Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thuyền Trưởng Và Đại Úy

Có những cuốn sách mà ngay từ thời còn nhỏ nó đã trở thành người bạn thân thiết của ta và sau đó nó cứ tồn tại trong suốt cả đời mình. Cuốn tiểu thuyết “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” của Veniamin Aleksandrovich Kaverin, một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Liên Xô là một cuốn sách như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà từ Nhà xuất bản Văn học Thiếu nhi, đến Nhà xuất bản Đội Cận Vệ thanh niên, Nhà xuất bản Văn học, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia và hàng chục Nhà xuất bản khác ở Liên Xô đã in đi in lại cuốn tiểu thuyết này tới bốn, năm chục lần, mỗi lần hàng chục vạn bản[1]. Kaverin sinh năm 1902. Từ ngày còn theo học ở trường trung học, ông đã say mê văn học và bắt đầu làm thơ. Năm 1919 ông học ở trường Đại học Tổng hợp Moskva; năm 1920 chuyển sang học ở trường Đại học Tổng hợp Leningrad và đồng thời còn tham gia nghiên cứu tiếng Ả-rập trong Học viện Ngôn ngữ Phương Đông. Giữa lúc đó “Câu lạc bộ văn học” Leningrad tổ chức cuộc thi văn cho các cây bút thanh niên, Kaverin đã tham gia với cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, cuốn “Cây số thứ 11”. Truyện này đã được Maksim Gorky rất thích và khen ngợi. Từ đó trở đi Kaverin thường xuyên được sự chỉ đạo và giúp đỡ của nhà văn cách mạng vĩ đại đó. Trong thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, Kaverin đã công tác trên hạm đội Phương Bắc, đồng thời làm phóng viên cho tờ báo “Tin tức” và đã được tặng thưởng “Huy chương cờ đỏ”. Thời kỳ đầu, phần lớn những tác phẩm của Kaverin là những cuốn tiểu thuyết ảo tưởng; sau đó ông chuyển sang đề tài bộ mặt tinh thần và quá trình trưởng thành của thanh niên trong thời đại Xô Viết. Tiểu thuyết của ông khá nhiều, có hơn tám quyển lớn và nhiều cuốn đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” là cuốn tiểu thuyết dài nổi tiếng nhất của Kaverin. Tác phẩm kể lại câu chuyện về chiếc tàu thám hiểm “St. Maria” của nước Nga trước Cách mạng tháng Mười, về thuyền trưởng Tatarinov và đội thám hiểm do ông lãnh đạo đã bị mất tích ở vùng Bắc cực và về chuyện đại úy không quân Liên Xô Aleksandr Grigoriev sau ngày Cách mạng đã đi tìm đội thám hiểm đó. Câu chuyện kéo dài trong hơn ba mươi năm, qua những tình tiết phức tạp, tinh tế, tác giả đã biểu hiện vô cùng sắc nét ý chí kiên cường và tinh thần cao thượng của thanh niên Liên Xô. Sau khi xuất bản, cuốn tiểu thuyết đã lôi cuốn người đọc mãnh liệt. Năm 1946 “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” đã được tặng giải thưởng văn học Stalin. Hiện nay “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” vốn là một trong số tác phẩm được nhân dân và thanh thiếu niên Liên Xô yêu thích nhất. Về giá trị của tác phẩm, nhà phê bình văn học V. Annenkov đã viết: “Grigoriev, nhân vật chính của “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” đã trở thành tấm gương cho nhiều người. Không phải ngẫu nhiên mà một thanh niên nước ngoài đã viết: ““THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” đã đặt vào tay anh một vũ khí sắc bén. Vũ khí ấy là “Đấu tranh và tìm tòi, quyết đạt mục đích chứ không đầu hàng!”” Tính chất lãng mạn của lao động sáng tạo, của phát minh khoa học, tính chất lãng mạn của dũng cảm và chiến công là động cơ của tư tưởng và tình cảm trong những nhân vật tốt đẹp nhất của Kaverin”. Theo nhà phê bình văn học G. Trefilova thì “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” đã liên tiếp góp phần đào tạo thế hệ thanh niên cùng thời đại với nhân vật của nó… “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” được tính trong số những cuốn sách văn học Xô Viết đặc biệt được yêu thích, đặc biệt được phổ biến rộng rãi trong quần chúng, những cuốn sách ấy xuất sắc ở điểm là mọi người đều mê. Và theo ý kiến của Viện văn học thế giới mang tên Lenin thì “Cuốn tiểu thuyết “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” của Kaverin đầy tinh thần dũng cảm, bền bỉ, dám nghĩ, dám làm. Nó đã trở thành một trong những cuốn sách được thanh thiếu niên Liên Xô yêu thích nhất”. Tóm lại đây là một tác phẩm văn học lớn, một cuốn tiểu thuyết có nội dung giáo dục rất cao, có sức hấp dẫn mãnh liệt. Hấp dẫn, không chỉ vì nó ly kỳ, dồn dập, cái gì cũng mới lạ, mà còn do nội dung tư tưởng, do số phận và cá tính của các nhân vật chính, do lời văn trong sáng, tươi mát và phong phú của nó. Xin trân trọng giới thiệu với toàn thể các bạn nam nữ thanh niên và các em thiếu niên lớn tuổi. Hà Nội, mùa xuân năm 1974 Ngọc Kỳ *** Tôi còn nhớ mãi cái sân rộng thênh thang nhưng bẩn thỉu và những căn nhà thấp bé có hàng rào bao bọc ấy. Cái sân ở ngay cạnh một con sông và cứ mùa xuân đến khi băng tuyết tan, nước rút đi là trên sân lại đầy những củi rác và vỏ sò, đôi khi còn có cả những vật rất hiếm thấy. Chẳng hạn như có lần chúng tôi vớ được một cái túi chật ních những bì thư. Sau đó nước sông lại đưa đến và nhẹ nhàng đẩy luôn chính cái người đưa thư ấy vào bờ. Anh ta nằm ngửa, hai tay giơ lên như muốn che nắng. Người này còn trẻ lắm, tóc vàng hoe, những chiếc khuy đồng trên áo vét kín cổ sáng lóng lánh – có lẽ trước khi đi đưa chuyến thư cuối cùng này anh ta vừa mới đánh khuy bằng phấn. 01 (1) Người cảnh sát mang cái túi đi, vứt lại bó thư bên trong đã bị nước ngấm ướt sũng. Dì Dasha nhặt đem về nhà. Chắc là túi đựng thư còn mới, lại làm bằng da và nắp đậy rất khít nên những bức thư bên trong vẫn còn xem được. Mỗi buổi tối dì Dasha lại đọc lên một bức thư, có khi dì chỉ đọc cho mình tôi nghe, có khi cả xóm cùng nghe. Việc đó thú vị đến nỗi cả các bà già thường đến nhà ông Skovorodnikov chơi bài cũng bỏ đấy đến nhập bọn với chúng tôi. Trong số thư ấy có một bức được dì Dasha hay đọc nhất, đến nỗi sau này tôi đã thuộc lòng. Từ đó đến nay bao nhiêu năm tháng đã trôi qua mà tôi vẫn còn thuộc từ đầu đến cuối. “Bà Maria Vasilievna kính mến! Trước hết xin báo tin để bà rõ là ông Ivan Lvovich hãy còn sống và khỏe mạnh. Cách đây bốn tháng, theo lệnh của ông, tôi đã rời khỏi chiếc tàu buồm cùng mười ba người nữa trong đội thủy thủ. Tôi hy vọng chẳng bao lâu nữa sẽ được gặp bà, nên tôi sẽ không viết tỉ mỉ về chuyến đi gian nan này của chúng tôi trên những núi băng trôi về đất Franz Josef. Chúng tôi đã phải chịu đựng mọi nguy nan và gian khổ khôn lường. Tôi chỉ muốn nói với bà một điều là trong cả nhóm chỉ còn mình tôi đến được mũi Flora một cách an toàn (nếu không kể đến đôi chân cứng dại vì băng giá). Chiếc tàu “St. Phocas” thuộc đội thám hiểm của trung úy Sedov đã cứu tôi và đưa về Arkhangelsk. Tôi được sống sót nhưng có lẽ phải lấy làm tiếc về điều đó vì một ngày gần đây tôi sẽ phải cưa chân và sau đó thì chỉ còn biết trông chờ ở lòng nhân từ của Chúa. Tôi không biết sẽ sống ra sao khi không còn chân nào nữa. Dưới đây tôi xin báo để bà biết: chiếc tàu “St. Maria” bị nghẽn băng ở ngoài biển Kara và từ tháng Mười năm 1912 nó không ngừng di chuyển lên phía Bắc cùng với những tảng băng Bắc cực. Khi chúng tôi rời khỏi chiếc tàu buồm thì nó ở vĩ độ 82°55’. Nó nằm nguyên giữa biển băng hay nói cho đúng hơn thì từ mùa thu năm 1912 nó còn nằm nguyên ở đó cho đến khi chúng tôi đi khỏi. Rất có thể nó sẽ đi được trong năm nay, nhưng theo ý tôi thì có lẽ phải đến sang năm, khi nó trôi đến gần chỗ mà chiếc tàu “Fram” đã được giải thoát, nó mới có khả năng thoát ra khỏi biển băng ấy. Lương thực còn cho những người ở lại trên tàu đủ dùng đến tháng Mười hoặc tháng Mười một sang năm. Dù thế nào đi nữa cũng xin bà tin cho rằng chúng tôi rời khỏi tàu không phải vì nó ở vào tình thế tuyệt vọng. Tất nhiên tôi phải chấp hành lệnh của Thuyền trưởng, song cũng xin thú thật rằng lệnh đó của ông rất phù hợp với nguyện vọng riêng của tôi. Khi tôi cùng với mười ba thủy thủ rời khỏi tàu thì ông Ivan Lvovich có nhờ tôi chuyển một gói niêm phong cho Ngài Cục trưởng Cục Địa lý thủy văn hiện đã quá cố và một phong thư cho bà. Tôi không dám mạo hiểm gửi bưu điện những thứ ấy bởi vì hiện nay chỉ mình tôi còn sống, tôi phải thận trọng tất cả những gì làm bằng chứng cho hành vi chính trực của mình. Do đó xin bà phái người hoặc bà đích thân đến Arkhangelsk để nhận các thứ trên, bởi vì tôi còn phải nằm ở nhà thương này ít nhất cũng là ba tháng nữa. Tôi mong thư trả lời của bà. Xin gửi bà lời chào kính trọng và luôn luôn sẵn sàng hầu bà. Hoa tiêu tàu viễn hành I. Klimov” Địa chỉ đề thư đã bị nước thấm nhòe nhưng vẫn còn có thể thấy được, địa chỉ ấy cũng viết bằng nét chữ cứng cáp, thẳng tắp trên chiếc phong bì giấy dày đã ngả màu vàng. Đối với tôi, bức thư ấy cứ như một thứ kinh cầu nguyện – tối nào tôi cũng nhẩm đi nhẩm lại trong lúc chờ cha tôi đi làm về. 01 (3) Cha tôi ở bến tàu về rất khuya. Giờ đây tàu thủy ra vào hàng ngày và không chở đay gai, bột mì như trước nữa mà toàn chở những hòm đạn và phụ tùng súng ống nặng trình trịch. Cha tôi người đẫy đà, vạm vỡ, ria mép rậm, đầu đội chiếc mũ dạ con và mặc quần vải bạt. Mẹ tôi nói luôn mồm còn cha thì cứ lặng thinh ngồi ăn, thỉnh thoảng ho vài tiếng và vuốt bộ ria. Sau đó cha dắt các con – tôi và em gái tôi – lên giường đi ngủ. Từ người cha tỏa ra mùi bao tải, khi thì mùi táo, mùi bột mì, có khi lại là mùi hôi của dầu máy. Tôi còn nhớ cái mùi đó đã làm cho tôi phát ngán. Có lẽ chính trong cái đêm bất hạnh ấy khi nằm cạnh cha tôi, lần đầu tiên tôi đã nhận xét một cách có ý thức về tất cả mọi vật chung quanh. Một căn phòng nhỏ hẹp với cái trần thấp lè tè dán giấy báo. Bên dưới cửa sổ có một khe hở lớn và qua đó gió từ ngoài sông lùa vào. Đó là ngôi nhà của chúng tôi. Một người đàn bà xinh đẹp, da ngăm đen để xõa tóc đang nằm ngủ trên hai chiếc bao tải nhét đầy rơm đặt dưới đất, đó là mẹ tôi. Đôi bàn chân trẻ con nhỏ bé thò ra ngoài cái chăn rách tả tơi, đó là chân em gái tôi. Một thằng bé gầy gò đen đủi, mặc chiếc quần rộng thùng thình, run rẩy bò từ trên giường xuống và rón rén đi ra sân – đó là tôi. * *    * Địa điểm thích hợp đã được chọn sẵn. Dây dợ chuẩn bị đầy đủ rồi, đến cả củi khô cũng đã chất đống sẵn ở cạnh Prolom, chỉ còn thiếu có miếng thịt thiu nữa là có thể đi câu tôm biếc được thôi. Đáy con sông ở chỗ chúng tôi màu sắc sặc sỡ cho nên tôm ở đây cũng lắm màu nhiều vẻ. Con thì đen, con thì xanh màu lá cây, con thì vàng. Những loại tôm này cứ đốt lửa lên là chúng sẽ đến và dùng nhái con làm mồi mà câu cũng được. Nhưng con tôm biếc thì chỉ có thịt thiu mới câu được, về điểm này, tất cả bọn trẻ con đều khẳng định như vậy. Mãi hôm qua mới gặp may: tôi xoáy được của mẹ tôi một miếng thịt, đem ra phơi nắng suốt một ngày. Bây giờ nó đã thối rữa ra rồi, chẳng cần phải cầm cũng đã thấy rõ. Tôi chạy thật nhanh dọc theo bờ sông đến Prolom. Ở đây đã chất sẵn củi để đốt lửa. Từ xa đã có thể nhìn thấy hai cái tháp: bờ bên này là tháp Pokrovskaya, còn bờ bên kia là tháp Spasskaya. Sau khi nổ ra chiến tranh, tháp Spasskaya được dùng làm kho chứa da của quân đội. Petya Skovorodnikov quả quyết rằng ngày xưa trong tháp Spasskaya có ma và chính mắt cậu ta đã nhìn thấy lũ ma bơi từ bờ bên kia sông sang bờ bên này của chúng tôi. Sau khi sang sông, lũ ma đánh đắm thuyền đi và kéo nhau vào sống ở trong tháp Pokrovskaya. Cậu ấy còn cam đoan rằng lũ ma rất thích hút thuốc lá và uống rượu. Đầu chúng nhọn hoắt và trong bọn chúng có nhiều đứa thọt chân bởi vì chúng rơi từ trên trời xuống. Lũ ma ở trong tháp Pokrovskaya ngày càng sinh sôi nảy nở và mỗi khi đẹp trời là chúng lại lẻn vào bờ ăn cắp thuốc lá của những người đánh cá buộc vào lưới để cúng thủy thần. Tóm lại là khi tôi nhìn thấy một bóng đen gầy gò ở chỗ bức tường hổng trong lúc đang thổi lửa thì tôi cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên cả. - Nhóc con, mày làm gì ở đây? – Con ma hỏi tôi y như người vậy. Nếu lúc đó tôi nói được tôi cũng không trả lời nó. Tôi cứ nhìn nó trừng trừng và run bắn người lên. Đúng vào lúc đó mặt trăng ló ra khỏi đám mây nên có thể nhìn thấy người lính canh đang đi lại chung quanh kho chứa da của quân đội ở bờ sông bên kia, dáng to lớn, đẫy đà, lưng đeo khẩu súng trường chĩa nòng lên trời. - Câu tôm à? “Con ma” nhẹ nhàng nhảy xuống và đến ngồi bên đống lửa. - Sao cứ câm như hến thế, thằng ngốc? – Nó hỏi lại, giọng cục cằn. Không, đó không phải là ma! Đó chính là một người gầy còm hốc hác, đầu không mũ, gã cầm cái gậy con, luôn tay đập gậy vào chân mình. Tôi không nhìn kỹ mặt gã, nhưng tôi cũng nhận ra ngay là gã mặc có mỗi chiếc áo vét lên mình trần và dùng một chiếc khăn choàng thay cho áo sơ-mi. - Sao, mày không muốn nói chuyện với tao à, thằng khốn? – Gã lấy gậy chọc chọc vào người tôi mấy cái. – Thế nào, trả lời đi! Trả lời đi! Không thì… Không đứng dậy, gã nắm luôn lấy chân tôi kéo tới chỗ gã. Tôi ú ớ. - À, thì ra mày vừa câm vừa điếc! Gã bỏ tôi ra và cứ ngồi mãi, tay cầm gậy chọc vào đống than. - Cái thành phố hay thật, – gã nói vẻ chán chường. – Nhà nào cũng có chó; bọn cảnh sát như bầy thú dữ. Một lũ ăn tôm khốn kiếp! Gã bắt đầu chửi rủa. Nếu tôi biết sau đó một tiếng đồng hồ việc gì sẽ xảy ra thì dù tôi không thể nói lại với người khác một lời nào, tôi cũng sẽ cố gắng nhớ lấy tất cả những lời gã nói. Gã chửi rủa mãi, thậm chí nghiến răng nghiến lợi lại mà nhổ một bãi nước bọt vào đống lửa. Sau đó gã im lặng ngửa đầu lên ngồi bó gối. Tôi liếc nhìn và nếu gã không đáng ghét như vậy thì có lẽ tôi cũng đã thương hại gã. Bỗng gã đứng phắt dậy. Vài phút sau gã đã ở trên chiếc cầu phao – chiếc cầu này do quân lính mới bắc – sau đó thoáng thấy bóng gã bên bờ bên kia rồi mất hút. Đống lửa của tôi tắt ngấm. Nhưng dù không có ánh lửa tôi vẫn thấy rõ là tôi đã câu được rất nhiều tôm, nhưng trong đó không có con tôm biếc nào cả. Toàn là những con tôm đen thông thường chẳng lấy gì làm to lắm. Đem những con tôm này đến bán ở quán rượu chỉ được một cô-pếch[2] một đôi. Gió lạnh từ đâu phía sau thổi tới cứ lùa vào ống quần của tôi, tôi bắt đầu thấy lạnh cóng. Phải về thôi! Lần cuối cùng tôi quăng dây câu có sẵn mồi thịt thiu xuống nước thì thấy người lính gác ở bờ sông bên kia đang chạy xuống dốc. Tháp Spasskaya đứng sừng sững trên con sông. Từ tháp đến bờ sông là một cái dốc rải đá. Trăng sáng vằng vặc, trên dốc chẳng có một bóng người nào cả. Vậy mà không hiểu tại sao người lính gác lại vừa chạy vừa bỏ súng ra khỏi vai. - Đứng lại! Người lính không bắn mà chỉ lên đạn. Ngay lúc đó tôi nhìn thấy rõ người đang bị rượt theo trên cầu phao, sở dĩ tôi phải viết thận trọng như thế là vì cho đến giờ tôi cũng không dám khẳng định rằng đó chính là người trước đây một tiếng đồng hồ đã ngồi bên cạnh đống lửa của tôi. Song hình như giờ đây tôi vẫn còn nhìn thấy cái cảnh thế này: bờ sông tĩnh mịch, con đường sáng ánh trăng như rộng thêm ra chạy thẳng từ chỗ tôi đến những chiếc xà-lan đầu cầu phao và hai cái bóng đen dài của những người đang chạy trên cầu. Người lính gác chạy nặng nề và có một lần phải đứng lại để thở. Song người chạy trước rõ ràng lại còn nhọc nhằn hơn, bởi vì có lúc bỗng nhiên gã ngồi thụp xuống bên thành cầu. Người lính gác chạy tới chỗ gã, thình lình kêu lên một tiếng rồi ngã vật ra đằng sau – có lẽ bị đánh bất ngờ từ dưới lên. Người lính nằm vắt trên thành cầu rồi từ từ tuột xuống. Lúc đó tên hung thủ đã biến mất sau bức tường pháo đài. Không hiểu tại sao đêm hôm đó lại không có ai canh gác cầu phao: trong chòi gác trống không mà chung quanh cũng chẳng có người nào. Chỉ có mỗi mình người lính gác nằm nghiêng ở đó, hai tay vươn ra phía trước. Một miếng da to tướng văng ra bên cạnh. Lúc tôi sợ quá run bắn người lên đi đến gần thì thấy người lính ngáp một cách chậm chạp. Sau nhiều năm tôi mới biết rằng có nhiều người cũng ngáp trước khi chết. Đoạn người lính thở một hơi rõ dài, dường như khoan khoái, rồi tất cả lại trở nên tĩnh mịch. Chẳng biết làm gì hơn, tôi cúi xuống nhìn rồi chạy đến chòi gác xem – lúc đó tôi mới biết trong chòi gác không có người, thế là tôi lại quay về chỗ người lính. Tôi không kêu lên được, không phải vì hồi ấy tôi bị câm mà chính là vì sợ quá. Đúng lúc ấy từ trên bờ có tiếng người nói, tôi cắm đầu chạy về chỗ câu tôm vừa rồi. Sau này tôi cũng chẳng bao giờ lại chạy nhanh đến thế, thở không ra hơi, đau tức cả ngực. Tôi cũng chẳng kịp lấy cỏ đậy giỏ tôm vì khi về đến nhà thì tôm rơi mất một nửa. Lúc đó còn chú ý gì đến tôm nữa! Tôi lẳng lặng hé cửa, tim đập thình thịch. Trong gian phòng duy nhất của chúng tôi tối om om, mọi người đang ngủ ngon lành, chẳng ai biết tôi lén ra đi rồi lại trở về. Một phút sau tôi lại nằm lên chỗ cũ cạnh cha tôi. Nhưng mãi tôi vẫn không tài nào chợp mắt được. Trước mắt tôi lại hiện ra chiếc cầu phao dưới ánh trăng vằng vặc và hai cái bóng đen dài đang chạy.   Mời các bạn đón đọc Thuyền Trưởng Và Đại Úy của tác giả Veniamin Kaverin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghệ nhân và Margarita - Mikhail Bulgakov
M.Bulgakov - Bản thảo không bị cháy Từng chương, từng trang sách, đều ẩn chứa trong đó những hàm ý triết học được "phổ" vào ngay cả những sự kiện xoàng xĩnh, khôi hài đến thảm hại của một hiện thực rã nát trong thế giới văn nhân. Và toàn thể tiểu thuyết là một tuyên ngôn nghệ thuật mà cho đến ngày nay các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục khám phá không ngưng nghỉ. Nghệ Nhân là nhà văn vừa hoàn thành tiểu thuyết, viết về hai nhân vật Lesua và Ponti Pilat: Một là nhà triết học lang thang và một là quan tổng trấn quyền uy. Lesua đã bị gài bẫy, bị bắt và bị hành hình vì những rao giảng của mình. Cái chết của Lesua đã trở thành nỗi ám ảnh kéo dài suốt hai nghìn năm, không để cho Ponti Pilat được yên, bởi quan tổng trấn đã không thể "cứu" được Lesua khỏi án chết, như ước muốn bí mật chỉ riêng ông biết. Số phận của Nghệ Nhân cũng không hề may mắn hơn: Tác phẩm của anh bị nguyền rủa và khai tử bởi các đồng nghiệp ngay từ lúc chưa công bố, dẫn đến việc anh bế tắc, tuyệt vọng, tự đốt bản thảo và tìm đến nhà thương điên, trốn chạy cả tình yêu định mệnh của Margarita… Chỉ có quỷ sứ mới cứu nổi nhà văn. Và quả thật quỷ sứ đã xuất hiện. Phần lớn số trang của tiểu thuyết đã dành để mô tả những gì mà chúa quỷ Voland và đoàn tùy tùng đã "quậy tưng" thành phố Moscow lên theo cách nào. Bằng những phép thuật được sử dụng như thuốc thử, Voland đã buộc giới văn nhân tự lộn trái mình ra, bộc lộ những phẩm chất tồi tệ: Bất tài, dối trá, ăn bám và hám lợi. Quả thật, Bulgacov với "Tài năng của nhà văn trào phúng, tài năng của nhà văn giả tưởng và tài năng của nhà văn hiện thực" đã nén đến tối đa những vấn nạn văn chương - tư tưởng, nhằm khẳng định khát vọng của nhà văn. Nó ở trong lời đáp của Voland khi Nghệ Nhân lên tiếng hỏi mình có nên chạy theo Ponti Pilat không: "Không, chạy theo dấu vết của cái đã kết thúc để làm gì?…Chẳng lẽ anh không muốn giống như Faust, ngồi bên chiếc bình cổ cong với niềm hy vọng mình sẽ tạo ra được một giống Homuncul mới?". Nếu Nghệ Nhân - nhà văn trong tiểu thuyết khá mềm yếu và thụ động thì Bulgacov - nhà văn ngoài đời thực hoàn toàn ngược lại. Mạnh mẽ, quyết liệt, Bulgacov đã gửi một bức thư dài đến chính phủ Liên Xô: "Và tự tay tôi, tôi đã ném vào lò sưởi một tập bản thảo cuốn tiểu thuyết viết về quỷ sứ, một tập bản thảo hài kịch và phần đầu cuốn tiểu thuyết thứ hai của tôi - tiểu thuyết Sân khấu…Tôi xin lưu ý rằng, không được viết đối với tôi cũng có nghĩa là bị chôn sống… Nếu không được làm đạo diễn, tôi xin làm diễn viên đóng vai phụ. Nếu làm diễn viên phụ cũng không được, tôi xin làm công nhân sân khấu. Nếu cả điều đó cũng không thể được, tôi xin chính phủ Xô viết xử trí tôi như chính phủ thấy cần thiết…". Bức thư đã được gửi đi vào trước thời điểm mà Maiakovski đã dùng súng tự bắn vào đầu. Sự quyết liệt ấy đã thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết, ở những đối thoại giữa giữa Lesua - Pilat. Iesua đã trả lời Pilat, nhắc lại những gì mà vì nó, nhà triết học phải bước lên đoạn đầu đài: "Tôi nói rằng ngôi đền của lòng tin cũ sẽ sụp đổ, và ngôi đền mới của chân lý sẽ được dựng lên… Bất kể thứ quyền lực nào cũng là bạo lực đối với con người, và sẽ đến một lúc sẽ không còn quyền lực của các hoàng đế lẫn bất kỳ thứ quyền lực nào khác. Con người sẽ đến được vương quốc của sự thật và công lý, nơi nói chung sẽ không cần một quyền lực nào cả…". Có lẽ sự quyết liệt ấy đã giúp cho "bản thảo không bị cháy", cho dù Nghệ Nhân, cho dù chính Bulgacov đã đốt nó. *** Năm 2006, Mikhail Bulgakov, một trong những nhà văn lớn nhất và kỳ bí nhất của nước Nga, tròn 115 tuổi. Hành trình cuộc đời, hành trình văn chương của ông trên dưới trăm năm đầy gian nan thăng trầm nhưng hướng về bất tử, như lời khẳng định của một nhà văn Nga: “Bulgakov – nhà văn đang sống và sẽ sống chừng nào còn tồn tại văn học Nga”. Hơn thế nữa, mối quan tâm đối với sự nghiệp sáng tác của Bulgakov mỗi ngày một tăng ở Nga và ở nhiều nơi trên thế giới, hầu hết tác phẩm của ông liên tục được in, tái bản, dịch, dựng phim… Xuất hiện ngày càng nhiều những công trình nghiên cứu “Bulgakov học”. Ông là một trong số rất ít nhà văn ở Nga được làm “Bách khoa toàn thư”; và đặc biệt, Bulgakov có lẽ là một trong những nhà văn có tác phẩm được đưa lên và được đọc nhiều nhất trên mạng Internet. Nghệ nhân và Margarita là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của M. Bulgakov, một trong những đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ Nga. Tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Việt hai mươi năm trước, có thể nói đây là công trình dịch thuật công phu và tâm đắc nhất của tôi. Tuy nhiên, có một sự thật là, khác với ở nước Nga và phương Tây, kiệt tác này không thật sự được phổ biến và tiếp nhận rộng rãi ở bạn đọc Việt Nam – có lẽ là do những khác biệt nhất định về văn hóa. Lần này, 65 năm sau khi tác phẩm ra đời, chúng tôi xin tái bản lại bản tiếng Việt trong một nỗ lực tiếp tục đưa Bulgakov đến gần hơn nữa với bạn đọc Việt Nam, nhất là bạn đọc trẻ tuổi, thế hệ mà tôi hi vọng sẽ dễ dàng tiếp cận Nghệ nhân và Margarita hơn. Ngoài bản dịch cuốn tiểu thuyết, chúng tôi đưa thêm phần Phụ lục để phần nào giúp bạn đọc trong việc cảm thụ tác phẩm này. Hà Nội, 27 tháng 1 năm 2006 Ðoàn Tử Huyến *** Một buổi chiều mùa xuân, vào cái giờ mặt trời lặn nóng chưa từng thấy, trong công viên Hồ Pat’riarsi1 ở Moskva xuất hiện hai vị nam công dân. Người thứ nhất dáng thâm thấp, béo tốt, hói đầu, mặc bộ quần áo mùa hè màu xám nhạt, chiếc mũ còn khá lịch sự bóp lại cầm trong tay, cặp kính gọng sừng đen to quá cỡ ôm ngang khuôn mặt cạo kỹ lưỡng. Người thứ hai còn trẻ, vai rộng, tóc vàng hung rối bù, mũ cát két sọc vuông đội lệch ra sáu gáy, áo sơ mi kẻ ô, quần dài trắng nhàu nát và chân đi đôi giày vải đen. Người thứ nhất không phải ai khác, mà chính là Mikhail Aleksandrovich Berlioz2, chủ tịch ban chấp hành của một trong những hiệp hội văn học lớn nhất Moskva, viết tắt là MASSOLIT3, và ông đồng thời cũng là tổng biên tập một tờ tạp chí văn học lớn; còn người bạn đường trẻ của ông là nhà thơ Ivan Nikolaievich Ponưrev, bút danh Bezdomnưi4. Bước vào dưới dãy bóng râm của hàng cây lipa5 đang bắt đầu nhú lá xanh, việc đầu tiên của hai nhà văn là chạy vội đến bên chiếc quầy dựng bằng ván sơn sặc sỡ với dòng chữ “Bia và nước giải khát”. Mà quên, có lẽ cần phải thông báo ngay cho bạn đọc biết điều kỳ lạ thứ nhất của cái buổi chiều tháng Năm khủng khiếp này. Ðó là, không chỉ ở cạnh quầy giải khát, mà suốt dọc cả con đường có trồng cây chạy song song với phố Malaia Bronnaia cũng không thấy một bóng người nào. Vào cái giờ đó, khi hình như mọi người đã hết cả sức để thở, khi vầng mặt trời, sau một ngày thiêu đốt Moskva, đang bọc mình trong màn sương khô lặn xuống một nơi nào đấy phía sau tuyến đường vòng Sadovoie, chúng ta không hề gặp một ai đi dạo hóng mát dưới bóng hàng cây lipa, không thấy một người nào ngồi trên những chiếc ghế băng “suốt dọc con đường dài vắng tanh vắng ngắt.” “Cho cốc nước khoáng narzan”, Berlioz nói với người đàn bà bán hàng. “Không có narzan đâu”, người đàn bà trong quầy đáp, và không hiểu tại sao bà ta lại tỏ vẻ phật ý. “Có bia không?” Bezdomnưi hỏi bằng giọng khàn khàn. “Bia tối mới chở về”, người đàn bà trả lời. “Thế có gì?” Bezdomnưi lại lên tiếng. “Nước mơ ấm”, người đàn bà nói. “Thôi được, cho xin, cho xin, cho xin!…” Hai cốc nước mơ sủi rất nhiều bọt màu vàng, và trong không khí bốc lên một thứ mùi như ta thường thấy trong các cửa hiệu cắt tóc. Uống xong, hai nhà văn lập tức đua nhau nấc cụt; họ trả tiền và ngồi xuống một chiếc ghế băng, mặt ngoảnh ra hồ, lưng quay về phía phố Bronnaia. Ðúng lúc đó bắt đầu xảy ra điều kỳ lạ thứ hai của buổi chiều hôm đó, nhưng nó chỉ liên quan tới một mình Berlioz: ông bỗng thôi nấc, tim bỗng đập mạnh một cái rồi lặn hẫng đi đâu mất; và thoáng sau nó trở lại nhưng hình như có kèm theo một mũi kim tù nằm mắc bên trong. Thêm vào đó, Berlioz bỗng cảm thấy một nỗi sợ hãi vô cớ nhưng rõ rệt đến nỗi ông muốn ngay lập tức bỏ chạy khỏi nơi đây không ngoái lại. Không hiểu cái gì khiến ông hoảng sợ, Berlioz đưa mắt rầu rĩ nhìn quanh. Mặt ông tái mét; ông lấy khăn mùi soa lau trán, nghĩ thầm: “Cái gì xảy ra với mình thế này nhỉ? Trước đây chưa bao giờ như vậy cả… Hình như tim mình bị sao ấy… Mình mệt mỏi quá rồi. Có lẽ cần phải vứt tất cả lại để đến nghỉ ở Kislovodsk6 thôi…” Ðúng lúc đó, làn không khí oi ả bỗng cô đặc lại trước mắt Berlioz, tạo thành một người đàn ông trong suốt có hình thù hết sức kỳ dị. Trên mái đầu nhỏ tí của anh ta là chiếc mũ lưỡi trai của dân đua ngựa, áo vét kẻ ô mỏng ngắn cũn cỡn… Người này cao khoảng một sagien, nhưng vai hẹp, gầy không thể tưởng được, và bộ mặt, xin bạn đọc lưu ý cho, đầy vẻ nhạo báng! ... Mời các bạn đón đọc Nghệ nhân và Margarita của tác giả Mikhail Bulgakov.
Bến Hẹn - Janet Dailey
Mỗi người trong đời, không ai là không có lần đã lỗi hẹn với người yêu.  Thay vì cầm tay nhau tiến bước tới bến hẹn hạnh phúc, thì lỗi hẹn khiến hai người yêu nhau mỗi người phải rẽ sang một hướng đường khác. Đôi khi lỗi hẹn khiến cho người ta tìm đến được bến hẹn hạnh phúc mới, mà cũng có khi khôn. Nhưng dù thế nào, thì cũng có không ít người suốt đời cứ mãi luyến tiếc khôn nguôi đến "bến hẹn" của mối tình đầu dang dở. "Khi chiếc máy bay hạ thấp độ cao xuống dưới những đám mây xám trên bầu trời thành phố Anchorage, Sh-annon Hayes căng mắt nhìn qua khung cửa sổ đã bị mòn vẹt của nó. Một bức tường núi xám đen vươn cao lên cạnh thành phố, đỉnh núi khuất trong mây. Cô thấy bên dưới, nhà cửa rải rác và đường sá mọc ngang đan vào nhau. Xa xa, cô thấy những toà nhà cao có hình chữ nhật màu xám biến mất trong tầng mây thấp là đà. Thành phố lớn nhất của Alaska không lớn như San-non nghĩ. Cô hơi ngạc nhiên, vì cô cứ tưởng nó ồn ào, đông đúc, náo nhiệt như Houston, Texas, thành phố quê nhà của cô. Khi Shannon ngồi dựa lưng ra ghế, cặp mắt nâu của cô ánh lên vẻ sung sướng. Cô mỉm cười một mình, cảm thấy lòng hân hoan vì chuyến đi của cô đã kết thúc. Cô sờ chiếc nhẫn đính hôn nơi bàn tay trái, thoa mặt kim cương cắt theo hình vuông như thể thoa lên chiếc bùa hộ mệnh. Ánh sáng lờ mờ ảm đạm bên ngoài cửa sổ máy bay không làm cho nhiệt tình của cô suy giảm chút nào. Cô nghe tiếng bánh xe máy bay chạm mạnh xuống phi đạo, rồi sau đó mấy giây, cả chiếc máy bay phản lực chạy chậm lại trên đường băng. Việc phi cơ đáp xuống đất ảnh hưởng đến nhịp tim của cô, làm cho mạch trong người cô đập nhanh hơn. Shannon đưa tay vuốt mái tóc mày hạt dẻ cho thẳng mặc dù mới cách đấy mấy phút, cô đã chải mái tóc bờm xờm cho hấp dẫn. Cô cũng tô son điểm phấn lại một chút, vì cô biết Rick hơi quan tâm đến nhan sắc của cô. Anh đã hãnh diện tuyên bố anh là chủ sở hữu cô gái có mái tóc sẫm, mắt nâu đẹp rực rỡ. Đây là từ anh thường dùng để nói về cô, khiến cô cảm thấy hơi khó chịu. Nhưng bây giờ cô hy vọng anh vẫn nghĩ về cô như thế. Sau chuyến bay lâu 5 giờ, thì đẹp rực rỡ là chuyện khó có thể đạt được. *** Janet Anne Haradon Dailey (21/5/1944 - 14/12/2013) là một tác giả Mỹ về nhiều tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Janet Dailey. Các tiểu thuyết của cô đã được dịch sang hơn 90 ngôn ngữ và đã bán được hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới. Dailey vừa là một tác giả vừa là một doanh nhân. Dailey luôn muốn trở thành một nhà văn và yêu sách. Ba chị gái của bà thường đọc cho bà khi còn là một đứa trẻ. Đến năm 4 tuổi, bà đã có thẻ thư viện riêng của mình.  Bà tốt nghiệp năm 1962 tại Trường Trung học Jefferson ở Independence, Iowa và làm việc cho một công ty xây dựng thuộc sở hữu của người chồng tương lai của cô, Bill Dailey, hơn bà 15 tuổi. Hai người tiếp tục làm việc cùng nhau, thường dành 17 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần làm việc và kết hôn năm 1964. *** Một số tác phẩm của bà đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam, bao gồm: Bến Hẹn Chị Em Thù Hận Chỉ Vì Yêu Chuyện Tình Dưới Nhành Cây Tầm Gửi Con Đường Đêm Điểm Hẹn Của Tình Yêu Giông Tố Thảo Nguyên Hai Chị Em Hoa Thảo Nguyên Khung Trời Quyến Rũ Ngôi Sao Đơn Độc Ngựa Hoang Sự Lựa Chọn Cuối Cùng Tình Địch (The Rivals In Love) Vũ Hội Hoá Trang *** Khi chiếc máy bay hạ thấp độ cao xuống dưới những đám mây xám trên bầu trời thành phố Anchorage, Shannon Hayes căng mắt nhìn qua khung cửa sổ đã bị mòn vẹt của nó. Một bức tường núi xám đen vươn cao bên cạnh thành phố, đỉnh núi khuất trong mây. Cô thấy bên dưới, nhà cửa rải rác và đường xá dọc ngang đan vào nhau. Xa xa, cô thấy những toà nhà cao có hình chữ nhật màu xám biến mất trong tầng mây thấp là đà. "Thành phố lớn nhất của Alaska không lớn như Shannon nghĩ". Cô hơi ngạc nhiên, vì cô cứ tưởng nó ồn ào, đông đúc, náo nhiệt như Houston, Texas, thành phố quê nhà của cô. Khi Shannon ngồi dựa lưng ra ghế, cặp mắt nâu của cô ánh lên vẻ sung sướng. Cô mỉm cười một mình, cảm thấy lòng hân hoan vì chuyến đi của cô kết thúc. Cô sờ chiếc nhẫn đính hôn nơi bàn tay trái, thoa mặt kim cương cắt theo hình vuông như thể thoa lên chiếc bùa hộ mệnh. Ánh sáng lờ mờ ảm đạm bên ngoài cửa sổ máy bay không làm cho nhiệt tình của cô suy giảm chút nào. Cô nghe tiếng bánh xe máy bay chạm mạnh xuống phi đạo, rồi sau đó mấy giây, cả chiếc máy bay phản lực chạy chậm lại trên đường băng. Việc phi cơ đáp xuống đất ảnh hưởng đến nhịp tim của cô, làm cho mạch trong người cô đập nhanh hơn. Shannon đưa tay vuốt mái tóc hạt dẻ cho thẳng, mặc dù mới cách đây mấy phút, cô đã chải mái tóc bờm sờm cho hấp dẫn. Cô cũng tô son điểm phấn lại một chút, vì cô biết Rick hơi quan tâm đến nhan sắc của cô. Anh đã hãnh diện tuyên bố anh là chủ sở hữu cô gái có mái tóc sẫm, mắt nâu đẹp rực rỡ. Đây là từ anh thường dùng để nói về cô như thế. Sau chuyến bay lâu 5h, thì đẹp rực rỡ là chuyện khó có thể đạt được. Cô gặp anh từ ấy đến nay đã lâu, cô đã sống cô đơn suốt nhiều tháng trời. Cô nhớ cô đã khóc rất nhiều ở phi trường vào hôm Rick lên đường đi Alaska, nhớ những lời họ hứa hẹn với nhau, nhớ những nụ hôn vồ vập trước giờ anh đi. Thỉnh thoảng anh viết thư về, có khi anh gọi điện thoại, có khi anh gửi thư điện tử về cho cô. Nhưng tất cả những chuyện đó không làm sao lấp đầy được nỗi trống trải trong cô. Nhiều bạn gái đã khuyên cô nên bỏ anh, tìm người yêu khác, nhưng Shannon không nghe. Cô biết anh là phi công vùng hoang dã. Cô không mong chờ anh ngồi bên điện thoại để đợi cô gọi đến, mà cô biết anh đang ở đâu đó ngoài vùng hoang dã. Cô nghĩ anh đang chiêm ngưỡng cảnh đẹp huy hoàng trên Trái Đất này. Ít ra cô đã suy nghĩ như thế. Nhưng có phải làm phi công là không có thì giờ rảnh rỗi, để nói lời xin lỗi vì đã để cô chờ đợi và lo âu? Rick đã hứa với cô rằng, khi nào anh có được công việc ổn định và có chỗ ở hẳn hoi để hai người cùng sống, thì anh sẽ báo cô đến. Anh không nói bao lâu thì anh có công việc ổn định. Cách đây hơn một tháng anh có nhắn tin về, vào cuối tháng bảy, bằng thẻ điện thoại, nhưng hôm đó cô đi vắng. Rick để lại cho cô số máy nhắn tin, anh cho biết số máy này của anh còn hiệu lực cho đến cuối tháng 8. Cô thấy như thế còn hơn không... Nhưng Shannon không khỏi lo lắng. Rồi vào đầu tháng 9, cô nhận được bức thư Tốc hành liên bang. Trong phong thư có vé máy bay bằng loại giấy theo kiểu cổ điển rất đẹp, để đến Anchorage. Ngoài ra không còn gì nữa, không thư, không lời ghi chú gì. Nhưng cái vé chỉ đi một chuyến. Như vậy vấn đề quá rõ rồi: Rick muốn cô đến với anh. Sự lo sợ lâu nay của cô rằng anh hết yêu cô đã tan biến. Và bây giờ Shannon đang trên đường đến nơi cùng xây tổ ấm. Cô đã chuẩn bị để lên đường không quá lâu một tuần. Cô chỉ mang theo những thứ cần thiết, còn lại bao nhiêu sẽ gởi bằng tàu thủy sau. Bố mẹ cô sẽ bay đến vào cuối tuần lễ sau để dự lễ cưới. Dĩ nhiên hai ông bà đều tin rằng cả cô và Rick đều điên. Cô nghĩ ý kiến của bố mẹ cũng dễ hiểu thôi. Từ bỏ vịnh Texas ấm áp để đến vùng Alaska lạnh cóng, đối với nhiều người thì đây là hành động điên khùng. Nhưng Shannon đã lây tính phiêu lưu mạo hiểm của Rick từ ngày họ gặp nhau. Anh muốn sống tại vùng xa xôi nhất của nước Mỹ, và cô đã chia sẻ phần nào mong ước của anh. Nhưng cô biết chuyến phiêu lưu của họ không phải đi đến thiên đàng. Thôi thì mặc. Bây giờ cô đến Alaska rồi. Bố mẹ cô đã châm biếm nói rằng cô đi theo tiếng gọi của vùng hoang dã. Họ đã cố làm cho cô nản chí, nhưng họ đã thất bại. Dù sao thì cô và Rick cũng đã đính hôn hơn một năm rồi. Cô phải đến đây để thành hôn với anh là điều rất chính đáng. Mặc dù đồ đạc trên tay nặng nề, nhưng bước chân của cô nhẹ nhàng và nhanh nhẹn khi đi xuống cầu thang máy bay. Cô nhìn đám người lưa thưa đứng đợi ở bên kia cổng phi cảng để tìm Rick. Anh cao lêu nghêu và mái tóc vàng nhạt hấp dẫn. Cô nhìn từng khuôn mặt đàn ông tìm Rick, bất kể họ đang nhìn chằm chằm vào cô. Nhưng anh đâu nhỉ? Cô chậm lại. Bỗng người đi sau thúc lưng cô, khiến cô phải bước ra ngoài hàng để nhìn quanh tìm Rick thêm một lần nữa. Cặp mắt nâu xinh đẹp bỗng trở nên bối rối. Cô không tìm thấy anh ở đâu hết. ... Mời các bạn đón đọc Bến Hẹn của tác giả Janet Dailey.
Cô Dâu của Lionheart - Michelle Willingham
Thị nữ của công chúa Berengaria, Adriana, nhận nhiệm vụ của cô ấy với nữ hoàng tương lai của nước anh một cách nghiêm túc – cô sẽ bảo vệ cô ấy cho đến chết! Khi chuyến du hành trên biển của họ đến vùng đất Holy kết thúc bởi vụ đắm tàu và bị bắt giữ, Adriana biết rằng hy vọng duy nhất của cô là người đàn ông Ai len bí ẩn, Lian MacEgan. Liam trốn sang phía vua Richard của Lionheart và cùng họ lập kế hoạch giải cứu. Không gì có thể ngăn cản sự thành công của những chiến binh này – những cô dâu tương lai của họ đang bị bắt giữ ở Cyprus và họ sẽ kéo cả địa ngục xuống để giải cứu họ. *** 0BxJKo4pJUQugWFRVOUlDVmJHaUU là tác giả đạt giải RITA năm 2010 (Giải thưởng danh giá dành cho các nhà văn lãng mạn xuất sắc nhất nước Mỹ). Michelle đã xuất bản hơn hai mươi cuốn sách và tiểu thuyết ngắn. Hiện nay, bà đang sống cùng gia đình ở Virginia. Ghé thăm trang web của bà tại www.michellewillingham.com.  Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam: - Chàng công tước bí ẩn (XB 2015) - Bí mật tội lỗi (XB 2014) *** Pamplano, Vương quốc của Navarre, năm 1187 “Ta không biết là nàng sẽ đến,” Richard nói, với lấy tay nàng. Chàng đã cởi bỏ chiếc áo giáp chàng đã mặc lúc sớm và mặc vào một chiếc áo dài bằng lụa màu xanh dương có đính lông. Cái áo choàng màu tối của chàng đặt trên vai, và thậm chí trong ánh sáng trăng, Berengaria vẫn có thể quan sát thấy đôi mắt xám lạnh và tia sáng màu hung đỏ của mái tóc chàng. “Tôi làm gì có sự lựa chọn nào khác?” nàng buộc tội. “Chàng đã đánh cắp chiếc nhẫn của tôi tại cuộc đấu trên ngựa khi chàng hôn tay tôi. ’ Nắm lấy lòng bàn tay mình, nàng gửi cho chàng một cái nhìn cảnh báo. ‘Tôi muốn lấy lại chiếc nhẫn của tôi. ’ ‘Ta muốn có cớ để gặp lại nàng. ’ Chàng gửi cho nàng một nụ cười chậm rãi mà nhanh chóng làm tăng nhịp đập của nàng. Chàng mở lòng bàn tay mình ra, và một chiếc nhẫn bằng vàng có đính ngọc lục bảo xuất hiện. ‘Đây là cái nàng muốn à? ’ Khi nàng cố gắng chộp lấy nó, chàng nắm bàn tay lại. ‘Hãy đến gần hơn, và nàng sẽ có nó. ’ ‘Đừng làm trò nữa, vì Chúa. Tôi không quan tâm đến điều đó. ’ ‘Nếu đó là sự thực, nàng sẽ không đến. Nàng sẽ gửi một người hầu đến lấy chiếc nhẫn. ’ ‘Và chàng đã từ chối trả lại nó. ’ Chàng tiến đến gần hơn và ấn chiếc nhẫn vào tay nàng. ‘Nàng nghĩ ta giống một kẻ hung ác à? ’ ‘Tôi không biết chàng là ai. ’ Mặc dù bàn tay nàng đã đeo găng nhưng nàng vẫn có thể cảm nhận được sức nóng của làn da chàng. Một điều gì đó về người đàn ông này kích thích trí tò mò của nàng, trượt qua sự phòng thủ của nàng giống như người chiến binh là chàng. Đừng ở lại, Berengaria cảnh báo chính mình. Hãy rời khỏi ngay bây giờ. Cha nàng, vua Sancho sẽ rất tức giận nếu biết nàng đang đứng trong vườn với Công tước của Aquitaine, con trai của vua Henry Plantagenet của nước Anh. ‘Ta muốn biết nàng, ’ Richard nói chậm rãi. ‘Không một người phụ nữ nào từng đủ can đảm nói với ta theo cách mà nàng đã làm. ’ ‘Không, ’ nàng thì thầm. ‘Chàng không phải là người hứa hôn của tôi và sẽ không bao giờ là. ’ ‘Nàng đúng. ’ Bàn tay chàng di chuyển lên má nàng, và khi nàng cố gắng tránh thì chàng giam giữ nàng tại nơi đó. ‘Berengaria, nàng nhắc ta nhớ đến Eva. Nàng đã cám dỗ ta với miệng lưỡi chua chát của nàng. Ánh sáng lóe lên trong đôi mắt tối màu của nàng. ’ Nàng rùng mình nhè nhẹ, và trí óc nàng lại cảnh báo nàng đi khỏi đây. Nhưng giọng chàng như bắt giữ nàng, trong khi ngón tay cái của chàng lần theo xương gò má nàng. ‘Ta ngưỡng mộ tâm hồn của nàng. ’ Richard xoay nhẹ mặt nàng để nhìn vào chàng. Sau đó chàng dựa vào gần hơn, đặt trán chàng trên trán nàng. ‘Nàng nên biết rằng đây là cơ hội cuối cùng của nàng để thoát khỏi sự đụng chạm. Nếu nàng ở lại, ta định sẽ hôn nàng. ’ Chàng thả nàng ra và đứng bất động, chờ đợi quyết định của nàng. Tâm trí nàng gào thét bảo nàng bỏ chạy, nhưng chân nàng vẫn đứng nguyên tại chỗ. ... Mời các bạn đón đọc Cô Dâu của Lionheart của tác giả Michelle Willingham.
Trận Chiến Cuối Cùng - Cornelius Ryan
Khi nói về chiến tranh, tôi không mạo hiểm nói lên những thông tin ngẫu nhiên, cũng không nói lên quan điểm của riêng mình; tôi chỉ mô tả lại những gì chính mắt tôi nhìn thấy, hoặc biết được từ những người tôi đã hỏi kỹ càng. Đây là một nhiệm vụ vất vả, vì các nhân chứng của cùng một sự kiện thường kể lại khác nhau khi nhớ lại, hoặc chỉ quan tâm đến hành động của phe này hoặc phe kia. Và rất có khả năng là tính tuân thủ lịch sử nghiêm túc của bản tường thuật của tôi sẽ làm bạn chán chẳng buồn nghe. Nhưng nếu ai muốn thấy một bức tranh chân thực về những sự kiện đã diễn ra nhận thấy rằng những gì tôi viết là hữu ích, thì tôi sẽ rất thỏa mãn. — THUCYDIDES (Peloponesian War, tập 1, năm 400 TCN) Cuốn sách này dành để tưởng nhớ ký ức của một cậu bé sinh ra ở Berlin trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Tên người đó là Peter Fechter. Năm 1962, Peter đã bị chính người dân mình bắn chết khi cậu ta tròn 17 tuổi. Thi hài Peter nằm bên biểu tượng bi kịch nhất dành cho chiến thắng của quân Đồng Minh. — BỨC TƯỜNG BERLIN *** Cố tác giả Cornelius Ryan là một trong những phóng viên chiến trường xuất sắc vào thời của ông. C. Ryan đã bay 14 phi vụ ném bom với Tập đoàn Không quân 8 và 9 Mỹ, theo dõi cuộc đổ bộ D-Day và bước tiến của Tập đoàn quân 3 dưới quyền tướng Patton vào Pháp và Đức. Ngoài “The Longest Day”, ông còn là tác giả của nhiều cuốn sách, bài báo và nhiều vở kịch, kịch bản phim, chương trình TV và phát thanh. Ryan sinh ra và học tập ở Dublin, Ireland. Tác phẩm: - Ngày dài nhất - The Longest Day, 1959. - Trận đánh cuối cùng - The Last Battle, 1966. - Một cây cầu quá xa - A Bridge Too Far, 1974. *** A-Day, thứ Hai ngày 16 tháng 4 năm 1945. Cuộc chiến giành Berlin, cuộc tấn công cuối cùng chống lại Đệ tam Quốc xã của Hitler, bắt đầu đúng 4 giờ sáng thứ Hai ngày 16 tháng 4 năm 1945 – hay quân Đồng minh phương Tây còn gọi là A-Day. Vào lúc đó, cách thủ đô không đầy 38 dặm, lửa đỏ bừng cháy trên bầu trời đêm trên sông Oder đang dâng cao, khai hỏa một cuộc pháo kích mạnh mẽ và là mở đầu cho cuộc tiến công vào thành phố của quân Liên Xô. Cùng lúc đó, các thành phần trong Tập đoàn quân 9 của Mỹ đang quay trở lui khỏi Berlin – hướng về phía tây để đánh chiếm các vị trí mới dọc sông Elbe, nằm giữa Tangermunde và Barby. Ngày 14 tháng 4, tướng Eisenhower đã quyết định dừng cuộc tiến quân của liên quân Anh-Mỹ vào nước Đức. Ông nói, ―Berlin không còn là một mục tiêu quân sự nữa. Khi các nhánh quân Mỹ nhận được tin này, một số đoàn quân chỉ cách Berlin có 45 dặm. Khi cuộc tấn công bắt đầu, những người dân Berlin chờ đợi trong thành phố bị đánh bom đổ nát, tê liệt và hoảng sợ, bám víu vào niềm tin duy nhất còn lại – niềm tin sống sót. Cái ăn trở nên quan trọng hơn tình yêu, đào bới còn đáng giá hơn chiến đấu, chịu đựng còn có ý nghĩa quân sự hơn chiến thắng. Những gì xảy ra sau đó là câu chuyện về cuộc chiến cuối cùng – cuộc tấn công và chiếm đóng Berlin. Dù cuốn sách này có nhiều phần kể lại cuộc chiến, nhưng đây không phải là một bản báo cáo quân sự. Đúng hơn thì nó là câu chuyện của những người bình thường, cả binh lính và người dân, những người bị mắc kẹt trong nỗi tuyệt vọng, sụp đổ, kinh hoàng và sự cưỡng đoạt trong thất bại và chiến thắng. ... Mời các bạn đón đọc Trận Chiến Cuối Cùng - Cornelius Ryan.