Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiếc Thang Cao Màu Xanh

Chiếc thang cao màu xanh là câu chuyện về sự trưởng thành, về tình yêu của một chàng trai - một tu sĩ. Tác giả Gong Ji Young đã vẽ nên câu chuyện tình yêu xen lẫn sự bàng hoàng của Yo-Han – một chàng trai sống và làm việc trong tu viện. Đó là quá trình mà Yo-Han gặp gỡ, yêu và trưởng thành, từ đó đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Con người ta vì sao mà tồn tại? Nỗi thống khổ vì đâu mà có? Và tình yêu rốt cuộc là cái gì?”… Thời gian dần qua đi, khi tất cả những sôi nổi yêu thương ngày nào đã trở thành dĩ vãng, Yo-Han của ngày hôm nay đã có thể bình tâm nhìn lại quá khứ:  “Ai sống trên đời cũng có những khoảng thời gian không thể nào quên. Đau khổ… Tươi đẹp… Cả những vết sẹo đã mờ nhưng vẫn còn nhức nhối... Mỗi khi nghĩ về quãng thời gian ấy, trái tim đang đập của tôi dường như nguội lạnh và phủ đầy rêu phong... Nỗi buồn dù có tụ hội lại và sự thật về nỗi đau sót lại cũng không còn nhiều trong kí ức của tôi, nhưng những thứ còn lại của tình yêu thì đến giờ tôi vẫn nhớ. Có một nhà thơ đã hát lên rằng: “Tình yêu, điều mà không bao giờ biến mất, tuổi trẻ ơi hãy ở lại đây”. Tôi đã muốn nói lên như vậy. Tình yêu à, hãy ở lại đó mãi mãi. Khi đó tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông ngân lên như một chiếc thang đan bằng những sợi dây thừng màu xanh thẳm tuôn ra từ bầu trời…” Câu chuyện bắt đầu từ một ngày nọ, Yo-Han nhận được tin của Soo-Hee và những ký ức về thời tuổi trẻ của ông trỗi dậy. Ngày ấy, Yo-Han trong khi giúp đỡ cô gái trẻ Soo-Hee làm luận văn đã nảy sinh một thứ tình cảm khác lạ, chưa từng biết đến, thôi thúc anh nghe theo tiếng nói nhân từ vang lên từ trái tim: “Ta đã mang cô ấy đến cho con. Hãy yêu đi, Yo Han”. Nhưng rồi sóng gió cuộc đời ập đến làm cho cuộc sống trong tu viện vốn đang trôi qua một cách bình lặng đột nhiên dậy sóng, nhấn chìm tất cả mọi bình yên đang có, và cuộc đời mỗi nhân vật rẽ sang những hướng khác nhau. Đó là một đêm mưa tầm tã, hai người bạn thân của Yo-Han là Micheal và Angelo chết vì tai nạn giao thông trong một cuộc tìm kiếm những chính kiến và niềm tin của riêng mình. Quá khủng hoảng, Yo-Han đã quay lại nhà thờ để cầu xin được gặp Soo-Hee một lần cuối cùng, nhưng cô đã không đến... Xuyên suốt cuốn sách là cách kể đan xen giữa những câu chuyện về thời kì Chiến tranh thế giới thứ 2 của một cha xứ người Đức, câu chuyện về cuộc loạn lạc trong nội chiến Nam - Bắc Hàn... và hơn hết là câu chuyện thấm đẫm tình yêu và sự hi sinh. Hóa ra, tình yêu thực sự không phải là cố công giữ lấy, mà là biết buông tay và quay đi để người kia bước tiếp mới thực là tình yêu cao cả. Câu chuyện đến cuối cùng mới để người đọc hiểu ra rằng, hóa ra tình yêu của cô gái trẻ Soo-Hee với Yo-Han lớn lao đến thế. Nội dung cuốn sách chứa đựng nhiều thông tin thực tế về xã hội Hàn Quốc, có một số chi tiết đề cao tính nhân văn cao cả của tình yêu con người, sự hi sinh giữa cái sống và cái chết, giữa sự lựa chọn mất còn. Những chuỗi hồi tưởng nối tiếp nhau như ngàn con sóng vỗ bờ, kí ức với những cảm xúc sống động một thời tuổi trẻ sôi nổi và yêu thương của lớp người sinh ra sau chiến tranh, hưởng thụ cuộc sống đầy đủ về vật chất nhưng không vì thế mà không có lí tưởng về sự công bằng, về những điều đúng - sai, phải - trái, hoặc những bất công trong xã hội. Câu chuyện tình yêu của nhân vật chính được vẽ nên bằng thủ pháp hồi tưởng, vì vậy  càng khiến nó rung lên như những giai điệu trữ tình, sâu lắng nhất mà cũng ám ảnh nhất: “Thời gian đã làm hao mòn đi mọi thứ, chỉ còn lại những thứ mang tính bản chất. Và cuối cùng thì tuổi trẻ lại không phải là thứ mang tính bản chất ấy, vì tuổi trẻ cũng sẽ bị hao mòn. Nhưng trong tâm trí luôn hướng về những điều ấy của tôi thì không hề bị hao mòn. Tình yêu của tôi là thật lòng”. Có thể nói, toàn bức tranh trong câu chuyện Chiếc thang cao màu xanh khiến người đọc cảm thấy thỏa mãn cả về thông tin cũng như về tiết tấu cảm xúc của nhân vật trong truyện. Nhà xuất bản Phụ nữ xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cuốn tiểu thuyết này, hi vọng mỗi độc giả sau khi đọc xong sẽ tự tìm được câu trả lời cho câu hỏi luôn ám ảnh chúng ta suốt cuộc đời: “Con người ta vì sao mà tồn tại? Nỗi thống khổ vì đâu mà có? Và tình yêu rốt cuộc là gì?” Tác giả GONG JI YOUNG  Sinh năm 1963 ở Seoul, tốt nghiệp khoa tiếng Anh trường Đại học Yonsei – một trong những trường đại học nổi tiếng nhất của Hàn Quốc. Bà là một trong bốn nữ nhà văn đương đại có sức ảnh hưởng lớn trên văn đàn Hàn Quốc, tác giả của nhiều cuốn sách bestseller. Tác phẩm của bà được dịch sang nhiều thứ tiếng, trong đó có một số đã được dịch sang tiếng Việt như Cá Thu, Dù con sống thế nào mẹ cũng luôn ủng hộ, Yêu người tử tù...  Bà được nhận nhiều giải thưởng văn học có uy tín: - 2001: Giải Văn học Hàn Quốc thế kỉ 21 lần thứ 7 và giải Văn học Tiểu thuyết lần thứ 27 của Hiệp hội Nhà văn Hàn Quốc. - 2004: Giải Văn học Oh Young Soo lần thứ 12. - 2011: Giải Văn học Yi Sang. Dịch giả: NGHIÊM THỊ THU HƯƠNG  Sinh năm 1979, Tốt nghiệp đại học chính quy ngành Tiếng Hàn, nhận học vị Tiến sĩ ngành Ngôn ngữ học, từng được giải thưởng Sinh viên nước ngoài có thành tích học tập xuất sắc nhất năm 2005 của Bộ trưởng Bộ tri thức Kinh tế Hàn Quốc. Hiện đang giảng dạy tại khoa Tiếng Hàn Quốc, Đại học Hà Nội. Các tác phẩm đã xuất bản:  Cẩm nang cho con gái đi lấy chồng (dịch chung), NXB Thanh niên, 2001 100 mẫu câu tiếng Hàn dành cho giáo viên và học sinh (Lee Yun Jin), NXB Giáo dục, 2004 Ngữ pháp tiếng Hàn đơn giản cho người nước ngoài (viết chung với tác giả Doo Won Sook), NXB Language Plus (Hàn Quốc), 2006 Hướng dẫn học và thi KLPT, NXB Giáo dục, 2008 Nâng cao năng lực dịch Hàn – Việt (viết chung với tác giả Lee Kye Sun), NXB Moon Erim (Hàn Quốc), 2015 Cá thu (Gong Ji Young), NXB Hội Nhà văn, 2015 Mây họa ánh trăng – Tập 5 (Yoon Isu), NXB Phụ nữ, 2018. Một số trích đoạn trong tác phẩm: 1. [...] Nói về cuộc sống trong tu viện, điều đầu tiên phải nhắc đến có lẽ là sự im lặng. Sống ở nơi này, tôi ngộ ra rằng sự im lặng không đơn giản là sự thanh vắng hay là trạng thái không có tiếng động, cũng không phải là khoảng lặng giữa những thanh âm. Ngược lại, có thể gọi nó là trạng thái của sự lắng nghe tích cực. Để tiếng ồn át tiếng ồn, cảm xúc vượt lên cảm xúc thì im lặng là lẽ tất nhiên.    Lần đầu tiên đến nơi này, tôi đang dạo bước bỗng dừng lại bởi nghe thấy tiếng chân mình – thứ âm thanh tôi chưa từng nghe thấy. Phần đế dép của tôi lúc đó bằng cao su, hầu như không phát ra tiếng động. Vậy mà có vô số tiếng động ẩn sau tiếng dép khe khẽ ấy vọng đến tai tôi. Tiếng của những bông hoa tuyết phủ trên cành thông rơi rơi, tiếng những cành cây trơ trụi lặng lẽ rung rung trong gió, tiếng côn trùng trở mình trong lòng đất, tiếng rễ cây từ từ vươn những nhánh rễ nhỏ đâm sâu vào đất mẹ. Tiếng gió nhẹ thoảng qua bên tai tôi lúc đó, phải chăng là tiếng ma sát của trái đất tự quay quanh trục? Dù vũ trụ, thần hay là người, khoảnh khắc dường như hé lộ về bản thân một cách ít ỏi, chính là những lúc như vậy. Thi thoảng những lúc ấy, bầu trời bất chợt mở ra với tôi, và có cái gì đó như sự bình yên không thể diễn tả được cứ lan ra trong lồng ngực.[...] 2. [...] Bi kịch của cuộc sống là khi ta giải mã được những tín hiệu đó thì sự việc đã kết thúc, hoặc không thể quay lại được nữa. Khi tất cả mọi sự đã chấm dứt rồi, ta nhìn lại, ta cứ tin rằng cuộc sống sẽ cho ta thấy những điểm sáng, nhưng cuộc sống lại phản chiếu cho ta những khung cảnh lộn xộn. Thế nên, tôi biết bắt đầu câu chuyện năm đó từ đâu nhỉ? Phải nói về ai trước nhỉ? Núi Bulamsan, tu viện Joseph, hoa lê trắng... Phải rồi, tên của cô gái ấy, tôi sẽ viết ra tên của cô ấy lần đầu tiên ở đây. Kim So Hee, So Hwa Teresa. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, cô ấy mặc chiếc áo len chui đầu màu đậu đỏ rộng thùng thình, đôi tất trắng cao đến đầu gối, đôi giầy thấp màu xanh nhạt diêm dúa. Khi tôi lần đầu tiên ngắm nhìn từ xa bóng dáng nhẹ nhàng ấy, cô gái ấy đang bước cùng một tu sĩ khác dưới những cành hoa lê. Cô vuốt ve mái tóc dài xõa ngang vai và nói gì đó với tu sĩ đang đi bên cạnh rồi nghiêng đầu về phía sau cười khúc khích. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, dáng vẻ của cô ấy là như thế đó. Lúc đó, tuy ở khoảng cách rất xa nhưng tôi vẫn như thấy rõ cô ấy đưa những ngón tay trắng ngần lên vuốt mái tóc. Những ngón tay mảnh mai. Và tôi giấu bức tranh chớp nhoáng của kí ức lần đầu gặp mặt người con gái ấy xuống tận đáy sâu của vô thức. Có lẽ là tôi đã xúc động mãnh liệt. Nếu lần đầu gặp mặt không bị uy hiếp thì chắc chắn tôi đã không cần thiết phải như vậy. Một thời gian sau, phải đến khi nhận được câu hỏi đầy thách thức của người con gái ấy ở thành phố W, kí ức cũ kĩ được lưu giữ trong vô thức kia mới hắt lên hóa thành ý thức của tôi. Đến lúc đó và một thời gian từ sau đó, cô ấy đã không hề có ý nghĩa gì đối với tôi.  “Cháu gái của Đức Giám mục, đã hoàn thành khóa học thạc sĩ ở Mỹ và về nước viết luận văn. Hình như là viết về sự áp lực của người theo tôn giáo. Thấy bảo là nhất định phải đến thành phố W”.[...] 3. [...] Đêm hôm đó, dường như tôi đã mang về phòng mình hình ảnh em bước đi giữa những bông hoa lê trắng, bộ váy trắng ngang đầu gối bay phất phơ, đôi chân nhỏ khi cánh cửa tàu bật mở, dáng ngồi nghiêng nhìn đăm chiêu qua khung cửa sổ, và tiếng em nghiêng đầu cười khúc khích.    Khác với cảm xúc hân hoan trong lòng, người tôi mệt lử, tôi không buồn nghĩ đến việc tắm rửa, mà đổ ập xuống giường và tắt đèn. Đúng khoảnh khắc đèn tắt, có luồng ánh sáng vụt qua. Tâm thức mệt ngoài của tôi tự hỏi, hay là tôi chưa tắt đèn? Chính giây phút tưởng lầm ấy, tôi hiểu ra ánh sáng đó chính là gương mặt em. Tôi chẳng ý thức được hết tất cả, gương mặt trắng mịn của em làm giãn các đốt xương tôi, ùa vào trái tim tôi. Ngẫm lại, có lẽ điều đó đi kèm với một chút đau đớn. Tôi hiểu đây là tình yêu. Dù tôi đã nhìn thấy mũi tên em bắn vào trái tim tôi, tôi nhìn thấy khoảnh khắc mũi tên lao đến, tôi đổ gục, nhưng tôi biết mình chẳng thể làm gì được. Nỗi đau của cảm giác ngọt ngào cực độ, nỗi đau của cảm giác cay đắng nghiệt ngã... “Như vậy không được đâu!” Tôi từ chối bằng một giọng rất nhỏ và cảm thấy thanh thản hơn. “Tại sao bạn yêu người ấy?” là một câu đúng về ngữ pháp. “Làm thế nào mà bạn được người ấy yêu?” cũng là một câu đúng về ngữ pháp. Thế nhưng thực tế, những câu đó không thể trả lời được. Nếu có thể nói rõ ràng lí do tại sao yêu thì là bởi vì trước đó không phải là tình yêu. Mãi sau này, một người đồng môn của tôi đã yêu một người con gái và rời tu viện để cưới cô ấy. Khi được hỏi tại sao cậu thấy yêu cô ấy, cậu ta đã trả lời thế này: “ Khoảnh khắc tớ nhìn thấy đôi tay cô ấy lúc đưa cho tớ tờ giấy A4, tớ đã phải lòng cô ấy rồi.” Thế thì là vì tờ giấy A4, hay là vì đôi tay của cô ấy? Câu trả lời là vì tình yêu, vậy thôi! [...] 4. [...] Đêm đó, tôi mang về phòng mình gương mặt em sau khi xóa lớp trang điểm có vết tàn nhang mờ mờ dưới mắt, tôi mang về đôi tay em mềm mại như cục bột mì mới nhào và giọng nói pha chút nũng nịu của em nữa. Lần này, trước khi tắt đèn, tôi thấy hình ảnh em vội nắm lấy và kéo tay tôi lại. Tôi không nhớ đã nhìn tay mình từ lúc nào. Tay trái tôi là tay So Hee, tay trái ấy nắm lấy tay phải. Bàn tay đã sần sùi nhiều. Tôi ngượng nghịu xoa xoa bàn tay thô ráp lên mu bàn tay khô. Rồi tôi ngả lưng, tôi trông thấy gương mặt em với đôi mắt mở to, chớp chớp và cứ thế tôi gọi tên em. “So” nghĩa là Hy vọng, “Hee” nghĩa là Màu trắng. Tên em nghĩa là HY VỌNG MÀU TRẮNG. Tôi gọi tên em mà thấy như từ đâu những bông hoa trắng đang rơi rơi.  Tôi không kể với ai chuyện có hình bóng em trong trái tim tôi. Mỗi ngày, tôi cầu nguyện vì em. Tôi tin những lời cầu nguyện của tôi là chân thành, và tôi hạnh phúc. Tiếng chuông sáng sớm vừa reo, tôi cất gương mặt trắng mịn ấy trong lồng ngực và dự giờ cầu nguyện sáng. Cả thế giới đang là mùa xuân, khắp đất trời đang ngập tràn hương hoa.[...] 5. [...] Chúng tôi đi vào con đường hướng ra phía bờ sông. Thành phố W rất yên tĩnh. Thỉnh thoảng có chiếc xe chạy ngang qua rất nhanh như cắt mặt đường nhựa nhợt nhạt, gió thổi mạnh làm mái tóc của So Hee tung bay, và mỗi lần như thế, tôi lại nghe như có một mùi hương tựa hương hoa thần bí lãng đãng đâu đây. Mặt trăng đang chiếu soi mọi con đường của thành phố W. Con đường hắt lên thứ ánh sáng bàng bạc, và những cột đèn đường màu vàng đứng sừng sững như những cây hoa cao lớn ở thành phố W lúc về đêm. Bóng của chúng tôi đổ xuống lắc lư, dài ngoằng. Lúc đầu, khoảng cách giữa cô ấy và tôi rộng đủ để gập cả khuỷu tay, nhưng rồi theo bước chân và hình dáng của con đường mà khoảng cách ấy dần dần thu hẹp lại, và cứ mỗi lần bờ vai của hai chúng tôi va vào nhau, chúng tôi lại cúi đầu và tiếp tục bước đều, xen lẫn chút căng thẳng. Mỗi người cầm một lon bia trên tay, và chúng tôi ngồi xuống một chiếc ghế băng bên bờ sông. Dường như thứ bột ánh sáng bạc từ mặt trăng rắc xuống đang bao phủ cả thế gian này. Dường như khi chúng ta ngủ, bằng một mùi hương khác, thế gian như bị ủ lại, muối và lên men. Việc tôi ngồi cùng cô ấy ở bờ sông đêm nay chỉ như một giấc mơ. So Hee ngồi trên băng ghế, chân đung đưa, chắp hai tay lại ngay ngắn và nhìn ngắm nước sông. Chiếc bóng của vầng trán trắng, của sống mũi  thật sự rất đẹp. “Em đã đọc một bài viết của tác giả nào đó. Trong đó có nói là thế giới này có hai loại người. Một là bỗng dưng vào một đêm nào đó muốn nắm tay ai thật chặt và bỏ chạy, một là chưa từng có suy nghĩ như vậy. Vấn đề là ở chỗ phải nắm tay thật chặt”. So Hee nhìn dòng sông và lẩm nhẩm như đang nói một mình, vừa dứt lời liền quay đầu nhìn tôi chăm chú. Tôi không nhớ rõ ai là người đã tiến đến gần với người kia trước. Và rồi đêm hôm ấy, hai cặp môi, một thì lạnh như đá khô và một thì nóng bỏng như lò luyện, một nét đẹp như cánh hoa hồng và sắc ngọt như một vết thương của lưỡi dao lam đã khắc sâu vào trái tim tôi. Khoảnh khắc môi chạm vào bờ môi, toàn bộ cơ thể tôi như tan vụn xuống giống những hạt vụn bạc, và toàn bộ cơ thể tôi lại đột ngột trong tích tắc như muốn bay vút lên đỉnh núi. Máu trong huyết quản dồn ứ như nước sông xoay vần, và một dòng điện hàng vạn vôn khiến tôi không còn chút sức lực nào, tôi thấy mình rộng thênh thang như những bình nguyên lộng gió. Chúng tôi ngồi trên băng ghế, hai tay của mỗi người vẫn giữ những lon bia, đôi môi vừa chạm nhẹ, So Hee liền vừa vòng tay ôm lấy cổ tôi, vừa nép sát vào người tôi. “Chúng mình nắm thật chặt tay, rồi... bỏ chạy nhé?” Tôi hỏi. “Ừ, chúng mình nắm thật chặt tay rồi...” Cô ấy đã trả lời. Chúng tôi đã nắm tay thật chặt và ngồi ở đó cho đến khi mặt trăng gần như lặn mất ở phía bên kia sông. Ngày hôm ấy, dòng sông, ánh trăng, băng ghế, con đường và những thân cây đã hiện diện cùng chúng tôi hết sức bình yên. Đến khi giây phút mà tôi đã ước gì thời gian ngưng lại được ấy, cái đêm mà tôi đã nghĩ muốn buộc chặt trăng vào bầu trời trên kia, giữ lại nước sông và làm cho những thân cây với màu xanh mơn mởn sẽ mãi mãi đung đưa trên đầu chúng tôi ấy tàn đi, chúng tôi lại bước về hướng tu viện. Tu viện đang chìm trong giấc ngủ. Thế nhưng tu viện đang ngủ như bao ngày khác đó, đối với tôi đã không còn là tu viện ấy nữa. [...] 6. [...] “Bà chỉ sống chung được với ông khoảng một năm sáu tháng. Nhưng năm mươi năm trôi qua, chưa một lần tình yêu của bà với ông thay đổi. Thật đấy! Dù chỉ là một lần… Như cháu đã biết, sau này bà cũng có những người bạn mới. Nếu nói bà không có người bạn khác là không đúng. Nhưng bà không thể tiến xa hơn với họ được bởi không thể hứa hẹn được điều gì. Vì trong lòng bà, ông ấy vẫn còn hiện hữu. Đừng có mang cái nét mặt như thế, Yo Han! Điều đó không có gì phải buồn! Không phải là vì sau này bà yêu những người đó ít hơn, mà là vì dù cho họ có là ai đi nữa thì tình yêu của bà với họ cũng không thể nào sống động, mạnh mẽ như tình yêu của bà với ông cháu được. Và bà cũng không cảm thấy được ở họ cảm xúc như của ông khi yêu bà. Sau một thời gian dài, thỉnh thoảng bà lại nghĩ, liệu mình có phải là một người phụ nữ hạnh phúc ở tuổi này hay không?” Hồi tưởng lại những việc đã qua hơn năm mươi năm, sức mạnh tình yêu có thể khóc lên như vậy gọi là gì? Là sức mạnh có thể nói rằng: Hạnh phúc khi trải qua nỗi đau? Hay sức mạnh tình yêu ngắn ngủi mãnh liệt hơn tất cả? Người ta cho rằng thời gian là liều thuốc chữa lành vết thương, thời gian trôi đi ta có thể quên tất cả, tôi tin những người lớn tuổi sẽ nói như vậy. Thế chẳng phải thời gian có thể xoa dịu nỗi đau hay sao? Sau đó rất lâu tôi vẫn cứ nghĩ mãi về điều ấy. Và sau rồi tôi nhận ra, sự mài mòn của thời gian chẳng có ý nghĩa gì. Tình yêu chân chính dường như là thứ không thể nào mòn được, nỗi đau chân chính, nỗi buồn chân chính và cả niềm vui chân chính, thời gian có thể làm tiêu tan, làm biến mất mọi thứ giả dối nhưng để lại tất cả những chân tình, đích thực. Như vậy, có thể nói cái mà thời gian có thể khiến ta quên đi được không phải là những chân tình. [...] 7. [...] Một hôm, sau lễ Misa, tôi quỳ lạy ở bục xưng tội và lại ngước nhìn lên cây thánh giá. “Ta gửi cô ấy đến bên con. Hãy yêu đi! Hãy yêu nhiều hơn nữa”. Dường như giọng nói ấy lại vang lên. Sự tức giận vẫn chưa hoàn toàn nguôi ngoai. Rốt cuộc Người bảo tôi hãy yêu nhiều hơn nữa, yêu hết mình rồi lại bảo “cái gọi là tình yêu nghĩa là tình yêu không báo đáp”, rốt cuộc thì Người đang chế giễu tôi. Vào một đêm mất ngủ, tôi nghe thấy tiếng những con rệp kêu dai dẳng. Tôi chợt nhận ra mùa thu đã tràn ngập khắp nơi, vào giây phút vũ trụ vẫn đang chuyển mình như thế, tôi thậm chí còn cảm nhận được những chuyển động rất nhỏ. Đó là bởi từ nơi sâu thẳm bên trong tôi có điều gì đó đang thay đổi và đang muốn thay đổi. Bên trong tôi, những điều không muốn thay đổi và những điều muốn thay đổi đang cọ xát và tranh đấu với nhau. Những vết thương lại đau đớn và nhức nhối. Tôi cảm nhận được linh hồn mình sốt cao. Dù không biết điều gì sẽ đến, nhưng tôi dự cảm được rằng qua đêm nay sẽ có điều quan trọng nào đó đến. Dù sao, đêm nay giống như một tiết giao mùa của cuộc đời.  Tôi đứng dậy và đi đến gần cửa sổ. Lâu lắm rồi tôi mới ngước nhìn bầu trời đêm. Mặt trăng tròn viên mãn, phía nửa kia là những vì sao đang tỏa sáng hòng đua tranh. Tôi bỗng lại nhớ về một đêm trong thời gian tu tập ở tu viện. Tôi nhớ đến cây thánh giá của tu viện sáng lấp lánh nhờ luồng sáng kì lạ do những chòm sao gắn với nhau tỏa ra. Sự khoan khoái mỗi khi ngắm nhìn cây thánh giá của tu viện, tấm chân tình của tuổi thanh xuân nồng nhiệt hướng đến thánh thần của tôi đã đi đâu mất rồi? “Bởi tình yêu không biết đi”. Câu nói của tu sĩ Thomas lại vang lên. Tôi cũng nhớ đến câu nói của vị linh mục người Đức: “Đối với chúng ta, cho dù không có niềm tin đủ để xê dịch núi sông, cho dù không thể nói được thứ ngôn ngữ kì lạ, dù không chết vì người khác, nhưng nếu có tình yêu thì chúng ta cũng không vì những điều đó mà trở nên vô nghĩa”. Nghĩ đến việc trong muôn vàn tình yêu thương mà tôi được nhận từ khi sinh ra mà không có thứ gì đọng lại làm trái tim tôi thấy xót xa. Tôi cảm thấy thật bi thảm, cảm thấy mình có lỗi và một chút gì đó như bi quan khiến tôi không thể hiên ngang được. Kể từ sau khi Michael và Angelo chết, tôi còn lại có một mình. Sự cô độc đã kéo tôi chìm sâu hơn nữa vào trong nỗi cô đơn. Sự trầm mặc thì luôn nặng nề mà sự cô đơn thì luôn yếu đuối. Tôi mang tâm trạng hoang mang của một người không biết phải đi đâu, mà con đường trước mắt thì mờ mịt như sương phủ kín. Giống như lời của một nhà thơ nào đó đã nói, “đến cả một chỗ để đặt chân” cũng không thấy. Hàn Quốc trong trái tim tu sĩ Thomas cũng vậy, ông nội tôi trong trái tim bà tôi cũng vậy, Michael trong trái tim cô gái ấy, tôi trong trái tim của người mẹ đơn thân Monica kia, đâu đó luôn ngự trị một tình yêu. Nhưng trong trái tim tôi chẳng có gì. Tự nhiên, lúc đó trong lòng tôi lại vang vang những lời như ai đó đang thủ thỉ vỗ về:  “Không sao đâu Yo Han! Thế cũng được mà”. Trong phút chốc tôi bỗng thấy bàng hoàng, tôi do dự hỏi lại chính mình “có thực sự là không sao không?” và bật khóc. [...]      8. [...] Tôi đã rời khỏi tu viện. Bỗng nhiên đập vào mắt tôi là hình ảnh cây mộc liên mà tôi đã từng treo bộ lễ phục tôi cởi ra để đi dạo đêm với So Hee. Trong mười năm vừa qua, cây đã lan ra thành rất nhiều tán và cao lên nhiều. Dưới bóng râm của tán cây ấy, Angelo trẻ tuổi đang đứng chất những hộp nến sáp ong mới làm xong lên. Michael đang từ từ lần chuỗi hạt và treo hình ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh lên. So Hee mặc áo len trắng, tai đang đeo tai nghe và vẫy tôi từ đằng xa. Thời gian đã làm hao mòn đi mọi thứ. Chỉ còn lại những thứ mang tính bản chất. Và cuối cùng thì tuổi trẻ lại không phải là thứ mang tính bản chất ấy. Vì tuổi trẻ cũng sẽ bị hao mòn. Nhưng trong tâm trí luôn hướng về những điều ấy của tôi thì không hề bị hao mòn. Tình yêu của tôi là thật lòng. Tu sĩ Thomas, người đã lên thiên đàng năm ngoái, đã từng nói với tôi như thế này: “Tình yêu là thứ không thể mất đi được. Vì tình yêu là thứ không biết đến sự ra đi”.  Nỗi buồn dù có tụ hội lại và sự thật về nỗi đau sót lại cũng sẽ không còn nhiều trong kí ức của tôi, nhưng những thứ còn lại của tình yêu thì đến giờ tôi vẫn nhớ. Có một nhà thơ đã hát lên rằng tình yêu, điều mà không bao giờ biến mất, tuổi trẻ ơi hãy ở lại đây. Tôi đã muốn nói lên như vậy. Tình yêu à, hãy ở lại đó mãi mãi. Khi đó tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông ngân lên như một chiếc thang đan bằng những sợi dây thừng màu xanh thẳm tuôn ra từ bầu trời.[...] Mời các bạn đón đọc Chiếc Thang Cao Màu Xanh của tác giả Gong Ji Young & Nghiêm Thu Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quán Ăn Tìm Lại Tình Yêu
"Tìm lại tình yêu" - nghe có vẻ xa xôi nhưng đó lại là câu chuyện có thật ở một quán ăn nhỏ vùng quê mang tên “Ốc sên”. Điều đặc biệt là quán ăn này chỉ có một bàn và không có thực đơn. Bởi cô chủ Rinko sẽ quyết định món ăn cho thực khách sau khi lắng nghe câu chuyện của họ. Thật kì lạ và quả nhiên kì diệu, những món ăn của Rinko đã trở thành thần dược cho trái tim những vị khách từng ghé qua nơi đây, và cũng là cho chính tâm hồn cô, trên hành trình tìm lại tình yêu tưởng chừng đã đánh mất.. ----- OGAWA ITO Sinh năm 1973 tại tỉnh Yamagata, Nhật Bản. Bà là tác giả của nhiều tiểu thuyết và một số tác phẩm dành cho thiếu nhi. "Quán ăn tìm lại tình yêu" là tiểu thuyết best-seller đầu tay của bà, đã được chuyển thể thành phim vào năm 2010. *** Review "Quán ăn tìm lại tình yêu": Hành trình tìm lại chính mình Một ngày, cô gái trẻ độc thân Rinko quyết định khởi nghiệp bằng một quán ăn đầu tiên trong cuộc đời mình. Ogawa Ito cũng khởi đầu sự nghiệp tiểu thuyết gia bằng cách kể lại hành trình của cô gái trẻ và quán ăn mang tên "Ốc sên" trong tiểu thuyết "Quán ăn tìm lại tình yêu" (Vũ Phương Anh dịch, Wingsbook và NXB Kim Đồng - 2019). Nếu ẩm thực mang lại hạnh phúc thì "Quán ăn tìm lại tình yêu" là nơi để mỗi con người tìm những điều hạnh phúc mới, để xoa dịu những vết thương cũ. "Quán ăn tìm lại tình yêu" của Ogawa Ito không phải đơn thuần là một "quán ăn" mà là câu chuyện về sự cảm thông và thấu hiểu, là hành trình tìm lại chính mình của một cô gái sau quá nhiều mất mát tổn thương. Bằng niềm khát khao đã ấp ủ bấy lâu và sự giúp đỡ của mẹ cùng những người quen xung quanh, Rinko đã mở quán ăn nhỏ mang tên "Ốc sên". Đây là động lực để cô có thể vực dậy tinh thần, bỏ qua những nỗi đau để bắt đầu một cuộc đời mới ở vùng đất mới và là khởi đầu cho những hy vọng mới. Chắc hẳn bạn sẽ phải ngạc nhiên, bởi vì quán ăn "Ốc sên" chỉ có một bàn ăn duy nhất, chỉ phục vụ một món ăn duy nhất cho một vị khách duy nhất. Mỗi một món ăn mang một màu sắc, mùi vị khác nhau. Mỗi món ăn phù hợp với câu chuyện của riêng từng thực khách và giúp người thưởng thức tìm lại những điều ý nghĩa, những cảm xúc tưởng chừng đã đánh mất. Cũng như Rinko, quán ăn "Ốc sên" đã giúp cô tìm lại bản thân mình, tìm thấy liều thuốc để chữa lành những vết thương. Độc giả Việt Nam khi đọc sách này hẳn thấy những điều thú vị gần gũi vì không dưới hai lần, tác giả Ogawa Ito nhắc đến Việt Nam giữa hàng loạt những nền văn hóa ẩm thực khác nhau, từ trà sen, bánh đa cho đến chiếc bát men xanh, những chi tiết nhỏ ấy cũng phần nào cho thấy văn hóa Việt Nam đã vươn ra thế giới một cách từ tốn nhưng chắc chắn, hiện diện hài hòa bên cạnh các nền văn hóa khác. *** Quán ăn tìm lại tình yêu: chỉ 'dành cho tuổi trưởng thành'! LAM ĐIỀN Review Khi nhìn thấy dòng chữ 'dành cho tuổi trưởng thành' in ở trang bìa lót quyển Quán ăn tìm lại tình yêu hẳn nhiều người sẽ hình dung đây là một loại chuyện tình kiểu Nhật Bản. Quán ăn tình yêu do Vũ Phương Anh dịch, là tiểu thuyết đầu tay bán chạy của Ogawa Ito. Nhưng không hẳn vậy, mạch truyện đột khởi gay cấn ngay từ đầu như một cách tác giả khéo léo dùng để "giữ mắt" bạn đọc. Sau đó, câu chuyện như trôi vào một mạch văn đầy chất thơ, giàu tính nhân văn và thấp thoáng yếu tố tâm linh. Sách sẽ là món "khoái khẩu" cho những ai yêu thích thiên nhiên hồn hậu, bởi truyện được xây dựng trong một không gian thiên nhiên thuần phác đáng yêu. Ở đó có hoa quả hạt, rau củ; có vườn, đồi, núi và cánh đồng; có những con người giàu tính thiện lương. Ở đó là quê hương của cô gái Rinko hai mươi lăm tuổi vừa bị một cú sốc nặng đến mức đột ngột bị mất giọng: số tiền lên đến hàng triệu yen Rinko dành dụm mấy năm trời và vật dụng làm bếp, một gia tài đang được hình thành để ươm mầm cho ước mơ mở một quán ăn và trở thành đầu bếp chuyên nghiệp, phút chốc bốc hơi cùng với chàng trai người Ấn phản phúc. Rinko làm một hành trình chẳng đặng đừng là gom hết tiền lẻ còn trong túi ra đón xe khách quay về nhà mẹ ở quê - nơi mà cô đã bỏ đi chưa một lần quay lại từ năm mười lăm tuổi. Mười lăm tuổi, do bất đồng với mẹ và do tinh thần nổi loạn của một cô bé mới lớn, Rinko rời nhà lên thành phố sống với bà ngoại. Nhờ vậy mà cô được thừa hưởng những bí kíp nấu ăn từ bà, thừa hưởng cả tinh thần xem việc chế biến món ăn như một "đạo" với niềm tin vị thần ẩm thực sẽ theo giúp những ai có hạnh nguyện đem lại hạnh phúc cho người khác thông qua công việc chế biến món ăn. Thế rồi bà ngoại mất, Rinko tự lập, sau mười năm cô rơi vào tình trạng trắng tay, mất sạch ngay cả đến giọng nói của mình. Cô quay về, trong cơn cùng quẫn đó, tự dưng ý tưởng về việc mở một quán ăn ngay tại mảnh vườn nhà ở quê - một vùng nông thôn lấn sâu trong núi - hiện ra trước mắt. Mặc dù ở đúng nơi "khỉ ho cò gáy", nhưng quán ăn Ốc Sên cực dễ thương của một cô chủ bị mất giọng cùng với thực đơn vô cùng sinh động được chế biến thật khéo léo ý vị đã nhanh chóng lan xa đến nhiều nơi. Kỳ diệu hơn, chính từ quán ăn Ốc Sên này, những cảm tình quên lãng được tìm thấy lại, những cặp đôi được nên duyên. Nhưng điều kỳ diệu hơn cả là chính mẹ của Rinko đã gặp lại người yêu đầu đời... Ogawa Ito đã phả đầy chất thơ vào tác phẩm bằng cách đặt trục nội tâm của nhân vật lên một trục khác, là quang cảnh thiên nhiên tuyệt diệu xung quanh. Cho nên độc giả, trong một lúc nào đó mải say sưa theo dõi mạch truyện, sẽ bất chợt bị đánh động bởi thiên nhiên trong các trang văn. Sẽ choáng ngợp khi hình dung cây nấm tùng với mùi hương cao quý, cà ri lựu từ vườn nhà và món Nukazuke táo hấp dẫn ra sao... Có thể nói, chính tình yêu ẩm thực và nét đẹp thiên nhiên quê nhà đã nâng nhân vật Rinko lên thành một biểu tượng trong văn Ogawa Ito. Nói về món ăn mà như nhặt lấy từ thiên nhiên ra cái tinh thần vốn được sinh ra để giao hòa với thế giới con người, điều ấy hé lộ bút pháp của một tác giả giàu nội lực nhân văn. Tiểu thuyết này từng được chuyển thể thành phim năm 2010, nhưng ấn tượng từ trang văn để lại cho người đọc mới thật là sâu sắc ngọt ngào. Mời các bạn mượn đọc sách Quán Ăn Tìm Lại Tình Yêu của tác giả Ito Ogawa & Vũ Phương Anh (dịch).
Nếu Thời Gian Dừng Lại Ở Ngày Hôm Nay
“Tôi sẽ quên đi Koyomi âm thầm khóc vào những ngày mưa buổi sớm. Nếu nhắm mắt lại tôi cũng có thể nhìn thấy Koyomi đang đi bộ trên con đường được cát vàng thổi. Thế giới của tôi có Koyomi, thế giới của Koyomi có tôi cũng đang ở đó. Hai thế giới có chút hòa trộn vào nhau. Như vậy là đủ rồi.”   Nếu thời gian dừng lại ở ngày hôm nay kể về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Yukisuke và Koyomi ở tiệm bánh taiyaki. Cuộc sống của hai người bắt đầu bị xáo trộn bởi tai nạn của Koyomi. Tỉnh lại sau 3 tháng hôn mê, Koyomi vẫn nhớ được những gì trước khi xảy ra tai nạn, nhưng những ký ức sau khi xảy ra tai nạn, những công việc cô làm trong một ngày đều bị biến mất sau mỗi lần thức dậy ngày mới. Yukisuke muốn Koyomi có một cuộc sống mà mỗi ngày đều là những ngày vui vẻ, mới mẻ, đồng thời cũng giúp đỡ cô trong những lúc như thế này nên đã ngỏ ý mời cô về sống chung một nhà. Hai người đã có những ngày tháng yên bình cùng nhau. Nhưng niềm vui đó cũng sẽ chỉ trọn vẹn được trong một ngày vì sang ngày hôm sau, ký ức về ngày hôm qua của Koyomi sẽ lại biến mất. Cuộc gặp gỡ tình cờ ở tiệm bánh taiyaki giống như một sợi dây vô hình gắn kết hai người lại với nhau, họ luôn cố gắng cùng nhau khởi tạo những ký ức mới, để Koyomi không quên Yukisuke, để trân trọng hơn những phút giây dành cho nhau và để ngày mai không bao giờ đến. Koyomi, một cô gái chỉ có thể giữ được ký ức của mình trong một thời gian ngắn. Yukisuke, một chàng trai luôn coi sự tồn tại của Koyomi là tất cả. Dù cố lãng quên bao nhiêu đi chăng nữa, thế giới của hai con người ấy vẫn không thể nào biến mất.   *** MIYASHITA NATSU Sinh năm 1967 tại tỉnh Fukui. Tốt nghiệp chuyên ngành Triết học - khoa Văn trường Đại học Sophia. Năm 2004, tác phẩm Nếu thời gian dừng lại ở ngày hôm nay(Shizukana ame) của bà được bình chọn là tác phẩm xuất sắc cho giải thưởng Bungakukai Shinjinshou. Năm 2015, tiểu thuyết Hitsuji to Hagane no Mori được phát hành và mang lại cho bà giải thưởng Honya Taisho, cuốn sách đã đứng đầu bảng xếp hạng Kinobest đồng thời được trao giải Branch Book Award. *** MỞ ĐẦU Không còn xa nữa dự đoán bản thân trở thành kẻ vô dụng sẽ đến, nhưng tôi không nghĩ nó lại tới sớm như thế. Vì hiếm khi có đại biểu ở công ty từ sáng sớm, tất cả các nhân viên đã tập trung lại nói chuyện với nhau. Nghe nói năm nay công ty sẽ dừng hoạt động, đóng cửa toàn bộ. Trợ cấp nghỉ việc là một tháng lương cơ bản. Vì đây là việc gấp và cũng vừa đủ hết một tháng nên nghe nói công ty sẽ chuyển khoản cho nhân viên vào ngày nhận lương của tháng sau. Tuyết rơi báo hiệu mùa đông đến. Vào Giáng sinh có tuyết đúng là một cảnh tượng tuyệt vời, thế nhưng đến quá trưa khi tôi ra khỏi công ty thì tuyết đã ngừng rơi, trên đường chẳng còn lưu lại dấu hiệu nào cả. Tôi xuống ga gần nhất, trong lúc đang thơ thẩn dạo bước bỗng ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng, dễ chịu lẫn trong cái giá lạnh của từng đợt gió ngày đông, khiến bước chân tôi dừng lại. Tôi chợt nhận ra rằng, thì ra có một tiệm bánh taiyaki* ở chỗ bãi gửi xe đằng sau quán pachinko*cạnh ga. Đúng lúc tôi đang nghĩ giá mà có thứ gì đó ấm ấm để lót dạ. Tiệm bánh hình như được xây dựng theo kiểu nhà tiền chế*. Nhắc mới nhớ, hèn chi tôi rất hay bắt gặp mấy người vừa đi bộ vừa ăn bánh taiyaki ở gần ga. Thì ra là bánh taiyaki của quán này. Tuyết đã ngừng rơi nhưng gió thì vẫn còn khá tê buốt, khiến tai và mũi tôi cảm thấy đau vì giá lạnh. Tôi phải cho tay vào túi quần, co đầu rụt cổ để tránh sự luồn lách của những cơn gió vào cơ thể. Trong lúc chờ nướng bánh, tôi thơ thẩn, mơ màng với suy nghĩ: “Từ bây giờ mình phải làm gì đây?” “Xin lỗi đã để anh phải chờ.” Người bán bánh đưa cho tôi chiếc bánh taiyaki được bọc trong giấy mỏng, tôi đếm tiền lẻ, trả tiền bánh. Bánh taiyaki vừa nướng xong dù được bọc bằng một lớp giấy mỏng nhưng vẫn ấm nóng. Tôi kẹp chặt bánh vào giữa đôi bàn tay đang lạnh buốt của mình, rời khỏi cửa hàng, vừa đi bộ vừa ăn trên đường về nhà. Cắn một miếng. Trời ơi ngon tuyệt, đến mức bước chân tôi phải dừng hẳn lại để cảm nhận. Tôi ăn thử miếng nữa. Ôi, cái này không phải ngon nữa mà thật sự là quá ngon, quá tuyệt vời. Tôi quay lại chỗ bán bánh, dùng tay gõ vào cánh cửa quán đã được đóng. Phía sau cửa kính, một cô bé đang lau chùi tấm sắt nướng bánh ngẩng mặt lên nhìn. “Cái này ngon thật đấy.” Đó là điều duy nhất tôi có thể nói lúc đó, câu nói tựa như của một đứa trẻ hai tuổi. Cô bé tròn xoe đôi mắt đen láy, hai má đỏ ửng và nói: “Cảm ơn quý khách.” Khuôn mặt đó giống như đang thấy rất vui từ tận đáy lòng. Sáng hôm sau, lúc tôi thức dậy đã là bảy giờ. Bắt đầu từ ngày hôm nay, tôi không phải đi làm cũng chả sao, không biết là nên thấy vui hay buồn nữa. Mặc dù đang là buổi sáng nhưng cơ thể tôi lúc đó có cảm giác như đã hơn bốn giờ chiều. Hôm nay, tôi sẽ giải quyết nốt những công việc còn lại ở công ty, rồi sau đó sẽ đi tìm việc. Thế nhưng tôi lại không muốn dậy chút nào, có điều gì đó mông lung, mơ hồ; mọi thứ như thế nào cũng được. Tôi cảm thấy dường như sắp có tin vui đến với mình và tự hỏi không biết đó là gì nhỉ? Tôi nhấc người dậy. Bánh taiyaki, đúng rồi tiệm bánh taiyaki tình cờ hôm đó và cả cô bé ấy nữa. Thế rồi tôi đến công ty, gọi điện thoại, dọn dẹp lại bàn làm việc. Sau khi kết thúc công việc, trên đường về tôi sẽ ghé qua tiệm bánh đó. Chỉ nghĩ vậy thôi mà cơ thể tôi cảm thấy thoải mái, nhẹ nhõm hơn hẳn. Mời các bạn mượn đọc sách Nếu Thời Gian Dừng Lại Ở Ngày Hôm Nay của tác giả Miyashita Natsu & Akichan (dịch).
Mười Ba Lý Do
Ở thời điểm hiện tại, có 3 cuốn sách tôi chưa “can đảm” đọc lại lần nữa trong tương lai, 3 cuốn đó, là: Mắt Biếc (Nguyễn Nhật Ánh), Tình nhỏ làm sao quên (Đoàn Thạch Biền) và Mười ba lý do (Jay Asher). Tôi chạm đến những trang gây “ám ảnh” với chính mình vào ngày “thất tịch” (mồng 7-7), buổi trưa trời đương nắng bỗng mưa ào xuống, rồi thôi… Rạng sáng, trời mưa lớn, kéo dài, như đã thấm bao ẩn ức chất chứa bấy lâu và chực vỡ òa sau thời khắc gặp nhau ấy; tôi giật mình bởi tiếng động, hồi tưởng về nhân vật trong câu chuyện, tôi nặng lòng lắm! Ngưu Lang – Chức Nữ dẫu mỗi năm chỉ gặp được một lần, ít ra họ còn được nhìn thấy nhau; nhưng hai nhân vật chính trong “MƯỜI BA LÝ DO” mãi mãi chẳng thể nghe giọng nhau, cùng trò chuyện hay thấy nhau nữa… Tôi chợt nhớ dòng trạng thái người quen đăng trên mạng xã hội: “Cuộc đời này vô thường lắm, có lỡ thương ai, nhớ ai thì cứ nói đi, biết còn được gặp nhau bao nhiêu lần nữa đâu… Ngại ngùng không nói, thờ ơ không nói, vô tâm không nói… Để rồi, muốn nói thì chẳng còn ai nghe nữa rồi!” Và, chúng ta sẽ chẳng thể biết rằng, phút giây bất chợt, có khi ta là điểm tựa, là “phao cứu sinh” tinh thần mà đối phương trông ngóng để trút hết những tâm sự thầm kín nhất đời mình. Một ánh mắt, một lời ủi an đúng lúc là liều thuốc tinh thần kịp thời vực dậy ý chí lịm dần giữa đại dương tuyệt vọng chỉ chực nhấn chìm người nặng mang ý nghĩ tiêu cực… * 13 mặt, 7 cuộn băng – 13 lý do như lời trăn trối của Hannah Baker trước khi tự sát. Cô đã thu âm số băng này gửi những nhân vật có liên quan và “yêu cầu” họ chuyển tiếp số băng trên đến những đối tượng khác là một phần của 13 lý do trên. Nếu ai đó làm trái luật, một bộ băng khác sẽ được phát hành ra công chúng. Nhân vật tôi “Clay” ngoài nghe hết 13 mặt băng, cậu còn đi đến những địa điểm được Hannah đánh dấu trên bản đồ, như một cách tưởng niệm người bạn quá cố, như một cách hình dung câu chuyện Hannah kể lại. * Cuốn sách gợi cho tôi khá nhiều suy tư: Về phía Hannah Baker: Thứ 1, cô có quá “ích kỷ” và “tàn nhẫn” lắm không khi nêu tên 13 người trong cuộn băng cùng lý do khiến cô tự sát, như ngầm đeo quả tạ nặng lên vai đảo lộn cuộc sống họ mà họ không được một lần đính chính và xác tín từng chi tiết xuất hiện trong câu chuyện. Thứ 2, cô bất công lắm không khi “quy kết” toàn bộ việc mình tự vẫn cho thầy tâm lý (tôi lờ mờ phán đoán thế). . Về phía Clay Jensen: Giá như anh “lì lợm”, chịu “chai mặt” một chút, không “nghe lời” Hannah bỏ về mà nán lại, rồi ôm cô vào lòng mặc cô đẩy anh ra xa thì có thể anh sẽ không phải nghe cuộn băng nói về mình trong nước mắt, dẫu Hannah nói về anh chỉ những điều tốt đẹp. Giá như Clay cứng rắn hơn, quyết đoán hơn tìm hiểu tin đồn thay vì im lặng, chết nhát để rồi giờ đây tự dày vò mình. . Và, về phía chúng ta; những người làm công tác giáo dục, những bạn học sinh – sinh viên, những con người bình thường trong cuộc sống: Có bao giờ chúng ta từng “kết tội” người tự sát chưa? Có bao giờ mọi người to nhỏ hoặc nhìn đối phương với ánh mắt khinh rẻ thông qua tin đồn mình nghe được về họ chưa? Có bao giờ chúng ta hứng chí lập một danh sách trêu đùa cá nhân bởi vẻ bề ngoài họ có phần “nổi bật” (như thừa cân, số đo 3 vòng…) chưa? Có bao giờ chúng ta tự bào chữa cho hành động đùa quá trớn vô thưởng vô phạt của mình bằng câu chống chế “Vui mà, sao căng vậy…” chưa? Có bao giờ chúng ta lên tiếng tố cáo những việc làm vi phạm pháp luật để bảo vệ chính mình và bảo vệ người khác chưa? Có bao giờ chúng ta bàng quan chuyện ấy không liên quan đến mình và tốt nhất không nên dây vào tránh rắc rối chưa? … Câu chuyện đặt ra rất nhiều vấn đề trong môi trường giáo dục quá cởi mở như nước Mỹ, từ đó dẫn đến các vấn nạn, như: sử dụng chất kích thích và gây tai nạn khi lái xe, hiếp dâm,… * Tôi vẫn thường nói, thời chúng ta đang sống là “thế kỷ cô đơn.” Nhịp sống mỗi ngày thúc hối, công nghệ chi phối con người,… mỗi cá thể tự dựng xây ốc đảo giam hãm mình, sẽ đến một ngày, cá thể không thể tiếp tục chịu đựng và tự kết liễu đời mình. Mãi đến phút cuối, Clay mới thực sự vượt qua bức tường thỏ đế bản thân tạo nên, tiếp cận đối tượng mà anh sợ sẽ rơi vào hoàn cảnh như Hannah Baker, cứ để quả cầu tuyết lăn mãi và đến lúc buông xuôi cho chúng cuốn mình… Cảm ơn Jay Asher đã viết “MƯỜI BA LÝ DO” – cuốn sách đầu tay đầy tinh thế, xoáy vào chủ đề quen thuộc dẫu tồn tại quanh chúng ta nhưng ít tác giả đề cập. Qua “MƯỜI BA LÝ DO”, tôi mong mọi người quan tâm và hiểu nhau hơn, để không còn trường hợp đau lòng nào như Hannah Baker nữa… *** “Anh?” cô nhân viên nhắc lại. “Anh muốn chừng nào nó đến nơi?” Tôi lấy hai ngón tay gãi mạnh lông mày mắt trái. Đầu tôi càng ngày càng nhức. “Sao cũng được,” tôi bảo. Người nhân viên nhận gói bưu kiện. Cái hộp giày đó cũng chính là cái hộp giày đã nằm trước thềm cửa nhà tôi hai mươi bốn tiếng trước; nó đã được tôi gói lại trong một cái túi giấy màu nâu và dán kín bằng băng keo trong, y như lúc tôi nhận được. Nhưng giờ thì địa chỉ nó sắp đến lại là một cái tên khác. Cái tên tiếp theo trong danh sách của Hannah Baker. “Một tá của thợ bánh,(*)” tôi lẩm bẩm. Rồi lại thấy tởm vì như vậy cũng nghĩ ra được. “Anh nói gì cơ?” Tôi lắc đầu. “Hết bao nhiêu vậy?” Cô ta đặt chiếc hộp lên một tấm đệm cao su, sau đó gõ liên tục trên bàn phím. Tôi đặt cốc cà phê mua ở cây xăng lên thành quầy và ngó vào màn hình. Tôi móc vài tờ tiền từ trong ví ra, lục vài xu trong túi, rồi đặt chúng lên quầy. “Tôi nghĩ cốc cà phê đó chưa ép phê đâu,” cô nhân viên nói. “Anh đưa thiếu một đô la.” Tôi đưa thêm một đô la, rồi dụi mắt cho tỉnh ngủ. Cà phê còn âm ấm khi tôi làm một ngụm, nên lại càng khó uống hơn. Nhưng dù thế nào tôi cũng phải tỉnh. Hoặc có lẽ không. Có lẽ tốt nhất tôi nên nửa tỉnh nửa mơ cho đến hết ngày. Có lẽ đó là cách duy nhất để tôi trụ qua hết ngày hôm nay. “Đúng lịch thì ngày mai cái hộp đến nơi,” cô ta nói. “Hoặc mốt.” Rồi thả cái hộp vào chiếc xe đẩy đằng sau. Đáng lẽ tôi nên chờ tới sau giờ học. Tôi nên để Jenny tận hưởng ngày yên bình cuối cùng của cậu ta mới phải. Dù cậu ta chẳng đáng để tôi làm vậy. Khi về tới nhà ngày mai, hoặc mốt, cậu ta sẽ thấy một bưu kiện trước thềm cửa nhà mình. Hoặc nếu bố, mẹ hay ai đó nhận thư trước thì có thể cậu ta sẽ thấy chiếc hộp nằm trên giường mình. Và cậu ta sẽ phấn khích. Tôi cũng đã phấn khích đấy. Một bưu kiện không đề tên người gửi à? Họ quên đề tên, hay là cố ý? Có thể từ một người hâm mộ bí mật chăng? “Anh có muốn lấy hóa đơn không?” cô nhân viên hỏi. Tôi lắc đầu. Dù vậy, cái máy cũng in ra một tờ hóa đơn. Tôi nhìn cô nhân viên xé dọc rìa răng cưa nhựa của máy in rồi quăng tờ giấy vào thùng rác. Trong thị trấn có độc một bưu điện. Không biết có phải chính cô nhân viên này cũng là người nhận cái hộp giày này từ những người khác trong danh sách không, những người nhận được nó trước tôi. Rồi bọn họ có giữ hóa đơn như vật lưu niệm bệnh hoạn không? Giấu chúng vào ngăn đồ lót? Ghim chúng lên một tấm bảng? Suýt nữa tôi đã xin lại tờ hóa đơn rồi. Suýt nữa tôi nói, “Em xin lỗi, cho em xin lại hóa đơn được không?” Để về sau có thứ nhắc tôi nhớ chuyện này. Nhưng nếu muốn có thứ nhắc nhớ mình thì tôi đã đi sao lại số băng cát sét hoặc giữ lại tấm bản đồ rồi. Nhưng tôi không bao giờ muốn nghe lại đống băng đó nữa, dù giọng cậu ấy sẽ còn vang mãi trong đầu tôi. Và những ngôi nhà đó, những con phố đó, và ngôi trường cấp ba đó sẽ luôn luôn còn đó để nhắc tôi nhớ về chuyện này. Giờ thì hết làm gì được nữa rồi. Bưu kiện đã trên đường gửi đi. Tôi ra khỏi bưu điện mà không lấy hóa đơn. Sâu bên trong chân mày mắt trái, đầu tôi vẫn nhức. Mỗi ngụm nước bọt tôi nuốt đều có vị chua, và càng gần đến trường, tôi càng thấy mình sắp ngã gục. Tôi muốn gục ngã. Tôi muốn ngã xuống ngay vỉa hè đằng kia rồi lết thân mình vào trong đám thường xuân đó. Vì ngay bên kia bụi thường xuân, vỉa hè uốn cong, men theo rìa ngoài bãi đỗ xe của trường. Rồi nó cắt xuyên qua bãi cỏ trước, tiến vào tòa nhà chính. Nó đi xuyên qua cửa chính và nhập vào hành lang, ngoằn ngoèo giữa những dãy tủ đồ và lớp học ở hai bên, rồi cuối cùng dẫn vào cánh cửa luôn để mở của tiết học thứ nhất. Phía trước lớp, đối diện với học sinh, sẽ là bàn của thầy Porter. Thầy ấy sẽ là người cuối cùng nhận được gói bưu kiện không có tên người gửi. Và ở giữa phòng, dịch qua bên trái một bàn, sẽ là bàn của Hannah Baker. Không người ngồi. (*) Một tá của thợ bánh, hay Baker’s dozen, có nghĩa là 13 chứ không phải 12 như nghĩa thường của một tá. Cụm từ này được cho là có nguồn gốc từ thời Trung cổ ở Anh. Thời đó, giá bán bánh mì được quy định phải dựa theo giá của bột mì, thợ bánh nào bán thiếu cân sẽ bị trừng phạt. Và vì bánh mì được tính theo cân bột chứ không phải số lượng nên để tránh thiếu cân, các thợ bánh thường cho thêm vào một hoặc hai ổ bánh giống hệt mỗi khi bán ra một tá bánh. Họ Baker của Hannah cũng có nghĩa là thợ làm bánh. Mời các bạn mượn đọc sách Mười Ba Lý Do của tác giả Jay Asher & Tuấn Phúc (dịch).
Đội Trinh Sát Và Con Chó Sara
Cuốn sách thuộc loại tiểu thuyết chiến tranh, thông qua câu chuyện về chú chó Sara được một anh bộ đội Việt Nam nhặt được trên vỉa hè gần bến cá ở Kampong Ch’nang, Campuchia. Nhờ cặp móng huyền đề, sự thông minh, nhanh nhẹn và sự trung thành, Sara thoát khỏi món “rựa mận” và gia nhập vào “đời lính”. Một trang sử được lột tả một cách chân thật và gần gũi thông qua những mẩu chuyện xung quanh chú chó Sara và các anh bộ đội Việt Nam trong quá trình đấu tranh chống lại tội ác diệt chủng của Kh’mer Đỏ. *** "Với Sara, khẩu DKZ 75 ly chỉ là một con chó điên, sủa ra lửa cả đằng đầu lẫn đằng đuôi. Một con chó vô dụng dài ngoằng, không có lông và hay gây phiền nhiễu. Đã thế, có mỗi ba chân, thua hẳn nó một chân nên trông thậm vô lý và buồn cười…". Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết chiến tranh đang được chú ý trên văn đàn có tên Sara - nghĩa là "Rượu" trong tiếng Campuchia - một con chó nhách có huyền đề kép lang thang xin ăn được Phong lượm về ở bến cá bên bờ Tonle Sap. Từ mối duyên lành đó, số phận của nó gắn liền với số phận những người lính trinh sát thuộc một tiểu đoàn chủ lực, dọc ngang mọi nẻo chiến trường trên đất nước Chùa Tháp. Văn thơ Việt Nam có nhiều trang viết về vùng thôn quê mộc mạc, đơn sơ cùng sự xuất hiện của những chú chó trung thành là vật nuôi giữ nhà, là người bạn thân thiết của con người; tạo dựng nên những thông điệp nhân văn sâu sắc trong các tác phẩm văn học nổi tiếng như Đôi mắt, Lão Hạc… Việc đưa loài vật trở thành nhân vật trong văn học không hề đơn giản nếu thiếu sự quan sát tinh tế hay cảm nhận sâu sắc về thế giới muôn màu muôn vẻ. Trong cuốn sách Đội trinh sát và con chó Sara, nhà văn Trung Sỹ đã khéo léo đưa hình ảnh chú chó xuất hiện ngay từ tên tác phẩm và xuyên suốt cốt truyện, khêu gợi sự háo hức, tò mò của độc giả. Sara không khác với các con chó trung đội Phong từng bầu bạn và… chén thịt trước đây nhưng nó đã thoát chết do sở hữu cái huyền đề kép theo kinh nghiệm dân gian là quý tướng loài cẩu hay vì sự trống vắng, tàn khốc do chiến tranh gây ra? Đội trinh sát 12 người, đã tử trận 4, anh em chí cốt lần lượt ra đi để lại quá nhiều khoảng trống lạnh lẽo, sự trống vắng thấu tim cảm nhận rõ rệt nhất trong những ca gác đêm mỗi đầu hai vọng. Vậy là Sara không bị giết, được ăn cơm lính và trở thành đứa bạn đêm trường thính tai, biết sủa, đỡ đần các ca gác thiếu người… Những con chó trung thành vẫn luôn xuất hiện như thế, khi mà người ta khốn khó, cô độc và đau thương nhất! Anh bạn bốn chân này được tác giả miêu tả như một nhân vật rất khôn ngoan và tình cảm. Sara thấu hiểu từng ngõ ngách tâm tư của các ông chủ, biết thân biết phận thực thi nhiệm vụ được giao nhưng cũng luôn đòi hỏi được đối xử công bằng, đúng tinh thần "chó có suất". Tình cảm giữa chú chó hoang và những người lính ngày càng khăng khít sau những lần "tác chiến" bắt rắn mối, băng qua "cơn mưa" đạn pháo hay đối diện với những mẩu vụn thịt người rã nát, thối khắm nồng nặc… Ấn tượng nhất là những phen cứu mạng thót tim: trong một lần đánh chiến dữ dội, Sara với linh tính của chú chó chiến, đã kịp thời báo cho chủ về quả lựu đạn M67 giấu trong áo một đứa trẻ. Sự ví von "len lét như rắn mùng năm, cúp đuôi như chó sợ pháo" không đúng với Sara khi chú đã quá quen thuộc với chiến trường rền vang tiếng đại bác gầm, tiếng hỏa lực tức ngực nổ gần. Chú thành thạo nằm áp xuống đất, dạt ngang né bom rơi đạn lạc... Tác giả khắc họa Sara như một "nhân chứng" chiến tranh ấn tượng, chú vật vã đi tìm dấu vết chủ của mình, dù bị bỏ quên vẫn quay về sau mấy ngày lưu lạc như một lữ khách chân chính. Tình nghĩa keo sơn đâu phải một sớm một chiều nên bắt gặp một mùi hương quen thuộc, hay cử chỉ búng tay của anh lính lạ cũng khiến nó bồi hồi, xao xuyến. Sara qua ngòi bút Trung Sỹ được nhân cách hóa vô cùng sinh động, biết sán đến ve vãn các nàng chó như một gã "trai lơ" bụi bặm đích thực; biết vênh váo, hãnh diện khoe chiến tích trước sự thán phục của bầy chó cái; biết giả vờ nịnh bợ các ông chủ; biết đau đớn, tức tưởi khi bạn tình bị giết; biết nhớ nhung tình nghĩa với cô chủ cũ… Cuốn theo những trang sách, độc giả cảm nhận hai năm chinh chiến dường như dài bằng nửa đời người. Những mảnh xác người vương vãi khắp chốn, chiếc bi đông cạn khô khai nồng mùi nước tiểu, đôi mắt trõm sâu một em bé gần chết đói đăm đăm nhìn nắm cơm vắt của Phong hay xác con voi đen toác bụng ngầu máu đỏ? Chưa ở đâu, ranh giới giữa sự sống và cái chết là mong manh nhường vậy: "Tử thần hóa trang giấu mặt bao giờ cũng nguy hiểm và đáng sợ. Một khu rừng nhiệt đới nguyên sinh, một thiên nhiên thật thà hoang dã bội nhiễm bởi những trái mìn dày đặc. Mìn dày như những cái gai độc cắm vào lòng trái đất. Chớ nên tin một khóm lan rừng đang ra hoa, một bụi sâm tươi tốt, một bãi nghỉ râm mát, một bờ suối trong lành. Tất cả có thể đã bị gài mìn". Cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Phong bị thương nặng phải chuyển viện tuyến trên. Ở cứ, Sên hy sinh vì dính đạn nhọn của kẻ thù khi truy quét ở núi Tà Đạt, Phương ôm trọn trái mìn KP2 lúc ra Krako nhận thuốc đem về Svay Chek tiêm chủng cho trẻ con… Và Sara vẫn âm thầm đồng hành cùng họ! Sara đôi khi là hiện thân của những người lính can trường nhưng cũng bị bủa vây bởi nỗi cô đơn. Họ có thể không màng đến tính mạng trong những trận đánh sinh tử nhưng đêm về vẫn đối diện với bao khát khao rất đời thường, dằn vặt nỗi nhớ nhà, cháy bỏng trong tim ước mơ hòa bình và ngày về bình yên trong vòng tay mẹ. "Có những thứ trên đời kim bất hoán, là tính mạng người lính, bây giờ không phải của anh mà thuộc về mẹ anh đang trông chờ…". Cách tiếp cận và miêu tả chiến tranh của tác giả với sự xuất hiện của Sara khiến cho cuộc chiến bớt phần nào bi thương, áng văn cuồn cuộn chất lính, thấm thía chất đời và để lại trong lòng người đọc thật nhiều suy ngẫm, day dứt khôn nguôi: "Sara ươn ướt mắt, âu yếm ngắm ân nhân cũ trong chiếc áo vá rộng thùng thình của Phong. Bóng đêm giấu bớt đi vẻ khổ hạnh, phô ra những nét thanh tú của cô chập chờn trong ánh lửa. Hương ngọt đường cô chủ ngày xưa giờ có thêm mùi mồ hôi mặn vai áo lính. Đã lâu lắm những mùi đời thường thân quen này mới trở lại…". Gia nhập làng văn chưa lâu nhưng "lính mới" Trung Sỹ (tên thật là Xuân Tùng, sinh năm 1960) đã có những tác phẩm nổi tiếng về đề tài chiến tranh và Hà Nội. Xuất thân là trai Hà Thành chính hiệu, từng đi qua thời "mũ rơm", "tem phiếu", đồng thời là một người lính bộ binh đã tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, những trang viết của ông vừa mang nét tài hoa duyên dáng, vừa thấm đẫm những nguyên liệu chắt lọc từ thực tế. Chuyện lính Tây Nam viết về quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở nước bạn Campuchia những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX gây được tiếng vang lớn trên văn đàn. Điều này khích lệ tác giả viết tiếp tiểu thuyết Đội trinh sát và con chó Sara (NXB Lao Động - 2020)... Không quá khốc liệt như Chuyện lính Tây Nam nhưng Đội trinh sát và con chó Sara giúp người đọc hình dung được những khó khăn, hiểm nguy chết chóc luôn rình rập tấn công người lính tình nguyện Việt Nam đóng quân ở Svay Chek. Sự hiện diện của quân tình nguyện Việt Nam là chỗ dựa vững chắc cho Xã trưởng Sok Un, Xã đội trưởng Loung, cô giáo Chanrithy và bà con ở Svay Chek chung tay xây dựng cuộc sống mới... Là cây bút bước ra từ chiến trường, trực tiếp đối mặt với quân diệt chủng, nhà văn Trung Sỹ không chỉ viết bằng ngòi bút mà bằng mọi giác quan, bằng cả hơi thở gấp gáp và trái tim bị bóp nghẹt. Chính điều đó đã tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả! Được biết đến là một trong những thương hiệu sách đi đầu về dòng sách quản trị kinh doanh/ phát triển kỹ năng trong ngành xuất bản với các cuốn sách hướng dẫn khởi nghiệp, các bài học, phương pháp và kinh nghiệm quản trị của các chuyên gia, các hãng và tập đoàn nổi tiếng trên thế giới. Nổi bật với các cuốn sách: HBR Onpoint, Quốc gia khởi nghiệp, Trí tuệ Do Thái, Phi lý trí, Tư duy nhanh và chậm, Tiểu sử Steve Jobs, Thiên nga đen, Chiến lược đại dương xanh, Phù thủy sàn chứng khoán,.. Sau 16 năm hình thành và phát triển, Alpha Books đang từng bước khẳng định tên tuổi của mình, đặc biệt đối với các thế hệ doanh nhân, nhà quản lý và những người trẻ luôn khát khao xây dựng sự nghiệp thành công. *** Là cây bút bước ra từ chiến trường, trực tiếp đối mặt với quân diệt chủng, tận mắt thấy những xác người không toàn thây sau những thảm sát phi nhân tính, giọng văn của Trung Sỹ không chỉ có cái mùi khói đạn đặc trưng mà còn có mùi đắng hắc của ký ninh, mùi vết thương hoại, mùi xác chết đang trương, mùi tanh gây của máu, của những mảnh nhuyễn thịt vụn thân người người trộn lẫn với khói đen khét lẹt. Có lẽ, ông không chỉ viết bằng bút mà bằng mọi giác quan, bằng súng! Trên đường hành quân, trong trùng vây rừng khộp, bất cứ nơi nào, người lính Việt Nam tình nguyện cũng có thể phải đối mặt với đói khát, với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú dữ, bom đạn, quân thù, khiến ranh giới giữa sự sống và cái chết trở thành mong manh: “Một khu rừng nhiệt đới nguyên sinh, một thiên nhiên thật thà hoang dã đã bội nhiễm bởi những trái mìn dày đặc. Mìn dày như những cái gai độc cắm vào lòng trái đất. Chớ nên tin một khóm lan rừng đang ra hoa, một bụi sâm tươi tốt, một bãi nghỉ râm mát, một bờ suối trong lành… Tất cả có thể đã bị cài mìn”. Chứng kiến nhiều cái chết đau đớn của đồng đội, người chết khát giữa rừng, người liệt tim vì bị rắn cắn, nhiều người bị mảnh bom găm vào da thịt, cắt lìa tay, chân, chết dần mòn trong đau đớn kéo dài, đến mức tác giả chỉ ước nếu lỡ tử thần có dạo bước ghé thăm thì được chết tốt bởi một loạt đạn bắn gần hay một trái mìn chớp nổ. Chết tốt là phải chết ngay! Cái chết tức thì nhẹ nhàng, không đớn đau khắc khoải. Bối cảnh cuộc chiến được tái hiện qua thể loại tiểu thuyết chiến tranh với hai tuyến nhân vật đối nghịch và kết thúc có phần có hậu, song có lẽ như lời thề của lính, Trung Sỹ đã rất mực tôn trọng sự thật. Bên cạnh những trang viết nhuốm màu huyền bí mô tả trận lốc ma cuốn dựng thảm lá khô nơi bìa rừng hay những đoạn tái hiện vẻ u tịch bí hiểm của một ngôi đền hoang giữa rừng khộp nắng hun là sự đói khát của những chàng lính trẻ trong rừng sâu núi thẳm, là những lần phải uống nước tiểu của chính mình để qua cơn khát. Bên cạnh những cảm tình trai gái lãng mạn, những đụng chạm da thịt đầy rạo rực đưa đẩy hồn yêu và khát khao tuổi trẻ là những “nỗi buồn chiến tranh”, những đêm gác trõm mắt, những trận sốt rét rừng quằn quại, là nỗi nhớ mong khắc khoải quê nhà. Là phút phân vân vì bản năng sống, là lúc hoang mang nghĩ tới cái chết. Là ước mong đến ngày giải ngũ, về đến ngõ nhà gặp mẹ, gặp em, để sống nốt những tháng năm tuổi trẻ. Những chất liệu thô tháp ấy, những tình cảm rất thật của con người ấy khó lòng mà hư cấu nổi. Cũng qua Đội trinh sát và con chó Sara, người đọc có thể hình dung phần nào đời sống đen tối và số phận khổ hạnh của con người ở đất nước chùa Tháp trong thời kỳ này.  Rõ ràng, chiến trường Tây Nam để lại trong những người lính chiến những ký ức ám ảnh chẳng kém một trận địa khốc liệt nào trên dải đất Việt nhiều thương đau, nhưng bao trùm và xuyên suốt trong hình tượng người lính vẫn là tấm lòng yêu thương, nỗi nhớ mong tha thiết đối với gia đình, Tổ quốc, vẫn là ước vọng hòa bình và đoàn tụ...   Mời các bạn mượn đọc sách Đội Trinh Sát Và Con Chó Sara của tác giả Trung Sỹ.