Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Câu Chọi Vạn Câu

Lưu Chấn Vân đã phải ấp ủ, thai nghén ba năm mới cho ra đời tiểu thuyết này. Đây cũng là tác phẩm chín nhất, hay nhất của ông từ trước đến nay. Phong cách kể chuyện của tác giả giống với nhật ký dã sử thời Minh, Thanh. Câu chữ chắt lọc, tình tiết rõ ràng, giọng kể mạch lạc, văn phong có dáng dấp như những bậc tiền bối lớn như: Uông Tăng Kỳ, Tôn Lê... Chỉ với ngôn ngữ như vậy, tác giả mới có thể đối ứng và thể hiện được nội hàm tác phẩm: nền văn hóa phương Tây đối thoại với Thánh Thần và nền sinh thái của nhân loại. Để thoát khỏi sự cô độc và mệt mỏi, những nhân vật trong tác phẩm đã cố gắng tạo ra thanh âm và niềm vui riêng. Đọc cuốn tiểu thuyết, chúng ta cảm nhận được sự bền bỉ và ngoan cường của sự sống. Nhận định "Rũ bỏ vẻ hào nhoáng bên ngoài quay về với bản chất mộc mạc bên trong. Ngòi bút tác giả luôn theo sát mảnh đất khổ nạn cùng những con người phận cái rơm cây cỏ thuộc tầng lớp đáy xã hội. Kết cấu chuyện đơn giản mà phong phú, hồi hộp căng thẳng mà xúc động lòng người. Nhân vật chính thường rơi vào bước đường cùng, nhưng vẫn dũng cảm tiến về phía trước. Đây là cuốn tiểu thuyết chính nhất, hay nhất của Lưu chấn Vân kể từ trước tời nay." (Nhà phê bình nổi tiếng Ma La) "Cuốn tiểu thuyết dùng hai câu chuyện ở các thời khác nhau và số phận những con người bình thường có quan hệ máu mủ ở các thời khác nhau để nói về hai chủ đề lớn của đời người. Đó là “Ra Đi” và “Quay Về”… (Nhà phê bình nổi tiếng Trương Di Vũ) "Tác phẩm này của Lưu Chấn Vân vừa là một lời giải thích cá nhân hóa, vừa là một mẫu mực điển hình hóa cho câu hỏi “Vì sao tiểu thuyết lại được coi là nghệ thuật ngôn ngữ.” (Nhà phê bình văn học nổi tiếng Bạch Diệp) *** Một câu hơn cả nghìn năm Lưu Chấn Vân đã phải ấp ủ, thai nghén ba năm mới cho ra đời cuốn tiểu thuyết này. Đây cũng là tác phẩm chín nhất, hay nhất của ông kể từ trước đến nay.. Phong cách kể chuyện của tác giả giống với nhật ký dã sử thời Minh, Thanh. Câu chữ chắt lọc, tình tiết rõ ràng, giọng kể mạch lạc, văn phong có dáng dấp của những bậc tác gia tiền bối như: Uông Tăng Kỳ, Tôn Lê1... Bởi vậy từng câu, từng chữ trong tác phẩm đều mang nghệ thuật biểu đạt, thấm đẫm mồ hôi tác giả. Quan trọng hơn, chỉ với ngôn ngữ như vậy, tác giả mới có thể đối ứng và thể hiện được nội hàm của tác phẩm: nền văn hóa phương Tây đối thoại với Thánh Thần và nền sinh thái của nhân loại, bởi sự hiện hữu mọi nơi của Thánh Thần mà người ta vui vẻ, tự tại. Người với người tuy quan hệ, qua lại không nhiều, nhưng không bị cô độc. Tiếp nữa, văn hóa Trung Quốc đối thoại với con người và kiếp người phù du lại vì sự chú trọng cực đoan đến hiện thực và truyền thống Nho gia, vì sự khác nhau về quần xã, địa vị và lợi ích, vì sự trắc trở, khó đoán của lòng người và mất mát niềm tin, nên những người bạn có thể dốc bầu tâm sự, sưởi ấm tâm hồn mình không nhiều, vậy nên phải sống trong nỗi cô độc nghìn năm. 1. Uông Tăng Kỳ: sinh năm 1920 tại tỉnh Tô Giang. Là nhân vật tiêu biểu cho thế hệ nhà văn đương đại, nhà viết kịch, tản văn... Cuộc đời ông trải qua nhiều sóng gió, trắc trở, phải chịu đựng nhiều sự đối đãi bất công. Nhưng dù vậy ông vẫn luôn giữ thái độ bình tĩnh, khoáng đạt và sáng tác ra rất nhiều những tác phẩm văn học theo chủ nghĩa lạc quan tích cực. Tôn Lê: sinh năm 1913 tại tỉnh Hà Bắc. Là người đi đầu trong tầng lớp những nhà văn đương đại Trung Quốc. Các tác phẩm của ông nhận được sự đánh giá rất cao của mọi người. Sau khi đọc xong tác phẩm của ông, Mao Trạch Đông từng viết: “Đây là một tác giả rất có phong cách.” Mỗi một người Trung Quốc đều có trải nghiệm về niềm cô độc như vậy. Thế nhưng, kể từ Ngũ Tứ đến nay, đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên nhìn thẳng vào người dân thường, quan tâm đến tâm hồn họ và ca ngợi họ như thế. Nửa đầu cuốn tiểu thuyết nói về quá khứ: Ngô Mô-sê cô độc đánh mất cô con gái nuôi - người duy nhất “nói chuyện được” với gã. Vì sự tìm, gã rời khỏi Diên Tân. Nửa cuối tiểu thuyết nói về hiện tại: Con trai con gái nuôi của Ngô Mô-sê là Ngưu Ái Gia cũng vì để thoát khỏi sự cô độc, muốn tìm một người bạn “nói chuyện được”, mà đi tới Diên Tân. Rời và Tới ròng rã mất trăm năm. Trong tác phẩm này, mọi mối quan hệ tình tiết và kết cấu nhân vật, mọi sự hài hòa trong tổ chức quần xã và gia đình, thậm chí đến ngay cả nhục dục và tình yêu cũng đều liên quan đến chuyện người với người có nói chuyện được với nhau hay không; liên quan đến chuyện lời nói ra có thể chạm đến tâm hồn, mang lại hơi ấm, hóa giải xung đột, kích thích đam mê hay không. Lời nói, một khi đã trở thành thứ duy nhất để tương thông giữa con người với con người, thì sự tìm kiếm và cô độc liền đi kèm theo nhau suốt đời. Sự đuối sức của tâm hồn và sự rệu rã của sự sống, và cả sự mịt mù, mệt mỏi vô bờ bến liền sản sinh, gắn với nhau như hình với bóng. Từ đó, chúng ta chợt nhận ra, người Trung Quốc sao lại phải sống mệt mỏi đến vậy! Sự mệt mỏi ấy, giống như đêm dài đằng đẵng, mài cứa vào thần kinh chúng ta, hết đời này sang đời khác. Để thoát khỏi sự cô độc và mệt mỏi ấy, những con người trong tác phẩm đã cố gắng tạo ra những thanh âm và niềm vui riêng. Thế là, hô tang liền trở thành nghề mà nhân vật chính Dương Bách Thuận tôn thờ. Thủ đàm với con hát trở thành sở thích cá nhân của huyện trưởng... Nhưng điều ấy vẫn không thể thay đổi được số phận của nhân vật trong truyện. Bởi vậy, đọc cuốn tiểu thuyết này, ta thấy nặng nề, đau đớn. Tâm trạng ấy khiến chúng ta không ngừng bị quẩn quanh giữa “Luận Ngữ” và “Kinh Thánh”, quanh quẩn trong mối trăn trở nghìn năm là đối thoại với Thánh Thần hay đối thoại với con người... Đương nhiên, đọc cuốn tiểu thuyết này, chúng ta cũng cảm nhận được sự bền bỉ và ngoan cường của sự sống. Để có được một chỗ dựa và an ủi về tinh thần, con người bất giác lại theo đuổi bóng dáng trong “Một câu chọi vạn câu”, rất giống với tấm lưng còng của tổ tiên và vòm trời được ghép bởi vô vàn những tấm lưng ấy. -An Ba Thuấn *** Bố Dương Bách Thuận bán đậu phụ, người ta gọi lão là lão Dương bán đậu phụ. Ngoài đậu phụ, mùa hè, lão còn bán cả mỳ nguội. Lão Dương bán đậu phụ và lão Mã đánh xe ngựa ơ Mã Gia Trang là bạn thân với nhau. Thật ra hai người vốn không nên là bạn, bởi lão Mã thường bắt nạt lão Dương. Bắt nạt ở đây không phải ý bảo lão ta đánh, hay mắng chửi, hay bắt chẹt lão Dương về khoản tiền bạc, mà là coi khinh từ trong trứng nước. Khi đã coi khinh một ai đó thì có thể không cần phải đi lại, quan hệ với người ấy, nhưng lão Mã hễ nói chuyện tếu táo là lại không thể thiếu được lão Dương. Lão Dương khi kể với mọi người về bạn mình, người đầu tiên lão nhắc đến là lão Mã. Còn lão Mã khi kể về bạn mình, kể đây là kể sau lưng, thì cấm có lần nào lão ta đả động đến lão Dương bán đậu phụ và mỳ nguội ở Dương Gia Trang. Nhưng người ngoài không biết nội tình bên trong lại cứ tưởng hai người là bạn thân. Năm Dương Bách Thuận 11 tuổi, lão Lý thợ rèn ngoài thị trấn làm tiệc mừng thọ mẹ. Lò rèn của lão Lý tên là “Lò rèn Đới Vượng”, chuyên làm mấy thứ như: thìa, dao thái, lưỡi rìu, lưỡi cuốc, lưỡi liềm, răng bừa, lưỡi xẻng, chốt cửa... Cánh thợ rèn, mười người thì có đến tám chín người tính tình nôn nóng. Nhưng lão Lý lại đủng đỉnh. Một cái đinh bừa thôi mà lão ta cũng phải làm hai canh giờ mới xong. Chậm đây, nhưng là chậm chắc, chậm tinh xảo, cái đinh bừa ấy thể nào cũng góc cạnh sắc nét. Trước khi đem tôi, những thứ: thìa, dao thái, lưỡi rìu, lưỡi cuốc, lưỡi liềm, lưỡi dao, chốt cửa... đều được lão in lên hai chữ “Đới Vượng”. Trong bán kính vài chục dặm, tuyệt nhiên không có một gã thợ rèn nào hành nghề. Không phải vì tay nghề họ kém lão Lý, mà vì chẳng ai có thế lọ mọ, tẩn mẩn được như lão. Người đủng đỉnh thường kỹ tính. Người kỹ tính dễ thù dai. Lão Lý là dần làm ăn, lò rèn ngày nào cũng có người qua lại, chắc chắn không tránh khỏi có câu này câu kia đắc tội với lão. Ấy thế nhưng lão không thù người ngoài, chỉ thù mỗi mẹ. Mẹ lão là người nóng tính, cái tính đủng đỉnh của lão là do bị tính nóng nảy của bà mẹ đè nén mà ra. Hồi tám tuổi, Lý ăn vụng một miếng bánh táo, liền bị mẹ giơ chiếc muôi sắt lên giáng thẳng vào đầu. Chậc... một hố sâu hoắm hiện ra, máu chảy ròng ròng. Người khác, khi vết thương đã lành thường quên đau, còn lão bắt đầu từ tám tuổi đã thù mẹ. Cái sự thù của lão không phải vì vết thương sâu hoắm, mà vì bà mẹ lão, sau khi làm ra vết thương ấy vẫn cười cười nói nói, tung tẩy đi cùng mọi người tới phố huyện xem tuồng. Cũng chẳng phải vì thù cái sự xem tuồng, mà vì sau khi lão trưởng thành, một người tính đủng đỉnh, một người tính nôn nóng, cách nhìn nhận về mỗi sự việc đều khác nhau. Mẹ lão bị viêm vành mắt. Năm lão 40 tuổi, bố lão mất. Năm lão 45 tuổi, mẹ lão bị mù. Sau khi bà mẹ bị mù, lão Lý trở thành ông chủ của Lò rèn Đới Vượng . Sau khi thành ông chủ rồi, lão Lý cũng vẫn chẳng hề này kia với bà mẹ. Chuyện ăn, chuyện mặc của bà vẫn giống như lúc trước, có điều bà mẹ nói gì, lão đều bỏ ngoài tai. Làm nghề rèn, bữa ăn ngày thường rất đạm bạc, nhưng bà mẹ lão vẫn lớn tiếng: - Nhạt miệng quá đi mất! Mau đi làm miếng thịt bò về đây cho tôi nhai tạm. Lão Lý: - Hẵng cứ đợi đấy. Đợi cũng chỉ là đợi suông thế. Mẹ lão: - Buồn quá đi mất. Mau dắt con lừa ra đây để tôi ra phố huyện chơi một lát. - Hẵng cứ đợi đấy. Đợi cũng chỉ là đợi suông thế. Không phải lão cố ý chọc giận mẹ, mà là để hãm dần cái tính nôn nóng của bà. Mẹ lão nôn nóng đã nửa đời người, giờ đã đến lúc phải thong thả lại. Nhưng lão cũng sợ, làm như thế phiền phức e sẽ ngày càng nhiều. Năm mẹ lão 70 tuổi, lão Lý muốn làm lễ mừng thọ cho mẹ. Bà mẹ: - Sắp xuống lỗ đến nơi rồi, khỏi phải thọ thiếc gì cả. Ngày thường, cứ tử tế với tôi thêm một chút là được. Rồi lại gõ chiếc gậy xuống đất: - Anh định làm lễ mừng thọ cho tôi à? Hay lại âm mưu gì cũng không biết chừng. Lão Lý: - Bà chỉ nghĩ lẩn thẩn. Nhưng lão Lý vẫn làm lễ mừng thọ cho mẹ, thật ra không phải vì mẹ lão. Tháng trước, có một thợ rèn họ Đoàn, người An Huy, đến thị trấn và cũng mở một lò rèn. Lão Đoàn béo mập. Lò rèn của lão có tên là “Lò rèn Đoàn béo”. Nếu lão Đoàn cũng tính tình nôn nóng, thì lão Lý chẳng sợ. Ai dè, lão Đoàn béo cũng là một tay đủng đỉnh. Một chiếc đinh bừa mà cũng phải làm mất hai canh giờ đồng hồ. Lão Lý phát hoảng. Muốn nhân dịp mừng thọ mẹ tổ chức một bữa tiệc thật linh đình để dằn mặt lão béo. Mượn cái sự đông khách khứa để lão béo phải hiểu rằng: đất có thổ công, sông có hà bá. Nhưng mọi người chẳng ai hiểu cái nội tình ấy. Chỉ biết, trước đầy, lão Lý chẳng hiếu đễ gì với mẹ, giờ đột nhiên lại có hiếu, bèn đoán chắc lão ta đã hiểu ra bổn phận làm con. Trưa hôm ấy, mọi người đều mang quà đến dự tiệc mừng thọ mẹ lão Lý. Lão Dương và lão Mã đều là bạn của lão Lý, nên hôm ấy cũng đến. Lão Dương phải dậy sớm đi bán đậu phụ ở xa, nên đến hơi muộn. Mã Gia Trang gần thị trấn, nên lão Mã có mặt rất chuẩn giờ. Lão Lý biết lão Dương bán đậu phụ và lão Mã đánh xe ngựa chơi thân với nhau, nên dành một chỗ cho lão Dương ngay cạnh lão Mã. Lão Lý những tưởng mình sắp đặt thế là chu toàn lắm, nào ngờ lão Mă có vẻ bực mình: - Ấy chớ! Bác đổi lão ta ra chỗ khác ngồi đi. Lão Lý: - Hai bác ngồi cạnh nhau nói chuyện tếu cho không khí nó rôm rả. Lão Mã hỏi: - Hôm nay có chất cay không? Lão Lý: - Mỗi bàn ba chai. Không chơi rượu can, nhá. Lão Mã: - Thì thế. Không uống rượu, nói chuyện vui với lão ta còn được. Chứ hễ cứ nốc rượu vào, là lão ta toàn móc ruột móc gan. Móc xong, hể hả lắm, nhưng lại khổ cái thân tôi. Lại tiếp: - Cũng chẳng phải một đôi bận đâu. Lúc ấy, lão Lý mới biết, đôi bạn này không phải là tri kỷ. Hoặc giả, lão Dương coi lão Mã là tri kỷ, nhưng lão Mã lại không thế. Lão Lý đành bèn chuyển chỗ lão Dương tới bàn khác, cạnh lão Đỗ làm nghề môi giới buôn bán gia súc. Dương Bách Thuận bị bố sai sang quẩy nước giúp nhà lão Lý từ hôm trước, nên đã nghe hết câu chuyện. Ngay sau hôm tiệc mừng thọ, lão Dương bán đậu phụ ngồi nhà ca cẩm cỗ nhà lão Lý ăn chán quá, mất quà oan. Chán ở đây không phải vì cỗ bàn không thịnh soạn, mà vì nói chuyện với cái tay Đỗ không hợp. Đầu tay Đỗ đã hói, lại còn bốc mùi, gàu rụng đầy vai. Lão Dương tưởng vì mình tới muộn, nên chẳng may phải ngồi cạnh lão Đỗ. Dương Bách Thuận liên đem câu chuyện nghe được hôm qua kể với bố. Nghe xong, lão Dương giáng ngay cho thằng con một cái bạt tai: - Bác Mã đời nào nói thế. Mày chỉ tầm bậy tầm bạ! Dương Bách Thuận tức tưởi. Còn bố nó ôm đầu ngồi sụp xuống cửa quầy đậu phụ, chẳng nói chẳng rằng. Suốt nửa tháng sau đó, lão Dương cũng chẳng hề đả động đến lão Mã nữa. Thê nhưng, sau nửa tháng, lão Dương lại qua lại với lão Mã, lại nói chuyện tếu táo, có việc lại tìm đến lão Mã trao đổi, bàn bạc. Bán hàng thường phải rao, nhưng lão Dương lại chẳng thích rao gì cả. Rao hàng chia làm hai loại: thô và tinh. Rao thô nghĩa là: bán gì rao nấy, chẳng hạn đã là đậu phụ thì cứ đậu phụ mà rao “Đậu phụ đêêêê...” “Đậu phụ Dương Gia Trang đêêêê..” Còn rao tinh nghĩa là rao có nhạc có điệu hẳn hoi, tâng đậu phụ của mình lên mấy bậc: “Bạn rằng là, đậu phụ này ý a, có phải là đậu phụ? Xin thưa rằng là, đậu phụ này ý a, là đậu phụ. Nhưng không thể ý a coi là đậu phụ...” Thế thì coi là gì? Là bạch ngọc, là mã não chứ còn gì nữa! Lão Dương mồm miệng vụng về, không biết ngân nga thành giai điệu, nhưng lại không muốn rao thô. Thật ra, lão đã từng rao thô, nhưng cũng đặc sắc đáo đế ra phết: “Đậu phụ mới làm, không phải lăn tăn về chất lượng đâyyyyy...” Lão biết đánh trống, dùi trống nện vào mặt trống, gõ vào thành trống, tạo ra nhiều âm thanh khác nhau, vui tai đáo để. Lão ta liến chơi độc , lúc bán đậu phụ, không rao, mà gõ trống. Đánh trống bán đậu phụ, mới mẻ, sáng tạo quá còn gì! Người trong làng hễ nghe tiếng trống là biết ngay lão Dương bán đậu phụ ở Dương Gia Trang đã tới. Ngoài những lúc bán đậu phụ ở làng, vào dịp chợ phiên trên thị trấn, lão cũng lên đó bán. Vừa bán đậu phụ, vừa bán mỳ nguội. Lão ta lấy nan tre cắt mỳ nguội thành từng sợi, cho vào bát, rắc hành, cho thêm mấy nhánh kinh giới, rồi trộn với tương vừng. Bán bát nào, làm bát ấy. Bên trái hàng lão Dương là lão Khổng ở Khổng Gia Trang bán bánh nướng nhân thịt lừa. Bên phải là lão Đậu ở Đậu Gia Trang bán súp cay và thuốc lá sợi. Ở làng, lão Dương đánh trống để bán đậu phụ và mỳ nguội. Ở chợ phiên trên thị trấn, lão cũng giở chiêu ấy. Tiếng trống liên hồi kỳ trận, suốt từ sáng đến tối. Lúc đầu, mọi người thấy mới lạ, nhưng sau độ một tháng, đám lão Khổng, lão Đậu đều phát ngấy. Lão Khổng: - Chốc lại “tùng tùng”, chốc lại “cắc cắc”. Bác Dương này, cái đầu tôi bị bác gõ thành mỳ nguội nhà bác rồi đấy. Buôn bán cỏn con mà cứ làm như xuất quân đánh trận không bằng. Có cần phải ầm ĩ đến thế không? Lão Đậu tính nóng. Chẳng nói chẳng rằng, mặt hằm hằm sấn đến, đá một phát rách trống của lão Dương. 40 năm sau, lão Dương bị trúng gió, nằm liệt giường. Mọi việc trong nhà giao cho con trai cả là Dương Bách Nghiệp cầm trịch. Người khác hễ bị trúng gió là không điều khiển được trí não, mồm miệng cũng vượt khỏi tầm kiểm soát, lắp ba lắp bắp không thành câu. Nhưng lão Dương lại khác, chỉ bị liệt người, trí não và mồm miệng đều không sao. Hồi chưa bị liệt, mồm miệng vụng về, nói chuyện nọ xọ chuyện kia, hoặc gộp hai chuyện thành một. Nhưng sau khi bị liệt, đầu óc tự dưng minh mẫn, mồm miệng lại hóa trôi chảy. Gặp chuyện đều xử lý rất bình tĩnh, đâu ra đấy. Sau khi bị liệt, cả ngày phải nằm trên giường, hơi tí lại phải nhờ vả người khác. Về khoản này, rõ là không bằng lúc trước được, đã thế lại còn thiệt mắt, thiệt mồm. Hễ có bóng người vào, là lão vội đánh ánh mắt nghênh đón, lấy lòng. Sau đấy, người ta hỏi gì, lão đáp nấy. Hồi chưa bị liệt, lão thường nói dối, nhưng sau khi bị liệt, câu nào cũng móc ruột móc gan. Uống nước nhiều, đêm cũng sẽ trở dậy nhiều, nên bắt đầu từ chiều là lão không uống nữa. Sau 40 năm, bạn bè trước của lão, người thì mất, người còn sống thì mỗi người một việc. Sau khi lão bị liệt, chẳng có ma nào đến thăm lão. Ngày Rằm tháng Tám năm ấy, lão Đoàn khi đó bán hành ở chợ xách hai phong bánh đến thăm lão. Lâu không gặp cố nhân, lão Dương cầm tay lão Đoàn rưng rưng. Thấy người nhà đi vào, lão vội lấy tay áo lau nước mắt. Lão Đoàn: - Ông còn liệt kê được những người buôn bán ở chợ phiên năm xưa, từ đầu đông sang đầu tây không? Đành rằng đầu óc lão Dượng còn tỉnh táo, nhưng đã 40 năm trôi qua, lão cũng đã quên hơn nửa những người bạn cùng buôn bán với lão dạo ấy. Lão xòe bàn tay đếm, đến người thứ năm là chịu. Nhưng lão vẫn nhớ đến lão Khổng bản bánh nướng nhân thịt lừa và lão Đậu bán súp cay và thuốc lá sợi lắm, bèn nhảy cóc qua rất nhiều người, đến thẳng đến hai lão ấy. - Lão Khổng nói năng nhỏ nhẹ. Lão Đậu thì tính tình nóng nảy. Hồi ấy, lão ta còn đá rách cả trống của tôi. Nhưng đời nào tôi chịu thua, tôi cũng đạp một phát vào quầy hàng của lão, làm súp cay đổ lênh láng xuống đất. Lão Đoàn: - Ông còn nhớ lão Đổng ở Đổng Gia Trang làm nghề thiến lợn không? Ngoài thiến lợn ra, lão ta còn vá nồi thuê ấy. Lão Dương chau mày nghĩ ngợi, không nhớ ra lão Đổng vừa thiến lợn, vừa và nổi thuê. Lão Đoàn: - Thế còn lão Ngụy ở Ngụy Gia Trang? Ở mé ngoài cùng phía tây chợ phiên, bán gừng tươi, hay cười tủm ấy. Chốc lão ta lại tủm tỉm, chốc lại tủm tỉm. Chẳng biết cười cái gì. Lão Dương vẫn chẳng nhớ ra nổi. Lão Đoàn: - Thế còn lão Mã ở Mã Gia Trang làm nghề đánh xe ngựa, chắc ông vẫn nhớ chứ hả? Lão Dương thở phào: - Lão ấy thì tôi nhớ chứ sao không. Chết hơn hai năm rồi. Lão Đoàn cười: - Năm xưa, lúc nào ông cũng chỉ có lão Mã, chẳng thèm để ý đến ai. Nhưng ông đâu biết rằng, ông coi người ta là bạn, nhưng người ta toàn bỡn cợt ông đằng sau lưng. Lão Dương vội chuyển đề tài: - Chuyện bao năm rồi, mà ông vẫn nhớ à. Lão Đoàn: - Tôi không nói đến chuyện ấy, mà nói đến cái lý. Kẻ chẳng coi ông là bạn, thì ông cứ săn đón người ta cả đời, còn người coi ông là bạn, thì ông lại chẳng xem vào đầu. Hồi ấy, người trên chợ đều bực mình chuyện ông gõ trống, mỗi tôi là thích nghe. Để được nghe tiếng trống, tôi đã mua không biết bao nhiêu là mỳ nguội của ông. Có bận, muốn lân la đôi ba câu với ông, nhưng ông có thèm bắt chuyện đâu. Lão Dương vội nói: - Làm gì có chuyện ấy. Lão Đoàn phẩy tay: - Đấy, ông xem. Đến bây giờ ông vẫn còn chưa coi tôi là bạn. Hôm nay tôi đến đây là muốn hỏi ông một câu. - Ông hỏi gì? - Sống cả đời rồi. Ông có được một người nào đáng tấm bạn không? Lại nói: - Trước đây chưa nghĩ ra. Nhưng bây giờ, nằm trên giường thế này, chắc hẳn ông đã thông rồi chứ hả? Lúc ấy, lão Dương mới hiểu. Thì ra, sau 40 năm, tay Đoàn thấy mình nằm liệt giường, còn chân tay hắn vẫn nhanh nhẹn, nên tìm đến để trả thù. Lão Dương nhổ nước miếng: - Ông Đoàn, khi xưa tôi đã không nhìn lầm ông. Ông là đồ tồi. Lão Đoàn cười, bỏ đi. Lão ta đi rồi, lão Dương vẫn còn nằm trên giường mắng chửi lão. Con trai cả Dương Bách Nghiệp đi vào, ông ta là anh của Dương Bách Thuận, tuổi đã ngoài 50. Hồi nhỏ, Dương Bách Nghiệp đần độn, toàn bị lão Dương đánh. Sau hơn 40 năm, lão Dương nằm liệt giường, ông ta trở thành chủ gia đinh. Lão Dương giờ có muốn động chân động tay, cũng phải nhìn sắc mặt ông con cả. Bách Nghiệp tiếp tục đề tài của lão Đoàn, hỏi: - Lão Mã đánh xe ngựa. Ông bán đậu phụ. Hai người chẳng dây mơ rễ má gì với nhau. Hồi ấy, người ta chẳng coi ông là người, cớ sao ông lại cứ phải săn đón làm bạn với lão ta? Không hiểu ông có lý do gì? Lão Dương dám nổi nóng với lão Đoàn, nhưng không dám nổi nóng với Bách Nghiệp. Ông ta hỏi câu gì, lão phải trả lời câu ấy. Đành thôi chửi lão Đoàn, than: - Có chứ. Nếu không, bố cũng cóc sợ cái lão ấy. Bách Nghiệp: - Ông ăn chặn của lão ta thứ gì à? Hay có quả phốt nào bị lão ta bắt thóp? Lão Dương: “Giả có ăn chặn hay bị phốt thì lão ấy cũng chẳng bắt thóp được bố. Kiếp sau, không chơi bời, qua lại với lão ấy là được chứ gì. Chẳng là, ngay lần đầu tiên chạm nhau, bố đã bị lão ấy át vía. Bách Nghiệp: - Át thế nào? Lão Dương: - Lần đầu bố gặp lão ấy là ở phiên chợ bán gia súc. Lão ấy đi chợ mua ngựa, còn bố bán lừa. Cả bọn tán gẫu với nhau. Cùng một câu chuyện, nhưng bố chỉ có thể nhìn được một dặm, còn lão ấy thì nhìn được mười dặm. Bố chỉ nhìn được một tháng, nhưng lão ấy có thể nhìn được tới mười năm. Cuối cùng, bố không bán được lừa. Về khoản lời lẽ, bố bị lão Mã át vía. Lại lắc đầu: - Việc không bắt người, nhưng lời bắt người. Lại nói: - Sau này, hễ gặp việc gì, bố đều tìm lão ấy để bàn bạc. Bách Nghiệp: - Con hiểu rồi, vẫn là ông muốn ăn chặn người khác. Gặp việc, không tự mình quyết định được, muốn mượn thêm đôi mắt của người khác cho tinh tường. Nhưng con vẫn không hiểu, lão ấy đã không coi ông ra gì, nhưng sao vẫn cứ qua lại với ông nhỉ? Lão Dương: - Trong chu vi trăm dặm, tìm đâu ra người có thể nhìn được mười dặm, nhìn thấu một năm? Lão Mã cả đời cũng chẳng có bạn. Lại cảm thán: - Đời lão Mã không nên đánh xe ngựa. Bách Nghiệp: - Không đánh xe ngựa thì làm gì? Lão Dương: - Lão Giả mù thầy bói đã xem cho lão ấy, bảo đáng ra lão ấy phải là đám Trần Thắng, Ngô Quảng ấy, nhưng lão không có gan, trời vừa tối là đố dám ra khỏi nhà. Thực ra, cả đời lão ấy đánh xe ngựa, nhưng cũng chẳng đâu vào đâu. Đánh xe ngựa mà không dám đánh xe đi ban đêm, để lỡ biết bao nhiêu là việc! Rồi nổi giận: - Nhát như chuột nhắt mà dám coi thường tao à? Mẹ kiếp, có tao coi thường lão ấy thì có! Cả đời không coi tao là bạn à? Có mà tao không coi lão ấy là bạn thì có! Bách Nghiệp gật gù. Gã hiểu rằng, hai lão ấy phải là bạn của nhau suốt đời. Đã đến giờ ăn trưa. Hôm ấy là ngày Rằm tháng Tám, bữa trưa ăn bánh bột mỳ rán, canh rau hầm thịt. Bánh bột mỳ rán là món lão Dương khoái khẩu nhất. Nhưng hơn 60 tuổi, răng rụng quá nửa, không nhai nổi, phải có thêm món canh rau hầm thịt. Rau và thịt được đun lâu, rau nhừ, thịt cũng nhừ, nước canh nóng bỏng. Xé bánh thả vào nước rau hầm thịt, ngâm đến độ bánh vừa cho vào miệng là đã tan ra. Hồi lão Dương còn trẻ, vào dịp lễ tết đều ăn bánh bột mỳ rán. Nhưng sau khi lão bị liệt giường, chuyện có được ăn hay không, lão không quyết được. Vốn dĩ, Bách Nghiệp đã quyết định bữa trưa sẽ ăn món bánh bột mỳ rán và canh rau hầm thịt. Nhưng lão Dương lại tưởng vì vừa rồi mình nói thật, nên Bách Nghiệp mới cho ăn, coi như phần thưởng. Ăn một bữa bánh mà lão Dương mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Trong hơi nóng của bát canh rau hầm thịt, lão ngẩng mặt lên, cười lấy lòng cậu con cả, ý bảo: - Lần sau anh hỏi gì, bố cũng sẽ nói thật. Mời các bạn đón đọc Một Câu Chọi Vạn Câu của tác giả Lưu Chấn Vân.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

AQ Chính Truyện - Lỗ Tấn
AQ có nhiều tình huống lý luận đến "điên khùng". A Q hay bắt nạt kẻ kém may mắn hơn mình nhưng lại sợ hãi trước những kẻ hơn mình về địa vị, quyền lực hoặc sức mạnh. ... Lỗ Tấn đã cho thấy những sai lầm cực đoan của A Q, đó cũng là biểu hiện của tính cách dân tộc Trung Hoa thời bấy giờ. Bối cảnh lịch sử của câu chuyện là thời kỳ trước sau cách mạng Tân Hợi (1911) với những thế lực phong kiến hiện vào các tên địa chủ. Trong A.Q chính truyện, Lỗ Tấn cũng vạch trần tính chất giả dối và phản động của giai cấp tư sản lãnh đạo cuối cùng hoàn toàn do một bọn đầu cơ thao túng. Nhờ tin tức nhanh chóng, cụ Triệu biết rằng bọn cách mạng đã vào huyện đêm hôm trước. Cụ liền quất đuôi sam vòng lên đầu... qua nhà họ Tiền thăm thằng Tây giả... hẹn hò cùng nhau làm cách mạng. Chính quyền cũng rơi vào tay bọn địa chủ phong kiến và quân phiệt. Những người như A.Q không được làm cách mạng. Đời sống xã hội không chút thay đổi, A.Q cũng phải thốt lên: "Đã cách cái mạng đi rồi mà vẫn thế này thôi ư?" *** ...Riêng về phần tôi, tôi vẫn cho rằng hiện nay, tôi không còn phải là người có điều gì bức thiết lắm, không nói ra không được nhưng hoặc giả, bởi vì chưa thể nào quên hết những nỗi quạnh hiu, đau khổ của mình ngày trước, nên có lúc không thể không gào thét lên mấy tiếng, để an ủi những kẻ dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu, mong họ ở nơi tiền khu được vững tâm hơn. Còn như tiếng gào thét của tôi hùng dũng hay bi ai đáng ghét hay đáng buồn cười điều đó tôi không hơi đâu nghĩ đến. Nhưng đã gào thét, thì tất nhiên phải gào thét theo mệnh lệnh của vị chủ tướng. Cho nên đôi khi tôi không ngại viết những điều xa với sự thực. Trong truyện Thuốc, bỗng dưng tôi thêm một vòng hoa trên nấm mộ anh Du, hay trong truyện Ngày mai, tôi không kể chuyện chị Tư Thiền cuối cùng vẫn không nằm mộng thấy đứa con của chị, bởi vì vị chủ tướng bấy giờ chủ trương không để cho người ta đi đến chỗ tiêu cực. Còn tôi, tôi cũng không muốn đem nỗi quạnh hiu mà mình cho là đau khổ làm lây sang những người thanh niên đang ôm ấp những mộng đẹp như tôi hồi còn niên thiếu. Nói như vậy là có thể biết ngay rằng tiểu thuyết của tôi còn xa với nghệ thuật lắm, thế mà cho đến naỵ vẫn mang tên là tiểu thuyết, thậm chí bây giờ đây, lại có dịp xuất bản thành tập nữa. Dù thế nào mặc lòng, không thể không nói đó là một điều may mắn. Điều may mắn ấy tuy làm cho tôi không yên tâm, nhưng nghĩ rằng trong đời, tạm thời còn có người đọc, thì tôi cũng vẫn cứ lấy làm thích thú như thường. Bởi vậy, tôi đã thu thập những truyện ngắn của tôi và đem in lại vì những duyên cớ nói trên, nên đặt tên là Gào Thét. Lỗ Tấn *** A Q không những tên, họ, quê quán đều mập mờ, cho đến "hành trạng" trước kia ra sao cũng không rõ ràng nốt. Số là người làng Mùi đối với A Q xưa nay thì cần y làm công cho, hoặc chỉ đem y ra làm trò cười mà thôi, chứ không bao giờ có ai chú ý đến "hành trạng" của y cả. Mà chính y tự mình cũng chưa hề bao giờ nói tới chuyện đó hết. Chỉ có những lúc cãi lộn với ai thì họa hoằn y mới trừng ngược mắt lên mà tuyên bố : - Nhà tao xưa kia có bề có thế bằng mấy mày kia ! Thứ mày thấm vào đâu ! A Q không hề có nhà cửa. Y trọ ngay trong đền Thổ Cốc làng Mùi. Y cũng không có nghề nghiệp nhất định, chỉ đi làm thuê làm mướn cho người ta, ai thuê gặt lúa thì gặt lúa, thuê giã gạo thì giã gạo, thuê chống thuyền thì chống thuyền. Ngộ những lúc công việc kéo dài thì y ở lại trong nhà chủ tạm thời hôm đó, xong công việc lại đi. Cho nên, người ta có công việc bận bịu lắm thì còn nhớ đến A Q, nhưng nhớ là nhớ công ăn việc làm, chứ nào phải nhớ gì đến "hành trạng" ! Rồi đến lúc công việc rỗi thì luôn cả A Q người ta cũng chả nhớ nữa, còn nói gì đến "hành trạng" ! Ấy thế mà có một lần, một ông lão nào đã tâng bốc y một câu như sau : "A Q được việc thật !" Lúc đó A Q đang đánh trần đứng trước lão, người gầy gò và bộ uể oải ; người ngoài chả ai hiểu lão kia nói thật hay chế giễu, nhưng A Q rất lấy làm đắc ý. A Q lại có tính tự cao. Cả bấy nhiêu mặt dân trong làng Mùi, y tuyệt nhiên không đếm xỉa đến ai cả. Cho đến hai cậu đồ trong làng cũng vậy, y vẫn xem thường hết sức. Phú cậu đồ giả, ngày sau có thể thành thầy tú giả dã. Cụ Cố nhà họ Triệu và Cụ Cố nhà họ Tiền là hai người mà trong làng ai ai cũng kính trọng, bởi vì hai cụ gia tư đã giàu có, lại hai cậu con là hai cậu đồ ; thế mà chỉ một mình A Q là không ra vẻ sùng bái lắm. Y nghĩ bụng : "Con tớ ngày sau lại không làm nên, to bằng năm bằng mười lũ ấy à !". Hơn nữa, A Q lại có thể lên mặt với cả làng Mùi ở chỗ y đã lên huyện mấy bận, mặc dù y có trọng gì lũ phố phường. Thì chẳng hạn như cái ghế dài ba thước, rộng ba tấc, ở làng Mùi gọi là cái "ghế dài", A Q cũng gọi là "ghế dài", thế mà trên huyện họ lại gọi là "tràng kỷ" ! Y nghĩ bụng : "Gọi như thế là sai ! Là đáng cười !" ở làng Mùi, rán cá, người ta bao giờ cũng cho thêm một vài lá hành dài bằng ba đốt tay, thế mà trên huyện, họ lại cho nhánh hành thái thỏ vào ! A Q nghĩ bụng : "Thế là sai, là đáng cười!" Nhưng người làng Mùi là những người nhà quê, chưa hề đi đâu cả, lại chẳng đáng cười hơn ai hết hay sao ? Một đời chúng nó chưa hề biết trên huyện người ta rán cá như thế nào kia mà ! A Q là người "trước kia có bề có thế", kiến thức rộng, lại "được việc", kể ra cũng đã có thể gọi là người "hoàn toàn" lắm rồi. Chỉ đáng tiếc là trong người y còn có một tí khuyết điểm. Bực bội nhất là ngay trên đầu có một đám sẹo to tướng chẳng biết từ bao giờ. Mặc dù đám sẹo đó cũng là vật sở hữu của y, nhưng xem trong ý tứ y thì hình như y cũng chẳng cho là quý báu gì, bởi vì y kiêng tuyệt không dùng đến tiếng "sẹo" và tất cả những tiếng âm gần giống âm "sẹo". Về sau cứ mở rộng phạm vi dần, tiếng "sáng", tiếng "rạng" cũng kiêng, rồi tiếng "đèn", tiếng "đuốc" cũng kiêng tuốt. Chẳng cứ người nào, bất kỳ vô tình hay hữu ý mà phạm phải huý là A Q nổi giận, cái đám sẹo đỏ ửng lên, y nhìn để đánh giá đối thủ rồi kẻ ít mồm ít miệng là y chửi, kẻ sức yếu là y đánh. Nhưng chẳng biết thế quái nào, A Q thường vẫn thua nhiều hơn là được. Do đó y thay đổi dần dần chính sách, về sau chỉ lườm kẻ thù bằng một cặp mắt giận dữ nữa mà thôi. Nào ngờ, sau lúc A Q thi hành cái chính sách "lườm nguýt" đó thì bọn vô công rồi nghề ở làng Mùi lại càng thích chọc ghẹo y hơn. Hễ thấy mặt A Q đâu là y như chúng nó giả vờ làm bộ ngạc nhiên nói : - Ơ kìa ! Sáng quang lên rồi kia kìa ! A Q lại nổi giận, lại lườm bằng một cặp mắt rất dữ tợn. Nhưng chúng nó vẫn không sợ, cứ nói : - À té ra có ngọn đèn bảo hiểm kia kìa ! Không có cách gì đối phó, A Q đành nghĩ ra một câu để trả thù : - Thứ chúng mày không xứng ... Lúc đó, y lại có cảm tưởng rằng cái sẹo trên đầu y không phải là một cái sẹo tầm thường mà là một cái sẹo vinh diệu, danh giá nữa kia. Nhưng như trên kia đã nói, A Q là người kiến thức rộng, y biết ngay rằng nếu y nói nữa nhất định sẽ phạm húy, nên y không nói hết câu. ... Mời các bạn đón đọc AQ Chính Truyện của tác giả Lỗ Tấn.
Thiếu Phụ Đam Mê - Émile Zola
Emile Zola là nhà văn lớn của nước Pháp nửa cuối thế kỷ XIX. Cùng với Guy de Maupassant, ông là một trong hai tác giả được công chúng Pháp tìm đọc nhiều nhất thời bấy giờ. Sách của ông đa phần đều thuộc loại ăn khách. Năm 1867, Zola cho xuất bản tác phẩm "Thiếu phụ đam mê". Lần này, ông đã được người đời "để mắt" tới, nhưng không phải vì giá trị thực của cuốn sách mà bởi nó bị mang tiếng là đi sâu vào khai thác các yếu tố dâm ô và bạo lực. Nhiều bài công kích cuốn sách xuất hiện trên báo chí khiến trong suốt các năm từ 1868 tới 1870, Zola phải bỏ ra nhiều công sức để viết bài "gỡ gạc"… *** Đầu đường Guenégaud, nếu đi từ bến cảng sang, người ta sẽ thấy ngõ Cầu Mới, một loại hành lang hẹp và tối tăm chạy dài từ đường Mazarine đến đường sông Seine. Ngõ này quá lắm chừng ba mươi bước bề dài và hai bước bề rộng, được lót bằng những tấm đan vàng nhợt, cũ sờn, bong ra, tiết một mùi ẩm mốc nồng nặc, còn khung viền quanh vuông vức, đen vì cáu bẩn. Vào những ngày hè đẹp, khi ánh mặt trời nặng nề chói chang trên các đường phố thì một luồng sáng trắng nhợt rơi xuống các cặp kính bẩn và lê lết thảm hại trong ngõ. Còn những ngày mùa đông khắc nghiệt, những buổi sáng sương mù, các cửa kính chỉ hắt bóng tối dày đặc xuống mặt đường nhầy nhụa, thứ bóng tối bẩn thỉu và ghê tởm. Bên trái, những cửa hiệu u ám, thấp lè tè, nằm khuất lấp để tránh những làn hơi lạnh từ hầm rượu. Ở đó có các quầy hàng sách cũ, đồ chơi trẻ con, các quầy hàng giấy bồi mà hàng hoá xám xỉn vì bụi bặm phô bày lờ mờ trong bóng tối, những tủ kính tạo bằng những ô vuông nhỏ lấp lánh ánh phản chiếu nhợt nhạt kỳ lạ của hàng hoá, đàng kia, sau các quầy hàng, các cửa hiệu tràn ngập bóng tối là bấy nhiêu lỗ hổng âm u lắc lay những bóng hình kỳ dị. Bên phải, một bức tường chạy dài suốt ngõ mà các chủ hiệu đối diện để sát vào nó những tủ bày hàng nhỏ hẹp, đồ vật linh tinh, hàng hoá bị bỏ quên ở đó từ hai chục năm nay nằm chỏng chơ dọc theo những tấm ván mỏng xỉn màu nâu tớm lợm. Một bà hàng nữ trang giả trụ ở một những chiếc tủ quầy hàng đó, bán những chiếc nhẫn giá mười lăm xu được xếp đặt khéo léo trên một miếng đệm nhung màu xanh, trong đáy chiếc hộp bằng gỗ đào hoa tâm. Phía trên mái kính, bức tường sừng sững vươn lên, đen đúa trát vữa vụng về, như mắc chứng phong sùi loang lổ đầy những vết sẹo. Ngõ Cầu Mới không phải là chỗ để dạo chơi. Người ta dùng nó để tránh đường vòng, tiết kiệm một vài phút. Đó là những người bận rộn mà nỗi lo âu duy nhất là đi nhanh và đi thẳng về phía trước . Người ta thấy ở đó có những người học việc mang tạp dề, những cô thợ mang túi đồ khâu, những người đàn ông và đàn bà tay xách nách mang, những người già lê bước trong bóng hoàng hôn ảm đạm phủ trên các mặt cửa kính, những nhóm trẻ con tan trường qua đó gây thành đợt xôn xao khi tiếng guốc gõ nhịp trên các tấm đan lót đường. Trong ngày, chỉ có tiếng chân khô khan và hối hả khua vang trên đá một cách bất thường gây bực dọc, còn thì không ai nói năng, không ai dừng chân lại, mỗi người theo đuổi sự bận tâm của riêng mình, đầu cúi thấp, chân bước dồn, không một cái liếc mắt vào các cửa hiệu đó. Những người bán hàng với vẻ bồn chồn nhìn những khách bộ hành mà do điều thần kỳ nào đó, dừng lại bất chợt trước quầy hàng của họ. Vào chiều tối, ba ngọn đèn hơi đốt được bọc trong các lồng đèn nặng chịch vuông vức, toả ánh sáng cho ngõ. Những ngọn đèn treo lơ lửng trên khung kính hắt những vệt sáng lạc lõng, tạo chung quanh chúng những chùm tia nhợt nhạt leo lét, chừng như sẵn sàng tắt ngấm đi. Ngõ có cái vẻ âm u của một nơi chốn vắng vẻ đầy bất trắc, với những đám tối phủ trên mặt đất lát, những làn hơi ẩm ướt bốc lên từ mặt đường, như thể một đường hầm được soi sáng lờ mờ bởi ba ngọn đèn tang. Các chủ hiệu bằng lòng với những tia sáng yếu ớt từ các ngọn đèn hơi đốt này hắt xuống các khung kính của họ, trong tiệm chỉ thắp một ngọn đèn chụp khác được đặt ở một góc sâu, và người qua đường có thể vì thế phân biệt được những gì bên trong các hốc tối vào lúc ban ngày đó. trong bóng dáng đen nhợt của các mặt tiền, khung cửa kính của một hàng giấy bồi sáng rực lên, hai ngọn đèn đá chọc thủng bóng tối bằng hai vệt sáng vàng, và ở phía khác, một ngọn nến cắm giữa đĩa dầu lấp lánh ánh sáng bên trong hộp nữ trang giả. Bà hàng đang gà gật phía sau quầy, đôi bàn tay khuất dưới tấm khăn choàng. Đã vài năm nay, đối diện với bà hàng đó là một cửa hiệu với ván lát tường màu xanh ve rịn mùi ẩm mốc từ mọi kẽ hở. Bảng hiệu làm bằng một tấm ván dài và hẹp, trên có hàng chữ màu đen: Tiệm tạp hoá, và trên một trong những khung kính cửa hiệu có ghi tên phụ nữ: Thérèse Raquin, bằng chữ đỏ. Hai bên cửa kính lún sâu vào, được phủ giấy xanh lơ. Vào ban ngày chỉ có thể phân biệt hàng bày bán trong một cảnh tranh tối tranh sáng hơi dịu. Một bên có ít hàng vải, những chiếc mũ bonnet xếp nếp giá hai ba francs một cái, những tay áo và cổ cồn mousseline, rồi những chiếc áo đan, vớ dài, vớ ngắn, dải đeo. Món nào cũng ngả vàng và nhăn nhúm treo thảm hại trên những móc của dây sắt. Tủ kính từ trên xuống dưới vì thế đầy những mớ giẻ trăng trắng mang dáng vẻ ảo não trong đám tối lờ mờ. Những chiếc mũ mới, màu trắng sáng hơn, tạo thành những bệt nổi lên trên nền xanh của giấy phủ vách. Và những chiếc vớ ngắn màu mè móc dọc trên một thanh ngang trở thành những đốm tối nhạt nhoà mơ hồ giữa hàng vải mousseline. Ở góc khác, trong một tủ kính nhỏ hơn, những cuộn len xanh to kềnh chồng chất, những nút áo màu đen gắn trên các tấm bìa trắng, những chiếc hộp đủ màu và đủ cỡ, những lưới bao tóc có hột cườm bằng thép bay trên những khoanh giây xanh nhạt, những bó kim đan, những mẫu trướng, những cuộn ruban, một đống hổ lốn các đồ vật xỉn mờ hẳn đã nằm ở đó từ năm hoặc sáu năm nay. Mọi màu sắc đã ngả thành xám bẩn, trong chiếc tủ mà bụi bặm và ẩm thấp đã huỷ hoại này. Vào buổi trưa mùa hè, khi mặt trời chói chang trên các quảng trường và đường phố thì người ta thấy đàng sau những chiếc mũ của một tủ kính khác một khuôn mặt thiếu phụ xanh xao và trầm lặng. Khuôn mặt hiện ra mơ hồ trong bóng tối tràn ngập của tiệm. Dưới vầng trán thấp gầy nối tiếp một chiếc mũi dài, hẹp và thon, môi như hai vệt mảnh của một đoá hồng phai lạt, và chiếc cằm ngắn nổi gân, với đường nét mềm mại và đầy đặn tựa trên cổ. thân hình nàng khuất trong bóng tối, chỉ xuất hiện khuôn mặt một màu trắng nhợt nhạt, mắt trũng sâu đen lánh mở rộng và như thể bị át đi bởi mớ tóc dày màu tối. Khuôn mặt ấy trong nhiều ở đó, bất động và bình thản, giữa hai chiếc mũ bonnet in vết rỉ của thanh treo ẩm mốc. Buổi tối, khi đã lên đèn, có thể thấy được bên trong cửa hiệu. Nó rộng hơn là sâu ở một đầu có một quầy nhỏ, đầu kia, một cầu thang trôn ốc dẫn đến các phòng của tầng thứ nhất. Các tủ kính, tủ thường, những hàng các tông dựa sát vào tường, bốn chiếc ghế dựa vào một chiếc bàn bổ sung vào mớ đồ đạc trong nhà. Căn phòng có vẻ trần trụi, lạnh lẽo, hàng hóa được đóng gói, dồn chặt vào các góc, không rơi vãi đây đó cùng với những màu sắc loè loẹt tươi vui của chúng. Thông thường, có hai người phụ nữ ngồi sau quầy. Người thiếu phụ trẻ với khuôn mặt trầm lắng và một người già mỉm cười thiu thiu ngủ. Bà này chừng sáu mươi tuổi, khuôn mặt đầy đặn và bình thản, trắng lên dưới ánh sáng ngọn đèn. Một con mèo vằn to tướng, ngồi xổm ở một góc quầy hàng nhìn bà ta ngủ. Ở chỗ thấp hơn, một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi ngồi trên ghế dựa đọc sách hoặc thì thầm với thiếu phụ. Anh ta nhỏ người, còm cõi, dáng điệu uể oải, tóc màu hoe nhạt, râu cằm lơ thơ, mặt lấm tấm những vết hoa, có vẻ như một đứa trẻ bệnh hoạn được nuông chiều. Trước mười giờ một chút, người đàn bà thức giấc. Họ đóng cửa tiệm lại và cả gia đình lên gác. Con mèo vằn đuổi theo chủ kêu gừ gừ cọ đầu vào tay vịn cầu thang. Trên đó nhà có ba phòng. Cầu thang dẫn đến một phòng ăn cũng được dùng làm phòng khách. Bên trái là một lò sưởi bằng sành nằm ở một hóc tường, đối diện dựng thẳng một tủ búp phê, rồi những chiếc ghế dựa xếp dài theo tường, một chiếc bàn tròn rất rộng choán giữa phòng. Phía trong cùng, sau vách kính là một bếp nấu ăn đen đúa. Bên cạnh phòng ăn là hai phòng ngủ. Người phụ nữ già sau khi ôm hôn con trai và con dâu, rút vào phòng riêng. Con mèo ngủ trên chiếc ghế dựa ở bếp. Hai vợ chồng đi vào phòng ngủ của mình. Phòng này có một cửa thứ hai hướng đến một cầu thang trổ ra ngõ qua một lối đi tối tăm và chật hẹp. Người chồng lúc nào cũng run rẩy vì sốt đã đặt mình xuống giường trong lúc đó người vợ trẻ mở ô cửa sổ để khép cánh cửa chớp lại. Nàng dừng lại vài phút đối diên với bức tường lớn đen đúa, trát vữa thô nhám, sừng sững trải dài một bên ngõ hẻm. Nàng dạo tia mắt nhìn mơ hồ bức tường đó, rồi câm lặng, đến lượt mình trở vào giường nằm, với dáng vẻ khinh miệt dửng dưng. ... Mời các bạn đón đọc Thiếu Phụ Đam Mê của tác giả Émile Zola.
Tà Dương - Dazai Osamu
Sau “Thất lạc cõi người”, chúng tôi trân trọng giới thiệu đến quý độc giả một kiệt tác khác của nhà văn Dazai Osamu, “Tà dương”, một trong những quyển tiểu thuyết Nhật Bản hay nhất thời hậu chiến, đã đưa Dazai lên hàng tác gia nổi tiếng nhất thời bấy giờ, góp phần khai sinh một từ ngữ mới cho tiếng Nhật vẫn còn được sử dụng đến tận ngày hôm nay: “Tà dương tộc” (斜陽族). Từ điển “Quảng Từ Uyển”(広辞苑) đã định nghĩa như sau: (太宰治の小説「斜陽」から)急激な社会の変動によって没落した上流階級を目指す語  (Từ tiểu thuyết “Tà dương” của Dazai Osamu): Từ này dùng để chỉ giai cấp thượng lưu sa sút vì một biến chuyển gấp gáp của xã hội. Câu chuyện không chỉ nói về sự sa sút của một gia đình quý tộc phải sống cuộc đời thường dân mà còn tượng trưng cho tâm thức của toàn Nhật Bản sau tan hoang thời hậu chiến. Được xây dựng trên nhật ký của Kazuko, thư gửi Uehara và di chúc của Naoji, quyển tiểu thuyết cho ta một cái nhìn ba chiều kích về cảm nhận và sự đối mặt của con người trước hiện thực. Sau chiến tranh, hai mẹ con Kazuko phải rời bỏ ngôi nhà ở khu phố Nishikata để dọn về một sơn trang hẻo lánh nơi miền quê Izu. Naoji, người em trai đi lính trở về sa đọa rượu chè nghiện ngập và cuối cùng tự sát. Người mẹ sống trong khắc khoải nhung nhớ về một thời vàng son đã qua để cuối cùng cũng chết mòn vì bệnh lao phổi. Kazuko sau cuộc hôn nhân tan vỡ cũng quay về sống cuộc đời lay lắt như “trẻ con chơi đồ hàng” cùng với mẹ. Nhưng không thể nào chịu nổi cuộc sống tẻ nhạt đó, nàng đã đứng lên đấu tranh, làm một cuộc “cách mạng” về đạo đức. Sự vượt thoát đầy nhọc nhằn và cô độc của Kazuko cuối cùng kết thúc bằng một tia sáng le lói của bình minh đến. Một mầm hy vọng đang lớn dần trong người Kazuko, cả nghĩa đen và nghĩa bóng, dù đứa bé rồi cũng sẽ chỉ trở thành một n. Hình ảnh người mẹ, một phụ nữ quý tộc cuối cùng của Nhật Bản cùng cái chết của bà có thể xem là sự cáo chung của giai đoạn lịch sử vàng son không bao giờ còn lặp lại. Naoji tượng trưng cho sự vỡ mộng của Nhật Bản sau chiến tranh, không còn tìm thấy đường sống, bắt buộc phải chết trong tự hủy. Kazuko tượng trưng cho sự vượt thoát lên trên hoang tàn và đổ vỡ. Bằng cách yêu Uehara, một nhà văn sống cuộc đời phóng đãng, một tượng trưng cho tinh thần vỡ mộng tuyệt vọng và đồi phế của tâm thức Nhật Bản; quyết tâm sinh một đứa con như thêm một nạn nhân mới của cuộc cách mạng, Kazuko đã trút bỏ con người cũ thuở vàng son để trở thành một con người hành động của thế kỷ mới và bước đầu hoàn thiện cuộc cách mạng đạo đức của mình. Bức thư cuối cùng mà Kazuko viết gửi Uehara có thể được xem như một thắng lợi của cuộc vượt thoát đầy ám ảnh và bài ca huy hoàng về nữ quyền với nhiều câu nói vang vọng: “Em nghĩ mình đã thắng cuộc. Cho dù Đức mẹ Maria không sinh ra đứa con của chồng mình nhưng với lòng kiêu hãnh ngời sáng, hai mẹ con họ đã trở nên thần thánh. Em điềm nhiên mà khinh thường cái thứ đạo đức cổ hủ, và mãn nguyện vì có một đứa con ngoan.” Và: “Đứa con hoang và mẹ nó. Tuy nhiên hai người chúng em sẽ đấu tranh đến cùng với thứ đạo đức cổ hủ, sẽ sống như mặt trời. Dù thế nào đi nữa, ông cũng phải tiếp tục cuộc chiến đấu của mình đi nhé. Cách mạng vẫn chưa được tiến hành một chút nào cả. Và vẫn cần nhiều hơn nữa, thêm nữa những nạn nhân Cái đẹp đẽ nhất trong cuộc đời chính là nạn nhân. Lại có thêm một nạn nhân bé bỏng nữa.”. Chúng tôi cũng muốn viết riêng một bài cảm nhận về “Tà dương” nhưng sau khi đọc xong bài viết giải thích về tác phẩm của nhà văn - dịch giả Kakuta Mitsuyo thì thấy mình phải dừng bút. Hơn hai mươi năm, Kakuta mới thẩm thấu được “Tà dương”, sau ba giai đoạn trắc trở. Thật đúng như bài thơ của cư sĩ Tô Đông Pha: Lô sơn yên tỏa Chiết Giang triều, Vị đáo bình sinh hận bất tiêu. Đáo đắc bản lai vô biệt sự, Lô sơn yên tỏa Chiết Giang triều. Mà Phạm Công Thiện đã dịch rất hay và tuyệt mù thơ mộng:   Lô sơn bảng lảng khói mưa, Chiết Giang con nước triều đưa rạt rào? Sống chưa đến đó nghẹn đau, Tới rồi về lại thấy nào khác xưa? Lô sơn bảng lảng khói mưa, Chiết Giang con nước triều đưa rạt rào. Cái Lô sơn của khói mưa trước và sau, về hiện tượng không có gì khác. Nhưng như nước lạnh và nước đun sôi để nguội, cái Lô sơn sau thật đã sạch tuyệt vi trùng của vô mi và sân hận. Tác phẩm của Dazai được nhiều người nữ yêu thích đến tận ngày hôm nay vì ông rất am hiểu tâm lý phụ nữ và đưa vào trong tác phẩm của mình một cách chân thành, tự nhiên. Ngoài tiểu thuyết “Tà dương”, chúng tôi có đưa vào phần phụ lục một truyện ngắn “Không ai hay biết” và bài giải thích tác phẩm của nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo để minh chứng thêm cho điều đó. Nagoya, ngày 21/1/2012 Hoàng Long *** TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một xứ sở kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện một cuộc phiêu lưu hoan lạc. Dịch thuật, giới thiệu và biên khảo về những tác phẩm tinh hoa sẽ mở ra các lối cổng dẫn vào những cảnh tượng văn chương khác nhau, qua những không gian và thời gian vừa hiện thực vừa kỳ ảo. Khát vọng hiểu biết và vui thú trong đời là bản tính của con người ở mọi nơi và mọi thời. Các tác phẩm văn chương thật sự vĩ đại đều mang lại hai điều đó: vui thú và hiểu biết. Nhưng hiểu biết là niềm vui hiếm khi tự đến một cách dễ dãi. Cần đón đợi và hồi đáp. Mọi tác phẩm tinh hoa cần được đón đợi và hồi đáp trong niềm hân hoan có tên là “ĐỌC”. ĐỌC. Cầm sách lên và đọc. Trong sách có bạn hiền, có người đẹp, có mọi thứ. Do vậy, chúng tôi chủ trương TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC, xem đó như cửa ngõ của hiểu biết và niềm vui. CÓ NĂM CỬA: - Kiệt Tác:> Mỗi Kiệt tác sẽ được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong phối cảnh văn hóa những đặc điểm thiết yếu. - Tuyển: Tuyển chọn những tác phẩm ngắn của một tác giả, một nền văn học hay một chủ đề mang tính điển mẫu (thuộc vòng đời hay vòng mùa) - Kiến Thức: Những kiến thức mà người đọc hiện đại cần có: trào lưu văn học, các nền văn học, thể loại... được trình bày gọn nhẹ, dễ tiếp nhận. - Nghiên Cứu: Các công trình chuyên sâu về một vấn đề văn học, một tác giả thiên tài, lý luận phê bình... - Mới: Về các hiện tượng văn học mới xuất hiện của nước ngoài đang gây chú ý hoặc đoạt các giải thưởng lớn... Mong ước chúng tôi là TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC sẽ tiến bước bền vững và được đón nhận thân tình. Tủ sách được biên soạn và dịch thuật từ những nhà giáo, dịch giả và nhà nghiên cứu có uy tín và tâm huyết với văn chương. NHẬT CHIÊU   Mời các bạn đón đọc Tà Dương của tác giả Dazai Osamu.
Người Đẹp Ngủ Mê - Yasunari Kawabata
Qua tác phẩm “Người đẹp ngủ mê”, Kawabata mô tả những suy tư của một người đàn ông già với những cô gái trẻ hoàn toàn xa lạ, vô danh, khỏa thân chung chăn chiếu nhưng không hề có trao đổi bằng ngôn ngữ hoặc đụng chạm thân xác. Đó như thái độ phản tỉnh của một người thực hành thiền định để tới giác ngộ về dục tính của chính mình và về ý nghĩa của nhân sinh. Cũng trong tác phẩm này, Kawabata nhận định: “Trên thế gian không có gì cao quý bằng con người. Trong loài người không có gì vinh dự bằng thân thể trong trắng của người nữ. Tuy nhiên, để chiếm đoạt, sở hữu nó người ta phải phá hủy sự trinh khiết đó”. Tác phẩm “Người đẹp ngủ mê” đã giúp cho tác giả Yasunari Kawabata trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học năm 1968 với lời ca ngợi của Viện Hàn Lâm Thụy Điển rằng: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uất của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người”. *** Yasunari Kawabata sinh năm 1899 và mất năm 1972. Sinh ra ở Osaka, sớm mồ côi năm lên hai tuổi, từ đóYasunari Kawabata và chị sống lần lượt cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Cảm thức cô đơn trong tác phẩm văn chương của Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu và tuổi trẻ của ông. Cái cô đơn ấy bắt đầu với tập “Nhật ký tuổi mười sáu”được xuất bản vào năm 1925. Rồi lần lượt là sự ra đời của các tác phẩm như: “Izu no Odoriko” (Vũ nữ Izu, 1926), “Tenohira nsetsu” (Những truyện ngắn trong lòng bàn tay, 1926), ”Asakusa Kurerai dan” (Hồng đoàn Asakusa, 1930), ”Kinju” (Cầm thú, 1933), “Yukiguni” (Xứ tuyết, 1935-1937 & 1947), “Meijin” (Danh thủ cờ vây, 1951-1954), ”Utsukushisa to Kanashimi to” (Đẹp và buồn, 1964), ”Utsukushii Nihon no Watakushi” (Đất Phù Tang, cái đẹp và tôi, 1968), “Kani wa Nagaku” (Tóc dài, 1970) ... Bên cạnh viết văn, Kawabata còn làm phóng viên cho một số tờ báo mà đáng chú ý nhất là tờ Mainnichi Shimbun ở Osaka và Tokyo. Nhà văn García Márquez của Colombia tình cờ đọc “Người đẹp ngủ mê” của Kawabata trên một chuyến bay và từ cảm hứng được gợi từ cuốn tiểu thuyết này đã xây dựng về cuộc tình giữa một ông già 90 tuổi và một cô gái 14 tuổi qua cuốn “Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi”. *** BI CẢM CỦA CÁI ÐẸP VÀ CÁI CHẾT. Trong tất cả các tác phẩm của Yasunari Kawabata, “Người đẹp ngủ mê” là tiểu thuyết đẫm cảm thức u huyền nhất. Nó thuộc về nền “Văn chương của cái bóng” trong văn học Nhật Bản thế kỷ hai mươi mà có lẽ mở đầu với tác giả Izumi Kyôka. “Cái bóng” (Kage: ảnh) vừa là bóng tối, bóng râm, bóng cây, bóng người mà cũng là ánh sáng, như bóng trăng. Ngay từ chương đầu, cái bóng tối lung linh đó đã hé lộ: “Những tấm màn nhung màu đỏ thẫm. Màu đỏ trông thẫm hơn trong cái ánh sáng lờ mờ. Như thể có một vừng sáng mỏng lơ lửng trước các màn, như thể ông bước vào một thế giới ma quái. Màn che cả bốn bức tường. Cánh cửa thông cũng được che màn... Ông khóa cửa, vén màn, và nhìn xuống cô gái... Eguchi nín thở: nàng đẹp quá, đẹp hơn ông tưởng...” Ông già Eguchi đến ngôi nhà có người đẹp ngủ mê chờ đợi. Ông lần lượt “gặp” những tấm thân ngà ngọc phô bày trước mắt mình vô ý thức vì đang say giấc nồng. Lần cuối cùng ông nằm với hai cô gái như vậy. Ông gặp cái chết đến với một cô gái đang ngủ. Ðó là ngôi nhà của những nhan sắc thanh xuân bí ẩn cũng như của những cái chết bí ẩn. Một người bạn già của Eguchi cũng đã chết ở đây vào một đêm đến chơi. Ðó là trò chơi của thanh xuân, của cái già và cái chết. Ðó là bi cảm của cái đẹp và cái chết. Các cô gái đó là ai? Một loại kỹ nữ? Nhưng họ không có nghệ thuật nào ngoài cái đẹp của lõa thể, của tuổi xuân mơn mởn trong giấc ngủ vùi. Vậy mà nằm bên họ lại được so sánh là “ngủ với Bụt” (chương một) hơn nữa, “ông gần như nghĩ tới chuyện nàng là hóa thân của vị Phật nào đó, như trong các truyền thuyết xưa cũ”. Tác phẩm “Người đẹp ngủ mê” trong cảm thức u huyền của nó đã gợi không khí của sân khấu Nô lại càng liên kết nhau qua truyền thuyết Bồ Tát hóa thân thành kỹ nữ. Nói cách khác, văn chương Nô và Kawabata đi giữa trầm luân và cứu độ. Cái tên Eguchi (Giang Khẩu) mà Kawabata gọi nhân vật của mình trong “Người đẹp ngủ mê” cũng là tên vở kịch Nô lừng danh Eguchi. Nó bắt nguồn từ một truyền thuyết xưa cũ. Nhà sư Shôku trên núi Shosha nhiệt tâm cầu nguyện Ðức Quan Âm cho mình có thể nhìn thấy hiện thân của Phổ Hiền Bồ Tát - giấc mơ một đêm kia mách bảo sư hãy đến miền Eguchi tìm gặp một kỹ nữ được gọi là Nàng Eguchi. Sư lên đường, đến nơi và gặp nàng đang vui đùa với các kỹ nữ khác trên một du thuyền. Tiếng nước rì rầm trên sông vang vọng bên tai sư như lời tụng kinh êm dịu. Bỗng hiện lên trước mặt ông hình ảnh rạng ngời của Phổ Hiền Bồ Tát cùng với đoàn nữ tùy tùng lộng lẫy. Ðã mãn nguyện rồi đấy. Và khi mở mắt ra, lại thấy Nàng Eguchi trong hình thể một người nữ như trước. Ca từ trong vở kịch Nô Eguchi có đoạn: Ðời theo đời trôi vào quá khứ Trôi vào vô thủy ai hay Ðời theo đời trôi vào tương lai Trôi vào vô chung ai biết. Trong “Người đẹp ngủ mê”, Eguchi không biết gì về các cô gái say ngủ. Họ càng không biết gì về ông. Ðời theo đời trôi đi. Ðiệp khúc vô tận. Một vở kịch Nô khác là Murôzumi, Phổ Hiền Bồ Tát hiện hình trên thớt voi trắng, chiếu ngời hào quang. Chỉ trong chớp mắt, biến tan. Nhà sư lại nhìn thấy nàng kỹ nữ Murôzumi. Khi đã nhìn ra hiện thân bồ tát hay Phật tính ở những nơi thấp hèn rồi thì cái nhìn từ đó đã khác. Cái nhìn đó cứu vớt cái đẹp. văn chương nghệ thuật là nỗ lực cứu vớt cái đẹp của đời sống trong bất kỳ tình thế nà> Kawabata viết “Người đẹp ngủ mê” vào năm 1960 lúc ông đã 61 tuổi. Nhưng từ năm 1925 ông đã sáng tác truyện ngắn Bồ tát O-Shin trong đó một “cô gái điếm bẩm sinh” được thờ như một thần hộ mệnh trẻ thơ. Cái đẹp mang tính cứu độ mà Kawabata miêu tả trong “Người đẹp ngủ mê” còn gợi ta nhớ đến Nghìn lẻ một đêm, trong đó có một đêm miêu tả người đẹp say giấc nồng bằng những lời thơ tuyệt đẹp: Người ngủ ơi, đừng xoay Ngực em trong giấc ngủ Như sóng triều vơi đầy Ngực em là tuyết trắng Hay là bọt biển đây?... (Ðêm 206, theo bản Anh dịch của Mathers) Trong “Người đẹp ngủ mê”, cái đẹp của cô gái cũng được hòa lẫn với thiên nhiên: “Hơi ấm người nàng bao trùm Eguchi hơn là đi sâu vào ông. Ngực nàng đầy đặn, đôi vú lớn hay trễ xuống nhưng núm vú thì nhỏ một cách khác thường... Tuyết rơi rất nhẹ hòa lẫn với mưa rì rào vọng tới tận căn phòng... Ông tưởng mình thấy được mặt biển tối đen, không bến bờ và những nụ tuyết trắng rơi xuống rồi tan đi”. Kiệt tác “Người đẹp ngủ mê” đã ảnh hưởng lớn đến văn chương Nhật cũng như được yêu thích trên thế giới. Dấu ấn của nó có thể thấy sâu đậm ở García Marquez (Người đẹp ngủ mê trên máy bay, Hồi ức những cô gái điếm buồn của tôi). Cả hai tác giả đều là những tên tuổi lớn của giải Nobel văn học. Nhật Chiêu   Mời các bạn đón đọc Người Đẹp Ngủ Mê của tác giả Yasunari Kawabata.