Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gót Sắt - Jack London

Năm 1907, Jack London cho ra đời cuốn tiểu thuyết Gót sắt. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của nền văn học Mỹ đề cập đến cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Mỹ. Đây là cuốn tiểu thuyết viễn tưởng thể hiện những tư tưởng ước mơ xã hội của ông. Nhà văn đã tự đặt mình là con người sống vào thế kỷ XXVI, lúc loài người đã trải qua bốn thế kỷ đại đồng và sau khi đã đập tan cái gót sắt là sự áp bức con người. Tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Jack London được sáng tác theo hình thức viễn tưởng, thể hiện lòng khao khát tự do, công lý và niềm tin sâu sắc vào tương lai tất thắng của cách mạng vô sản trên toàn thế giới. *** Jack London là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, tác giả Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call of the Wild), Gót sắt (Iron Heel), Martin Eden, Tình yêu cuộc sống (Love of Life), Nanh trắng (White Fang) và hơn 50 tác phẩm khác. Các tác phẩm của ông được dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và cho tới nay vẫn được độc giả tìm đọc. Jack London năm 1876 ở thành phố San Francisco, và mãi ra đi vào ngày 22/11/1916 khi mới tròn 40 tuổi. Năm 1896, do mong muốn làm giàu nhanh chóng, ông đã theo chân những người tìm vàng đến vùng Krondike thuộc Canada và đã nếm đủ mùi vất vả. Tại đây, Jack London đã được nghe những kẻ tha phương kể lại những câu chuyện về đói ăn, mất của và về những con chó trung thành.  Tất cả những mẩu chuyện này đã ám ảnh Jack London và ông đã viết thành những câu chuyện danh tiếng như: Đứa con của chó sói (viết năm 1902), Răng nanh trắng (1906), Ánh sáng ban ngày cháy đỏ (1910) và đặc biệt là tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) đã gây được tiếng vang lớn, và từ đó Jack London đã có thể sống được bằng nghề viết truyện. *** Gió mùa hè hiu hiu lay động những cây thông khổng lồ và sông Wild-Water vỗ sóng nhịp nhàng vào những tảng đá xanh rêu. Bướm lượn dưới nắng và bốn bề tiếng ong bay vù vù như ru ngủ. Yên tĩnh quá. Thái bình quá. Và tôi ngồi đây, lo lắng, bồn chồn. Chính cái yên tĩnh làm cho tôi bồn chồn. Nó hư hư thực thực thế nào ấy. Khắp thế giới yên tĩnh, nhưng đó là cái yên tĩnh trước cơn giông tố. Tôi lắng tai nghe và tất cả các giác quan của tôi cũng căng lên chờ đón dấu hiệu của cuộc đại biến sắp nổ ra 1. Phải, miễn nó đừng nổ non! Miễn nó đừng bùng ra sớm quá! Tôi bồn chồn cũng không có gì lạ. Tôi suy nghĩ, suy nghĩ liên mien, và không thể đừng suy nghĩ. Tôi vật lộn với cuộc sống đã từ lâu, đến nỗi thấy yên tĩnh là tức thở, không chịu được. Và tôi không thể không nghĩ đến trận cuồng phong chết chóc và tàn phá sắp sửa nổi lên. Trong tai tôi vang lên tiếng kêu gào của những người gục xuống, và tôi có thể nhìn thấy, cũng như tôi đã từng nhìn thấy 2 da thịt mơn mởn của con người bị dập vùi, tan tác, linh hồn con người bị giằng khỏi những tấm thân đầy kiêu hãnh và ném cho Thượng đế. Khốn khổ thay nhân loại chúng ta, muốn đạt đến mục đích của mình phải cố giết chóc, tàn phá, để đem lại cho trái đất một nền hoà bình và hạnh phúc bền vững. Vả chăng, tôi chỉ có một mình. Lúc nào không nghĩ đến những điều tất phải xảy đến thì tôi nghĩ đến những điều đã qua, những điều không còn nữa. Tôi nghĩ đến con Đại bàng của tôi trước kia vẫn dang đôi cánh không biết mỏi ra vùng vẫy giữa trời xanh để bay về phía lí tưởng chói lọi của tự do nhân loại. Lí tưởng đó chính là mặt trời của anh. Tôi không thể ngồi yên để chờ đợi cái biến cố lớn lao do bản thân anh làm ra, mặc dầu anh không còn sống để nhìn thấy nó. Bao nhiêu năm anh sống làm người thì bấy nhiêu năm anh cúc cung tận tuỵ vì nó. Anh đã hiến cả đời anh cho nó. Nó là sự nghiệp của tay anh. Chính anh đã làm ra nó 3. Cho nên trong thời gian chờ đợi lo lắng này, tôi sẽ viết về chồng tôi. Có nhiều điều chỉ mình tôi có thể nói rõ về anh, một con người cao quý dù ca ngợi bao nhiêu vẫn chưa đủ. Tâm hồn anh bao la như biển cả. Và khi tình yêu của tôi đã gột hết lòng vị kỉ thì tôi tiếc nhất là anh không còn sống để chứng kiến buổi bình minh sắp ló ra. Chúng tôi không tài nào thất bại được. Anh đã xây dựng vững chãi quá, chắc chắn quá rồi. Thảm hại thay cái Gót sắt đang dận trên ngực nhân loại! Chẳng bao lâu nữa, nó sẽ bị nhổ bỏ. Khi nào hiệu lệnh tung ra, lao động khắp thế giới sẽ dấy lên tầng tầng lớp lớp. Chưa bao giờ có một việc như thế trong lịch sử loài người. Sự đoàn kết của lao động đã được đảm bảo, và lần đầu tiên sẽ nổ ra một cuộc cách mạng quốc tế bao trùm cả thế giới 4. Như các bạn đã thấy, óc tôi nghĩ miên man về sự kiện sắp xảy ra. Tôi sống miệt mài với nó, sống ngày, sống đêm, sống rất lâu, đến nỗi nó luôn luôn hiện ra trong tâm trí tôi. Tôi không thể nghĩ đến chồng tôi mà không nghĩ tới nó. Chồng tôi là linh hồn của nó, làm sao trong tư tưởng tôi có thể tách rời chồng tôi với nó được? Như tôi đã nói, có nhiều điều chỉ mình tôi có thể nói rõ về anh. Ai cũng biết anh đã vì tự do mà chịu nhiều gian truân, đau khổ. Anh đã làm việc cực nhọc đến thế nào, đã đau khổ ghê gớm như thế nào, tôi biết hết. Vì tôi đã sống bên anh suốt hai mươi năm sóng gió vừa qua và tôi biết rõ lòng kiên trì, sự cố gắng không mệt mỏi và sự tận tuỵ không bờ bến của anh đối với Sự Nghiệp chung. Anh đã chết cho Sự Nghiệp, mới cách đây hai tháng. Tôi sẽ cố viết giản dị và kể ra đây Ernest Everhard đã bước vào đời tôi như thế nào – thoạt tiên, tôi gặp anh ra sao, vì duyên cớ gì tôi đã thành một phần của chính mình anh, và anh đã gây cho đời tôi những biến đổi ghê gớm như thế nào. Như vậy, các bạn có thể nhìn anh qua mắt tôi, và biết về anh cũng như bản thân tôi – biết hết, trừ những chuyện riêng của vợ chồng chúng tôi. Tôi gặp anh lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1912. Anh là khách của ba tôi và hôm ấy anh đến ăn cơm ở nhà tôi, tại thành phố Berkeley. Có thể nói, ngay từ lúc đầu, tôi không có cảm tình với anh. Ngoài anh ra, còn nhiều khách khứa khác. Chúng tôi đang ngồi trong phòng khách chờ mọi người đến đông đủ thì anh vào, trông đến là thảm hại. Tối hôm ấy là tối họp mặt của các mục sư – ở nhà, ba tôi 5 vẫn thường gọi thế. Ngồi giữa các nhà tu hành, Ernest nhất định là lạc lõng. Trước hết, quần áo anh không vừa người anh. Anh bận một bộ đồ may sẵn bằng vải sẫm, xộc xà xộc xệch. Trong thực tế, chẳng có thứ quần may sẵn nào mà anh mặc vừa. Tối hôm ấy, mà bao giờ cũng thế: các bắp thịt của anh hằn lên mặt vải. Vai anh u lên, và cái áo vét-tông anh bận dăn dúm cả ở giữa hai vai. Cổ anh banh ra, chắc nịch: giống hệt cổ những kẻ đi đánh nhau ăn giải 6. Tôi nghĩ bụng: Té ra nhà triết học xã hội, nguyên làm nghề bịt móng ngựa, mà ba tôi đã phát hiện được, ngài là như thế đấy. Vai u thịt bắp như thế, thật đúng quá đi rồi. Tôi liền liệt anh vào hạng dị nhân và coi anh như một lão Blind Tom 7 của giai cấp công nhân. Rồi anh lại bắt tay tôi nữa kia chứ! Anh xiết mạnh quá, chặt quá, nhất là anh nhìn tôi một cách táo tợn bằng cặp mắt đen lay láy – táo tợn quá, theo ý tôi. Các bạn cũng thừa hiểu tôi là sản phẩm của hoàn cảnh và khi ấy bản năng giai cấp của tôi rất mạnh. Giá một người đàn ông thuộc giai cấp tôi cũng táo tợn như thế thì không thể nào tha thứ được. Tôi đành cúi nhìn xuống đất. Lúc anh đi khỏi, tôi nhẹ cả người, quay lại nhìn đức Giám mục Morehouse. Đức Giám mục là một người tôi rất mến, một người đứng tuổi, hiền hoà, nghiêm chỉnh, tướng mạo và từ tâm hệt như đức Chúa. Chẳng những thế, Người còn là một nhà học giả. Nhưng cái táo tợn mà tôi tưởng là tự phụ đó lại là đầu mối cho tôi tìm hiểu bản chất của Ernest Everhard. Anh giản dị, ngay thẳng, chẳng biết sợ cái gì và không thích mất thì giờ vào việc xã giao. kiểu cách. Mãi về sau, anh giải thích: “Em rất hợp ý anh, làm sao anh lại không nhìn thẳng vào người mà anh ưa thích?” Tôi đã bảo, anh chẳng sợ một cái gì. Anh là người bản chất quý phái, mặc dầu anh đứng trong phe thù địch của bọn quý phái. Anh là một siêu nhân, một “Con vật tóc vàng” như Nietzsche 8 đã miêu tả, và cộng thêm vào đó, anh mang những tư tưởng dân chủ cháy rực trong người. Vì mải tiếp những người khác, và cũng vì sẵn có ấn tượng xấu, tôi quên khuấy mất nhà triết học của giai cấp công nhân, mặc dầu tôi có chú ý đến anh một hai lần trong bữa ăn – đặc biệt là lúc anh long lanh đôi mắt nghe các vị mục sư nói chuyện. Tôi nghĩ bụng: anh là người vui tính và tôi hầu như tha thứ cho cách ăn mặc của anh. Nhưng thời gian cứ đi, bữa ăn cứ tiếp tục, anh vẫn không buồn nói nửa lời. Trong khi ấy, các vị mục sư bàn luận miên man về giai cấp công nhân, về quan hệ của nó với Nhà thờ. Nhà thờ đã làm gì và đang làm gì cho nó. Tôi nhận thấy Ernest không nói làm cho ba tôi không bằng lòng. Nhân một lúc im lặng, ba tôi yêu cầu anh phát biểu, nhưng Ernest nhún vai: “Tôi chẳng có điều gì muốn nói cả” và lại ngồi ăn hạnh đào muối. Nhưng ba tôi không chịu. Một lúc sau ba tôi bảo: - Chúng ta có một người giai cấp công nhân ở đây. Tôi tin chắc người đó có thể trình bày các việc theo một quan điểm mới, vừa hay lại vừa bổ ích. Tôi muốn nói ông Everhard. Những người khác tỏ vẻ thích thú một cách lịch sự và giục Ernest tuyên bố những quan điểm của mình. Thái độ của họ hết sức khoan dung, hoà nhã: đúng là thái độ của những kẻ đỡ đầu. Tôi thấy Ernest cũng nhận ra điều ấy và anh lấy thế làm khoái lắm. Anh chậm rãi nhìn bốn xung quanh và mắt anh sáng lên một cách ranh mãnh. - Tôi quả thật không quen với những cuộc tranh luận tao nhã của Giáo hội, – anh bắt đầu được mấy lời đã ngập ngừng ngay, vẻ mặt khiêm tốn và do dự. Họ giục: “Ông cứ tiếp tục đi!” và bác sĩ Hammerfield bảo: “Chân lí dù ở miệng ai nói ra chúng tôi cũng đều không ngại. Miễn là nó trung thực”. - Vậy ra ngài tách rời trung thực khỏi chân lí ư? – Ernest cười hỏi rất nhanh. Bác sĩ Hammerfield luống cuống trả lời: - Giỏi đến đâu cũng phải có lúc nhầm, ông bạn trẻ ạ. Người giỏi nhất trong chúng ta cũng phải có lúc nhầm. Ernest bỗng thay đổi hẳn. Anh đã thành một người khác. - Vâng, được, – anh đáp. – Và tôi xin phép bắt đầu bằng câu này: là các ngài nhầm tuốt. Các ngài không biết gì về giai cấp công nhân, không biết một tí gì hết. Khoa xã hội học của các ngài sai bét và vô giá trị, cũng như phương pháp suy luận của các ngài. Những lời anh nói chính lại không nặng bằng cách anh nói. Tôi giật cả mình trước hết vì giọng nói của anh. Nó cũng táo tợn không khác gì hai con mắt anh. Nó là một tiếng kèn chiến đấu và nó làm cho toàn thân tôi rung lên. Bàn tiệc xao động. Cái không khí đều đều buồn tẻ bị phá vỡ. - Ông bạn trẻ tuổi! Phương pháp suy luận của chúng tôi có chỗ nào sai lầm và vô giá trị ghê gớm đến thế kia, thưa ông? – Bác sĩ Hammerfield hỏi, vẻ khó chịu thoáng hiện ra giọng nói và cách phát biểu của ông. - Các ngài là những nhà siêu hình học. Các ngài có thể dùng siêu hình học để chứng minh bất cứ một cái gì, và xong thì mỗi nhà siêu hình học lại có thể tuỳ thích chứng minh rằng các nhà siêu hình học khác là sai. Các ngài là những kẻ vô chính phủ trong lĩnh vực tư tưởng. Các ngài là những nhà chế tạo ra vũ trụ. Điên rồ ơi là điên rồ! Mỗi ngài sống trong một vũ trụ riêng, do trí tưởng tượng riêng và những sở thích riêng của mình tạo nên. Các ngài không biết gì về cái thế giới thực các ngài đang sống, và tư tưởng điên loạn của các ngài hoàn toàn không có chỗ đứng trong thực tại. ... Mời các bạn đón đọc Gót Sắt của tác giả Jack London.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuông Gọi Hồn Ai - Ernest Hemingway
Ernest Hemingway (1899 - 1961) là nhà văn, nhà báo người Mỹ. Ông từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, sau đó ông được biết đến qua "Thế hệ đã mất", nhận được giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả, và giải Nobel văn học năm 1954. Hemingway để lại ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc qua nguyên lý tảng băng trôi, văn phong của ông được mô tả bởi sự kiệm lời nhưng có nhiều tầng ý nghĩa, phải suy nghĩ thật sâu mới có thể hiểu hết được những gì tác giả gửi gắm. Nhiều tác phẩm của ông hiện nay được coi là những tác phẩm kinh điển của nền văn học Mỹ. Từ nhỏ Hemingway đã không thích học đàn mà thích đấu võ quyền Anh, bản tính chuộng chủ nghĩa cá nhân đã thể hiện nơi con người Hemingway bằng các phản kháng nhỏ nhặt, để rồi trong cuộc đời sau này, đã hiện ra bằng các hành động trên tầm vóc lớn hơn. Ngay từ khi còn học ở trường trung học, ông đã bắt đầu viết văn và tham gia vào các hoạt động báo chí của trường. Năm 1917, ông rời trường trung học và thay vì đi học đại học ông tời thành phố Kansas làm phóng viên cho tờ báo Star. Nhưng nghề phóng viên không hấp dẫn ông được lâu, do ưa thích mạo hiểm Hemingway đã tình nguyện đăng ký vào Hội đồng thập tự Hoa Kỳ và qua miền bắc nước Ý là tài xế xe cứu thương. Năm 1918, khi chưa tròn 19 tuổi ông bị thương nặng ở chân trong khi đag cõng một người lính Ý mang tới địa điểm chỉ huy. Ông được chữa trị tại bệnh viện Milan và được tưởng thưởng huy chương anh dũng. Những trải nghiệm trong cuộc chiến này đã cung cấp cho ông những hiểu biết để viết nên tác phẩm "Giã từ vũ khí" (1929), một tiểu thuyết nổi danh nhất đề cập tới chiến tranh. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ông trở lại Hoa Kỳ sinh sống và tiếp tục viết văn. Nhưng ông cùng một số nhà văn khác tự nhận mình là "thế hệ lạc lõng" - từ để ám chỉ một thế hệ sau chiến tranh, đặc biệt là các nhà văn trẻ khi cuộc sống và niềm tin của họ đã bị tổn thương vì chiến cuộc, vì các tham lam vật chất đang dần dần trở nên một thực tại khiến cho cuộc sống hóa vô nghĩa. Trong thời gian làm phóng viên tại Paris, Ernest Hemingway đã đi khắp châu Âu, phỏng vấn các nhân vật danh tiếng như Lloyd George, Clemenceau và Mussolini… rồi vào năm 1925, cuốn tiểu thuyết quan trọng đầu tiên của Hemingway được xuất bản tại New York với tên là "Trong thời đại của chúng ta" (In Our Time). Cũng vào thời gian này, nhiều thú vui như trượt tuyết, coi đấu bò rừng, đi câu cá và đi săn… đã là từng phần của cuộc sống của ông và từ đó tạo nên nền móng của các cuốn tiểu thuyết sau này. Năm 1950, Hemingway xuất bản cuốn sách "Qua sông và vào trong rừng" nhưng không gây dấu ấn với độc giả. Năm 1952, cuốn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" đã mang lại ngôi vị cho ông trên văn đàn, giúp ông nhận được giải thưởng báo chí danh giá Pulitzer năm 1953. Năm 1954 ông được viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải Nobel văn học vì thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ và thể hiện gần đây nhất qua tác phẩm "Ông Già và Biển Cả". Thời gian này người ta vẫn thấy ông đầy sức sống nhưng thực tế ông không hạnh phúc. Hemingway đã phải dưỡng bệnh dài hạn tại bệnh viện Mayo, ông bị ám ảnh vì cao huyết áp và suy sụp tinh thần. Tháng 7 năm 1961, ông thức dậy sớm và tự sát bằng một khẩu súng săn tại một nơi vắng vẻ của thị trấn Ketchum, Idaho. Ông ra đi mà không để lại lời trăn trối nào ngoài hình ảnh của các nhân vật trong nhiều cuốn tiểu thuyết mà ông đã sáng tạo ra. • Các Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Việt Nam Ông già và biển cả (2000) Chuông nguyện hồn ai (Chuông gọi hồn ai) (2001) Giã từ vũ khí (2001) Hạnh phúc ngắn ngủi của Mác Cômbơ (2003) Truyện ngắn - Ernest Hemingway (2004) Truyện cực ngắn của Ernest Hemingway (2004) Hội hè miên man (2004)  *** “Chuông gọi hồn ai" là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Tây Ban Nha chống lại bọn phát xít Franco bảo vệ chế độ cộng hòa, một cuộc chiến kéo dài từ năm 1936 tới năm 1939. Nhân vật chính là Robert Jordan, một chiến sĩ người Mỹ chiến đấu trong Lữ đoàn quốc tế, tham gia cuộc chiến tranh vĩ đại chống lại sự bành trướng toàn cầu của chủ nghĩa phát xít. Trong kế hoạch tấn công nhằm giải phóng một vùng lãnh thổ Tây Ban Nha của Sư đoàn số 14 do tướng Golz người Nga chỉ huy, Robert Jordan được lệnh phối hợp với một nhóm du kích đặt mìn phá hủy một cây cầu để chặn viện binh và đường rút chạy của quân địch. Anh lên đường đến Villaconejos để tổ chức kế hoạch tấn công cây cầu. Tại đây, khi gặp cô du kích Tây Ban Nha xinh đẹp tên là María, mối tình sâu nặng và đồng điệu trong một lý tưởng chung giữa anh và cô nảy nở. Tình yêu đó đã giúp cho hai người nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa của cuộc sống và công việc họ đang làm. Nhưng bỗng Robert Jordan nhận thấy bọn phát xít đã đánh hơi được kế hoạch của cuộc tấn công và đang ráo riết tập trung quân bố trí phản kích. Anh cử ngay Andrés mang báo cáo về Ban chỉ huy Sư đoàn đóng ở Navacerrada đề nghị thay đổi kế hoạch tác chiến và cho ngừng ngay việc phá hủy cầu. Thế nhưng thật không may, do nhiều trắc trở và tính quan liêu của nhiều sĩ quan, lẽ ra đoạn đường chỉ cần đi trong ba giờ, Andret phải mất cả một ngày. Khi bức thư của Robert Jordan đến tay Gôndơ thì đã quá muộn, những chiếc máy bay ném bom đầu tiên mở màn cho trận đánh đã quần đảo trên bầu trời. Robert Jordan đành cho nổ mìn phá cây cầu theo kế hoạch đã định và dẫn đội du kích rút lui. Dọc đường, bom đạn quân thù khiến anh bị gãy chân, vết thương quá nặng, anh quyết định từ giã đồng đội và người yêu, ở lại ngọn đồi bên cạnh chiếc cầu bị phá nhằm chiến đấu cầm chân địch cho đội du kích rút lui an toàn. (Sau này cuộc chiến chống Phát Xít thất bại và tướng Franco cai trị đến tận sau Thế Chiến Thứ 2; thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Tây Ban Nha.) • Giá Trị Tác Phẩm Thông qua nội dung miêu tả hoạt động của một nhóm du kích quân địa phương dưới sự giúp đỡ của một chiến sĩ cộng hòa người Mỹ, “Chuông gọi hồn ai" một mặt ca ngợi cuộc kháng chiến kiên cường của dân tộc Tây Ban Nha vì hòa bình tự do, mặt khác phản ánh tinh thần quốc tế cao quý của các chiến sĩ thuộc Lữ đoàn quốc tế đã cùng nhân dân Tây Ban Nha chiến đấu bảo vệ chính nghĩa, dập tắt ngọn lửa hung bạo của chiến tranh đang tràn ngập khắp nơi. Tác phẩm hé lộ mẫn cảm nhanh nhạy của tác giả trong việc nắm bắt vấn đề trọng tâm của nhân loại trong những năm 1930 của thế kỷ 20, đó là nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa phát xít. Nó là lời tố cáo đanh thép tội ác man rợ của bọn Franco, lên tiếng đấu tranh chống lại chủ nghĩa phát xít khi nó vừa trỗi dậy. Đồng thời, bằng cách nhìn, cách nghĩ mới mẻ, Hemingway còn cố gắng giải quyết mối quan hệ giữa nhân dân và lịch sử cũng như những vấn đề về sự sống, cái chết, tình yêu, chỗ đứng và trách nhiệm của mỗi con người trong xã hội mà thực tế cuộc cách mạng Tây Ban Nha đã đặt ra. Về mặt nghệ thuật, “Chuông gọi hồn ai" là đỉnh cao phong cách trữ tình của Hemingway, một phong cách đã in đậm trong nhiều tác phẩm của tác giả như Mặt trời cũng mọc (The sun also rises, 1926), Giã từ vũ khí (A farewell to Arms, 1929), Ông già và biển cả (The old man and the sea, 1952)... Tác phẩm cố gắng đi sâu vào miêu tả vẻ đẹp tâm hồn các nhân vật, thể hiện được những con người cá nhân có nhiều suy tư, có cá tính, gây ấn tượng mạnh mẽ, biết hy sinh cuộc sống riêng tư cho lý tưởng hoặc biết chịu đựng một sự thất bại bên ngoài để đổi lấy sự chiến thắng về tinh thần bên trong. Những đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật và những dòng trữ tình ngoại đề trong cuốn sách khiến cốt truyện của “Chuông gọi hồn ai" tưởng như đơn giản lại trở nên sinh động, phong phú trong các tình tiết, nhuần nhuyễn và linh hoạt trong kết cấu, cuốn hút hàng triệu độc giả trên khắp thế giới khi tiếp cận tác phẩm. Mặc dù tư tưởng của nhà văn ít nhiều còn thiếu lạc quan khi biểu lộ cảm quan định mệnh phảng phất trong tâm lý của một số nhân vật chính, cũng như tính chất bi kịch đậm nét ở phần cuối câu chuyện ít nhiều làm giảm cảm hứng tích cực của người viết trong tác phẩm, nhưng “Chuông gọi hồn ai", cuốn tiểu thuyết ra đời trong máu lửa chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Tây Ban Nha, vẫn là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của văn hào Hemingway cũng như của nền văn học hiện thực Mỹ thế kỷ 20. “Chuông gọi hồn ai" (For Whom the Bell Tolls) còn là tên 2 ca khúc do 2 ban nhạc nổi tiếng thế giới trình bày là Metallica (trong album Ride the Lightning) và ban nhạc anh em Bee Gees (trong album Size Isn't Everything) Mời các bạn đón đọc Chuông Gọi Hồn Ai của tác giả Ernest Hemingway.
Cánh Cửa - Szabó Magda
Cánh cửa được xem là cuốn tiểu thuyết xuất sắc của Szabó Magda, đã được dịch sang tiếng Việt. Tác phẩm này đã tạo nên một nhân vật nữ đặc biệt cá tính, bà già Emerenc. Hình tượng Emerenc chính là hình tượng đã làm nổi bật tư tưởng sâu kín trong những sáng tác của Szabo về tâm lý và thân phận của những nhân vật phụ nữ trong hầu hết các tiểu thuyết của bà. Mối quan hệ giữa con người với con người quả thật đáng sợ hơn rất nhiều những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng. Niềm tin rồi sẽ bị bủa vây bằng lòng phản bội, dù đặt vào tình huống ra sao, sự phản bội ấy cũng xuất hiện như một thứ thuốc phiện khiến ma quỷ trỗi dậy xui khiến. Có lẽ nữ nhà văn sẽ không bao giờ nghĩ về, hay thử đối diện với cảm giác sự phản bội của chính mình, dù có dằn vặt, Szabo cũng không thể thấu suốt được cảm giác bị phản bội mà bà già Emerenc bị nhấn chìm vào đó. Cánh cửa đã đưa người đọc đến gần với một vùng văn học còn ít nhiều chưa gần gũi ở Việt Nam. Nó không chỉ khiến chúng ta nắm bắt được những bí ẩn trong mối quan hệ giữa con người với con người, nó còn là sự hiện diện về một mảnh đất Hungary xa xôi, đã từng oằn mình vì nhiều biến động trong lịch sự. Với biệt tài kể chuyện, và giải phẫu tâm lý con người bằng ngòi bút vừa sắc sảo vừa bao dung, Szabo Magda đã khiến Cánh cửa trở thành kiệt tác, tự bản thân nó đã toát nên một bầu không khí bí ẩn và mê dụ. Szabó Magda được xem là “người đàn bà viết” của văn học Hungary. *** Szabo Magda là nhà thơ, nhà viết kịch, nhà viết tiểu luận và nhà văn, sinh ra tại Debrecen Hungary năm 1917. Nhà văn Stuber Andrea từng viết về Szabo: “Bà là chứng nhân cho thấy dù sao vẫn có thể gìn giữ cho tới cuối đời sự kiên nhẫn, niềm tin, sự cởi mở, sự nồng hậu tâm hồn, những hồi ức tốt đẹp, nhân cách nhà văn và con người." Magda là một trong những người khổng lồ của văn học đương đại Hungary. Văn chương của bà thường tập trung vào khám phá những chủ đề phổ quát của con người và các hiện thực chính trị hiện đại thông qua các chân dung quan sát được trong cuộc sống riêng tư. Bằng một sự nghiệp văn chương đồ sộ, lưu tâm đến những bí ẩn sâu kín của con người, bà là nhà văn nhận được nhiều giải thưởng văn học uy tín trên khắp thế giới. Năm 1959 và 1972 bà được trao Giải thưởng József Attila, năm 1978 nhận Giải Kossuth, năm 2001 được trao Dây chuyền Corvin và năm 2003 bà nhận Giải thưởng Femina (của Pháp) dành cho các tác phẩm văn học nước ngoài, cho tác phẩm Cánh cửa (Az ajtó) dịch ra tiếng Pháp, sau đó bà đoạt Giải Prima Primissima. Năm 2007, nhân kỷ niêm 90 năm ngày sinh của bà, tổng thống Solyom László đã trao tặng bà Huân Chương Đại Thập (ngạch dân sự) của Cộng hòa Hungary (đây là huân chương cao quý nhất của Nhà nước Hungary). Mới trước đây ít ngày bà được trao tặng Giải thưởng Tổ Quốc tôi (Hazám-díj) Bà đã hai lần được Viện Hàn lâm Nghệ thuật Széchényi đề cử lên Ủy ban Nobel đưa vào danh sách xét tặng Giải Nobel Văn chương. Szabó Magda là công dân danh dự của thủ đô Budapest và thành phố quê hương bà là Debrecen. Szabó Magda mất năm 2007, tại quê nhà, thanh thản trong chiếc ghế bành, khi trong tay vẫn cầm một cuốn sách.   Mời các bạn đón đọc Cánh Cửa của tác giả Szabó Magda.
Đằng Sau Bức Tranh - Sri Boorapha
Đây là cuốn tiểu thuyết tình yêu kinh điển đã ăn sâu vào trái tim của nhiều thế hệ bạn đọc Thái Lan. Đằng sau bức tranh là câu chuyện tình đẹp và thuần khiết nhất giữa công nương Kirati và chàng trai trẻ Nopporn. Tình yêu xuất phát từ hai con người có rất nhiều chênh lệch, từ tuổi tác đến địa vị vừa thú vị lại nhiều khó khăn. Họ có quan điểm về tình yêu rất khác nhau. Chàng trai không đủ kiên định và dễ thay đổi. Trong khi đó, công nương Kirati dù chấp nhận số phận lấy một người chồng già. Không hiểu tâm tư của vợ, nhưng tình yêu mà cô dành cho Nopporn giống như một làn gió tưới mát tâm hồn khô héo, và làn gió ấy cứ thổi mãi trong lòng cô, cho đến tận lúc chết. Tình yêu của họ giống nhau ở chỗ đều sâu đậm và khắc ghi trong lòng. Tình yêu ấy không được trọn vẹn nhưng ít nhất, họ đã tìm được tình yêu của cuộc đời mình. Đằng sau bức tranh của Sri Boorapha hấp dẫn bởi cách dẫn chuyện chân thực, cốt truyện hay, góc nhìn, nghệ thuật sáng tác tài ba và đặc biệt là cách dùng ngôn ngữ điêu luyện của tác giả. Hay như các nhà phê bình văn học nổi tiếng của Thái Lan đã nhận xét: "Đây là cuốn tiểu thuyết không có tuổi, đa chiều, sâu hun hút, vừa đem lại cảm giác thư thái vừa không ngừng gợi mở cho ta tìm tòi những ý nghĩa đằng sau câu chữ đầy ngụ ý”. *** Sri Boorapha tên thật là Kulap Saipradit (1905-1974) là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất trong nền văn học Thái Lan hiện đại. Sri Boorapha là một nhà phân tích, một cây bút viết báo sắc sảo và từng giữ chức Chủ tịch Hiệp hội báo chí Thái Lan.  Kho tàng các tác phẩm dưới ngòi bút của Sri Boorapha rất đa dạng, từ chính trị, tôn giáo, triết học, xã hội, tiểu thuyết, truyện ngắn, dịch thuật và sáng tác thơ ca. Trong đó, rất nhiều tác phẩm được tái bản lại nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ cho tới tận ngày nay. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm: Tiểu thuyết Đằng sau bức tranh, Người đàn ông, Chiến tranh cuộc đời, Cho đến ngày gặp lại... Sức mạnh nhân dân (thơ), Xin một chút sức lực (truyện ngắn) và nhiều bài nghiên cứu, dịch thuật có tầm ảnh hưởng lớn. *** Đã ba ngày trôi qua kể từ khi tôi đem bức tranh đó treo trong phòng làm việc, Pri mới để ý thấy. Nàng không thắc mắc gì nhiều, chỉ đứng nhìn một lúc rồi quay lại hỏi tôi: “Bức tranh vẽ nơi nào vậy, Mitake sao?”. Tôi thoáng giật mình, nhưng Pri không nhận ra. “Đây là một nơi có phong cảnh đẹp ở vùng ngoại ô Tokyo, người dân Tokyo thường thích tới đây du lịch vào những ngày cuối tuần”. “Vậy sao? Anh mua bức tranh này ở Tokyo à?”. Tôi cúi đầu, đọc tiếp cuốn sách còn dang dở trên tay từ trước khi Pri bước vào phòng. “Không, một người bạn của anh vẽ tặng”. Tôi cũng chẳng thích thú gì khi nghe chính giọng nói của mình lúc này, bởi nó giống như giọng của những diễn viên đang diễn kịch trên sân khấu vậy. “Em cũng nghĩ thế. Sẽ hơi lạ nếu anh là người mua bức tranh này bởi trông nó quá bình thường. Em cũng không nhìn thấy vẻ đẹp đặc biệt gì trong đó. Nhưng có lẽ con mắt nghệ thuật của em không đủ trình độ để nhìn ra nét đẹp của nó”. “Đối với việc xem tranh vẽ bằng màu nước như thế này, nếu nhìn quá gần sẽ không thấy được vẻ đẹp, nhưng nếu nhìn từ xa hơn một chút, em có lẽ sẽ thấy nó đẹp hơn”. Pri không định làm theo lời tôi nói, cũng không định hỏi thêm gì, điều này khiến tôi cảm thấy yên lòng. Bức tranh đó được đặt trong một chiếc khung màu đen thẫm, treo trên tường phía đối diện với bàn làm việc. Vì vậy, mỗi khi ngồi xuống làm việc, bức tranh sẽ ở phía sau lưng tôi. Trước kia, tôi định treo nó trước mặt để có thể ngắm mỗi khi muốn, nhưng về sau tôi đổi ý treo phía sau bởi tôi tin rằng, nếu như treo theo ý định ban đầu, bức tranh đó sẽ khiến tôi khó mà tập trung làm việc được. ... Mời các bạn đón đọc Đằng Sau Bức Tranh của tác giả Sri Boorapha.
Con Hoang - Lê Hồng Nguyên
Lại đêm nữa, bà đơn phương vùi khát thèm bằng trắng đêm giã gạo. Những đêm trăng quê yên tĩnh trải rộng miên man dài. Những đêm giã gạo toát mồ hôi, gió vừa đủ lạnh thấm lỗ chân lông gời gợi. Những đêm không chịu nổi, bà ôm chặt cái thân cối giã gạo, òa khóc cho hả lòng hả dạ, cho bớt tủi nhục cô đơn. Trong đêm, cái khúc gỗ nhãn làm thân cối giã gạo được bào nhẵn vuông tròn mịn màng hiển hiện như một thân thể đàn ông. Tại sao không cho bà được yêu thương, được ôm ấp, được giận hờn... *** Tôi là một đứa con hoang. Kỳ lạ, biết bao điều xảy ra, như một định mệnh, mãi tới đêm đầm Vạc hồng hoang đau khổ ấy, tạo hóa mới quyết định một sinh linh bé nhỏ là tôi được cấu thành, lớn dần trong bụng mẹ. Cảm ơn mẹ đã dũng cảm cho tôi làm người dù đời tôi, cũng như mẹ và cùng mẹ chịu biết bao đau khổ, thấp hèn. Tôi - đứa con hoang, nhìn chúng bạn có bố mà thèm. Tôi thèm lắm những buổi chiều từ trường mầm non trở về nhà được bố bế bổng, công kênh trên vai bi bô ríu rít suốt dọc đường. Tôi đắm đuối nhìn bố con thằng bạn, trông thấy nhau từ xa, họ mừng quýnh, khi tới gần, người cha giang rộng vòng tay nhấc bổng con lên hôn chíu chít. Tôi chúm miệng nói nhỏ một mình, bố, bố, bố ơi! Chẳng ai biết điều này. Nhưng mẹ tôi rất hiểu. Trưa tháng Mười, mùa gặt, bếp nhà ai cũng đỏ lửa, khói rơm tươi đen kịt mịt mùng phả đầy sân đầy ngõ. Tôi tha thẩn một mình bắt chuồn chuồn kim đang sưởi nắng xập xoè ở bờ dậu. Lũ học trò tan học xúm quanh tôi, đứa bẹo má, đứa xoa đầu, đứa nhìn soi mói, đứa thì thầm vào tai tôi: - Mẹ mày là đồ chửa hoang, chạy về bảo mẹ mày đi, ra đây bọn tao cho kẹo. Tôi sung sướng chạy nhanh vào nhà. Mẹ lúi húi trong khói bếp um tùm. Tối om, tôi chỉ nhìn thấy mờ mờ bóng mẹ đang thổi lửa. Tôi hớn hở bắc loa tay nói thật to với mẹ để đám học trò ngoài đường cùng nghe thấy, đám học trò cũng đồng thanh hét át cả tiếng tôi: - Cô Thắm chửa hoang... ... Mời các bạn đón đọc Con Hoang của tác giả Lê Hồng Nguyên.