Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tội Ác Của Sylvestre Bonnard

Sylvestre Bonnard, một học giả già lỗi lạc đang gặp các vấn đề bất ngờ khi ông bắt tay vào tìm kiếm một vài tài liệu văn học cổ xưa của Giáo Hội để mang từ Paris đến Sicily và ghi dấu vào lịch sử cuộc đời của chính mình. Vì lợi ích của công lý và tình yêu, ông cố gắng hoàn thành công việc sao cho tốt nhất nhất là tính hợp pháp nghi ngờ. Với "Tội phạm của Sylvestre Bonnard", Anatole France (1844-1924) đã viết một cuốn tiểu thuyết vừa thông minh và khôn ngoan và theo cách thức của các bậc thầy vĩ đại của phong cách văn học - một cuốn sách đầy đủ lẫn hồi hộp từ đầu đến cuối. *** Một câu chuyện cảm động và kết thúc đẹp như mong ước, một cái kết gần giống như kết của 'Những người khốn khổ' (Les Miserables), với một đôi trẻ hạnh phúc, nhưng không kém phần hồi hộp khiến ta phải lo âu theo dõi. Sylvestre Bonnard, người kể chuyện, một ông lão tuổi ngoài 60 sống tại Paris, nước Pháp nửa sau thế kỷ XIX, sống cuộc sống độc thân giản nhị nhưng không quá túng thiếu với Thérèse người quản gia cũng già đã phục vụ ông qua mấy chục năm. Một con người khá cô độc nhưng không ghét loài người, sống bình lặng với người quản gia, con mèo, cùng công việc yêu thích là nghiên cứu các văn bản cổ, và dịu dàng, nhân ái với mọi người. Phần 1 - 'Khúc củi' với diễn biến về sau khá bất ngờ, khi ông theo đuổi một bản thảo cổ từ Ý trở lại Paris, trong quá trình đó gặp một người phụ nữ bí ẩn, và cuối cùng bản thảo bị người phụ nữ bí ẩn trả giá cao trong cuộc bán đấu giá. Người phụ nữ, hóa ra từng là vợ của một người nghèo khổ sống cùng tòa nhà với ông, nay đã là mệnh phụ, sẵn lòng mua bản thảo với giá cao để đáp lại ân tình của Bonnard khi trước. Một kết thúc theo kiểu gieo nhân nào gặp quả nấy. Phần 2 - 'Tiểu thư Jeanne Alexandre' là sự quyến luyến của ông lão Bonnard đối với Jeanne, cô bé là cháu gái của Clementine, người con gái mà ngày còn trẻ ông mến mộ. Do phá sản, bố mẹ cô khi mất đã để Jeanne bơ vơ giữa đời phải sống trong một trường nội trú với những điều kiện khắc nghiệt và người giám hộ không được tử tế. Nhờ danh vị thành viên Học viện mà Bonnard được cô Préfère nể trọng đón tiếp tử tế và cuộc sống của Jeanne đỡ khổ ải hơn. Nhưng khúc quanh của câu chuyện khá bất ngờ khi cô cấm ông Bonnard không được đến thăm Jeanne tại trường và cô bé lại tiếp tục chịu cuộc sống hà khắc dưới quyền cô. Người đọc hồi hộp theo dõi liệu ông lão Bonnard có thể phạm tội ác gì (theo hướng chống lại cô Préfère) nhằm giành giật lại cô bé mà ông yêu quý và muốn bù đắp cho. Kết cục, như ta đã biết là tốt đẹp, và cô bé Jeanne cũng đã có hạnh phúc lứa đôi với chàng công chức cùng nghề với Bonnard, khi còn là sinh viên đã tìm đến ông để trao đổi về học thuật. Trong Phần 2 này những trao đổi giữa ông lão Bonnard và chàng sinh viên Gélis về lịch sử (trang 224 - 225 - 226, Bản dịch của Nguyễn Xuân Phương, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, tháng 4.2001) là khá thú vị, hay trao đổi giữa Bonnard và cô Thèrése về giáo dục (trang 156) đến bây giờ vẫn hoàn toàn đúng đắn. Cũng ở Phần 2 này theo lời kể của Bonnard ta cũng thấy nước Pháp những năm 1800 vẫn còn chia rẽ khá sâu sắc giữa những người ủng hộ Napoleon (những kẻ cướp vùng Loire) và những người bảo hoàng Bourbons. - Con người (mặc giáp sắt thời Trung cổ) được bọc sắt như con bọ hung. Sự yếu đuối của họ là ở bên trong. (trang 18) - hãy đối xử rộng lượng với đồng loại để họ rộng lượng với chúng ta (trang21) - Người nghèo không tham vọng là có món tài sản vĩ đại nhất, hắn tự kiềm chế được mình, còn người giàu mà thèm muốn thì chỉ là một tên nô lệ khốn khổ (trang 22). - cái thú chuyện trò với một trí tuệ ưu việt và ôn hòa, cái thú ăn tối với một anh bạn thân (trang 22) - những thèm muốn thuở hoa niên là ghê gớm biết bao nhiêu (trang 22) - chúng cháu (tuy là người lớn) mãi mãi là trẻ con, chúng cháu không ngừng đuổi theo những đồ chơi mới lạ (trang 28) - người thiếu phụ ấy không trở nên xấu cũng không trở nên tốt. Hãy đợi chị ta kết thúc cuộc đời mới nên phán xét (trang 29) - điệu bộ bạo dạn ở những kẻ nhát gan (trang 37) - với ba xu, tôi có thể ăn, uống và rửa mặt tất tần tật với một lát dưa hấu bày trên chiếc bàn con (trang 38) - Phải thương xót họ: của cải vây quanh lấy họ mà không thấm thấu vào họ; họ đáng thương, nội tâm cùng quẫn. Sự khốn khổ của người giàu thật thê thảm. (trang 43) - Những người yêu tha thiết không viết về hạnh phúc của mình (trang 45) - người ta có học được đôi điều qua sách vở, nhưng người ta càng học tập được nhiều hơn khi đi đây đi đó. (trang 47) - những nỗi buồn, đó là một cách tiêu khiển quan trọng. (trang 51) - người mà ta yêu thương mãi mãi chỉ là một hình bóng, nhưng kỷ niệm về nàng mãi mãi là niềm mê say của đời ta. (trang 76) - con người chỉ làm chủ thời gian khi chia no ra thành giờ, thành phút, thành giây, nghĩa là thành những khoảng cách cân đối với đời người ngắn ngủi, bởi vì thời gian chính là cuộc đời. (trang 81) - đối với phái yếu, mọi việc đều đượcphép, mọi hành động của họ là đặc ân, là sủng ái. (trang 90) - Có trí thức chẳng là gì hết, tưởng tượng sáng tạo mới quan trọng. Chỉ cái gì người ta suy nghĩ sáng tạo ra mới tồn tại. (trang 91) - Nhân loại hầu như toàn là người chết. So với số người đã chết thì người còn sống chẳng là bao nhiêu. Cuộc đời này là gì, ngắn ngủi hơn trí nhớ, ngắn ngủi hơn con người. (trang 100) - cuộc đừi là vĩnh hằng, ta phải yêu quý nó trong những hình thái không ngừng đổi mới (trang 100-101) -điếc như bao than, chậm chạp như tổ chức tư pháp. (trang 108) - Hãy trù liệu cho những việc lớn, nên biết rằng ý định là thực tế duy nhất trên đời. (trang 109) - Hãy coi trọng vỏ bánh mì khô trong chiếc đãy hai túi của anh hơn những chim sẻ vườn được quay trong bếp của lãnh chúa. (trang 110) - Tất cả chúng ta đều có trong người một Don Quixote và một Sancho mà chúng ta nghe theo, và cả đang khi Sancho thuyết phục chúng ta thì chính là Don Quixote mà chúng ta phải khâm phục. (trang 110) - Thời gian chỉ êm dịu đối với những ai khoan thai thận trọng đón nhận nó. (trang 112) - thực tế vũ trụ là phản ảnh của tâm hồn chúng ta. (trang 113) - Goethe ví đại có sức sống lạ thường, thực sự tin rằng người ta chỉ chết khi người ta muốn, nghĩa là khi tất cả sức mạnh chống lại sự phân hủy cuối cùng, khi toàn bộ khí lực làm nên sự sống bị hủy diệt đến tận cùng. Nói cách khác, ông nghĩ rằng người ta chỉ chết khi khôn muốn sống nữa. (trang 141-142) - tôi vẫn thích sự đam mê điên rồ hơn sự đứng đắn dửng dưng. (trang 144) - một thằng ngu, không phải bằng ba chữ mà đúng là bằng mười hai tập. (trang 147) - Những kẻ không có nhược điểm thì thật ghê gớm; không ai tác động đến họ được. (trang 150) - điều thực sự xấu xa trong thời đại chúng ta là khôn ai bằng lòng địa vị của mình, trong xã hội, trong mọi tầng lớp, từ trên xuống dưới, bao trùm sự túng thiếu, nỗi khắc khoải lo âu, sự khát khao hạnh phúc. (trang 153) - Không có thời đại nào con người lại thèm muốn sự túng thiếu. Họ luôn luôn tìm cách cải thiện địa vị xã hội của mình. Sự cố gắng kiên trì này đã sản sinh ra những cuộc cách mạng trường kỳ. Nó tiếp tục, thế thôi. (trang 153) - nghệ thuật giảng dạy chỉ là nghệ thuật kích thích tính tò mò ham biết của những tâm hồn non trẻ, tiếp đó là thỏa mãn tính tò mò ham biết đó, và tính tò mò ham biết chỉ mãnh liệt và lành mạnh trong những đầu óc sung sướng. Dùn quyền lực nhồi nhét kiến thức vào những đầu óc thông minh là bịt chúng lại, bóp nghẹ chúng. Trí thức phải được nuốt vào một cách ngon lành thì mới tiêu hóa được. (trang 155-156) *** Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire.     Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.   - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.   - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.   - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.   - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:    + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)   + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)   + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)   + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)   - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết   - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.     Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:     - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972   - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.   - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.   - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.   - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.   - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.   - Thais-Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.   - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987. ***  Tôi xỏ chân vào giày vải, khoác lại áo mặc trong nhà rồi lau giọt nước mắt do cơn gió bấc thổi ngoài bến tàu làm cho tôi tối tăm mặt mũi. Lửa rực sáng trong lò sưởi phòng làm việc của tôi. Những tinh thể băng tuyết hình lá dương xỉ phủ đầy bên ngoài mặt kính các cửa sổ, che lấp con sông Seine, các cây cầu và cung điện Louvre des Valois.   Tôi đẩy ghế bành và bàn di động đến gần lò sưởi chiếm lấy chỗ của chú mèo Hamilcar. Nó nằm khoanh tròn trên chiếc ghế lông, bốn chân ôm lấy mũi, ở đầu các thanh gác củi. Một làn gió đều đều phe phẩy bộ lông dày và nhẹ của nó. Thấy tôi đến gần, nó hé hai hàng mi, đưa cặp mắt mã não ra nhìn dịu dàng rồi nhắm lại ngay, nghĩ rằng: “Không hề gì, đó là bạn ta.” “Hamilcar!”. Tôi vừa kéo chân vừa gọi nó – “Hamilcar, ông hoàng ngủ gà của khu nhà sách, người canh gác ban đêm ơi! Mày chống lũ gặm nhấm hèn hạ, bảo vệ những bản thảo và ấn phẩm mà nhà bác học già nua đã mua với số tiền dành dụm ít ỏi là lòng nhiệt thành không mệt mỏi. Hamilcar, trong chốn thư viện im lặng này được các đức tính nhà binh của mày bảo vệ, mày hãy ngủ ung dung đài các như một bà hoàng! Bời vì ở mày hội tụ được dáng vóc tuyệt vời của một quân nhân Hung Nô với vẻ yêu kiều của một phụ nữ phương Đông. Hỡi chú Hamilcar anh hùng và thích khoái lạc, hãy vừa ngủ vừa chờ cơ hội lũ chuột nhảy múa dưới ánh trăng, trước giáo đường của nhà thông thái giáo phái Bông-lăng”.   Lời mở đầu bài diễn văn này làm vui lòng con Hamilcar, nó phụ theo bằng một tiếng khò khò trong họng như tiếng reo trong ấm nước sôi. Nhưng khi tôi cất cao lời nói, con Hamilcar cụp tai xuống, nhăn cái trán vằn, có ý cảnh cáo tôi nói năng cầu kỳ hoa mỹ như vậy là nghe chướng và nó nghĩ:   “Con người sách vở này nói năng chẳng đâu vào đâu, còn bà quản gia thì bao giờ cũng chỉ tuôn ra những lời lẽ đầy ý nghĩa, chứa đựng sự việc, hoặc báo tin một bữa ăn hoặc một trận đòn. Người ta biết chắc điều gì bà nói. Còn ông già này ghép lại những âm chẳng có ý nghĩa gì hết”.   Con Hamilcar nghĩ như vậy đó. Để mặc cho nó suy tư, tôi mở một cuốn sách và chăm chú đọc. Đó là cuốn danh mục các bản thảo. Tôi thấy không có gì dễ dàng hơn, thú vị hơn, êm đềm hơn bằng đọc một cuốn danh mục. Cuốn danh mục tôi đọc, do ông Thompson, cán bộ thư viện của ngài Thomas Raleigh, soạn thảo vào năm 1824 là cuốn sách hỏng, đúng thế, vì sự vắn tắt quá đáng và không thể hiện chút nào thứ chính xác mà các nhà lưu trữ thế hệ tôi đầu tiên đưa vào các tác phẩm về ngoại giao và về khoa chữ cổ. Nó chưa hoàn hảo, phái đoán mò. Có lẽ vì thế mà khi đọc nó, theo một bản tính tưởng tượng phong phú hơn bản tính của mình, tôi có cái cảm giác đáng được gọi là sự mơ mộng. Tôi lâng lâng thả mình trong dòng suy tư lơ mơ thì chị quản gia bằng một giọng cáu kỉnh bảo tôi biết có ông Coccoz yêu cầu nói chuyện với tôi.   Quả nhiên, một người nào đó lặng lẽ theo chị đi vào thư viện. Đó là một con người bé nhỏ, một con người bé nhỏ thảm hại, vẻ mặt ốm yếu, mặc chiếc áo mỏng dài đến đầu gối. Anh tiến về phía tôi, cúi chào mỉm cười nhiều lần, một cách tự tin. Anh rất đỗi xanh xao, tuy còn trẻ và nhanh nhẹn, nhưng hình như đang ốm. Nhìn anh, tôi nghĩ tới một con sóc bị thương. Anh cầm trong tay một mảnh vải bọc hàng màu xanh, đặt lên ghế, rồi mở bốn đầu mối của mảnh vải, để lộ một lô sách màu vàng.   - Thưa ông – lúc ấy anh cất tiếng – tôi không có hân hạnh được ông quen biết. Thưa ông, tôi là người môi giới cho hiệu sách. Tôi làm việc này cho các nhà buôn chính ở thủ đô, và với hy vọng rằng ông vui lòng cho tôi được hết sức tự hào về sự tin cậy của ông, tôi xin tự tiện mời ông một vài cuốn sách mới.   Trời đất ơi! Sách mới gì mà con người Coccoz nhỏ bé này mời tôi mua thế. Tập thứ nhất anh ta đặt vào tay tôi là cuốn Lịch sử tháp chiến Nesle với những chuyện dan díu giữa Margurite de Bourgogne và đại tá Buridan.   - Đó là cuốn sách lịch sử. – Anh vừa cười vừa bảo tôi. – Một cuốn sách đích thực.   - Trong trường hợp này – tôi đáp – thì chán lắm, bởi vì những cuốn sách lịch sử mà không nói láo thì đều buồn thiu buồn thỉu. Chính tôi đã viết những sách xác thực kia và nếu chẳng may cho anh, anh đi từ nhà này sang nhà khác giới thiệu cuốn nào, anh sẽ có nguy cơ suốt đời giữ nó lại trong cái bọc vải xanh của anh, không bao giờ tìm ra một chị cấp dưỡng nào khá kém chín chắn mua cho anh.   - Thưa ông, tất nhiên – Con người nhỏ bé đáp lại hoàn toàn chiều theo ý tôi.   Và vừa cười, anh ta đưa cho tôi cuốn Những chuyện dan díu của Héloise và Abeilard, nhưng tôi làm cho anh hiểu ngay rằng ở tuổi tôi, tôi chẳng làm gì với một chuyện tình.   Vẫn nụ cười trên môi, anh đề nghị tôi mua cuốn Luật về trò chơi đông người bài pikê, bài béji, bài các tê, bài uýt, bài súc sắc, bài con đam, cờ tướng.   - Chao ơi! – Tôi bảo anh ta – nếu anh muốn tôi nhớ lại luật chơi bài béji, anh hãy trả lại ông bạn già Bignan của tôi đã cùng tôi chơi bài mỗi buổi chiều, trước lúc ông ấy được năm viện hàn lâm long trọng đưa đến nghĩa địa, hoặc anh hãy làm xẹp sự thông minh trang trọng của con Hamilcar mà anh thấy nằm ngủ trên chiếc gối này, đối với chuyện phù phiếm về các trò chơi của con người, vì ngày nay, nó là người bạn duy nhất trong các buổi tối của tôi.   Nụ cười của con người nhỏ bé trở nên mơ hồ và hốt hoảng.   - Đây – anh bảo tôi – một tập mới xuất bản về các trò giải trí đông người, những câu pha trò, những trò chơi chữ, với những cách đổi một hoa hồng đỏ thành hoa hồng trắng.   Tôi bảo anh rằng từ lâu tôi đã rối lên với những hoa hồng, còn đối với những câu pha trò thì tôi chỉ cần những câu nào tôi được phép dùng một cách tự nhiên trong quá trình tiến hành các công việc khoa học.   Con người bé nhỏ lại đưa cho tôi cuốn sách cuối cùng với nụ cười lần chót. Anh nói:   - Đây là Sách giải mộng, giải thích tất cả mọi giấc mộng của người đời: mộng được vàng, mộng thấy mình là kẻ trộm, mộng thấy mình chết, mộng thấy từ trên cao trơi xuống… Đủ cả!   Tôi cầm cái gắp than, vung mạnh và trả lời ông khách luôn:   - Đúng, anh bạn ạ, nhưng những giấc mơ đó và muôn nghìn giấc mơ khác, vui có, buồn có, tóm lại chỉ là một mà thôi, đó là giấc mộng cuộc đời, và cuốn sách bìa vàng nhỏ của anh có cho tôi cái chìa khóa để giải giấc mộng đó không? Mời các bạn đón đọc Tội Ác Của Sylvestre Bonnard của tác giả Anatole France.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nguyễn Du - Trên Đường Gió Bụi - Hoàng Khôi
Cuộc đời Nguyễn Du có nhiều chỗ “mờ”! Mười năm gió bụi là cả một khoảng thời gian dài Nguyễn Du ở Thái Bình làm gì, hay còn đi đâu nữa? Nguyễn Du có chống Tây Sơn không và chống như thế nào? Mối tình Nguyễn Du với Hồ Xuân Hương kéo dài ba năm là lúc ông ở độ tuổi bao nhiêu? Nguyễn Du theo Gia Long có phải là tự nguyện? Rồi Truyện Kiều sáng tác ở thời điểm nào? Tại sao nhiều bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du viết về cảnh vật, con người Trung Hoa lại không trùng với con đường mà ông đi sứ?... Tất cả những điều đó, các nhà nghiên cứu đều đang gắng sức giải mã. Cũng đã có những giả thiết, những đoán định hợp lý, hợp tình, song vẫn cần những chứng cứ chính xác để tìm sự đồng thuận cao. Nhưng không phải vì thế mà người ta bớt yêu Nguyễn Du, bớt yêu Truyện Kiều, bớt yêu Văn tế thập loại chúng sinh và hàng trăm bài thơ, bài văn của Nguyễn Du bằng chữ Nôm, chữ Hán. Trái lại, các công trình nghiên cứu Nguyễn Du và tác phẩm của ông càng ngày càng thu hút giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Người Mỹ, người Anh, người Pháp, người Nga, người Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… đều có những tổ chức, những chuyên gia nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều. Người Việt hải ngoại hướng tới quê hương cũng tiếp cận Nguyễn Du và tác phẩm của ông không ít. Ở trong nước, di tích Tiên Điền, quê hương Nguyễn Du được xem là di tích cấp đặc biệt của quốc gia. Đặc biệt năm 2011, một tổ chức nghiên cứu Truyện Kiều của các nhà khoa học và những người yêu mến Nguyễn Du, yêu mến Truyện Kiều được thành lập, gọi là Hội Kiều học Việt Nam. Tất cả những điều ấy cho thấy Nguyễn Du và Truyện Kiều luôn là một ma lực, hấp dẫn. Đặc biệt Truyện Kiều được phổ biến, quảng bá bằng rất nhiều hình thức, phương thức từ bác học đến dân gian. Sinh hoạt về Kiều là một sinh hoạt văn hóa và Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa. Trong khi chờ để bổ sung một niên biểu chuẩn xác về Nguyễn Du, đã có những nhà văn thả trí tưởng tượng để tái hiện hình ảnh Nguyễn Du, đắp thịt, đắp da cho nhân vật mà mình yêu mến với mong muốn bè bạn cảm thông hơn về số phận, về nhân cách, về tâm hồn của một con người, một thi nhân nổi tiếng. Sự thực, người dựng chuyện về Nguyễn Du không nhiều. Ngoài một đôi mẩu giai thoại được loan truyền, chuyện về danh nhân Nguyễn Du chỉ mới có cuốn Ba trăm năm lẻ của Vũ Ngọc Khánh xuất bản năm 1988 và cuốn Nguyễn Du của Nguyễn Thế Quang xuất bản năm 2010. Cả hai cuốn trên đều nói rất sơ lược, thậm chí không nhắc tới khoảng thời gian mười năm Nguyễn Du lưu lạc. Là người đi sau, chúng tôi may mắn được tiếp xúc với nhiều công trình nghiên cứu và phát hiện mới, có điều kiện gặp gỡ và học hỏi nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia ở Hội Kiều học Việt Nam, cùng với mong muốn được góp một chút gì cho quê hương Nghi Xuân của mình, nên mạnh dạn dựng một Nguyễn Du theo cách mình hiểu. Nhà viết tiểu thuyết lịch sử lừng danh người Pháp, Alexandre Dumas từng khẳng định: Lịch sử chỉ là chiếc đinh để tôi treo bức tranh của mình. Tôi rất đồng tình với quan niệm này nên đã đặt nhân vật của mình với những thăng trầm lịch sử, đặt nhân vật của mình trong tương quan với những con người có thực cùng thời, chiếu ứng với những bài thơ của chính nhân vật viết ra rồi dựng lên một khung cảnh tôi cho là hợp lý. Truyện được dựng trên tinh thần như thế và tác giả chỉ tái hiện nhân vật Nguyễn Du trong khoảng thời gian từ thơ ấu đến ngoài tuổi 30 (khoảng năm 1793). Tôi cho rằng Nguyễn Du không chỉ có mười năm gió bụi mà cả cuộc đời ông sau trước đều trong cõi phong trần. Cuốn sách này được viết để bày tỏ tình yêu của tôi với quê hương và văn hào Nguyễn Du, để góp tiếng nói của một thành viên Hội Kiều học chào mừng ngày kỷ niệm 250 năm sinh của ông và cũng để nhớ tới thân phụ tôi, người đã nhiều năm gắn bó với Nguyễn Du và Truyện Kiều. Tôi xin cảm ơn những người thầy, những bạn bè đã gián tiếp gợi ý cho tôi qua các công trình mà tôi được tham khảo. HOÀNG KHÔI *** Cuốn sách Đoạn Trường Đoàn Nguyễn Tuấn chỉ tập bản thảo viết tay Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du đang đặt ngay ngắn trên án sách của chú em và hỏi: -Hai chữ “Bất uất” ghi ngoài bìa sách liệu có ăn nhập gì với câu chuyện của chú đang viết ra? Nguyễn Du giãi bày: -Ở cuối sách, em chỉ mong mua vui cũng được một vài trống canh nhưng bác biết đấy, thế nào trong truyện chẳng gửi gắm ít nhiều tâm sự. Hẳn sẽ có người chê, người cười! Vậy nên dẫn ra ngoài bìa hai chữ của cụ Khổng. Cụ dạy nhân tri bất uất, bất diệc quân tử hồ (người khác không hiểu tôi, tôi cũng không oán hận). Em viết vậy là để cho rộng đường dư luận, mong sao được nhiều người mặc sức khen, chê. -Chú quả là người rộng lượng và lo xa. Truyện này rất lôi cuốn! Anh nghĩ nếu sách này được phổ biến rộng ra, thiên hạ sẽ còn nhiều chuyện để bàn. -Đa tạ anh quá khen. Xin được anh chỉ dẫn thêm nữa. -Anh em mình đều là người đọc sách, lại rất hiểu nhau nên anh xin nói thật lòng mình. Cuốn sách của chú không chỉ phê bình trong một vài buổi là đủ. Riêng anh, mấy hôm nay suy ngẫm rất nhiều, lại nhớ lần anh em trò chuyện ở Hà Bắc nên đã mạn phép viết mấy lời đề từ. Chú xem rồi bổ chính nhé! Nguyễn Du trân trọng đón nhận tờ hoa tiên Đoàn Nguyễn Tuấn trao. Bài đề từ chỉ có tám câu bằng chữ Hán rất cô đọng nhưng đúng là một nhận xét tổng quát, chuẩn xác, lại bộc lộ được cảm xúc chân thành. Từ đàn lệ ngữ Duyên các kiều tình Kiến kiếm bất kiến nhân Thần hồ ký hĩ Thái hoa nhường mật Tân khổ vi thùy Thị phong khởi ngữ Diệc lãnh đố ngữ. Tạm dịch: Lời mĩ lệ chốn văn đàn Tả mối tình đáng yêu nơi lầu gác Khác nào kiếm thuật cao siêu thần diệu Chỉ thấy kiếm mà không thấy người Hái hoa để gây mật Đắng cay gian khổ là ai nhỉ? Mà nổi gió nên lời Vậy mà cũng lắm điều đố kỵ lạnh nhạt. ... Mời các bạn đón đọc Nguyễn Du - Trên Đường Gió Bụi của tác giả Hoàng Khôi.
Người Đàn Ông Của Tôi - Rachel Gibson
Những gì xảy ra ở Vegas. . . không xảy ra ở đây. Danh sách những việc "phải làm" ở Las Vegas của Autumn Haven là xem chương trình biểu diễn của Cher và chơi bài – chứ không phải thức dậy và kết hôn với anh chàng khốn kiếp vô cùng quyến rũ Sam LeClaire. Khoảnh khắc đầu tiên cô bắt gặp anh ta nhìn mình như thể một món ăn tráng miệng đầy ngọt ngào, linh tính mách bảo với Autumn rằng cô nên chạy đi. Và cô đã làm thế - ngay trong kỳ nghỉ cuối tuần đầy cuồng nhiệt và mơ mộng của đời cô. Nhưng vào sáng thứ Hai, cô lại quay về với thực tại, và trước khi cô có thể nói "đưa tôi tách café", Sam biến mất. Giờ đây, khi đã trở thành một nhà lên kế hoạch đám cưới thành công, Autumn không còn gặp gỡ anh chàng siêu sao môn khúc côn cầu phụ tình kia… cho đến khi cô tổ chức "Ngày Đặc Biệt" cho đồng đội anh ta, nơi Sam đã làm ồn ã mọi chuyện lên khi tiếp tục những gì anh ta từng bỏ mặc! Nhưng cô đã thề rằng người đàn ông của cô phải là một người nghiêm túc. Liệu Sam có phải là người đàn ông dành cho cô hay liệu cô có vứt bỏ anh ta mãi mãi? *** Rachel Gibson sinh ở Boise, Idaho, USA. Cha cô làm việc cho một công ty điện thoại, mẹ cô làm nội trợ. Hiện sống cùng chồng và 3 con tại Boise. Sáng tác văn do ảnh hưởng từ tiểu thuyết lãng mạn The Spanish Rose (tác giả Shirlee Busbee). Độc giả yêu thích văn chương của cô bởi khám phá được hơi thở mới của dòng văn học lãng mạn hiện đại. Bốn cuốn sách của cô đều trong danh sách Top 10 cuốn sách văn học lãng mạn được yêu thích nhất trong năm của Mỹ (Ten Favorite Books of Year của Romance Writer of America). Tiểu thuyết đầu tay Simply Irresistible trong top Sách bán chạy do tờ New York Times và USA Today bình chọn. Một số tác phẩm của Rachel Gibson đã được dịch và xuất bản tại Việt nam của tác giả Rachel Gibson, gồm có: Bí Mật Của Jane Chỉ Thuộc Về Anh Còn Đó Đam Mê Giã Biệt Tình Xa Hẳn Là Yêu Hãy Cứu Em Không Còn Tâm Trạng Để Yêu Không Gì Ngoài Rắc Rối Không Phải Tình Hờ Lola Chạy Trốn Người Đàn Ông Của Tôi Nói Dối Và Hẹn Hò Trực Tuyến Rắc Rối Với Ngày Valentine Thảm Họa Tình Tình Yêu Trở Lại Vương Phải Tình Em Yêu Em Cuồng Si *** Sam LeClaire là một gã khốn điển trai. Ai cũng nghĩ vậy. Tất cả mọi người từ các phóng viên thể thao cho tới các bà mẹ yêu thể thao. Cô gái đang quấn mình trong ga giường của anh cũng nghĩ vậy. Mặc dù cô ta không hẳn là một cô gái. Cô ta là một phụ nữ. "Em không hiểu vì sao em lại không được đi theo." Sam rời mắt khỏi nút thắt cà vạt sọc xanh của mình và nhìn vào cô nàng siêu mẫu trên giường anh qua gương. Tên đầy đủ cô ta là Veronica Del Toro, tuy nhiên, cũng giống như Tyra, Heidi, hay Gisele, mọi người chỉ biết đến tên cô ta. "Bởi vì anh vốn không biết em định đến," anh giải thích lần thứ mười. "Đưa khách đến đột xuất như thế là bất lịch sự." Điều này không phải lý do thật sự. "Nhưng em là Veronica." Chính thế. Đó mới là lý do đấy. Cô ta cư xử khiếm nhã và quá yêu bản thân. Anh cũng không phản đối gì tính cách ấy. Có thể chính bản thân anh cũng thô lỗ và quá yêu mình, nhưng, không như các mẩu tin viết về mình, anh thật sự biết xử sự đúng lúc đúng chỗ. "Em sẽ không ăn nhiều đâu." Mà không cần cố gắng chút nào. Đó là một trong những điều khiến anh khó chịu về Veronica. Cô ta chẳng bao giờ ăn. Cô ta gọi món như thể mình đói ngấu đói nghiến nhưng rồi chỉ gạt gạt thức ăn trên đĩa. Sam thắt nút cà vạt và nghiêng cằm sang một bên khi cài cổ áo. "Anh đã gọi taxi cho em rồi." Qua gương, anh nhìn Veronica nhổm dậy khỏi giường đi về phía mình. Cô ta bước đi trên thảm như thể đang ở trên sàn catwalk. Chân và tay đều dài, ngực bự nhưng hơi cứng ngắc. "Khi nào thì anh quay lại?" cô ta hỏi khi vòng tay quanh eo anh. Cô ta tựa cằm lên vai anh, ngước nhìn anh qua đôi mắt màu nâu sẫm. "Muộn lắm." Anh nghiêng đầu sang một bên, và khi cài chiếc khuy cổ còn lại, anh liếc nhìn chiếc nhẫn to bự có được khi thắng cúp Stanley trên tủ áo. Chiếc nhẫn bằng vàng trắng – xen vàng – gắn một trăm sáu mươi viên kim cương, ngọc lục bảo, và sapphire tạo thành logo của đội bóng trên mặt. Một bên thân khắc hình cúp Stanley cùng năm chiến thắng, bên còn lại là tên và số áo thi đấu của anh. Anh đã tháo nhẫn ra cho Veronica xem nhưng không định đeo vào lại. Dù có là tuýp đàn ông thích đeo đồ trang sức đi nữa, thì chiếc nhẫn khổng lồ kia không chỉ che kín đến tận khớp tay trên ngón tay phải của anh mà còn quá mức phô trương. Kể cả với một gã thích phô trương. "Muộn thế nào?" ... Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Của Tôi của tác giả Rachel Gibson.
Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ - Cecelia Ahern
Những người như anh được gọi là người bạn tưởng tượng, người  bạn vô hình. Nhưng gọi như thế nào và tin hay không, điều đó không quan trọng. Thế giới Tỉn Phai của anh tồn tại không phải để người ta nói đến hay tán tụng, mà để đáp ứng nhu cầu của những ai cần đến nó. Và anh sẽ trở thành người thay đổi cuộc đời em… chỉ cần em nhìn thấy anh… Thế giới của em là những mảnh ước mơ tan vỡ. Em đã tự đóng cửa trái tim, tự giết chết những mơ mộng và chôn vùi hy vọng của chính mình. Tất cả những gì em có, lẽ ra chỉ là những vết thương mãi mãi không thể lành… nếu em không nhìn thấy anh… Gặp em, quen biết em, và hơn hết là yêu em… Nhìn thấy anh, tin anh, và hơn hết là yêu anh… Đó chính là bầu trời sau cơn mưa tươi sáng nhất… *** - “Độc đáo và quyến rũ trong sự hoà trộn ấn tượng giữa Harry Potter và những cuốn sách dành cho thiếu nữ” - Library Journal - “… Trong sáng, ấm áp và sâu sắc, cuốn tiểu thuyết thứ ba của Cecelia Ahern tràn ngập yêu thương, lãng mạn và sự diệu kỳ. Nếu em thấy anh bây giờ hiện đang được hãng Disney dựng thành him. Ahern cũng là người được Glamour, tờ báo hàng đầu tại Anh, trao tặng danh hiệu” – Nhà văn nữ của năm 2008 - “Ahern đang trong hành trình chinh phục các độc giả trung thành của Marian Keyes và Jane Green” – Library Journal - “Ahern đã xoa dịu những trái tìm tan vỡ bằng niềm hy vọng và sự hài hước trong câu chuyện xúc động và cuốn hút này” – Publishers Weekly - “Câu chuyện hấp dẫn và ấm áp về tình yêu và tình bạn” – Company *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'The Gift' và đã được xuất bản cuối năm 2008. *** Tôi trở thành bạn thân của Luke vào một sáng thứ Sáu của tháng Sáu. Chính xác là chín giờ mười lăm phút sáng, và tôi biết đích xác thời gian là vì lúc ấy tôi nhìn đồng hồ. Chẳng hiểu vì sao tôi làm thế, vì tôi không cần phải có mặt ở bất kỳ nơi đâu vào bất kỳ thời điểm cụ thể nào. Song tôi tin điều gì cũng có lý do của nó, có lẽ vì vậy nên khi đó tôi xem đồng hồ chỉ là để sau này có thể kể lại cho các bạn nghe câu chuyện của mình một cách chính xác. Chẳng phải khi kể chuyện thì các chi tiết là rất quan trọng đó sao? Tôi mừng là đã gặp Luke sáng hôm đó vì tôi hơi buồn khi phải chia tay cậu bạn thân cũ, Barry. Cậu ấy không thể nhìn thấy tôi nữa. Nhưng điều đó phỏng có quan trọng gì, cái chính là giờ đây cậu ta thấy vui hơn, tôi cho đấy mới là điều quan trọng. Chia tay bạn thân là một phần công việc của tôi. Điều đó chẳng vui vẻ gì cho cam, nhưng tôi tin mọi thứ đều có mặt tích cực của nó, vì vậy tôi đã nhìn sự việc này theo chiều hướng là nếu mình không rời xa những người bạn thân, thì làm sao có những người bạn mới được. Mà kết bạn lại là phần công việc tôi thích nhất. Có lẽ đó là lý do tôi được đề nghị nhận công việc này. Chúng ta sẽ hiểu về công việc của tôi ngay thôi, nhưng trước hết tôi muốn kể cho các bạn nghe về buổi sáng đầu tiên tôi gặp cậu bạn thân Luke của mình. Tôi khép cánh cổng dẫn vào vườn trước nhà Barry và bước đi, rồi hoàn toàn chẳng vì lý do gì cả, tôi rẽ trái ở khúc ngoặt đầu tiên, rồi rẽ phải, rồi lại trái, đi thẳng một đoạn, lại rẽ phải và dừng lại bên cạnh một khu dân cư mang tên Fuchsia Lane(1). Hẳn cái tên đó bắt nguồn từ những cây hoa vân anh mọc khắp nơi này. Ở đây chúng mọc hoang dại. Xin lỗi, khi nói “đây” thì có nghĩa là tôi ám chỉ một thị trấn mang tên Baile na gCroíthe thuộc hạt Kerry. Nó nằm ở Ailen. Baile na gCroíthe từng được dịch ra tiếng Anh là Hartstown, tuy nhiên nếu dịch trực tiếp từ tiếng Ailen thì nó có nghĩa là Thị trấn của Trái tim. Theo tôi thì cái tên này nghe hay hơn. Tôi thấy mừng được trở lại đây; khi mới vào nghề tôi đã có vài việc ở đây, nhưng lâu rồi tôi chưa quay lại. Làm nghề này, tôi được đi khắp nước, thậm chí có lúc còn ra cả nước ngoài, khi bạn bè dẫn tôi theo đi nghỉ, những dịp chỉ chứng tỏ rằng dù ở bất cứ nơi đâu bạn cũng luôn cần một người bạn thân. Fuchsia Lane có mười hai ngôi nhà, mỗi bên sáu ngôi, và chẳng nhà nào giống nhà nào. Đoạn đường cụt này quả thực rất đông đúc người qua lại. Bạn hãy nhớ cho rằng đó là một buổi sáng thứ Sáu, và vào tháng Sáu nữa, nên trời nắng đẹp, sáng sủa, và tất cả mọi người đều phấn chấn. À, không phải tất cả mọi người. Rất đông trẻ con đang chơi đùa ngoài đường, đạp xe, đuổi bắt, chơi lò cò, ném lon và vô số trò khác. Bạn có thể nghe thấy tiếng chúng cười và la hét đầy phấn khích. Có lẽ chúng vui vì cũng được nghỉ học. Mặc dù trông đứa nào cũng hay nhưng tôi không bị thu hút. Chúng không liên quan đến công việc của tôi. Một người đàn ông đang cắt cỏ trong khu vườn trước nhà, một phụ nữ tay đeo đôi găng to xù lấm đất đang chăm sóc luống hoa. Mùi cỏ mới cắt tỏa ra ngai ngái, tiếng kéo cắt, cắt, xén, tỉa nghe như tiếng nhạc trong không trung. Ở khu vườn bên cạnh, một anh chàng đang huýt sáo một bản nhạc mà tôi không quen, tay cầm vòi phun nước rửa xe và ngắm những đám bọt xà phòng trôi xuống thành xe, để lộ lớp vỏ sạch bong. Thỉnh thoảng anh ta hướng vòi phun nước vào hai cô bé con mặc đồ bơi sọc đen vàng. Trông chúng như hai con ong nghệ khổng lồ. Tôi thích thú nghe tiếng chúng cười khúc khích. ... Mời các bạn đón đọc Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ của tác giả Cecelia Ahern.
Mùa Lá Rụng Trong Vườn - Ma Văn Kháng
Mùa lá rụng trong vườn là một tiểu thuyết của nhà văn Ma Văn Kháng, hoàn thành vào tháng 12 năm 1982 và được xuất bản lần đầu vào năm 1985. Lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi đất nước bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh, gây ra nhiều thay đổi tốt có, xấu có; truyện đã phản ánh chân thực những biến động trong xã hội thời bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình - tế bào của xã hội. Truyện đã giành giải thưởng loại B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986. Mùa lá rụng trong vườn kể về gia đình ông Bằng, một nhân viên bưu điện đã nghỉ hưu tại Hà Nội. Ông Bằng có năm người con trai. Anh cả Tường đã hi sinh ngoài mặt trận, vợ anh là Hoài đã tái giá nhưng vẫn thường xuyên viết thư thăm hỏi gia đình. Đông là anh hai, trung tá đã xuất ngũ, sống cuộc sống đơn giản và thậm chí là hơi lười biếng với Lý, cô con dâu đảm đang, nhanh nhẹn. Con trai thứ ba của ông là Luận, một nhà báo có nhiều trăn trở, suy tư về cuộc sống. Vợ anh là Phượng, một người tốt bụng, luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Trái ngược với các anh em, người con thứ tư - Cừ, lại hư hỏng, không nghe lời cha mẹ, đã từng bị đuổi khỏi quân đội. Cuối cùng, em út Cần đang đi học ở Liên Xô, sắp về nước. Ông Bằng cùng với gia đình Đông và Luận sống trong căn nhà đầu phố tĩnh mịch, cách khá xa sự ồn ào, hỗn loạn của chốn thị thành. Tuy nhiên, trong ngôi nhà yên tĩnh ấy, bi kịch ập tới khi Cừ bỏ việc ở xí nghiệp, trốn ra nước ngoài, bỏ lại vợ và hai con nhỏ. Đối với ông Bằng, người cha vốn rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái, vốn đề cao những giá trị tinh thần truyền thống, đề cao đạo đức thì đây là một cú sốc quá lớn. Sau khi trốn sang Canada, Cừ mới nhận ra lỗi lầm của mình thì đã muộn. Anh liền gửi bức thư cuối cùng về nhà trước khi uống thuốc tự tử. Nhận được thư, bệnh cao huyết áp của ông Bằng tái phát, khiến ông phải nhập viện, rồi qua đời. Đồng thời, vợ và hai con trai của Cừ vô cớ bị sa thải khỏi nông trường, phải đến ở nhờ nhà ông Bằng, rồi nhà chị Hoài. Trước tình cảnh khó khăn, Luận, Phượng và Hoài đã tỏ rõ mình là những người có tinh thần trách nhiệm cao đẹp, thương người như thể thương thân. Chuyện của Cừ chưa nguôi ngoai thì bi kịch khác lại đến. Lý cảm thấy quá mệt mỏi và chán chường khi sống cạnh Đông, người chồng lôi thôi, tối ngày chỉ biết đánh tổ tôm, không quan tâm tới vợ. Chị bị ông trưởng phòng vật tư ở cơ quan dụ dỗ. Vốn là con người ít học, nhiễm lối sống thị thành xô bồ từ nhỏ, Lý dần dần bị cám dỗ. Chị đã có lần đi công tác Sài Gòn gần tháng trời với ông ta, sống cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc, bỏ bê gia đình. Rồi cuối cùng chị bỏ chồng, theo ông ta vào Sài Gòn hẳn. Chỉ tới lúc đã đi khỏi nhà chị mới nhận ra lỗi sai của mình, viết thư tỏ ý muốn quay trở về. Câu chuyện kết thúc vào một đêm giáp Tết, khi mọi người nhận được thư của Lý. *** Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội) tên thật là Đinh Trọng Đoàn. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học trường Sư phạm Hà Nội. Ông từng là giáo viên cấp hai, dạy môn Văn và là hiệu trưởng trường cấp 3 thị xã Lao Cai nay là tỉnh Lào Cai. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Từ năm 1976 đến nay ông công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3 năm 1995 ông là Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã 8 lần đệ đơn xin thôi vị trí này. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ ***   Chợt có ngày hai mẹ con đang đi giữa phố cái Nga bỗng kêu: "Mẹ ơi, khói ở đâu ra thế này?" và cả hai mẹ con chìm trong một làn sương xám như bụi tro bay. Cái cảnh tượng như chỉ thấy ở miền núi vào những ngày mù sa làm cho con bé ngỡ ngàng. Nó ngỡ ngàng với tất cả. Kể cả việc nó được về thành phố ở với mẹ và bố. Phải mất gần một năm trời, mọi việc mới thu xếp xong, Phượng mới đưa được nó về đây. Con bé bị thiệt thòi nhiều quá. Nhưng nó đã được đền bù ngay: nó về đến thành phố thì cái Tết vừa chớm tới. Tết đang chầm chậm về, càng chầm chậm càng vui nôn nao. Cái Tết đến theo tiếng pháo dẫn đường. Thoạt đầu, pháo nổ đì đẹt, thưa thớt, ở xa lắc. Rồi gần dần, đặc dầy dần. Tới khi đường phố đã lấm tấm xác giấy hồng hồng và ở các cổng chợ, các ngã ba ngã tư, các quầy lá dong dựng lều bán mái thì đã là hăm ba tháng chạp - cái Tết thật sự đã có hình bóng. Cái văn phòng Xí nghiệp In có bà trưởng phòng tính nết thất thường của Phượng - cái thế giới sinh động vui vẻ ấy đón nhận cái Tết sớm hơn hẳn nơi khác. Vì cách đó mấy tuần, những tính toán chi tiêu sắm sửa cho cái Tết dân tộc đã lầm rầm chen lẫn vào công việc thường ngày, rồi mỗi ngày tiếng nó càng to, đến nỗi đã có lúc nó lấn át cả tiếng nói công việc. Và bà trưởng phòng, đã phải liên tục mở miệng quát tháo để giảm bớt sự nhiễu loạn và kéo sự chú ý của các cô vào công việc. Câu nói cửa miệng của bà lúc này là: "Tết với nhất, tốn tiền, mệt xác! Rồi lại còn dửng mỡ nữa chứ! Tôi yêu cầu! Tết năm nay cô nào còn đẻ nữa sẽ cắt thưởng. Sao mà ham đẻ thế!” Phượng bận rộn với công việc cuối năm. Hăm nhăm, hăm sáu Tết rồi vẫn còn hàng đống chứng từ hoá đơn chưa thanh toán, vào sổ. Còn quyết toán cả năm. Còn báo cáo tài chính với Liên hiệp xí nghiệp, với Ngân hàng. Năm nay xí nghiệp hoàn thành kế hoạch trước gần tháng, tiền thưởng khá to, nhưng làm cách nào rút được tiền mặt. Các cô đi qua, ghé lại bàn Phượng: "Chị Phượng ơi, Tết năm nay vợ chồng con cái em trông cậy cả vào chị đấy!” Và hình như chỉ chờ có vậy là bà trưởng phòng giật lên đùng đùng: - Hỏi cô thủ quỹ nhà các cô kia kìa! Bụng đã vượt mặt thế kia, còn có mà chạy được tiền mặt khối ra đấy! Tết năm nay cứ chuẩn bị mà treo niêu! Chửa với đẻ gì mà cứ như gà thế! Tháng trước xí nghiệp đã đứng ra làm lễ cưới cô thủ quỹ lấy ông Trưởng phòng Kỹ thuật. Giờ bụng cô đã to sề sệ. Rõ ràng là chửa trước ngày cưới chứ còn gì. Và Phượng thì bước đi đã thấy kềnh kệnh. Bà trưởng phòng nhằm vào hai cô tha hồ ngấm nguýt, móc máy, nhưng ngấm nguýt móc máy mà bà ngấm ngầm hả hê. Nhất là với cô thủ quỹ. Chửa đẻ thế, bị công luận coi thường là cái chắc, thì làm gì còn khả năng mà dám ganh với cái chức Trưởng phòng của bà. Một hôm bà đến bàn Phượng lúc cô đang bận làm quyết toán. Phượng nghĩ, chắc bà lại cự nự về việc mình trừ lương ông giám đốc từ tháng tới, hoặc là phàn nàn việc mình tự động lên gặp giám đốc đề nghị một số cải tiến trong việc kinh doanh của xí nghiệp hôm vừa rồi. Nhưng, không. Nghiêng nghiêng đầu, nhìn Phượng, mặt bà lồ lộ vẻ hí hửng rất trẻ con: - Này, đã có tin tức gì thằng Cừ chưa? Hơi bị bất ngờ, Phượng lắc đầu thật thà buồn rầu khe khẽ đáp: - Chú ấy không còn nữa, chị ạ. - Cái gì? Cậu nói cái gì! Nó có mà chết khối ra đấy! - Hai con mắt nổi phồng như mắt sư tử giấy, bà trưởng phòng, bỗng như nổi cơn hùng hổ, tiếp. - Này, nói để cô biết, phải cảnh giác nhé. Thằng Tàu nó bắt bọn di tản huấn luyện biệt kích rồi tung về ta làm gián điệp ối ra kia kìa. Quái, Cừ ở Canađa, chú ấy đã thất vọng và đã tự tử rồi. Sao bà lại nhằng chuyện nọ sang chuyện kia thế? Bà nói vậy là có ý gì? Đã tưởng bà đi, Phượng cúi xuống quay cái máy tính. Nhưng bà cũng lại cúi xuống theo và chống khuỷu tay lên mặt bàn Phượng, ghé sát vào mặt Phượng, toang toang như cố tình để người khác nghe thấy: - Này, thế bà vợ tay Đông ra sao rồi? Tớ biết ngay là con mẹ ấy nó sẽ bỏ lão Đông mà. Này, hồi nó viết thư đến xí nghiệp tố cáo cậu lăng nhăng với lão Đông, tớ mà không đứng ra bênh cậu thì còn lôi thôi to. Mụ ấy giờ ở đâu rồi? ... Mời các bạn đón đọc Mùa Lá Rụng Trong Vườn của tác giả Ma Văn Kháng.