Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Nói Dối Thứ Ba

Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Tôi ngồi tù tại cái thành phố nhỏ thời thơ ấu. Không phải là một nhà tù thực sự, đó là một phòng giam trong ngôi nhà của cảnh sát địa phương, một tòa nhà hai tầng như biết bao những nhà khác của thành phố. Phòng giam của tôi xưa kia là một xưởng giặt, cửa và cửa sổ trông ra sân. Những chấn song cửa sổ đã được gắn vào bên trong để cho không ai có thể chạm vào và đập vỡ kính. Một góc vệ sinh được che sau một cái riđô. Giáp với một bức tường, có một cái bàn và bốn cái ghế gắn chặt xuống đất, giáp với bức tường phía trước có bốn cái giường có thể gập xuống. Ba cái đã được gập. Chỉ có một mình tôi trong phòng giam. Trong thành phố này có rất ít tội phạm, và khi có, người ta lập tức đưa đến thành phố bên, thủ phủ của vùng này cách đây hai mươi cây số. Tôi không phải là tội phạm. Tôi ở đây là do giấy tờ của tôi không hợp lệ, hộ chiếu của tôi hết hạn. Với lại tôi cũng có nợ tiền. Buổi sáng, người coi tù mang đến cho tôi bữa sáng, sữa, cà phê, bánh mỳ. Tôi uống chút cà phê rồi tôi đi tắm. Người coi tù ăn nốt bữa sáng của tôi và quét dọn phòng giam. Cửa để mở, tôi có thể ra sân nếu tôi muốn. Đó là một cái sân có tường cao phủ dây trường xuân và nho dại bao quanh. Đằng sau một bức tường, ở phía trái khi ra khỏi phòng giam là một cái hành lang có mái che của một trường học. Tôi nghe tiếng trẻ con cười, đùa, la hét trong giờ ra chơi. Khi tôi còn bé, trường học đã ở đó rồi, tôi nhớ, dù tôi không bao giờ đến trường, nhưng nhà tù thì hồi đó lại ở nơi khác, tôi cũng nhớ bởi vì tôi đã đến đó một lần. Buổi sáng một giờ, và buổi tối một giờ, tôi đi bộ ngoài sân. Đó là thói quen tôi đã có từ thuở nhỏ, khi tôi mới lên năm, tôi đã buộc phải tập đi. Điều này khiến người coi tù khó chịu, vì lúc đó tôi không nói và không nghe một câu hỏi nào. Mắt nhìn xuống đất, tay chắp sau lưng, tôi bước đi, tôi đi vòng quanh dọc theo các bức tường. Mặt đất có lát đá, nhưng cỏ vẫn mọc giữa các kẽ đá. Cái sân gần như vuông, chiều dài mười lăm bước, chiều rộng mười ba bước. Giả sử bước chân của tôi dài một mét thì diện tích cái sân là một trăm chín mươi lăm mét vuông. Nhưng chắc chắn bước chân của tôi ngắn hơn. Giữa sân có một cái bàn tròn và hai cái ghế, và giáp với bức tường cuối vườn là một cái ghế dài bằng gỗ. Ngồi xuống ghế dài đó tôi có thể nhìn thấy một phần lớn bầu trời thuở nhỏ của tôi. Từ hôm đầu, bà chủ hiệu sách đã đến thăm tôi và mang đến cho tôi các đồ dùng cá nhân và một món xúp rau. Bà tiếp tục đến hàng ngày vào giờ trưa với món xúp rau của bà. Tôi bảo bà rằng ở đây tôi được nuôi dưỡng tốt, người coi tù mang đến cho tôi một ngày hai bữa đầy đủ từ nhà hàng trước mặt, nhưng bà ấy tiếp tục mang xúp đến. Tôi ăn một chút để giữ lễ, rồi tôi đưa cái xoong cho người coi tù ăn nốt. Tôi xin lỗi bà chủ hiệu sách vì sự lộn xộn tôi đã để lại trong căn hộ của bà. Bà nói: - Có quan trọng gì đâu. Tôi và con gái tôi đã dọn dẹp cả rồi. Chỉ có rất nhiều giấy. Tôi đã đốt những tờ giấy nhàu nát và những tờ ném vào sọt. Những tờ khác, tôi đã đặt lên bàn, nhưng cảnh sát đã đến và lấy đi. Tôi im lặng một lát, rồi nói: - Tôi còn thiếu bà hai tháng tiền nhà. Bà ấy cười: - Tôi đã đòi ông quá đắt cho căn hộ nhỏ đó. Nhưng nếu ông muốn thì ông có thể hoàn lại cho tôi khi ông được về. Có lẽ là sang năm. - Tôi không nghĩ là sẽ về. Người được ủy thác của tôi sẽ thanh toán cho bà. Bà ấy hỏi tôi có cần gì không, tôi nói: - Có, tôi cần giấy và bút chì. Nhưng tôi không còn tiền. - Đáng lẽ tôi đã phải tự nghĩ ra. Hôm sau, bà ấy trở lại với món xúp, một gói giấy kẻ và nhiều bút chì. Mời các bạn đón đọc Lời Nói Dối Thứ Ba của tác giả Agota Kristof.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

The Penniless Peer - Barbara Cartland
Nàng thiếu nữ tóc đỏ duyên dáng Fenella Lambert hằng yêu người anh họ đẹp trai từ thuở ấu thơ. Khi Lord Perequine Corbury từ trận chiến đánh quân của Napoleon trở về, chàng đã lâm vào hoàn cảnh chật vật túng thiếu. Chính nàng là người đề ra 1 giải pháp táo bạo giúp chàng khôi phục toàn bộ gia sản – dù rằng đáp án là người mình yêu sẽ đám cưới với người đàn bà khác. Cùng với Perequine, Fenella đã lao vào cuộc phiêu lưu đầy dẫy hiểm nguy hơn bao giờ hết … *** Barbara Cartland tên đầy đủ là Maria Barbara Cartland Hamilton sinh ngày 9/7/1901 là một nhà văn người Anh. Bà được coi là một trong những cây bút sáng tác mạnh mẽ nhất của thế kỷ 20 và luôn có tên trong sách kỷ lục Guinness như một trong những nhà văn xuất bản nhiều tác phẩm nhất trong một năm. Sự nổi tiếng của bà gắn liền với những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hư cấu dưới bút danh Barbara Cartland, ngoài ra bà cũng sáng tác dưới bút danh sau khi đã lập gia đình là Barbara McCorquodale. Ước tính lượng sách bán được lên đến hơn một tỷ bản đã khiến bà trở thành một trong những biểu tượng xã hội của thành phố London cũng như một trong những nhân vật được giới truyền thông Anh săn đón nhiều nhất. Điểm đặc trưng nhất trong phong cách của Barbara Cartland là đoạn kết với tuyên ngôn tình yêu sẽ chinh phục mọi thử thách. "Những nhân vật nữ chính luôn là chìa khóa trong mọi tình huống. Họ là những phụ nữ độc lập, thông minh và tự tin vào bản thân. Barbara Cartland đã tạo ra sức hấp dẫn cho những câu chuyện bà kể bằng công thức vô cùng đơn giản: Luôn là một kết thúc có hậu nhưng trong suốt chiều dài câu chuyện người đọc lại luôn bị thu hút bởi ý nghĩ liệu nút thắt có bao giờ được cởi bỏ thành công" – Miller nói. Trong suốt sự nghiệp của mình Barbara Cartland đã viết khoảng 723 cuốn sách được dịch sang 38 ngôn ngữ. Quãng thời gian sáng tác dồi dào nhất của bà phải kể đến 650 tiểu thuyết lãng mạn được viết trong 20 năm cuối đời. Ngày 21/5/2000 bà qua đời ở tuổi 98 sau khi hoàn thành cuốn tiểu thuyết cuối cùng chỉ một năm trước đó. *** Lord Corbury lái xe đến Brighton vào lúc xế chiều. Cỗ xe 4 ngựa được điều khiển khéo léo thu hút bao ánh mắt ngưỡng mộ của khách bộ hành. Anh rất ngạc nhiên khi thấy cả đội ngựa tuyệt hảo màu hạt dẻ trong tàu ngựa của biệt thự Corbury, những chú ngựa tuyển này chắc chắn sẽ làm bạn bè anh lác mắt. Lord Corbury cho xe dừng lại trước 1 khách sạn trên đường Marine Parade và yêu cầu 1 phòng lớn. Với cung cách uy nghi đĩnh đạc anh được tiếp đón long trọng bằng 1 căn phòng từng dành riêng cho bá tước của Dorchester. Thay đổi y phục xong, Lord Corbury đến nhà Lord Farquhar tọa lạc trên đường Stein và yêu cầu được gặp Fenella. Anh được mời vào phòng đọc sách ở tầng trệt, và người ra tiếp anh là Lord Farquhar. -Thật là ngạc nhiên đó, Periquine. Ông cười nói vui vẻ. “Chúng tôi không nghĩ là cháu xuống miền nam sớm thế.” -Cháu có thể gặp Fenella không? Lord Corbury nói thẳng mục đích của mình đến đây, không muốn làm lạc hướng câu chuyện. -Fenella đang nghỉ trên lầu. Chúng tôi sẽ ăn tối với Thái tử tại dinh của ngài, vì thế con bé cần nghỉ ngơi chuẩn bị cho buổi tối này. ... Mời các bạn đón đọc The Penniless Peer của tác giả Barbara Cartland.
Đàn Hương Hình - Mạc Ngôn
Đây là cuốn tiểu thuyết thứ hai do dịch giả Trần Đình Hiến thực hiện sau "Báu vật của đời". Ông đang theo đuổi một loạt truyện của nhà văn hiện đại Trung Quốc Mạc Ngôn. Dưới đây là cuộc trao đổi của ông với báo giới. Đàn hương hình là bộ tiểu thuyết lịch sử được Mạc Ngôn viết trong suốt 5 năm, từ 1996 đến 2001. Tác phẩm được phát triển trên một vở hý kịch cùng tên gồm 9 cảnh vốn có từ thời cuối Thanh và đầu Trung Hoa Dân quốc. Tác phẩm có một kết cấu khá lạ với 3 phần: Đầu phụng, bụng heo và đuôi beo. Một kết cấu và phương thức mà nói như chính tác giả trong phần viết thêm là: "Mỗi chương của phần đầu phụng và đuôi beo đều dùng phương thức nhân vật tự thuật. Phần bụng heo, bề ngoài tưởng như từ một góc độ nào đó nhìn vào mà viết, thực ra là ghi lại phương thức truyền miệng trong dân gian và phương thức ca vịnh để thuật lại một thời kỳ lịch sử có tính truyền kỳ.  Đàn hương là một loại gỗ rất cứng, được dùng để làm kiếm. Giết người bằng kiếm đàn hương có thể nói là một trong những hình thức man rợ và tàn khốc nhất từng được biết đến trong lịch sử Trung Quốc. Người ta đã luồn kiếm ngược từ hậu môn ra đến đằng miệng phạm nhân. Đây chính là hình phạt đã được áp dụng cho nhân vật chính của tác phẩm là Tôn Bính - một ông bầu của gánh hát Miêu Xoang nổi tiếng trong vùng, đồng thời là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa nông dân vùng Cao Mật chống lại sự đàn áp của phát xít Đức vào năm 1900, khi chúng làm đường sắt xuyên qua vùng này. Ngoài hình phạt dã man nói trên, còn 3 cái án tàn khốc khác, do phát xít Đức và tên tay sai phản động của triều đình Mãn Thanh là Viên Thế Khải thực hiện. *** Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật tỉnh Sơn Đông. Là tác giả tạo nên cơn sốt văn học Trung Quốc tại Việt Nam thông qua một loạt các tiểu thuyết được chuyển ngữ và xuất bản từ thập kỷ trước như Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận… Mạc Ngôn đã để lại dấn ấn sâu đậm trong lòng độc giả bởi tài năng văn chương không thể phủ nhận. Giải thưởng Nobel Văn học năm 2012 một lần nữa khẳng định địa vị quan trọng của Mạc Ngôn trong nền văn học thế kỷ 20 của Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Tác phẩm chính Báu vật của đời, nguyên tác: Phong nhũ phì đồn (丰乳肥臀), (1995) Cao lương đỏ, nguyên tác: Hồng cao lương gia tộc (红高粱家族), (1998) Đàn hương hình (檀香刑). Cây tỏi nổi giận (Bài ca củ tỏi Thiên Đường) Củ cải đỏ trong suốt. Rừng xanh lá đỏ (Rừng vẹt) Tửu quốc (Rượu chảy như suối) Châu chấu đỏ. Tổ tiên có màng chân Con Đường Nước Mắt Hoan Lạc Bạch Miên Hoa Trâu Thiến Sống Đọa Thác Đày Người Tỉnh Nói Chuyện Mộng Du Khác Ma chiến hữu, nguyên tác: Chiến hữu trùng phùng (战友重逢), (2004), một tác phẩm đề cập đến lính Trung Quốc hy sinh trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979. Giải thưởng Giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn Trung Quốc, tháng 12/1995 cho truyện "Báu vật của đời". Giải Mao Thuẫn cho tác phẩm Đàn hương hình Giải Nobel Văn học năm 2012. *** Mi Nương, Mi Nương, nàng cho ta những phút mê hồn… Nàng lõa lồ ngọc thể, đầu đội tấm da mèo nhỏ, lăn đi lăn lại trên giường ta, lăn tới lăn lui trên người ta. Nàng vuốt một cái, khuôn mặt lập tức biến thành mặt mèo xinh xinh, hiếu động. Qua cơ thể nàng, ta nhận ra rằng, trên đời này không động vật nào mềm mại bằng giống mèo… Lưỡi hồng hồng liếm khắp người ta, cho ta lên tiên cho ta chết ngột… Ta chỉ muốn ngậm nàng trong miệng… Nghĩa miêu mặc áo miêu rộng thùng thình, trong tiếng thanh la tiếng trống, chạy ra sân khấu như một trận cuồng phong, thổi dạt màn đêm phong tình về phía sau. Anh ta nhón chân lượn mấy vòng rất đẹp, rồi ngồi xệp giữa sân diễn, cất giọng tự bạch: Mỗ đây Miêu chủ Tôn Bính, thuở thiếu thời đã học Miêu Xoang, cùng gánh hát đi khắp bốn phương. Mỗ hát đại hí bốn mươi tám xuất, sắm đủ các vai khanh tướng đế vương. Vào tuổi trung niên, mỗ chót nói ngông, đắc tội quan huyện Cao Mật. Quan huyện cải trang đạo tặc, vặt râu mỗ một sợi không còn, hủy luôn cả duyên nợ với Miêu Xoang! Mỗ bàn giao gánh hát cho người khác, trở lại quê nhà mở quán bán trà. Vợ mỗ Đào Hồng cá lặn chim sa tính tình hiền thục, sinh hạ hai con như vàng như ngọc. Đáng giận thay, bọn Tây xâm nhập Trung Hoa, làm đường sắt phá tan phong thủy. Càng căm bọn Hán gian cáo mượn oai hùm, gây tai họa gieo họa cho dân làng. Vợ mỗ bị giặc bờm xơm trên chợ, tai ương từ đó chụp lên đầu. Mỗ đau đau đau từng khúc ruột, mỗ hận hận hận vỡ tim gan.. ... Mời các bạn đón đọc Đàn Hương Hình của tác giả Mạc Ngôn.
The Kiss Of The Devil - Barbara Cartland
Quyết làm trái lời người họ hàng Jimmy, cô gái xinh đẹp nhưng nóng đầu Skye Standish dấn thân vào một chuyến hành trình thám hiểm vùng đất hỗn loạn của Mariposa thuộc Nam Mỹ. Từ đó, những chuyện bất ngờ liên tục xảy ra. *** Barbara Cartland tên đầy đủ là Maria Barbara Cartland Hamilton sinh ngày 9/7/1901 là một nhà văn người Anh. Bà được coi là một trong những cây bút sáng tác mạnh mẽ nhất của thế kỷ 20 và luôn có tên trong sách kỷ lục Guinness như một trong những nhà văn xuất bản nhiều tác phẩm nhất trong một năm. Sự nổi tiếng của bà gắn liền với những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hư cấu dưới bút danh Barbara Cartland, ngoài ra bà cũng sáng tác dưới bút danh sau khi đã lập gia đình là Barbara McCorquodale. Ước tính lượng sách bán được lên đến hơn một tỷ bản đã khiến bà trở thành một trong những biểu tượng xã hội của thành phố London cũng như một trong những nhân vật được giới truyền thông Anh săn đón nhiều nhất. Điểm đặc trưng nhất trong phong cách của Barbara Cartland là đoạn kết với tuyên ngôn tình yêu sẽ chinh phục mọi thử thách. "Những nhân vật nữ chính luôn là chìa khóa trong mọi tình huống. Họ là những phụ nữ độc lập, thông minh và tự tin vào bản thân. Barbara Cartland đã tạo ra sức hấp dẫn cho những câu chuyện bà kể bằng công thức vô cùng đơn giản: Luôn là một kết thúc có hậu nhưng trong suốt chiều dài câu chuyện người đọc lại luôn bị thu hút bởi ý nghĩ liệu nút thắt có bao giờ được cởi bỏ thành công" – Miller nói. Trong suốt sự nghiệp của mình Barbara Cartland đã viết khoảng 723 cuốn sách được dịch sang 38 ngôn ngữ. Quãng thời gian sáng tác dồi dào nhất của bà phải kể đến 650 tiểu thuyết lãng mạn được viết trong 20 năm cuối đời. Ngày 21/5/2000 bà qua đời ở tuổi 98 sau khi hoàn thành cuốn tiểu thuyết cuối cùng chỉ một năm trước đó. *** Skye lấy trong tủ ra bộ áo cô chưa từng mặc qua. Áo may bằng ren trắng thật mịn màng mỏng manh đến nỗi cô tưởng mình như đang mặc chiếc áo dệt bằng tơ trời trong truyện thần thoại. Chiếc áo khiến cô trông trẻ hơn, thân trước cắt thấp phô bày khoảng vai trần mịn màng sáng rỡ như ánh ngọc trai. Mái tóc được chải công phu cho đến khi những lọn tóc óng lên như ánh lửa viền quanh gương mặt thon nhỏ. Cô chỉ đeo một món trang sức duy nhất là đôi hoa tai nạm ngọc thạch anh và kim cương mà El Diablo tặng cho cô trong đêm fiesta. Khi đeo đôi hoa vào tai, cô nhớ lại cô từng thề có ngày sẽ trả lại cho anh, nhưng bây giờ cô sẽ không tự nguyện trả lại nữa. Khi mặc bộ áo này, cô đã săm *** thật lâu xem còn bất cứ khiếm khuyết nào cần phải sửa chữa hay không, đêm nay cô chỉ có một ước nguyện duy nhất, trên tất cả mọi ước nguyện, rằng cô muốn mình đẹp nhất, lộng lẫy hơn bao giờ hết. Ngắm mình trong gương, cô hài lòng với bóng dáng mình, đôi mắt to rạng rỡ, nhưng sâu thẳm huyền hoặc. Hai cánh môi đỏ ấm áp mềm mại. Hơi thở gấp gáp giữa đôi môi khẽ mở tố cáo nhịp đập vội vã của con tim bất trị. Dường như cả thế kỷ đã trôi qua từ lúc cô gặp El Diablo ngày hôm qua. Sáng sớm hôm nay anh đã rời tàu rất sớm bỏ mặc sự khó chịu của Evan rằng anh vẫn chưa hoàn toàn hồi phục để cáng đáng bao nhiêu công việc đang chồng chất, thay vì thế anh chỉ cười với ông. ... Mời các bạn đón đọc The Kiss Of The Devil của tác giả Barbara Cartland.
Cuốn Theo Dòng Xoáy - Barbara Cartland
"Người ta bao giờ cũng nghĩ mình là cần thiết, nhưng chỉ cần lướt qua bên cạnh cái chết là thấy mọi cái đều vô nghĩa. Thành đạt, quyền lực, sức mạnh, tiền bạc ư? Tất cả cái đó chẳng đáng là bao so với cái việc giản đơn là hít thở và sống." Barbara Cartland *** Barbara Cartland tên đầy đủ là Maria Barbara Cartland Hamilton sinh ngày 9/7/1901 là một nhà văn người Anh. Bà được coi là một trong những cây bút sáng tác mạnh mẽ nhất của thế kỷ 20 và luôn có tên trong sách kỷ lục Guinness như một trong những nhà văn xuất bản nhiều tác phẩm nhất trong một năm. Sự nổi tiếng của bà gắn liền với những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hư cấu dưới bút danh Barbara Cartland, ngoài ra bà cũng sáng tác dưới bút danh sau khi đã lập gia đình là Barbara McCorquodale. Ước tính lượng sách bán được lên đến hơn một tỷ bản đã khiến bà trở thành một trong những biểu tượng xã hội của thành phố London cũng như một trong những nhân vật được giới truyền thông Anh săn đón nhiều nhất. Điểm đặc trưng nhất trong phong cách của Barbara Cartland là đoạn kết với tuyên ngôn tình yêu sẽ chinh phục mọi thử thách. "Những nhân vật nữ chính luôn là chìa khóa trong mọi tình huống. Họ là những phụ nữ độc lập, thông minh và tự tin vào bản thân. Barbara Cartland đã tạo ra sức hấp dẫn cho những câu chuyện bà kể bằng công thức vô cùng đơn giản: Luôn là một kết thúc có hậu nhưng trong suốt chiều dài câu chuyện người đọc lại luôn bị thu hút bởi ý nghĩ liệu nút thắt có bao giờ được cởi bỏ thành công" – Miller nói. Trong suốt sự nghiệp của mình Barbara Cartland đã viết khoảng 723 cuốn sách được dịch sang 38 ngôn ngữ. Quãng thời gian sáng tác dồi dào nhất của bà phải kể đến 650 tiểu thuyết lãng mạn được viết trong 20 năm cuối đời. Ngày 21/5/2000 bà qua đời ở tuổi 98 sau khi hoàn thành cuốn tiểu thuyết cuối cùng chỉ một năm trước đó. *** Chiếc xe lớn nổ máy và chạy hết tốc độ đưa nàng đi xa tòa lâu đài. Nàng ra đi không có chương trình cụ thể mà chỉ muốn cho khoảng cách giữa John và mình càng lớn càng tốt . Đến 2h chiều, dừng xe để mua xăng, nàng trông thấy một quán cà phê nhỏ và sực nhớ từ tối hôm trước chưa hề ăn uống gì . Nàng gọi trà và mấy lát bánh mì phết bơ cùng với một quả trứng mà chủ quán năn nỉ mời nàng và tự hào nhấn mạnh : − Tất cả khách hàng đều hỏi mua trứng của chúng tôi, trứng rất tươi mà. Anna không dám chối từ, ăn xong và trả tiền, nàng lại lên xe . Xe lăn bánh suốt buổi chiều, mặc dù trời nắng, qua đồng cỏ ruộng vườn dọc sông suối hai bên trồng liễu. Nàng không biết mình ở đâu nhưng vẫn cứ cho xe lăn bánh. Gần đến một thành phố lớn, nàng tránh không đi vào. Đi hết buổi chiều nàng nhìn thấy một biển báo: Manchester, bất giác nàng hiểu là đi suốt ngày, nàng đã trở về làng quê. Nửa tiếng sau nàng về tới Liton Copon, "nhà mình" hai từ vang lên thánh thót trong lòng mà Anna tưởng như nghe thấy . Bỗng nàng sực nhớ, ngôi nhà không còn thuộc về mình nữa, làm sao tiền bạc có thể thay thế được một vật quý giá như ngôi nhà gia đình, ý nghĩ ấy làm nàng xót xa. ... Mời các bạn đón đọc Cuốn Theo Dòng Xoáy của tác giả Barbara Cartland.