Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Thú Tội

Sau cuộc phiêu lưu ly kỳ khám phá bí mật Cây Kim Rỗng, tưởng đâu gã đạo chích Arsène Lupin sẽ lui về ở ẩn một thời gian. Nhưng không, với bản tính ưa mạo hiểm, thích khám phá, Lupin sao có thể chịu ngồi yên nhìn cuộc đời trôi qua trong bình lặng. Những phi vụ của “Tên trộm quốc dân” đã được tái hiện đầy đủ và sống động trong Lời thú tội. Đan xen trong tập truyện là những vụ trộm vừa phải, những món lợi khiêm tốn hơn, Lupin đều đặn làm việc xấu và cũng làm cả chút việc tốt nữa, bởi bản tính tự nhiên và vì hắn thích thế, như một Don Quichotte dị thường và đầy trắc ẩn. *** “Siêu trộm hào hoa”, “Hoàng tử đạo chích”, “Robin Hood của giới tội phạm”, đó là những mỹ danh được dành tặng cho một trong những nhân vật tiếng tăm nhất của dòng văn học trinh thám phiêu lưu nước Pháp: Arsène Lupin. Ra mắt độc giả vào năm 1905 dưới dạng truyện ngắn dài kỳ trên tạp chí Je sais tout, gã đạo chích thông minh, quyến rũ nhưng không kém phần hài hước và láu cá ấy đã khiến cảnh sát khốn khổ vò đầu bứt tai, cánh nhà giàu ngày đêm lo ngay ngáy vì mất của, còn công chúng thì thích thú tán thưởng và hồi hộp dõi theo những màn trình diễn đầy hấp dẫn và không thể đoán trước kết cục. *** Arsène Lupin là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong loạt truyện thám tử, tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Pháp Maurice Leblanc, cũng như một số phần tiếp theo và rất nhiều phim truyền hình, phim điện ảnh như Night Hood, Arsène Lupin, các vở kịch và truyện tranh phỏng theo.   Cùng thời với Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc (1864-1941) đã sáng tạo ra nhân vật Arsène Lupin, một nhân vật có tầm phổ biến rộng khắp và lâu dài ở các nước nói tiếng Pháp, giống như Sherlock Holmes (tải eBook) ở các nước nói tiếng Anh. Serie Arsène Lupin gồm hai mươi tập truyện được viết bởi chính Leblanc cộng thêm năm phần tiếp đã được ủy quyền cho nhóm viết của Boileau-Narcejac thực hiện, cũng như nhiều tác phẩm khác phỏng theo. Nhân vật Lupin được giới thiệu lần đầu trên tạp chí Je Sais Tout qua một loạt truyện ngắn, bắt đầu từ số thứ 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905. Ban đầu nhân vật mang tên Arsène Lopin, nhưng vấp phải sự phản đối từ một chính trị gia trùng tên, kết quả là "Lopin" đã bị đổi thành "Lupin". Arsène Lupin là một siêu đạo chích có tài hóa trang, một tên trộm quý tộc chuyên trộm đồ của nhà giàu trong khi núp bóng quý ông lịch thiệp. Nhân vật Lupin giống với Marius Jacob nên có khi được cho là dựa trên hình mẫu này.xuất hiện trong 12 tập truyện ngắn đã cho thấy đây là một nhân vật có thể sánh ngang cùng với các nhân vật khác như Holmes cua Conan Doyle, Hercule Poirot cuả Agatha. Hình tượng Lupin đã được nhiều bộ phim nổi tiếng lấy làm mẫu nhân vật như Kaito Kid trong bộ manga nổi tiếng Thám tử lừng danh Conan (tải eBook). *** Maurice Leblanc sinh năm 1864 tại Rouen, Pháp. Tên tuổi của ông thực sự được biết tới và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả suốt hơn một thế kỷ qua nhờ series truyện dài kỳ cho tạp chí Je sais tout về nhân vật siêu đạo chích Arsène Lupin. Nhờ những cống hiến không ngừng nghỉ của mình, Leblanc đã được trao tặng Huân chương Bắc Đẩu bội tinh. Ông mất năm 1941 tại Perpignan. Dưới đây là một số tác phẩm của Maurice Leblanc được dịch và xuất bản tại Việt Nam: - Cái chết rình rập - Đối đầu Sherlock Holmes - Sa bẫy địa ngục - Những cú siêu lừa của Arsène Lupin - Những cuộc phiêu lưu của Arsène Lupin - Tám vụ phá án của Arsène Lupin - Ngôi nhà bí ẩn - Báo Thù - Nữ bá tước Cagliostro - Hòn Đảo 13 chiếc quan tài - Hai Nữ Tướng Cướp - Tam giác vàng ma quỷ - Arsene Lupin và Hồi Ức Bí Mật - Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú - Cây Kim Rỗng - Lời Thú Tội - ... *** Lupin này!” Tôi gạ. “Kể tôi nghe chuyện gì của anh đi.” “Ái chà! Chuyện gì là chuyện gì cơ chứ? Đời tôi – ai cũng biết hết rồi mà!” Lupin đang ngồi mơ màng trên chiếc trường kỷ trong phòng làm việc của tôi, đáp lại như thế. “Nào có ai biết rõ đời anh!” Tôi nói. “Đọc mấy lá thư anh gửi đăng báo, người ta biết đại khái anh dính vào vụ này, anh động vào việc kia… Chứ vai trò của anh, nội tình câu chuyện, diễn biến thế nào, kết thúc ra sao, những cái đó thì đố ai biết được!” “Xi! Toàn mấy chuyện linh tinh chứ có gì hay đâu!” “Ô này! Thế chuyện anh gửi năm mươi nghìn franc cho bà góa phụ Nicolas Dugrival thì sao? Anh bảo đấy là chuyện linh tinh không hay á? Còn chuyện anh giải mã câu đố bí ẩn của ba bức tranh đó nữa?” Lupin phá lên cười. “Đúng, đó là một bí ẩn lạ lùng, hẳn nhiên rồi. Tôi đề xuất một tiêu đề thế này, anh xem có thích không nhé: Mật hiệu bóng kim đồng hồ?” “Và cả những thành công tuyệt vời của anh trong xã hội và… với phái đẹp?” Tôi nói thêm. “Những cuộc tình chớp nhoáng của Arsène!… Rồi bí mật đằng sau những việc tốt anh đã làm? Mấy câu chuyện mà anh thường bóng gió với tôi bằng những cái tên: Chiếc nhẫn cưới, Tử thần rình rập… đó! Sao phải chậm trễ giãi bày những tâm sự và những thầm kín ấy, hả Lupin tội nghiệp của tôi?… Nào, hãy mạnh dạn lên một chút, làm như tôi bảo đi nào!…” Hồi đó, Lupin đã nức tiếng giang hồ, nhưng vẫn chưa thực hiện những phi vụ siêu khủng, chưa lao vào mấy trận chiến nảy lửa; là hồi trước các cuộc phiêu lưu để đời Cây Kim Rỗng và 813.Không mơ tới việc chiếm hữu kho báu cổ xưa mà những nhà vua nước Pháp⦾ tích lũy suốt mấy trăm năm, hay thay đổi bản đồ châu Âu ngay dưới mũi hoàng đế Đức, anh hài lòng với những vụ trộm vừa phải hơn và những món lợi khiêm tốn hơn. Hàng ngày, anh đều đặn làm việc xấu và cũng làm cả chút việc tốt nữa, bởi bản tính tự nhiên và vì anh thích thế, như một Don Quichotte dị thường và đầy trắc ẩn. Thấy anh im lặng, tôi lại nhắc: “Nào Lupin, mời anh kể…” Những lời anh đáp làm tôi ngạc nhiên: “Lấy giấy ra đi, anh bạn thân mến, cả bút nữa!” Tôi sốt sắng làm theo ngay, lòng khấp khởi mừng thầm với ý nghĩ: Cuối cùng, anh cũng chịu đọc cho đôi trang. Anh luôn biết cách kể chuyện. Những câu chuyện của anh bao giờ cũng lý thú và hấp dẫn, đầy khí lực và lôi cuốn, trong khi tôi cứ mải miết sa đà vào những giải thích rườm rà và trình bày nhàm chán. “Đã xong chưa?” Anh hỏi tôi. “Giấy bút sẵn sàng cả rồi đây!” “Anh viết nhé: 20 – 18 – 5 – 14; 8 – 5 – 20.” “Cái gì đây?” “Tôi bảo thì anh cứ viết đi.” Anh ngồi dậy, mắt dõi ra ô cửa sổ mở toang, còn ngón tay về một điếu thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ thượng hạng. Anh đọc tiếp: “Tiếp này: 6 – 1 – 9…” Ngừng một chút, anh lại đọc: “20 – 18 – 1 – 14 – 8.” Và sau một lúc im lặng. “24 – 5.” Anh điên rồi ư? Tôi chăm chú nhìn anh, chẳng mấy chốc đã nhận ra đôi mắt anh không còn lơ đãng như trước nữa, mà sắc sảo và rất tập trung, như thể đang theo dõi đâu đó trong không gian một cảnh tượng khiến anh bị thu hút. Nhưng, trong lúc đó, anh vẫn đọc và ngắt nghỉ giữa từng con số: “14 – 7 – 21 – 25…” Chẳng có gì để nhìn ngắm qua khung cửa sổ kia, ngoài mảnh trời màu lam ở phía bên phải và mặt tiền ngôi nhà cũ đối diện, cửa lúc nào cũng đóng im ỉm. Ngoài đó, chẳng có gì đặc biệt, cũng chẳng có gì mới giữa những thứ tôi luôn nhìn thấy suốt bao năm qua. “8 – 9…” Rồi tôi chợt hiểu… hay đúng hơn, tôi tưởng mình đã hiểu. Bởi làm sao tôi có thể thừa nhận một người bản chất điềm đạm giấu sau chiếc mặt nạ ngông nghênh phớt đời như Lupin lại có thể phí thời gian vào những trò trẻ con vớ vẩn như thế được? Không nghi ngờ gì nữa: Anh đang đếm những tia nắng mặt trời thoắt ẩn thoắt hiện vui đùa trên mặt tiền xám xịt của ngôi nhà đối diện, cao ngang lầu hai⦾. “5…” Lupin đọc. Vệt nắng biến mất mấy giây, rồi lại hiện ra trên mặt tiền ngôi nhà, rồi lại biến mất. Những lần hiện ra rồi biến mất ấy cách nhau đều đặn từng quãng. Tôi vô thức cũng đếm những vệt nắng trên tường và hô to: “13…” “Đã nắm được rồi à? Khá lắm! Chúc mừng nhé!” Anh cười, có chút giễu cợt. Anh bước tới khung cửa và nhoài người ra, như muốn tìm xem tia nắng rọi từ hướng nào. Rồi anh quay trở vào và lại nằm dài lên chiếc trường kỷ, nói: “Giờ đến lượt anh. Đếm đi!” Tôi nghe theo, có vẻ như gã tinh quái này biết chuyện gì đang xảy ra. Với lại, tôi cũng không thể phủ nhận, cách những vệt nắng kia ẩn hiện theo tần số trên mặt tiền ngôi nhà đối diện có gì đó bất thường, khiến ta phải tò mò. Chúng nhấp nháy đều đặn, nối tiếp nhau như tín hiệu đèn pin. Vệt nắng rõ ràng được chiếu ra từ ngôi nhà cùng dãy với nhà tôi, vì mặt trời chiếu xiên qua cửa sổ nhà tôi. Hình như có ai đó đang đóng – mở cửa kính hay đúng hơn là đang bày trò tiêu khiển bằng cách dùng chiếc gương bỏ túi hắt ánh mặt trời phản chiếu lên tường nhà người khác. “Là đứa trẻ nào nghịch gương chơi thôi mà!” Tôi gào lên, trong lòng thấy bực bội không nhịn được, sau một lúc căng mắt theo dõi và ghi chép. “Anh cứ tiếp tục đi!” Thế là tôi lại đếm… Thế là tôi lại viết những con số thành hàng… Và những tia nắng mặt trời lại tiếp tục nô đùa trước mặt tôi, với sự chính xác toán học. “Sao rồi?” Lupin hỏi, sau một lúc lâu không thấy những vệt nắng xuất hiện nữa. “Sao à? Hình như hết rồi đấy… Mấy phút trôi qua rồi mà chẳng thấy gì nữa…” Hai chúng tôi cùng đợi, do không thấy vệt nắng nào xuất hiện trên mặt tiền ngôi nhà cũ kia nữa, tôi mới đùa: “Theo tôi thấy, chúng ta vừa phí mất hơn chục phút cuộc đời. Chỉ ghi được có mấy con số trên giấy: Thành quả kém ghê!” Lupin, vẫn nằm yên trên ghế, cãi: “Ông bạn già, ông làm ơn chịu khó thay những con số bằng những chữ cái có thứ tự tương ứng trong bảng chữ cái đi tôi xem nào! Ví như chữ A thay vào số 1, chữ B vào số 2, chữ C vào số 3… cứ lần lượt thế. Làm thử tôi xem!” “Nhưng làm thế ngốc lắm!” “Quá ngốc! Nhưng trên đời có ai không làm chuyện ngốc nghếch đâu cơ chứ? Chỉ có người ít, người nhiều mà thôi!” Tôi đành ngồi xuống và làm cái chuyện ngớ ngẩn đó. Tôi bắt đầu viết những chữ đầu tiên: “T – R – E – N – H – E – T…” Tôi dừng bút, ngạc nhiên. “Được hẳn một từ có nghĩa đây này!” Tôi kêu lên. “Là từ TRÊN HẾT…” “Nốt đi, ông bạn già!” Tôi lại tiếp tục thay các con số bằng chữ cái tương ứng, lần lượt tách các nhóm ký tự ra thành từng tiếng, kinh ngạc hết sức khi chúng tạo thành những từ có nghĩa và một vế câu hoàn chỉnh hiện ra ngay trước mắt tôi. “Xong chưa?” Một lát sau, Lupin hỏi. “Xong rồi… À nhưng mà viết không dấu, lại có chỗ sai chính tả…” “Để ý đến cái đấy làm gì! Ông bạn làm ơn đọc to lên tôi nghe xem nào… Đọc chậm thôi.” Vậy là tôi đọc lên cho anh câu văn chưa hoàn chỉnh đó, nguyên văn như thế này: Trên hết, phải tránh xe nguy hiểm, chớ ttấn công, thận trọg tối đa khi tiếp cận đối phưang và…” Mời các bạn đón đọc Lời Thú Tội của tác giả Maurice Leblanc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bệnh Nhân Người Anh - Michael Ondaatje
Bệnh nhân người anh là tác phẩm đầy chất thơ về số phận của bốn con người gặp nhau nơi một tòa biệt thự bỏ hoang ở vùng đồi nước Ý trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Thế giới thứ hai. Câu chuyện như những trang sách được lật giở ngẫu nhiên dần hé mở tâm trạng và cuộc đời của từng nhân vật: Hana, cô y tá với những chấn thương tinh thần, một mực ở lại chăm sóc ông bệnh nhân người Anh khi những người khác trong bệnh viện dã chiến này đã chuyển đi; Caravaggio, một tên trộm, một cựu điệp viên, bị chặt đứt hai ngón tay cái trong một lần bị địch bắt; Kip, anh lính công binh gỡ bom người Ấn dè dặt với người phương tây; và bệnh nhân người Anh, nhân vật trung tâm, bị bỏng đến mức không còn nhận diện được, một ẩn số giữa họ... Bệnh nhân người Anh bí ẩn - ông thực sự là ai? Câu trả lời sẽ được hé lộ qua từng mảnh ký ức giống như tia chớp thi thoảng lé lên trong ông. Ký ức về cuộc đời phiêu lưu và mối tình mãnh liệt nhưng đau đớn của ông sẽ dẫn người đọc bước vào một mê cung cảm xúc rối rắm nhưng đầy thú vị. Hãy cùng đọc, khám phá và suy ngẫm... *** "Bệnh nhân người Anh (The English Patient) là một tác phẩm hấp dẫn của tiểu thuyết - cả với thơ ca và triết học”, Helena Kennedy - chủ tịch Quỹ Giải thưởng Booker cho biết. Bệnh nhân người Anh lấy bối cảnh những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Thế giới II khốc liệt, một chiếc máy bay bị bắn hạ và rơi xuống khu vực sa mạc Sahara. Trong chiếc máy bay là một người phụ nữ đã chết và một người đàn ông bị bỏng nghiêm trọng. Anh ta được gọi là "bệnh nhân người Anh" và được chuyển cho y tá Hana chăm sóc tại một biệt thự ở Ý bị hủy hoại. Nhưng ở nơi hoang vu đó, những cuộc tình nên thơ vẫn đâm chồi nảy nở. Đó là mối tình đẹp nhưng buồn của nữ y tá Hana với chàng trung sĩ phá mìn Kip, là mối tình buồn được ghi chép trong những trang nhật ký của bệnh nhân người Anh - Laszlo de Almasy với cô gái Katharine Clifton. Bệnh nhân người Anh đã đoạt nhiều giải thưởng và được dịch ra hơn 300 ngôn ngữ khác nhau, nhưng có lẽ bản chuyển thể tốt nhất là khi nó trở thành một bộ phim kinh điển của đạo diễn Anthony Minghella năm 1996. Bộ phim giành được 9 giải Oscar, 2 giải Quả cầu vàng và 6 giải BAFTA cho phim hay nhất năm 1997. *** Philip Michael Ondaatje, CC FRSL, là một nhà thơ, nhà văn tiểu thuyết, nhà tiểu thuyết, tiểu thuyết gia, nhà biên tập và nhà làm phim người Canada gốc Sri Lanka. Ông là người nhận được nhiều giải thưởng văn học như Giải thưởng của Toàn quyền, Giải thưởng Giller, Giải thưởng Booker và Giải thưởng Médicis étranger. Mời các bạn đón đọc Bệnh Nhân Người Anh của tác giả Michael Ondaatje.
Thành Phố Sau Ánh Hào Quang - Denley Lupin
Cuộc đời này những gì đến và đi không phải lúc nào chúng ta cũng có thể quyết định. Điều gì đang có nên trân trọng, thứ gì ra đi nên cảm ơn vì ý nghĩa nó từng đem đến. Nữ tác giả viết: “Thế giới này, chính vì có những con người dám ước mơ, dám thực hiện, dám chấp nhận thất bại nên mới có những phát minh vĩ đại. Bạn không cần trở thành vĩ nhân, hay trở thành người kiến tạo thế giới. Bạn chỉ cần sống đúng với mong ước cuộc đời của riêng bạn, sống một cuộc sống không phải hối hận, là đã đủ hạnh phúc rồi. Hãy theo đuổi hành trình ước mơ của bạn, lên kế hoạch và bắt tay thực hiện nó”. Những trang viết tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ, sống hết mình với tuổi trẻ và không bao giờ hối tiếc hay phải nói hai từ “giá như”. *** Ba năm sau. M.Y.S đã trở thành nghệ sĩ hàng đẩu ở thời điểm hiện tại. Là con át chủ bài của JND, danh tiếng chẳng hề thua kém gì đàn anh Nam Phong hay Winter ở thời kỳ đỉnh cao. Có thể xem cô là nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất trong lịch sử JND. M.Y.S được săn đón ở khắp mọi nơi nhưng cô luôn chọn cho mình lối sống khá kín đáo sau ánh hào quang. Nam Phong đã lặng lẽ rời khỏi làng giải trí. Đã hai năm qua anh tham gia một tổ chức phi chính phủ, giúp đỡ người khó khăn ở nhiêu nước nghèo đói. Có lẽ danh vọng, sự nổi tiếng trong showbiz đã chẳng còn sức hút với anh. Khi mọi thứ đã đạt được, đã ở đỉnh cao, anh chỉ mong muốn quay về làm những điêu giản dị như cách để trả ơn xã hội, để tìm ra giá trị của cuộc sống. ... Mời các bạn đón đọc Thành Phố Sau Ánh Hào Quang của tác giả Denley Lupin.
Âm Điệu Bóng Đêm
Trong suốt sự nghiệp viết lách nổi tiếng của mình, Julie Garwood đã làm say mê độc giả với những nhân vật hấp dẫn, táo bạo và bùng nổ với cuộc sống. Giờ đây, tiểu thuyết gia nổi tiếng Julie Garwood đã trở về với câu chuyện tình lãng mạn lịch sử, một câu chuyện ly kỳ về tình yêu, giết người, phiêu lưu và bí ẩn chống lại khung cảnh ám ảnh của Scotland thời trung cổ. Đối với Công chúa Gabrielle của St. Biel, Scotland là vùng đất của những khung cảnh tuyệt đẹp, những thủ lĩnh hoang dã, những ánh mắt xảo quyệt, và những bóng tối dốc đứng, skullduggery, phản bội, và giờ là giết người. Được tôn vinh bởi vẻ đẹp tinh tế của mình, con gái của một trong những nam tước có ảnh hưởng nhất nước Anh, Gabrielle cũng là một con bài mặc cả hoàn hảo cho một vị vua cần hòa bình ở vùng núi cao: Vua John đã sắp xếp cuộc hôn nhân của Gabrielle đến một người phụ nữ tốt bụng và hiền lành. Nhưng cuộc hôn nhân này sẽ không bao giờ diễn ra. Mọi thứ thay đổi trong một đợt tự do cuối cùng khi cô và những người bảo vệ của mình bắt gặp một cảnh tàn ác không thể tưởng tượng được. Với một phát bắn từ cây cung và mũi tên của mình, Gabrielle lấy mạng, cứu mạng và bắt đầu một cuộc chiến.Trong vài ngày, vùng núi cao rực lửa một trận chiến hoàng gia bùng lên giữa kẻ thù cũ và mới. Đến Scotland để kết hôn, thay vào đó, Gabrielle bị vướng vào mưu đồ ở vùng cao. Đối với hai nhà quý tộc tàn bạo, việc đánh giá thấp sự dũng cảm và năng lực của Gabrielle có thể sẽ dẫn đến cái chết, nhưng nhờ có một bí mật mà Gabrielle sở hữu , Colm MacHugh - người đàn ông đáng sợ nhất ở Scotland, đã tìm ra một nguyên nhân mới cho sự can đảm. Một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn đi sâu vào trái tim của những cảm xúc, niềm đam mê bất khuất của tình yêu, thù hận và sự trả thù. “Âm điệu bóng đêm” là món quà tuyệt vời từ Julie Garwood và một thành tựu đáng nể trong sự nghiệp tuyệt vời của cô. *** Mưa lắm rồi vào cái năm mà những cơn giông bão dữ dội tràn vào từ biển khơi, đám chiến binh đầu tiên từ vùng đất xa xôi băng đồi vượt núi và đặt chân lên bờ biển của chúng ta. Với vũ khí bằng thép đeo trước ngực và bộ giáp được đánh bóng sáng lấp lánh tựa như mảnh kính vỡ dưới ánh mặt trời ban trưa, chúng tuần hành khắp những nơi mà mắt có thể nhìn thấy được. Chúng không cần hỏi han cũng chẳng hề quan tâm rằng mình đang xâm lược. Nói cách khác, chúng đang thi hành nhiệm vụ và chẳng gì có thể ngáng đường chúng. Băng qua đồng bằng của chúng ta, chúng chiếm đoạt ngựa và thức ăn, dẫm đạp lên hoa màu, cướp phụ nữ và giết rất nhiều những trai tráng khỏe mạnh. Chúng hủy diệt tất cả những nơi chúng đi qua… tất cả đều nhân danh Đức Chúa Trời. Chúng tự gọi mình là đội quân Thập Tự Chinh. Chúng cực kỳ tin tưởng rằng sứ mệnh của mình vô cùng thiêng liêng và tốt đẹp vì Đức Giáo Hoàng, người đã ban phước lành và ra lệnh cho chúng thực hiện cuộc hành trình đến phía bên kia của thế giới, đã nói với chúng như thế. Chúng phải trừng phạt những kẻ ngoại đạo và buộc họ phải tôn thờ Đức Chúa Trời và tín ngưỡng của chúng. Nếu những người ngoại đạo từ chối, những binh lính kia sẽ giết họ bằng thanh kiếm thiêng liêng được ban phước của mình. Vượt qua những ngọn núi của chúng ta là con đường duy nhất để đội quân Thập Tự Chinh tiến hành sứ mệnh của chúng, thế là chúng đi thành từng đoàn và khi chúng đặt chân đến bến cảng ở bên kia dãy núi, chúng đánh cắp tàu của chúng ta để giương buồm vượt đại dương đến nơi mà chúng cần đến. Đất nước nhỏ bé của chúng ta được gọi là Monchanceux, được cai trị bởi đức vua Grenier nhân từ. Ngài là người yêu quê hương và muốn bảo vệ nó. Chúng ta chẳng phải đất nước giàu có gì, nhưng chúng ta hài lòng với nó. Thế là đủ. Khi lũ xâm lược cướp bóc của chúng ta, đức vua rất phẫn nộ, nhưng ngài không để cho cơn giận dữ sai khiến. Vì ngài là một đấng minh quân, đức vua Grenier đã đưa ra một giải pháp. Ngài buộc tốp lính xâm lược tiếp theo phải trả phí khi vượt núi. Đường núi chật hẹp, nên có thể dễ dàng phòng thủ. Binh lính của chúng ta được trang bị để chống lại cái lạnh, tuyết và những cơn gió cắt thịt về đêm. Họ có thể bảo vệ rặng núi suốt hàng tháng trời và mùa đông sẽ đến rất nhanh. Kẻ dẫn đầu đoàn xâm lược vì chính nghĩa kia cảm thấy bị xúc phạm khi phải trả phí cho thứ gì đó. Hắn và binh lính của mình đang thực hiện một nhiệm vụ cao cả. Hắn dọa sẽ giết hết tất cả những người dân của Monchanceux, kể cả phụ nữ và trẻ em, nếu bọn chúng bị cản đường. Liệu đức vua Grenier và thần dân của mình có nhận ơn huệ của Giáo hội, hay họ chọn làm những kẻ ngoại đạo ngáng đường của Chúa? Câu trả lời sẽ quyết định số phận của họ. Ngay thời điểm mấu chốt ấy đức vua nhân từ và thông minh của chúng ta đã tiếp nhận tín ngưỡng. Ngài nói với kẻ dẫn đầu đội quân rằng ngài và tất cả thần dân của mình đều thuộc về Chúa và ngài sẽ chứng minh điều đó bằng bất cứ giá nào. Sau đó, Ngài cho gọi tất cả người dân của Monchanceux tập hợp trước ban công của cung điện. Kẻ cầm đầu đoàn quân Thập Tự Chinh đứng ngay sau ngài. “Kể từ giờ trở đi đất nước của chúng ta sẽ mang tên St. Biel, nhân danh vị thánh đỡ đầu của gia tộc ta. Người sẽ phù hộ cho những người vô tội,” đức vua Grenier tuyên bố. “Chúng ta sẽ dựng tượng thánh St. Biel và vẽ tranh của Người trước cửa thánh đường để bất cứ ai đặt chân đến với bờ biển của chúng ta đều sẽ thấy được sự tốt đẹp của Người, chúng ta sẽ cống nạp cho Đức Giáo Hoàng để tỏ lòng thành kính và sự phục tùng của chúng ta. Số lệ phí mà ta thu được sẽ dùng để cống nạp.” Kẻ cầm đầu đám ngoại xâm nhận ra rằng mình đang trong tình thế khó xử. Nếu hắn từ chối trả phí – bằng vàng, đương nhiên, đức vua sẽ không chấp nhận thứ gì khác – vậy khác nào hắn từ chối việc cho phép nhà vua cống nạp cho Đức Giáo Hoàng? Và nếu Đức Giáo Hoàng biết được hắn đã từ chối, Giáo Hoàng sẽ làm gì? Khai trừ hắn? Xử tử hắn? Sau một đêm dài suy ngẫm và quát tháo không ngừng, kẻ cầm đầu đoàn quân đã quyết định trả phí. Đó là một sự kiện trọng đại, một tiền lệ đã được đặt ra kể từ thời khắc đó, bất cứ quân Thập Tự Chinh nào muốn đi qua lãnh thổ của chúng ta đều phải trả phí mà không có bất cứ thắc mắc nào. Đức vua của chúng ta đã giữ đúng lời hứa. Ngài đã nung chảy vàng và làm chúng thành những đồng tiền nhỏ, trên mỗi đồng tiền đều có hình thánh St. Biel, với vầng hào quang trên đầu. Kho bạc hoàng gia phải mở rộng để làm phòng chứa những đồng tiền vàng, một con tàu được chuẩn bị cho chuyến hành trình dâng chúng đến tay Đức Giáo Hoàng. Một ngày trọng đại, những chiếc rương thật nặng được chất xuống hầm tàu, đám đông dân chúng tụ tập tại bến cảng để nhìn chuyến tàu khởi hành đến Rome. Ngay sau cái ngày lịch sử ấy, những tin đồn bắt đầu lan truyền. Chẳng ai có thể chắc chắn mình đã thật sự nhìn thấy số vàng hay ước lượng được bao nhiêu vàng đã được chuyển đi. Vài sứ thần tuyên bố rằng chỉ một khoản rất nhỏ đến được tay Giáo hoàng. Những lời bàn tán về tài sản khổng lồ của đức vua chúng ta dâng lên rồi hạ xuống như những đợt thủy triều vỗ vào bờ của chúng ta. Cuối cùng, một con đường ngắn hơn để đến vùng đất Thánh được tìm ra, đội quân Thập Tự Chinh không còn đi qua đất nước của chúng ta nữa. Chúng ta vô cùng biết ơn sự vắng mặt này. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không được yên bình. Cứ cách vài năm lại có người đến để tìm kiếm số vàng trong truyền thuyết. Một vị bá tước từ Anh quốc tìm đến vì đức vua của ông ta đã nghe được tin đồn, nhưng sau khi người trị vì của chúng ta cho phép ông ta thực hiện một cuộc tìm kiếm toàn diện trong cung điện và các căn cứ, vị bá tước nói với ngài rằng ông ta sẽ trở về Anh quốc với tin tức: không có kho báu nào được tìm thấy. Bởi đức vua Grenier quá hiếu khách, vị bá tước đã lên tiếng cảnh báo ngài rằng hoàng tử John của Anh quốc đang có ý định xâm lược St. Biel. Hoàng tử John, vị bá tước giải thích, muốn thống trị thế giới và đang nóng lòng được kế thừa chiếc vương miện của Anh quốc. Vị bá tước kia tin chắc rằng St. Biel sẽ sớm trở thành một thuộc địa khác của Anh quốc mà thôi. Cuộc xâm lược đến vào một năm sau đó. Khi St. Biel chính thức thuộc về Anh quốc, cuộc tìm kiếm số vàng bị giấu lại được tiếp tục. Những người tham gia cuộc truy lùng thề rằng không có một viên đá nào chưa bị lật lên. Nếu thật sự từng có kho báu nào đó, thì nó đã biến mất. Mời bạn đón đọc Âm Điệu Bóng Đêm của tác giả Julie Garwood.
Bức Tranh Dorian Gray
Không chỉ là một kiệt tác văn chương gây nhiều tranh cãi khi mới xuất bản, “Bức tranh Dorian Gray” còn là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Oscar Wilde. Lấy bối cảnh diễn ra vào thời Victoria ở nước Anh, Dorian Gray có vẻ ngoài cuốn hút, đã truyền cảm hứng cho Basil vẽ chân dung của anh. Đó là một bức chân dung kì lạ, nó thay Dorian Gray già đi, thậm chí khi Dorian Gray trở nên tệ bạc, xấu xa, bức tranh cũng trở nên tệ hại theo. Cứ thế Dorian Gray giữ được vẻ ngoài suốt gần hai mươi năm, nhưng liệu giữ được vẻ ngoài hào hoa bất biến theo thời gian có thật sự là may mắn? Trút hết sự suy đồi của mình vào một bức tranh liệu có làm cho Dorian Gray hạnh phúc, hay đó lại chính là khởi đầu cho những bất hạnh ngấm ngầm bao phủ cuộc đời anh ta? *** Trong lịch sử văn chương nhân loại có những cuốn sách được viết ra quá sớm so với thời đại của chúng, nên dường như vì thế mà chúng phải chịu trắc trở ngay từ những ngày mới chào đời. Ví dụ điển hình là Lolita của Vladimir Nabokov: Bị cấm ở nhiều nơi, không thể in ở Mỹ, nơi nó được sáng tác xong vào năm 1953, và phải xuất bản lần đầu ở Pháp vào năm 1955. Tuy nhiên, như đã biết, sau đó Lolita nhanh chóng trở thành một tác phẩm bán chạy hàng đầu của văn chương tiếng Anh, luôn được xếp hạng đầu trong các cuộc bình chọn, và đưa tác giả của nó trở thành một trong các nhà văn vĩ đại nhất nhân loại. Trước đó hơn nửa thế kỷ, vào năm 1891, cũng từng có một kiệt tác văn chương chịu số phận gập ghềnh không kém, là Bức tranh Dorian Gray (The picture of Dorian Gray) của Oscar Wilde, nhà văn vĩ đại người Ai Len. Sau khi xuất hiện lần đầu vào tháng Bảy năm 1890 trên tạp chí Lippincott's Monthly Magazine, mặc dù đã bị kiểm duyệt và bỏ đi khoảng năm trăm từ, nhưng cuốn sách này vẫn chịu phản ứng dữ dội từ giới phê bình văn chương Anh quốc, do đụng đến các vấn đề chưa được xã hội chấp nhận vào thời điểm ấy. Phiên bản sách giấy của Bức tranh Dorian Gray được Oscar Wilde chỉnh sửa, bổ sung, viết thêm phần Lời tựa rất nổi tiếng, và cho nhà xuất bản Ward, Lock and Company in vào năm 1891. Như vậy, tác phẩm này có hai phiên bản: một là bản 1890 với 13 chương và khoảng năm trăm từ bị kiểm duyệt, hai là bản 1891 với 20 chương và được in thành sách. Ngoài ra, năm 2011, Harvard University Press đã in lại bản 1890 với 13 chương nguyên vẹn không bị bỏ từ nào như Oscar Wilde viết từ đầu. Bản dịch tiếng Việt này được làm theo bản 1891 của Ward, Lock and Company. Mặc dù cuốn sách hiện nay đã nổi tiếng, được dựng thành phim và kịch, thậm chí Dorian Gray đã thành một thuật ngữ chỉ một hội chứng thời đại, nhưng tác giả của nó lại không được chứng kiến sự thành công của đứa con tinh thần của mình. Tác giả Bức tranh Dorian Gray phải chịu số phận bi thảm hơn nhiều so với tác giả Lolita, ông sống những ngày tháng cuối đời trong cô độc và nghèo khổ. Ngày 30 tháng Mười một năm 1900, ông qua đời vì bệnh viêm não tại Paris, khi mới 46 tuổi. Cuốn sách đã đem lại cho Oscar Wilde nhiều bi kịch, biến ông trở thành nhân vật bị xã hội căm ghét, và không khó nhận ra sự phản kháng của ông trong phần Lời tựa khi tái bản nó, với những tuyên ngôn đầy ẩn ý như: “Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi.” Hoặc: “Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động.” Tuy nhiên, thời gian là hòn đá thử vàng với nghệ thuật, không phải cái gì lấp lánh leng keng cũng chịu đựng được sự phán xét tàn nhẫn của thời gian. Năm nào cũng có vô số cuốn tiểu thuyết được viết ra, được ca ngợi bởi các nhà phê bình cũng như báo chí, thậm chí được các giải thưởng lớn nhưng không mấy cuốn còn lại được sau vài chục năm. Và trong các cuốn sách trụ vững với thời gian ấy thì, cũng như Lolita, Bức tranh Dorian Gray đã được đánh giá như một trong các kiệt tác văn chương quan trọng nhất của nhân loại. Tình yêu đồng giới mà nó đề cập đến đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới, mặc dù cũng chưa thể nói là đã được coi là bình thường tại một số nước nhất định. Tuy nhiên, chủ đề này chỉ là một điểm nhấn trong Bức tranh Dorian Gray, và ngay cả mô-típ bán linh hồn cho quỷ dữ cũng không phải là mới, mà chính kỹ thuật viết tuyệt đẹp đã đem lại sự thành công cho tác phẩm này. Vốn nổi tiếng như một tác giả của những câu văn hài hước, sâu sắc và đôi khi rất cay độc, Oscar Wilde đã đưa câu chuyện tưởng chừng rất khó viết cho tao nhã ấy thành một tiểu thuyết cực kỳ hấp dẫn không chỉ về số phận một nhân vật riêng lẻ, mà về bi kịch chung của thân phận con người. Ba nhân vật quan trọng nhất trong cuốn sách: Henry Wotton, Dorian Gray, Basil Hallward, theo Oscar Wilde, là ba phản thân của tác giả, là những hình ảnh mà thế gian nhìn nhận về ông; chính ông muốn mình sẽ trở thành, có thể, ở một thời đại khác; và ông nghĩ là của chính ông. Thực ra cũng không ai biết ai trong ba nhân vật trên đây có nhiều tính Oscar Wilde hơn cả, vì không phải lúc nào con người cũng nhìn nhận được chính xác về mình, dẫu người đó có là một thiên tài chăng nữa. Người viết những dòng này vốn hâm mộ Oscar Wilde từ khi còn là một cậu bé, và không thể phủ nhận rằng đã bị nhiều câu văn của ông ảnh hưởng phần nào đến cách tư duy, nên việc dịch Bức tranh Dorian Gray, tiểu thuyết duy nhất của ông, vừa là một chuyến trở về thế giới của bậc thầy, vừa là một nghĩa vụ cá nhân: Đưa kiệt tác này đến với tiếng Việt một cách hoàn hảo nhất, bằng tất cả những gì mà khả năng và thời gian cho phép. Ba tháng dịch Bức tranh Dorian Gray đã đem lại cho người dịch nó những kỷ niệm khó quên, không chỉ trong mà còn ngoài cuốn sách. Có những chương dài và vô cùng phức tạp vì liên quan đến những kiến thức văn hóa và lịch sử cổ xưa của châu Âu, có nhiều câu văn đẹp đến mức không thể bỏ đi tiếp khi chưa thấy bản dịch thỏa mãn được chính người dịch, có những lúc mệt mỏi với sự đen tối không đáy của tâm hồn con người, có những lúc bật cười với sự hài hước đặc biệt của Oscar Wilde, có những lúc xao lòng với nỗi đau đằng sau một nụ cười nào đó, nhưng, trên tất cả, là niềm hạnh phúc vì đã, cùng với thần tượng của mình, tạo ra được một thứ tuyệt đối vô ích, chỉ vì mê nó đến cùng cực. Thiên Lương *** Nghệ sỹ là người tạo ra cái đẹp. Biểu lộ nghệ thuật và che giấu nghệ sỹ là mục đích của nghệ thuật. Nhà phê bình là người có thể tái hiện qua phong cách khác hoặc chất liệu khác các ấn tượng của mình về cái đẹp. Hình thái phê bình cao nhất cũng như thấp nhất là một dạng tự truyện. Những ai thấy nghĩa xấu trong cái đẹp là đã đồi bại song không nhờ thế mà khả ái hơn. Đó là tội trọng. Nhưng ai thấy nghĩa đẹp trong cái đẹp thì đã biết tu dưỡng. Với những kẻ này thì vẫn còn hy vọng. Họ là những kẻ được chọn lựa, những kẻ thấy cái đẹp chỉ đơn giản là đẹp mà thôi. Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa hiện thực là cơn thịnh nộ của Caliban khi thấy mặt mình trong gương. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa lãng mạn là cơn thịnh nộ của Caliban khi không thấy mặt mình trong gương. Cuộc đời đạo đức của con người tạo thành một phần chủ đề của nghệ sỹ, nhưng đạo đức nghệ thuật cốt ở sự sử dụng thành thạo một công cụ không hoàn hảo. Không nghệ sỹ nào muốn làm sáng tỏ điều gì. Ngay cả những điều đúng đắn cũng có thể bị làm sáng tỏ. Không nghệ sỹ nào có sự đồng cảm với luân thường đạo lý. Sự đồng cảm với luân thường đạo lý ở nghệ sỹ là một phong cách riêng tư không thể dung thứ. Không nghệ sỹ nào từng bệnh hoạn. Nghệ sỹ có thể diễn tả mọi điều. Tư tưởng và ngôn ngữ là các công cụ nghệ thuật của nghệ sỹ. Sự đồi bại và đức hạnh là các chất liệu của nghệ sỹ cho nghệ thuật. Từ quan điểm hình thái học, mẫu mực mọi nghệ thuật là nghệ thuật của nhạc sỹ. Từ quan điểm cảm xúc, ngón nghề của nghệ sỹ là mẫu mực. Mọi nghệ thuật đồng thời là bề mặt và biểu tượng. Những ai đi xuống dưới bề mặt đều làm liều. Những ai đọc biểu tượng đều làm liều. Chính khán giả, chứ không phải cuộc sống, mới là cái mà nghệ thuật thật sự phản chiếu. Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động. Khi các nhà phê bình bất đồng, nghệ sỹ thống nhất với chính mình. Ta có thể tha thứ cho kẻ tạo ra một thứ hữu ích chừng nào y còn chưa mê nó. Lý do duy nhất để bào chữa cho việc tạo ra một thứ vô ích là người ta mê nó đến cùng cực. Mọi nghệ thuật đều tuyệt đối vô ích. Oscar Wilde *** Oscar Wilde, tên đầy đủ: Oscar Fingal O'Flahertie Wills Wilde, sinh ngày 16.10.1854. Oscar Wilde là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch và phê bình nổi tiếng của Ireland. Năm 1871, ông học tại Trinity College (Dublin), sau đó học tại Magdalen College (Oxford, 1874-1878). Ở đây ông đã gặp và chịu ảnh hưởng của nhà văn, nhà phê bình Walter Pater (1839-1894) và ủng hộ phong trào ”nghệ thuật vị nghệ thuật". Ông cũng chính là người khởi xướng việc giảng dạy phong trào nghệ thuật này. Năm 1878, Oscar Wilde nhận giải Newdigate của Oxford cho bài thơ Ravenna. Năm 1884, Wilde kết hôn và cùng gia đình định cư tại Chelsea (London), tiếp tục viết và làm việc cho các tạp chí như Pall Mall Gazette và biên tập viên của Women's world (1887 – 1889). Ông xuất bản sách truyện cổ tích đầu tiên năm 1888 với tác phẩm The Happy Prince and Other Stories (Hoàng tử hạnh phúc và những câu chuyện khác). Ông sáng tác nhiều và thành công với lối viết tự nhiên, trong sáng. Ông cũng thành công với quyển tiểu thuyết duy nhất The Picture of Dorian Gray (1891). Sở trường của ông là biên kịch và với giọng văn trào phúng, châm biếm cùng với cách chơi chữ hóm hỉnh, ông đã sản xuất các phim hài như Lady Windermere's Fan (1892), An Ideal Husband (1895) và The importance of being earnest(1895), Salomé (1896). Năm 1895, Wilde bị buộc tội "có lối sống không đứng đắn” đối với hành vi “tình dục đồng giới” với 02 năm lao động khổ sai. Sau khi ra tù vào tháng 5/1897, ông đã dành phần đời còn lại của mình ở châu Âu, xuất bản "The Ballad of Reading Gaol" trong năm 1898. Ông qua đời tại Paris vào ngày 30 Tháng 11 năm 1900 vì bệnh viêm màng não. Các tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam Hoàng Tử Hạnh Phúc Và Những Truyện Khác - Oscar Wilde Chân Dung Của Dorian Gray - Oscar Wilde Gã Khổng Lồ Ích Kỷ - Oscar Wilde Tội Ác Của Huân Tước Arthur Savile Và Các Truyện Ngắn Khác ... Mời các bạn đón đọc Bức Tranh Dorian Gray của tác giả Oscar Wilde & Thiên Lương (dịch).