bề đóng chặt, người cũng vắng bóng lại qua; duy trước hiên chị nguyệt dỡn hoa đào và bên chái ngọn đèn chờ bạn ngọc. Trống vừa trở canh tư thì thấy quan Thứ-sử Ngô-Quyền ở trong phòng bước ra, bưng đèn đem để trên án, rồi sẻ lén mở cửa đi ra ngoài. Bóng trăng tỏ rạng, soi sáng cả mình, mới thấy người tuổi vừa mới quá bốn mươi, vóc to, sức mạnh, trán rộng, mặt ngang, mày rậm, râu dài, cặp mắt lớn mà lại sáng, trông hình dạng thì đủ biết là một người chí khí cao, độ lượng lớn. Quan Thứ-sử xem trăng rồi lần bước đi lại gần mấy hàng hoa đào, thấy bụi hoa nào tốt rờ rẩm sâm soi, còn dòm bụi hoa đèo thì châu mày ủ mặt. Xem hoa xong rồi mới chậm chậm đi thẳng ra hồ sau, thấy dưới cội lý có mấy cái ghế bèn lại đó mà ngồi. Bóng trăng soi mặt nước như vàng gieo bạc chảy, tiếng dế kêu dưới cội như câu hát giọng đờn; quan Thứ-sử ngồi một mình nhắm cảnh thanh vật tịnh rồi lòng bắt nhớ chuyện sẽ tới, nhớ người ở xa, nhớ tổ quán cố hương, nhớ ơn cha nghĩa bạn.  Mắt đương lim dim, trí đương nghĩ nghị, bỗng nghe phía sau lưng có tiếng tằn-hắn. Quan Thứ-sử day lại thì thấy phu-nhơn, là Dương-thị, biệt hiệu là Nguyệt-Cô, nhẹ bước vạch nhành lần lần đi tới, Phu nhơn đã gần bốn chục mà sắc hãy còn thanh tươi, nước da trắng, gương mặt tròn, mặc áo sô đen, dạng đi yểu điệu. Khi phu nhơn bước tới thấy quan Thứ-sử liền đứng lại mà hỏi rằng:  - Đêm khuya tiết lạnh, sao tướng công không ngủ mà lại ra ngồi ngoài nầy?  - Chẳng biết vì cớ nào đêm nay trong lòng tôi bức-rức ngủ không được, nên tôi thức dậy mở cửa ra ngoài. Đứng trước hiên thấy trăng tỏ, trời thanh tôi mới lần bước đến đây ngồi ngoạn cảnh. Sao phu-nhơn không nghỉ, mà sao lại biết tôi ở đây mà kiếm?  - Thưa tướng-công số là tôi đang ngủ, bỗng chiêm bao thấy phụ thân tôi đầu xã tóc, mà mặt mày tái xanh chạy vô cửa kêu tôi rồi đứng ngó tôi mà khóc. Tôi la lên một tiếng rồi giựt mình thức dậy, cả mình hạn xuất ướt dầm. Tuy tôi biết là chuyện chiêm bao, song không hiểu lành dữ lẽ nào, nên chạy qua phòng tướng-công đặng tỏ lại cho tướng-công nghe. Chẳng dè qua đến đó thấy phòng không vắng vẻ, tôi bước ra tiền đường thấy đèn còn chong trên án mà cửa lại mở bét, tôi liệu chắc tướng-công ra ngoài, nên mới nhẹ gót đến đây mà bày tỏ chuyện chiêm bao cho tướng-công bàn thử.  - Phu-nhơn đừng có sợ. Người ta nói mộng là mị biết sao là lành, sao là dữ mà bàn. Phu-nhơn ngồi ghế đó mà nghỉ chơn, rồi trở vào mà ngủ.  Quan Thứ-sử kéo một cái ghế còn bỏ trống dưới cội cây đem ra mời phu-nhơn ngồi. Lúc đó có một vừng mây bay áng mặt trăng làm cho tư bề cỏ cây lờ mờ, cảnh vật trông ra hết đẹp. Chẳng biết hai người ngồi dưới cội, thấy trăng lu mà buồn bực, hay là nhớ giấc mộng là não nề, song cả hai đều ngồi im-lìm không ai nói tiếng chi hết. Cách một hồi lâu vừng mây qua khỏi, nguyệt sáng lòa, hoa cỏ khoe màu, nước non rạng vẻ; phu-nhơn liếc thì thấy quan Thứ-sử nét mặt ưu sầu, bèn cất tiếng hỏi rằng:  - Thưa tướng-công đá nói chiêm bao là mộng mị, mà sao nãy giờ coi bộ tướng-công không được vui? Nếu thiệt là điềm chẳng lành thì xin tướng-công cũng nói cho thiếp hay. Thiếp tuy là phận gái mặc dầu nhưng mà thiếp đã tuần quen nguy hiểm phong ba, bởi vậy dầu gặp dịp chẳng may thiếp cũng đủ trí đởm đương xin tướng-công chớ ngại.  - Phu-nhơn sợ quá nên nghi cho tôi dấu diếm phu-nhơn đó mà thôi, chớ nào có phải điềm chiêm bao đó làm cho tôi buồn đâu.  - Vậy chớ tướng-công buồn về việc chi?  - Tôi buồn cũng nhiều việc, buồn về việc nhà việc nước lo những nghĩa nặng ơn sâu, nghĩ thiệt khó mà tả hết cho phu-nhơn nghe được.  - Thưa tướng-công, thiếp tuy vụng về yếu đuối, nhưng mà thiếp hằng hết lòng lo sửa trắp nâng khăn. Đã vậy mà lại nhờ phật trời ủng hộ cho vợ chồng ta sanh được hai đứa con trai, thằng Xương-Cấp nay tuổi đã 12, và thằng Xương-Văn nay tuổi đà 11. Còn tướng-công thì đường công danh rực rỡ, làm quan đến chức Thứ-sử, oai quyền to lớn binh tướng dõng cường, cứ Ái-châu thành bố đức trăm nhà, dân Chiêm-thành quốc nghe danh khiếp sợ. Việc gia-đình như vậy, đường công danh như vậy, mà sao tướng-công lại buồn? Hay là thiếp ở có chỗ nào thiếu sót nên tướng-công phiền riêng thiếp chăng?  - Phu-nhơn không rõ, để tôi tỏ thiệt cho phu-nhơn nghe. Tôi vốn con nhà hàn vi lê thứ, chẳng may mẹ cha mất sớm nên tôi phải xứ Đường-Lâm 2 mà rảo bước giang hồ, chủ ý của tôi là muốn kiếm bạn tri-âm mà kết nghĩa đồng-tâm, đặng lập chút thân danh cho rỡ ràng nam-tử. Thiệt cũng nhờ có phật trời giúp vận, nên đến Bình-Kiều 3 may gặp được nhạc phụ yêu thương. Tôi chẳng có tài gì mà nhạc-phụ lại gả phu-nhơn cho tôi, rồi trong lúc dấy nghĩa binh mà đánh Lý-Khắc-Chánh, đuổi Lý-Tấn về Tàu, tôi cũng chẳng có công lao bao nhiêu mà chừng nhạc-phụ cầm quyền Tiết-đạt-sứ rồi lại cho tôi lãnh chức Ái-châu Thứ-sử, lo giữ gìn nam-phương cường-giới.  Mời các bạn đón đọc Nam Cực Tinh Huy của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Mẹ Ghẻ Con Ghẻ
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** Mời các bạn đón đọc Mẹ Ghẻ, Con Ghẻ của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Trời Xanh Đổ Lệ
Kể từ khi tôi xuất bản cuốn tiểu thuyết “Bên ngoài cửa sổ”, cũng đã tròn 26 năm. Đôi lúc thật sự không tin rằng, một phần tư thế kỷ của tôi đã trôi đi trong những trang sách. Trong 26 năm, bất kể tôi gặp bao nhiêu sóng gió, trải qua bao hỷ nộ ái ố của cuộc đời, thì cái sự “viết lách” của tôi vẫn cứ là mạch chính trong cuộc sống. Khi tôi buồn rơi lệ, tôi trốn vào trang viết, khi tôi vui, tôi thể hiện niềm vui trên trang viết, khi tôi cô đơn, tôi bù đắp sự trống trải bằng viết lách, khi tôi đầy sinh lực, tôi lại vội vàng cầm bút, viết lên cảm xúc của mình. Bởi thế, trong suốt 26 năm đằng đẵng, tôi thi thoảng cũng có lúc giấu mình, có lúc nghỉ ngơi, nhưng chưa bao giờ thực sự dừng viết lách. Chính bởi thế, đếm kỹ ra, kể từ cuốn “Bên ngoài cửa sổ” đến “Chuyện đời tôi”, trong 26 năm, tôi đã xuất bản bốn mươi tư cuốn sách. Đầu năm ngoái, do Đại lục có chính sách mở cửa, cho ngoại kiều về thăm thân nhân, tôi lần đầu trở về Đại lục, sau 39 năm xa quê hương. Trở về Bắc Kinh, phát hiện ra hơn 40 cuốn sách của tôi đã xuất bản tản mạn, rời rạc. Lúc đó, tôi có nguyện vọng tha thiết là sắp xếp lại những tác phẩm đó. Sau khi trở lại Đài Loan, lại có mấy tác phẩm cần tái bản, nên tôi và Hâm Đào quyết định nhân cơ hội này, chỉnh sửa các tác phẩm trước đây, thay đổi hình thức, biên tập lại một cách hệ thống, xuất bản “Quỳnh Dao toàn tập”. Do thời đại thay đổi, xuất bản phẩm cũng ngày càng phát triển. Giấy in, biên tập, hình thức đều vượt xa so với trước kia. Hơn nữa, những tác phẩm trước kia của tôi, có cuốn sách quá mỏng, như “Dưới ánh trăng cô đơn”, có cuốn lại quá dày, như “Ngọn cỏ may mắn”, có cuốn dàn trang quá sít, có cuốn lại cách dòng quá thưa. Rồi cuốn thì chữ quá nhỏ, cuốn thì chữ quá lớn. Lần này, chúng tôi sửa lại tất cả những nhược điểm đó, điều chỉnh một cách toàn diện. Nội dung tác phẩm cũng có chỉnh sửa, ví như trong cuốn “Sáu giấc mơ”, lại có bảy câu chuyện, điều này thật phi lý, nên chúng tôi bỏ đi một câu chuyện, giữ nguyên tên là “Sáu giấc mơ”. Lại như cuốn “Dưới ánh trăng cô đơn”, chỉ là một cuốn tiểu thuyết vừa, miễn cưỡng in thành sách, cứ luôn cảm thấy không đủ dung lượng, thì bây giờ, tôi bổ sung thêm mấy cuốn tiểu thuyết loại vừa, đóng lại thành tập. Trong tất cả các tác phẩm của tôi, đặc biệt nhất là cuốn “Chưa từng mất nhau” là một bộ sách mà bản thân tôi “tự thuật còn thiếu sót”, có phần “thời niên thiếu”, lại khuyết mất quá trình sau khi trưởng thành. Mùa xuân năm nay, tôi viết lại cuốn sách này, bổ sung phần sau khi trưởng thành, đổi tên thành “Chuyện đời tôi”. Cuốn này đã thay cho cuốn “Chưa từng mất nhau” trong “Quỳnh Dao toàn tập”. Bởi thế, 44 cuốn tiểu thuyết, sau khi chỉnh sửa, còn lại 43 cuốn. Về những bài tản văn trong cuốn “Chưa từng mất nhau”, sau này, có thể tôi sẽ gộp vào với những bài tản văn khác, xuất bản thành cuốn chuyên về tản văn. Đương nhiên, biên tập lại cả một bộ toàn tập là một việc tốn rất nhiều công sức, trong các tác phẩm trước đây, chữ dùng sai, bỏ sót rất nhiều, lần này, tôi sửa lại hết. Công trình đồ sộ như vậy, không thể hoàn thành trong một sớm một chiều, nhưng chúng tôi vẫn đã bắt tay vào chỉnh sửa. Trong lúc lựa chọn lại bìa sách, lựa chọn lại kiểu chữ, lựa chọn lại hình thức in sách, tuy rất bận, nhưng tôi thực sự cảm thấy phấn khích. Những tác phẩm trước kia, dù hay hay dở, đều là một phần quan trọng trong cuộc đời tôi. Biên tập lại, xuất bản lại, cũng coi như một cách “sống lại” của chính bản thân mình.    Tôi trước nay chưa từng cảm thấy sách mình viết hay, cũng chưa bao giờ tự mãn. Mỗi lần ra sách, lại thấp tha thấp thỏm, như ngồi trên tổ kiến. Chỉ lo rằng tác phẩm của mình không vượt qua được sự đánh giá của độc giả, cũng không thắng được sự kiểm nghiệm của thời gian. Giờ, trước khi “Quỳnh Dao toàn tập” được xuất bản, cảm giác này vẫn vô cùng mãnh liệt. Tôi luôn có cảm giác bản thân mình quá bé nhỏ tầm thường, mỗi cuốn sách viết ra cũng chỉ là chuyện tầm thường bé nhỏ. Cho dù trong sách thường có những chuyện tình “nồng cháy”, nhưng cũng chỉ là tình cảm của người thường.    Cũng bởi vậy, tôi mong được dâng tặng “Quỳnh Dao toàn tập” cho những người bạn bình thường và cả những người phi thường trong thiên hạ. Quỳnh Dao viết ngày 3 tháng 7 năm 1989, tại Đài Bắc “Tự thuật toàn tập” trên đây viết năm 1989, giờ đã là năm 1997. Quãng thời gian 8 năm cũng đã trở thành quá khứ. Trong 8 năm này, viết lách vẫn là chủ đề chính trong cuộc đời tôi. Nên 44 cuốn sách đã nói ở trên, đã dần được bổ sung thành hơn 50 cuốn sách. Tôi tin rằng, trong quãng thời gian sau này, tôi vẫn sẽ viết sách. Vậy cuốn “Toàn tập” này rốt cuộc có bao nhiêu tác phẩm, hiện giờ cũng chưa thể đoán trước. Nhưng mong rằng, độc giả sẽ yêu thích từng tác phẩm của tôi, khích lệ tôi tiếp tục cố gắng, để cuốn “Toàn tập” này ngày càng “trưởng thành lớn mạnh”. Đó chính là nguyện vọng của tôi, hạnh phúc của tôi, và niềm vui của tôi. Quỳnh Dao viết thêm ngày 14 tháng 8 năm 1997, trước khi xuất bản “Hoàn Châu cách cách”, tại Đài Bắc. *** Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nữ nhà văn, biên kịch, nhà sản xuất người Đài Loan chuyên về tiểu thuyết lãng mạn dành cho độc giả nữ. Tập truyện ngắn đầu tay của bà mang tên Ngoài khung cửa sổ ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch ra và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Ngoài ra, bà còn là một nhà sản xuất phim với những bộ phim truyền hình dựa theo chính nội dung các cuốn tiểu thuyết của bà. Tác phẩm: Song Ngoại (1963) Hạnh Vận Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng sông ly biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cát cát (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Thủy Vân Gian Cỏ Xanh Bên Hồ Giấc Mộng Sau Rèm Mời các bạn đón đọc Trời Xanh Đổ Lệ của tác giả Quỳnh Dao.
Thiên Đường Rực Lửa
Cuối tháng mười, là mùa hoa sầu đông nở rộ Bên ngoài khu vườn nhỏ, Hoa sầu đông đang nở đầy trên những cành lá khẳng khiụ Đất trời mang mang một màu tím u buồn Cô bé con ... Ra đời đúng vào mùa hoa sầu đông nở rộ. Ngày 21 tháng 10 năm 1951 (Dân quốc năm thứ 40). Đài Loan như đang bị một bầu khí quyển ẩm thấp bao trùm lên vạn vật, bầu trời mang đầy nét âm u, thời tiết nóng nực và ẩm ướt. Tuy rằng đã cuối mùa thu, thế nhưng, khí hậu nhiệt đới miền châu á vẫn không mang một chút hơi hướm nào của mùa thụ Dưới sức nóng ẩm thấp, người nào người ấy đều nhễ nhại mồ hôị Trong căn nhà nhỏ bằng gỗ, Hứa Mộng Đình đã trải qua suốt hai mươi tiếng đồng hồ vật vã, đau đớn. Căn nhà nhỏ nóng như lò lửạ Hứa Mộng Đình nằm trên giường, quần áo trên người nàng đã ướt mèm vì mồ hôi không ngừng tuôn ra, ngay cả mái tóc nàng cũng ướt như vừa mới nhúng vào trong nước. Mà những giọt mồ hôi vẫn cứ không nhừng chảy tuôn tuôn, trên trán, cả người, từng hạt, từng hạt to lăn dài, ướt đẫm cả toàn thân. Chưa bao giờ biết rằng, thể xác con người lại có thể chịu đựng được sự đau đớn tận cùng đến thế. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, Hứa Mộng Đình suy nghĩ, chẳng lẽ mình cũng đã từng làm cho mẹ mình chịu đựng sự đau đớn như thế chăng? Mẹ, không, giờ phút này không thể nghĩ đến mẹ được. Tốt nhất là nên nghĩ đến cái sinh mệnh nhỏ bé đang muốn vượt thoát lòng mẹ để ra ngoài thì hơn! Con ơi, nhanh lên, nhanh lên ... Van con, xin con, đừng nên dùng dằng nữa, đừng nên níu kéo nữa, đừng nên làm cho mẹ đau đớn nữa ... á! Một cơn đau kinh thiên động địa lại kéo đến, làm cho nàng không còn chịu đựng nổi, phải buột niệng rú to lên. Giọng nàng kêu lên thảm thiết: - á! Cứu em ... Dương Thăng! cứu em! cứu em.. Dương Thăng đang ngồi chờ phía ngoài căn phòng nhỏ, bị tiếng kêu thảm thiết đó của Mộng Đình làm cho giật bắn người, chàng bật dậy như chiếc lò xo, nhào tới bên căn phòng nhỏ, đẩy toang cánh cửa, loạng choạng xông vào, miệng không ngừng lẩm bẩm, kêu lên rối loạn: - Mộng Đình! Hãy để trời phạt anh! Hãy để trời phạt anh! Chàng muốn nhào thẳng đến bên giường, thế nhưng, ba bà già đang phụ đỡ đẻ đều bị kinh động. Bà ngoại già ở nhà bên cạnh lập tức nhào tới, chụp lấy tay chàng lôi xềnh xệch ra ngoài, miệng không ngừng la lên: - Đi ra! Đi ra! Chỗ đàn bà sinh con, đàn ông đừng nên nhìn! Gấp gáp cái gì? Thai đầu lòng thế nào cũng phải lâu một chút! Đi ra! Đi ra! Chịu khó chờ chút đi! Không sao đâu! Chịu khó chờ thêm chút nữa là sẽ làm cha rồi! Thím Sĩ đã từng đỡ đẻ cho cả trăm đứa nhỏ rồi, kinh nghiệm dữ lắm, không cần chú phải lo lắng! Đi ra ngoài chờ thêm chút nữa đi! Đôi mắt của Mộng Đình, xuyên qua làn nước mắt và mồ hôi trộn lộn, mơ hồ nhìn vào gương mặt trẻ trung, với những đường nét thật sâu của Dương Thăng, cùng đôi mắt mở to chứa đầy nét kinh hoàng của chàng. Chàng đã bị đẩy ra ngoài rồi, đẩy ra ngoài rồi ... nàng bất lực đưa tay ra vói theo chàng, giọng nàng gọi theo, rên rỉ, khóc than: - Dương Thăng, không được ... anh đi thì em đi theo anh! Cho dù bất cứ nơi đâu! Em cũng sẽ cùng đi với anh! Phảng phất đâu đây, nàng lại thấy mình trở về với không khí chiến tranh hỗn loạn của ngày nàọ Phảng phất đâu đây, nàng lại thấy mình trở về với những ngày tháng, toàn bộ gia đình, già trẻ lớn bé, chen chúc nhau trên một toa xe lửạ Trên toa xe lửa không có được một cái ghế ngồi, trên toa xe chất đầy những người là người, có rất nhiều người lạ hoắc, lạ huơ cùng ngồi sát vai nhau, không ai lo được nổi cho aị Toa xe vượt qua những vùng bình nguyên bằng phẳng, từ từ, chậm chạp lăn bánh qua những bãi chiến trường vừa mới tàn phai, cảnh tượng phía ngoài xe trông thật quái dị, những thôn làng vừa bị cháy rụi, đồng cỏ vàng khô vì bị bỏ hoang, không một bóng người, không một làn khói tỏa từ những căn nhà còn sót lại, thấp thoáng vài con chó hoang vật vờ kiếm sống ... *** Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nữ nhà văn, biên kịch, nhà sản xuất người Đài Loan chuyên về tiểu thuyết lãng mạn dành cho độc giả nữ. Tập truyện ngắn đầu tay của bà mang tên Ngoài khung cửa sổ ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch ra và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Ngoài ra, bà còn là một nhà sản xuất phim với những bộ phim truyền hình dựa theo chính nội dung các cuốn tiểu thuyết của bà. Tác phẩm: Song Ngoại (1963) Hạnh Vận Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng sông ly biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cát cát (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Thủy Vân Gian Cỏ Xanh Bên Hồ Giấc Mộng Sau Rèm Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Rực Lửa của tác giả Quỳnh Dao.