Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chó Trắng - Romain Gary

Ra đời trong bối cảnh tại Mỹ đang diễn ra những cuộc bạo động phản đối nạn phân biệt chủng tộc, Chó Trắng còn đi xa hơn thế. Một cách không khoan nhượng, với sự sáng suốt và tinh tế, tác giả của Lời hứa lúc bình minh đã xử lý một chủ đề đạo đức với sự thấu cảm văn chương tuyệt vời. Tác phẩm dựa trên câu chuyện có thật về quãng thời gian chú chó Batka xuất hiện trong cuộc đời Romain Gary, để rồi sau đó ông đau đớn nhận ra: chú chó thông minh, hiền dịu, “rất tôn trọng bọn mèo, và là một con vật lương thiện có giáo dục” của mình lại là một trong những chú chó được huấn luyện đặc biệt để tấn công người da đen. Chó trắng mở đầu với hình ảnh một chú chó xám, giống béc giê Đức, tạo cảm giác mạnh mẽ và thông minh, khoảng bảy năm tuổi đi theo Sandy - chú chó dòng Đan Mạch - của Romain Gary về nhà. Và như thế, chú chó Batka vô tình bước vào cuộc đời của nhà văn, mau chóng chiếm được tình yêu của ông. Gắn bó với chú chó là vậy, Romain Gary đau đớn khi phát hiện ra rằng Batka là một con Chó Trắng - một trong những chú chó được huấn luyện đặc biệt để tấn công người da đen. Không muốn giải quyết đời chú bằng một mũi tiêm thuốc độc, Romain Gary quyết tâm “chữa” cho Chó Trắng. Nhưng rồi Batka sẽ ra sao khi rơi vào tay một người huấn luyện da đen? Với Chó Trắng, Romain Gary gửi đến người đọc câu chuyện về người da đen Mỹ, về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một cách không khoan nhượng, với sự sáng suốt và tinh tế, tác giả của Lời hứa lúc bình minh đã xử lý một chủ đề đạo đức với sự thấu cảm văn chương tuyệt vời. Với Romain Gary, viết không giúp tìm ra câu trả lời, nhưng viết giúp giải tỏa nỗi đau trước sự ngu ngốc của con người.  *** Romain Gary, Sinh ngày 8-5-1914 tại Vilnius, Litva, Romain Gary lớn lên dưới sự nuôi dạy của mẹ. Ông chuyển đến sống tại Nice, Pháp, năm 14 tuổi. Sau khi theo học ngành Luật, ông đăng ký gia nhập Không quân Pháp. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông là sĩ quan chỉ huy và từng được thưởng Bắc đẩu bội tinh. Với tiểu thuyết đầu tay Giáo dục châu Âu, ông được Giải thưởng phê bình năm 1945, trùng với thời điểm ông bắt đầu sự nghiệp tại Bộ Ngoại giao Pháp. Được cử đến Sofia (Bulgaria), Bern (Thuỵ Sỹ), New York (Mỹ), La Paz (Colombia) để làm việc, song Romain Gary vẫn không ngừng viết. Tiểu thuyết Les racines du ciel (Cội rễ bầu trời) đoạt giải Goncourt năm 1956, là một bức tranh toàn cảnh về đời sống một nước thuộc địa của Pháp ở vùng châu Phi xích đạo.  Năm 1961, ông rời bỏ ngành Ngoại giao. Sau tập truyện ngắn Gloire à nos illustres pionniers (Vinh quang cho những người tiên phong vĩ đại) (1962) và tiểu thuyết châm biếm Lady L. (1963), ông chuyển sang viết những câu chuyện phiêu lưu như: La comédie américaine (Vở hài kịch nước Mỹ) và Adieu Gary Cooper (Vĩnh biệt Gary Cooper) (1969),La danse de Gengis Cohn (Điệu nhảy của Gengis Cohn) (1967), La tête coupable (Cái đầu tội lỗi) (1968), Charge d'âme (Nhiệm vụ tinh thần) (1977).  Gary bắt đầu để lộ nỗi sợ tuổi già và sự hết thời của mình trong cuốn Au-delà de cette limite votre ticket n’est plus valable (Phía bên kia giới hạn tấm vé của anh không còn giá trị nữa) (1975) và Clair de femme (Sự thật về phụ nữ) (1977). Sau cái chết bi kịch của nữ diễn viên Jean Seberg, người là vợ ông từ năm 1962 đến 1970, ông viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng mang tên Les cerfs volants (Những cánh diều) không lâu trước khi ông tự vẫn vào năm 1980 ở Paris. Ông để lại chúc thư nêu rõ ông từng ẩn mình dưới cái tên Émile Ajar để viết các tiểu thuyết như Gros Câlin (Âu yếm) (1974), La vie devant soi (Cuộc sống trước mặt) - giải Goncourt năm 1975, Pseudo (Bút danh) (1976),L'angoisse de roi Salomon (Nỗi sợ của vua Salomon) (1979), đánh dấu sự cách tân trong bút pháp của ông.  Là một nhân cách đa diện: nhà văn, nhà ngoại giao, nhà làm phim, phi công thời chiến, Romain Gary thú nhận mình thích diễn những vai nhập nhằng khó hiểu; thích làm người điểu khiển rối, nắm trong tay những sợi dây điều khiển nhưng vẫn giữ một khoảng cách đủ xa để đánh giá được hiệu ứng mà ông tạo ra. Ông đã đẩy trò tung hứng ảo thuật lên tới mức tự tạo ra một phiên bản khác của chính mình - Émile Ajar, và trở thành nhà văn duy nhất hai lần nhận giải Goncourt, dưới hai cái tên khác nhau. *** Đó là con chó xám với một mụn hạt cơm bên phía phải mõm trông như cái nốt ruồi và một túm lông hung quanh mũi, khiến nó trông giống lão nghiện thuốc lá thâm căn cố đế trên tấm biển của hiệu Con chó hút thuốc, một quán rượu có bán thuốc lá ở Nice, không xa trường trung học thời nhỏ của tôi. Nó dõi theo tôi, đầu hơi ngả về một bên, ánh nhìn căng thẳng và chăm chú, lối nhìn của bọn chó hoang bị thu nhốt lại một chỗ trông chừng ta đi qua với một hy vọng đầy lo sợ và không thể chịu nổi. Nó có bộ ức của gã đô vật, và nhiều lần về sau khi con Sandy già của tôi trêu chọc nó, tôi thấy nó đẩy lùi kẻ quấy rầy chỉ bằng sức mạnh của lồng ngực, như một chiếc xe ủi. Đấy là một con chó béc giê Đức. Nó bước vào cuộc sống của tôi ngày 17 tháng Hai năm 1968 ở Beverly Hills, nơi tôi vừa đến đoàn tụ với vợ là Jean Seberg, trong lần quay một bộ phim. Hôm đó, một trận mưa rào quá cỡ như phần lớn những hiện tượng thiên nhiên ở Mỹ mỗi khi chúng ra tay ập xuống Los Angeles, trong vài phút biến nơi đây thành đô thị ao hồ nơi những chiếc Cadillac bị giáng truất bò đi thật thảm hại, bì bõm trong nước; thành phố mang cái dáng vẻ chẳng hợp lề thói tí nào của những thứ nhằm dùng vào việc khác hẳn, mà các nhà siêu thực từ lâu đã khiến chúng ta quen thuộc rồi. Tôi lo lắng cho con chó Sandy của mình, ngày hôm trước nó đã làm một cuộc chạy rông của anh chàng độc thân ở phía Sunset Strip và bây giờ vẫn chưa về. Sandy cho đến năm bốn tuổi vẫn còn là trai tân, nhờ ảnh hưởng của môi trường vốn chú trọng đạo đức của gia đình chúng tôi, nhưng một ả chó ở Doheny Drive đã khiến nó cuống cuồng lên. Bốn năm giáo dục tư sản và những tôn chỉ mẫu mực bị vứt vèo qua cửa sổ. Con chó này vốn bản chất thật thà, dễ tin, không được trang bị tốt để đương đầu với môi trường điện ảnh Hollywood. Chúng tôi đã mang từ Paris đến toàn bộ cái vườn thú thường ngày của chúng tôi. Có con mèo Miến Điện, Bruno, và cô bạn gái Thái Lan của nó, tên là Maï; thực ra Maï là một con mèo đực, nhưng chẳng hiểu vì sao chúng tôi luôn coi nó là một cô nàng, hẳn là vì nó có hàng kho mơn trớn dịu dàng mà nó ban phát cho chúng tôi xả láng. Còn có một mụ mèo già chuyên ở máng xối, Bippo, yếm thế và hoang dã, sẵn sàng cào cho anh một phát khi anh định vuốt ve mụ ta; một con chim tu-căng, Billy-Billy, mà chúng tôi nuôi từ hồi ở Colombia, và tôi vừa mới đem cho vườn thú riêng của Jack Carruthers ở San Fernando Valley, một con trăn tuyệt đẹp dài đến bảy mét, có biệt danh là Pete Kẻ Siết cổ, mà tôi đã bắt gặp trên đường trong rừng ở Colombia, cùng thời với con chim tu-căng. Tôi đành chia tay Pete vì các bạn tôi từ chối chăm nó khi, phải cái thói lang bạt của kẻ mà cái thân xác trong đó anh ta bị nhốt gây ra những cơn khủng hoảng của bệnh sợ chỗ kín, tôi đột ngột bỏ chạy từ lục địa này sang lục địa khác, đi tìm một ai hay một cái gì đó khác, cũng chẳng biết là cái gì. Thôi thì tốt hơn là tôi nên nói ngay là tôi chẳng tìm ra được cái gì khác trong các cuộc chạy đuổi của mình cả, ngoài thứ xì gà khá kỳ lạ ở Madras, một trong những bất ngờ lớn và đẹp của đời tôi. Thỉnh thoảng, tôi đến thăm con trăn của tôi. Tôi vào trong khu đất rào đặc biệt mà Jack Carruthers dành cho nó vì quý trọng các nhà văn. Tôi ngồi xếp bằng, trước mặt nó, và chúng tôi nhìn nhau rất lâu, ngạc nhiên, sửng sốt vô hạn, mỗi bên đều bất lực không cắt nghĩa được chút nào về những gì đã xảy đến cho mình và làm cho bên kia được chia sẻ đôi chút hiểu biết rút ra từ kinh nghiệm của mình. Mang kiếp trăn hay kiếp người là một nỗi bất hạnh khiến ta ngơ ngác đến mức nỗi hốt hoảng được chia sẻ này trở thành mối tình bằng hữu thật sự. Đôi lúc Pete lấy tư thế hình tam giác - bọn trăn không quấn lại thành cục tròn, chúng dựng thân lên thành hình thước thợ; lúc đó tôi có cảm giác bằng cách ấy nó làm một dấu hiệu gì đấy mà tôi cần diễn giải. Từ đó, tôi biết được tư thế hình thước thợ đối với con trăn là tư thế tự vệ, trước một mối hiểm nguy, và như thế tôi biết rằng Pete Kẻ Siết cổ và tôi quả có một điều chung: cẩn trọng cao độ trong các quan hệ với con người. Tầm trưa, trong khi nước ồ ạt tuôn trên các đại lộ, tôi nghe thấy một tiếng sủa giọng trung đẹp mà tôi đã quá biết và đi ra mở cửa. Sandy là con chó vàng cao lớn, chắc hẳn là hậu duệ rất gián tiếp một dòng chó Đan Mạch xa xôi nào đó, nhưng do mưa và bùn, bộ lông nó đã bắt màu sô cô la nghiền. Nó đứng ở cửa, đuôi cụp, mõm sát đất, dùng tài năng dối trá tuyệt hảo để ra bộ chịu tội, xấu hổ và có dáng đứa con hư trở về nhà. Không biết bao nhiêu lần tôi bảo nó là không được lê lết ngoài đường ban đêm; sau khi đã đưa ngón tay dọa nó và mắng đi mắng lại nó mấy lần là bad dog tôi đã sẵn sàng tận hưởng trọn vẹn cái vai trò lãnh chúa cùng ông chủ được sùng bái và kính sợ, kẻ nắm uy quyền tuyệt đối của mình, thì con chó của tôi kín đáo quay đầu lại để chỉ cho tôi biết rằng không chỉ có mỗi hai chúng tôi. Quả là nó đã dẫn về một cậu bạn tình cờ gặp ngoài đường. Đó là một con béc giê Đức lông xám, chừng sáu hay bảy năm tuổi, con vật đẹp đẽ tạo cảm giác mạnh mẽ và thông minh. Tôi để ý nó không có vòng cổ, điều hiếm thấy ở một con chó nòi. Tôi cho anh chàng đểu của mình vào nhà, nhưng con béc giê Đức không bỏ đi, và mưa to đến nỗi bộ lông ướt dính chặt vào da khiến nó trông giống con hải cẩu. Nó vẫy đuôi, dựng hai tai lên, mắt long lanh linh lợi, với vẻ chờ đợi căng thẳng của lũ chó đang đón một cử chỉ quen thuộc hay một mệnh lệnh. Rõ ràng là nó chờ một lời mời, đòi cái quyền được cho trú ẩn vẫn khắc ghi bao đời nay trong quan hệ giữa con người với bạn hữu đang hoạn nạn. Tôi mời nó vào. Khá dễ biết tính cách một con chó, trừ với giống doberman*, ở giống này tôi luôn gặp những phản ứng bất ngờ. Con chó xám khiến tôi chú ý ngay vì tâm trạng vui vẻ của nó. Vả lại, ai đã từng sống chung với loài chó đều biết rằng khi một con tỏ ra mến một con khác, thì gần như ta luôn có thể tin đánh giá của nó. Con Sandy của tôi tính rất ôn hòa, và cảm tình tự phát của nó dành cho anh chàng khổng lồ được cứu khỏi cơn mưa rào này là sự tiến cử tốt nhất đối với tôi. Tôi điện thoại cho Hội bảo vệ động vật báo là tôi đã đón nhận một con béc giê Đức lang thang, báo số điện thoại của tôi, phòng trường họp chủ nó xuất hiện, và tôi nhẹ lòng khi nhận thấy vị khách của mình rất tôn trọng bọn mèo, và là một con vật lương thiện có giáo dục. Những ngày tiếp sau đó, tôi có nhiều người đến thăm, và con béc giê mà tôi đặt tên là Batka - trong tiếng Nga có nghĩa là Bố cưng, hay là Lão to sụ - được các bạn tôi rất thích, sau khi đã qua phút e sợ đầu tiên. Ngoài cái ức đ vật và cái mõm to đen sì, quả là Batka còn có bộ răng nanh giống như sừng của loài bò tót nhỏ mà ở Mexico người ta gọi là Machos. Tuy nhiên nó rất hiền dịu; nó hít hít các vị khách để nhận dạng rồi sau đó, ngay từ cái vuốt ve đầu tiên, bắt tay, bằng cách đưa chân ra cho khách như muốn bảo họ: “Tôi biết là tôi có vẻ hung tợn, nhưng tôi rất tử tế.” Ít ra thì đó cũng là cách tôi diễn giải những cố gắng của nó để làm yên lòng các vị khách của tôi, nhưng dĩ nhiên một người viết tiểu thuyết dễ bị nhầm về bản chất con người và sự vật hơn người khác, vì anh ta tưởng tượng ra họ. Tôi luôn tưởng tượng về những người tôi gặp trong đời hay sống gần tôi. Đối với một kẻ tưởng tượng chuyên nghiệp, điều ấy dễ hơn và đỡ mệt. Anh chẳng cần phải tốn thì giờ tìm hiểu những người thân của mình, chăm chú đến họ, thật sự chú tâm đến họ. Anh bịa ra họ. về sau, khi gặp điều bất ngờ, anh giận họ kinh khủng: họ đã lừa dối anh. Tóm lại, họ không xứng đáng với tài năng của anh. Chẳng ai đòi lại con chó, và tôi thấy nó đã trở nên một thành viên quen thuộc của gia đình tôi. Ngôi nhà của tôi ở Arden vốn sẵn có bể bơi, và công ty bảo dưỡng mỗi tháng hai lần cử người đến kiểm tra bộ phận lọc nước. Một buổi chiều, tôi đang ngồi viết, bỗng ở phía bể bơi có tiếng gầm dài rồi tiếp sau là những tiếng sủa giật từng hồi, nhanh và giận dữ mà bọn chó sủa để báo hiệu có kẻ lạ lẻn vào và chúng sắp tấn công ngay lập tức trong vài giây tới. Thường thì đó chỉ là lối nói trong ngôn ngữ loài chó cái câu tương đương với câu nói trong ngôn ngữ của chúng ta: “Hãy giữ tôi lại không thì tôi gây tai họa đến nơi đây này”, nhưng ở những con chó giữ nhà được huấn luyện tốt thì đó chẳng phải là chuyện làm ra vẻ bề ngoài. Tôi chưa từng biết thứ gì gây căng thẳng thần kinh hơn là những cơn kịch phát bất ngờ và hung dữ ấy mà mục đích là chôn đứng chân anh tại chỗ, trong khi chờ dịp tốt hơn. Tôi chạy ra sân. Bên kia hàng rào sắt là anh chàng làm công người da đen đến kiểm tra bộ phận lọc nước bể bơi, còn Batka thì lao ra phía cổng chính, bọt sùi đầy mõm, trong cơn thù hận tột đỉnh kinh hoàng đến nỗi con Sandy trung hậu của tôi vừa bò vừa rên hư hử lẩn vào một bụi cây và biến thành tấm thảm chân giường. Anh da đen đứng sững, tê liệt vì sợ. Chẳng phải chuyện đùa. Con béc giê hiền từ của tôi, luôn nhã nhặn với khách khứa của chúng tôi, đã biến thành cơn thịnh nộ súc sinh, tìm lại được trong đáy họng nó những tiếng hú của loài ác thú đang đói trông thấy thịt mà không với tới được. Có một điều gì đó thật hết sức đáng nản lòng và gây bối rối trong cái cách thay đổi đột ngột của một con vật hiền lành anh tưởng đã hiểu rõ thành con thú tàn bạo và chừng như hoàn toàn khác. Đây là sự biến đổi thật sự về bản chất, gần như là về tầm vóc, một trong những khoảnh khắc nặng nề khi những sắp xếp nhỏ nhặt vốn đã làm anh yên lòng và những phạm trù quen thuộc vỡ vụn tan tành. Kinh nghiệm khiến người ta phải nản lòng dành cho những kẻ chuộng các niềm tin chắc chắn. Bỗng nhiên tôi đối mặt với hình ảnh một thú tính khởi nguyên, nấp kín trong lòng tự nhiên, mà người ta thích quên đi sự có mặt ngầm của nó giữa hai lần bộc lộ chết người. Cái mà ngày trước người ta gọi là chủ nghĩa nhân ái luôn bị mắc kẹt trong cái song đồ đó, giữa tình thương lũ chó và sự kinh tởm tính chất chó má. Tôi cố kéo con Batka lại và bắt nó vào nhà, nhưng quả là nó có ý thức nghĩa vụ, cái con khốn kiếp ấy. Nó không cắn tôi, nhưng hai bàn tay tôi đầy những nước bọt, và nó giật ra khỏi tôi, lao về phía cổng, nhe nanh ra. Anh da đen đứng bên kia cổng, dụng cụ cầm ở tay. Đó là một chàng trai trẻ. Tôi nhớ rất rõ nét mặt anh ta, bởi đây là lần đầu tiên tôi thấy một người da đen đứng trước sự căm thù thú tính. Anh ta có cái vẻ buồn thường thấy trên một số khuôn mặt người khi họ sợ. Trong chiến tranh, tôi thường thấy vẻ mặt ấy ở các bạn trong phi đội của tôi. Tôi nhớ hôm trước ngày phải thực hiện một nhiệm vụ bay là sát mặt đất đặc biệt nguy hiểm, đại tá Fourquet đã bảo tôi: “Trông cậu buồn thế, Gary.” Lúc đó tôi sợ. Tôi bảo anh thanh niên đi đi, bỏ chuyện súc bể bơi tuần này. Ngày hôm sau lại tái diễn cảnh tượng ấy với người làm công của công ty Liên hiệp Miền Tây mang đến cho tôi một bức điện tín. Buổi chiều, mấy người bạn đến thăm chúng tôi và, mặc dầu tôi lo lắng, Batka đã đón tiếp họ hết sức thân tình. Họ là người da trắng. Bấy giờ tôi mới nhớ ra là người làm công của Liên hiệp Miền Tây cũng là người da đen.   Mời các bạn đón đọc Chó Trắng của tác giả Romain Gary.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tu Viện Thành Parme - Stendhal
Có những cuốn sách đi vào trong con người chúng ta như một ông khách lầm nhà, vào rồi ra không dấu vết. Lại có những cuốn ta đọc lần đầu không thấy hay mấy, nhưng vẫn cảm thấy có một cái gì khiến chúng ta không đành dứt bỏ, rồi đến một lúc nào đó tìm đọc lại mới thấy sâu sắc, nhất là khi mình đã hiểu biết việc đời chút ít thì càng đọc càng khám phá ra những khía cạnh mới, tuyệt vời… và mình ân hận như đã mất bao nhiêu năm chậm hiểu một người bạn khó tìm thấy trên đời. Tu Viện Thành Parme thuộc loại này. Nói về Tu Viện Thành Parme, nhà văn Paul Morand (1888 - 1976) viết: “Những tác phẩm lớn ngao du trong con người chúng ta, có khi chúng lần lượt biến thành nhiều sách khác nhau, trong lúc chúng ta cũng hóa nên nhiều người, chúng ta đọc Stendhal lúc cuối đời không như đọc ông trong tuổi đầu xuân. Tôi đã phát hiện nhiều “Tu viện” như thế đó, những “Tu viện” ấy đã đi vô định năm mươi năm trong tôi và có lẽ cũng chưa làm trọn cuộc chu du của nó!” Không những đối với một đời người, mà đối với nhiều thế hệ. Tu Viện Thành Parme cũng làm một cuộc hành trình tương tự. Cũng như mấy tiểu thuyết khác của Stendhal, buổi mới ra đời, Tu Viện Thành Parme không được hưởng một số phận tốt đẹp lắm, nó không làm chấn động dư luận, nhưng rồi thời gian và cuộc sống đã công bằng đem lại cho tác giả ánh hào quang thích đáng. Một phần vì Stendhal không viết theo thời thượng, phần khác vì sự phân tích con người rất sâu dưới vỏ ngôn ngữ mộc mạc, hầu như khô khan ở trên cái tầm tiếp thu thông thường của độc giả, ai dù thông minh, tinh tế và chịu khó đi vào chất nội dung mới thấy lý thú. Stendhal thường nghĩ rằng tác phẩm của mình phải mấy chục năm sau người ta mới đánh giá đúng và ham đọc. Thật ra, không phải đợi lâu đến thế. Đối với những ai ý chí lớn, những ai có dụng ý khác đời thì tri kỷ quả có hiếm, nhưng không phải là không có, Tu Viện Thành Parme phát hành đầu tháng từ năm 1839, thì tháng 9, ngày 25, đã có một bài bình luận của Balzac, dài 72 trang, Balzac tuy sinh sau 16 năm nhưng lúc bấy giờ đã lẫy lừng danh tiếng với ba bốn chục tác phẩm và những kiệt tác như Eugénie Grandet (1833), Le Père Goriot (1834) … Balzac nức nở khen Tu Viện Thành Parme và viết một cách kiêu hãnh: “Tu viện chỉ có thể tìm độc giả trong số một nghìn hay nghìn rưỡi người đứng đầu châu Âu. Bởi vậy tất cả những điều tôi sắp nói ra đây là để gửi đến những người trong sạch và cao quý ở nước nào cũng có, như những thiểu số không ai biết đến…”. Mời các bạn đón đọc Tu Viện Thành Parme của tác giả Stendhal.
Ở Quán Cà Phê Tuổi Trẻ Lạc Lối - Patrick Modiano
Đầu những năm 1960, giới văn chương và sinh viên lãng du hội tụ tại Le Condé, một quán cà phê nơi giao lộ Odéon. Bốn người kể chuyện cũng là bốn khách quen của quán: một sinh viên trưởng Mỏ, một cựu nhân viên tình báo, một cô nàng Louki nào đó hay còn có tên là Jacqueline Delanque và Roland, một nhà văn tập sự trẻ. Trong trường đoạn đầu tiên, tay sinh viên trường Mỏ hồi nhớ cuộc sống ở Le Condé và miêu tả chi tiết những lần xuất hiện của Louki – cô gái trẻ hai mươi hai tuổi – người khiến anh có cảm giác muốn làm mới bản thân. Trong trường đoạn tiếp theo, Caisley, cựu nhân viên tình báo, tiến hành một cuộc điều tra: chồng Louki, Jean-Pierre Choureau, thuê anh đi tìm vợ mình. Anh đã khám phá ra tuổi thơ của cô, quẩn quanh khu vực Moulin Rouge nơi mẹ cô làm việc. Trường đoạn thứ ba: Louki lên tiếng và nhớ lại tuổi thơ của chính mình, những lần cô bỏ trốn, những quán bar u ám ở quận 18… Cô nhắc đến những người đàn ông từng yêu thương cô: Jean-Pierre Choureau, Roland, Guy de Veer nhà huyền bí học, người giúp cô biết đến hình tượng “Louise của hư vô” mà cô tự thấy giống mình. Trường đoạn cuối: Roland nhớ lại cuộc gặp giữa mình và Youki cùng tình yêu của họ. Chàng trai trẻ say mê “quy hồi vĩnh cửu” và đang viết một tiểu luận về các “vùng trung tính”, anh cũng trôi nổi bồng bềnh như Louki và tin rằng có thể gặp được cô trong suy nghĩ. Nhưng cô thoát khỏi anh cũng như thoát khỏi tất cả những người khác… Cho tới ngày chính tại quán Le Condé, anh biết chuyện cô đã nhảy qua cửa sổ tự vẫn… Mời các bạn đón đọc Ở Quán Cà Phê Tuổi Trẻ Lạc Lối của tác giả Patrick Modiano.
Quảng Trường Ngôi Sao - Patrick Modiano
QUẢNG TRƯỜNG NGÔI SAO ra mắt bạn đọc lúc Patrick Modiano mới 23 tuổi, đã gây tiếng vang khá lớn. Với lối hay xếp các nhà văn vào từng “phái”, có người đã từng xếp Modiano vào số “Những cây bút viết ngụ ngôn mới” (Les nouveau fabulistes). Modiano thuộc số những nhà văn biết cách rung động một công chúng khá rộng rãi bằng cách huy động những phương tiện rất tinh tế: sử dụng hồi ức, tạo những cuộc chạm trán bất ngờ giữa những sự việc diễn ra trong nội tâm và ngoài cuộc đời, bằng một giọng văn kín đáo. QUẢNG TRƯỜNG NGÔI SAO đã từng là sách bán chạy nhất trong nhiều năm liền, đến này vẫn được tái bản đều đặn, và được tặng giải thưởng văn học Roger Nimier 1968. TÁC PHẨM CỦA MODIANO   1968: Quảng trường Ngôi Sao - Giải thưởng Roger Nimier   1969: Tuần tra ban đêm   1972: Một tuổi trẻ   1972: Những đường phố ngoại vị - Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp   1976: Biệt thự buồn - Giải các hiệu sách   1978: Phố của Những cửa hiệu u tối - Giải Goncourt   1985: Khu phố hẻo lánh   1986: Những Chủ nhật tháng Tám Mời các bạn đón đọc Quảng Trường Ngôi Sao của tác giả Patrick Modiano.
Phố Những Cửa Hiệu U Tối - Patrick Modiano
Sẽ chẳng bao giờ biết được Guy Roland đã tìm thấy gì ở số 2, phố Những Cửa hiệu U tối... Một địa chỉ tại Rome, địa chỉ cuối cùng, địa chỉ bí hiểm nhất trong số các địa chỉ mà người đàn ông mất trí này tìm đến. Guy Roland là nhân viên của một hãng thám tử tư do nam tước xứ Baltique Constantin von Hutte thành lập, von Hutte vừa nghỉ hưu. Guy Roland, trước thay đổi này, đã quyết định lần tìm về quá khứ để khám phá bí mật nhân thân mình. Anh vừa đoan chắc mình chính là “hậu duệ của một gia đình có tên hiển thị trên một vài cuốn Bottin thời lưu cũ” thì đã bị hướng ngay đến vết dấu của một Pedro McEvoy nào đó vốn là thư ký của một “tòa công sứ Nam Mỹ” từng sống trên phố Cambacérès, quận VIII Paris. Nhưng liệu đó có phải tên đi mượn của Jimmy Stern làm nghề môi giới và đã mất tích vào năm 1940 không? Và chuyện gì đã xảy đến với vợ anh, Denise Coudreuse, một người làm mẫu theo giờ, cũng cùng anh trốn đến Megève lánh nạn vì “Paris đang trở nên quá nguy hiểm”? Thoạt tiên, Guy Roland chỉ tiến hành điều tra trong thủ đô, rồi dần dà anh khôi phục được các mảnh ghép của cuộc sống trước đây của mình. Các mảnh ghép của một câu chuyện không chắc chắn cùng những nhân chứng tha hương, Freddie Howard de Luz, Oleg de Wrédé, Gay Orlow, Porfirio Rubirosa, André Wildmer, và những người khác. Các mảnh ghép của “một thời kỳ kỳ cục”, thời Chiếm đóng và săn lùng người Do Thái, lan đến tận Bora Bora, New York, Jouy-en-Josas, Vichy, và dĩ nhiên là Rome nữa. Phố những cửa hiệu u tối là cuốn tiểu thuyết thứ sáu của nhà văn Nobel 2014 Patrick Modiano, xuất bản năm 1978 và cùng năm đó được giải thưởng văn học Goncourt danh giá nhất nước Pháp. ***  Ta còn lại gì sau khi đã sống qua một đời? Vài bức ảnh ố vàng đựng trong mấy cái hộp bánh bích quy, đôi ba số điện thoại đã đổi chủ thuê bao, một nhúm chứng nhân đến lượt họ cũng tan như mây khói... rồi chẳng còn gì nữa, ta gần như không tồn tại. Nhưng liệu sống thì có ích gì khi ta không nhớ và nhớ thì có ích gì khi ta không sống? Những cuốn sách lớn, dù mỏng manh tới đâu, vẫn mang trong chúng một sức nặng ngầm ẩn. Phố những cửa hiệu u tối là một trong số đó.  Le Monde   - Một ngôn ngữ thoảng qua. Một sự giản đơn bí ẩn. Một thực tế hoàn toàn ảo mờ. Chỉ tài năng đặc biệt của Modiano mới có thể tạo ra được một Phố những cửa hiệu u tối  như thế. L’Express   Mời các bạn đón đọc Phố Những Cửa Hiệu U Tối của tác giả Patrick Modiano.