Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hẹn Hò Theo Kiểu của Em - Linda Howard

Trong mắt cô nàng, anh là một anh chàng sẽ khiến mọi bản năng, mọi hoóc môn trong cơ thể bạn phải bật dậy chú ý và thì thầm vào tai bạn, “Ôi, Chúa tôi, đây rồi, đây chính là người đàn ông đích thực, hãy tóm lấy anh ta và làm việc đó NGAY ĐI!” Còn trong mắt anh, thì cô là một cô nàng tóc vàng hoe tuy nóng bỏng nhưng õng ẹo phù phiếm, luôn làm quá mọi chuyện lên và không bao giờ cho những người xung quanh một giây phút yên bình. Ấy thế mà, sau hai năm “bỏ chạy” khỏi cô nàng theo đúng nghĩa đen, giờ khi gặp lại, anh lại thấy mê đắm cô hơn bao giờ hết. Anh bị cuốn vào giọng nói tiếng cười, vào những hiểm nguy kịch tính trong cuộc sống của cô, vào cả nét “õng ẹo phù phiếm” đáng yêu kia nữa. Và anh đề nghị hẹn hò lại từ đầu. Nhưng, một lần nữa cô nàng lại làm anh phát điên lên khi đưa ra một kiểu hẹn hò của-riêng-cô: Hẹn hò không sex.Là câu chuyện mở đầu bằng một vụ giết người… Tiếp diễn bằng chuyện hẹn hò có một không hai của cô nàng nhân chứng Blair Mallory nóng bỏng và anh chàng Trung úy Wyatt Bloodsworth điển trai mạnh mẽ… Tiểu thuyết tình cảm Hẹn hò theo kiểu của em sẽ đưa bạn vào một thế giới đầy lôi cuốn, kịch tính nhưng cũng không kém phần hài hước, ngọt ngào của tình yêu và đam mê. *** Đa số mọi người không coi công việc của một cổ động viên là nghiêm túc. Giá mà họ biết... Đó là tôi, như tất cả các cô gái Mĩ khác. Nếu bạn nhìn vào các bức ảnh trong những cuốn niên giám trường cấp ba của tôi, bạn sẽ nhìn thấy một cô gái tóc dài vàng hoe, rám nắng với nụ cười ngoác đến tận mang tai, trông rõ toàn bộ hàm răng trắng bóng của cô, nhờ sự giúp đỡ của hàng nghìn đô la cho việc nẹp và tẩy trắng. Là cho hàm răng, không phải cho tóc hay làn da rám nắng. Tôi có sự tự tin không cần cố gắng của một nàng công chúa tuổi teen tầng lớp trên của dân trung lưu; không điều gì tồi tệ có thể đến với tôi. Rốt cuộc, tôi là một cô nàng của Đội cổ vũ cơ mà. Tôi thú nhận điều đó. Thực tế là tôi tự hào vì điều đó. Rất nhiều người nghĩ những cổ động viên vừa không có đầu óc và vừa học đòi, nhưng đó là những người chưa bao giờ làm cổ động viên. Tôi tha thứ cho sự thờ ơ của họ. Cổ vũ là một công việc khó khăn, đòi hỏi cả kỹ năng, sức khoẻ và nguy hiểm nữa. Mọi người thường xuyên bị thương, thậm chí đôi khi còn mất mạng. Và người bị thương thường là con gái: các anh chàng là người tung lên, còn các cô gái là người bị tung lên. Nói theo từ chuyên ngành thì chúng tôi gọi đó là "flyers", nghe thật ngốc nghếch bởi vì dĩ nhiên là chúng tôi không thể bay rồi. Chúng tôi bị tung lên. Những người bị tung là những người sẽ ngã đập đầu và bị gãy cổ. Ừm, tôi chưa bao giờ bị gãy cổ, nhưng tôi đã bị gẫy tay trái, xương cổ và sái đầu gối phải. Tôi không thể đếm được bao nhiêu lần tôi bị bong gân và thâm tím nữa. Nhưng tôi giữ thăng bằng rất tuyệt, tôi có đôi chân khoẻ khoắn và tôi có thể vừa thực hiện backfip, vừa thực hiện split. Thêm vào đó, tôi đã vào đại học bằng học bổng dành cho Đội cổ vũ. Đây là một đất nước rất cool hay là gì nhỉ? Chà, dù sao, tên tôi là Blair Mallory. Vâng, tôi biết: đó là một cái tên ngớ ngẩn. Nó hợp với công việc cổ vũ và mái tóc vàng hoe. Tôi không thể làm gì được; đó là tên cha mẹ đặt cho tôi. Cha tôi tên là Blair nên tôi đoán tôi chỉ vừa đủ mừng vui vì tôi không phải là một Blair con. Tôi không nghĩ tôi là Nữ hoàng của buổi tựu trường nếu như tên tôi có là Blair Henry Mallory con. Tôi đủ hạnh phúc với cái cái tên Blair Elizabeth, xin cám ơn. Ý tôi là, những người làm trong làng giải trí thường đặt cho con họ những cái tên như kiểu Homer, vì Chúa. Khi những đứa trẻ đó trưởng thành và giết chết cha mẹ chúng, tôi nghĩ tất cả những trường hợp này nên được phán quyết là giết người vì lý do chính đáng. Nói đến đây lại gợi đến vụ án mạng mà tôi từng chứng kiến. Thực sự thì không hẳn vậy, nhưng ít nhất nó cũng như một kiểu logic. Mối liên hệ ấy, ý tôi là thế. Và những điều tồi tệ cũng xảy đến với nàng cổ động viên như tất cả công chúa người Mĩ khác. Tôi đã kết hôn, có phải thế không nhỉ? Nó cũng kiểu như một liên kết với án mạng. Tôi cưới Jason Carson ngay khi vừa tốt nghiệp đại học, vì thế trong vòng bốn năm, tên tôi là Blair Carson. Lẽ ra tôi không nên dại dột cưới một người có tên và họ vần điệu với nhau, nhưng có những thứ bạn chỉ học được từ trải nghiệm. Jason có đủ đặc điểm của một chính trị gia: tham gia hội đồng sinh viên, tham gia vận động cho cha mình trong chiến dịch tranh cử nghị sĩ bang, có chú làm thị trưởng, vân vân và vân vân. Jason quá ưa nhìn, anh ta có thể khiến con gái phải nói lắp, theo đúng nghĩa đen đấy. Thật tồi tệ là anh ta biết điều đó. Anh ta có mái tóc dài màu ánh nắng (đấy là diễn tả thi vị của mái tóc vàng hoe), những đặc điểm của một anh chàng đào hoa, mắt xanh thẳm và có hình thể xuất sắc. Hãy nghĩ đến John Kenedy con. Ý tôi là về cơ thể. Vậy nên chúng tôi ở đó, bức ảnh về một cặp đôi tóc vàng, răng trắng. Và cơ thể tôi cũng khá đẹp, nếu nhưng tôi được tự nói về mình.Chúng tôi còn có thể làm gì ngoài việc kết hôn? Bốn năm sau, chúng tôi không còn kết hôn nữa, giải phóng mối quan hệ lẫn nhau. Rốt cuộc, chúng tôi chẳng có gì chung ngoài vẻ bề ngoài và tôi thực sự không nghĩ rằng đó là nền tảng tốt cho một cuộc hôn nhân, bạn thấy sao? Jason muốn có con để chúng tôi trông giống tất cả các cặp đôi Mĩ khác khi anh ta tham gia chiến dịch tranh cử để trở thành nghị sĩ trẻ nhất bang, chuyện này thực sự, nếu bạn muốn biết, làm tôi cực kỳ cáu tiết, bởi vì trước đó anh ta đã từ chối không chịu có con và giờ đây, tất cả sự thay đổi đột nhiên đó phải chăng chỉ để thêm điểm vào cái chiến dịch tranh cử? Tôi nói với anh ta hôn mông tôi đi. Không phải là anh ta chưa từng làm thế trước đó, nhưng ngữ cảnh khác nhau, bạn biết đấy? Tôi bị xem như kẻ cướp trong việc dàn xếp vụ li dị. Có lẽ tôi nên cảm thấy có lỗi; ý tôi là, đó không phải hoàn toàn là chuyện về quyền bình đẳng để làm như thế. Nên đứng lên bằng chính đôi chân mình, tự mình đạt thành tựu, kiểu vậy kia. Và thực tế là tôi tin tất cả những điều đó; chỉ là tôi muốn khiến Jason phải chịu thiệt. Tôi muốn trừng phạt anh ta. Tại sao ư? Bởi vì tôi bắt gặp anh ta hôn em gái út của tôi, Jennifer, vào ngày tết khi những thành viên khác trong gia đình đang ở trong sào huyệt của mình, ngủ thiếp vì mệt sau trò chơi ném bóng gỗ. Khi đó Jenni mới mười bảy tuổi. Cơn giận dữ không làm tôi kém nhanh trí chút nào. Khi tôi thấy họ trong phòng ăn, tôi nhón chân bỏ đi và tìm một trong những cái camera chúng tôi dùng hôm đó để ghi lại sự kiện cho chiến dịch tranh cử của Jason - gia đình, tổ chức ngày lễ, bu quanh bàn đầy ú các loại bánh kẹo làm nghẽn động mạnh, chè chén say sưa và xem bóng đá. Anh ta thích chụp những cảnh cả gia đình tôi tụ tập cùng nhau vì gia đình tôi trông hơn gia đình anh ta rất nhiều. Jason sử dụng bất cứ cái gì có thể để thêm vào chiến dịch của mình. Dù sao tôi đã chộp được bức ảnh rất tuyệt về Jason và Jenni với đèn flash và toàn cảnh nên anh ta biết tôi đã túm được gáy anh ta. Anh ta sẽ làm gì, đuổi theo tôi và túm tôi lại trước mặt cha tôi, vật tôi xuống để cướp lại cái camera ư? Không có chuyện như vậy. Bởi anh ta sẽ phải giải thích và anh ta không thể hi vọng tôi sẽ đứng về phía anh ta trong câu chuyện bịa đặt đó được. Một điều khác nữa là, cha tôi sẽ đá bay anh ta qua ti vi vì dám động vào một sợi tóc của người cùng tên với ông. Tôi đã nói rằng tôi là đứa con gái yêu thích của cha chưa nhỉ? Vì thế tôi đệ đơn li dị và Jason cho tôi tất cả những gì tôi đòi hỏi, chỉ với một điều kiện là tôi phải đưa cho anh ta bức ảnh anh ta và Jenni cùng với phim âm bản của nó. Ờ, chắc rồi, tại sao không nhỉ? Cứ như thể tôi không có nhiều hơn một bản copy ấy. Có lẽ Jason nghĩ tôi quá ngu ngốc để nghĩ đến chuyện làm điều đó. Sẽ không hề có lợi nếu đánh giá thấp mức độ bẩn thỉu mà bạn sẽ chơi. Vì lý do này mà tôi thực sự không nghĩ Jason sẽ trở thành một chính trị gia giỏi. Tôi cũng nói với mẹ là Jenni đã để cho Jason hôn nó. Bạn không nghĩ là tôi sẽ để đứa em gái nhỏ hư thân mất nết đâm lén sau lưng tôi thoát tội phải không? Không phải tôi không yêu thương Jenni, nhưng nó là đứa trẻ của gia đình và nó vẫn nghĩ là nó sẽ có bất cứ thứ gì mà nó muốn. Đôi khi cũng phải cho nó thấy khác như vậy. Tôi cũng nhận thấy rằng tên nó có vần; Jenni Mallory. Thực tế là Jennifer nhưng nó chưa bao giờ được gọi như thế nên không tính. Tôi không biết có chuyện gì với mấy cái tên có vần nữa nhưng chúng thực sự là tin tồi tệ với tôi. Sự khác biệt là, tôi tha thứ cho Jenni bởi vì nó là máu mủ. Còn Jason thì không đời nào tôi tha thứ. Vì thế mẹ đã lo trông chừng Jenni, đứa đã khóc lóc sướt mướt xin lỗi và hứa sẽ làm đứa con gái tốt hoặc ít nhất cũng phải cho thấy sẽ có khẩu vị khá hơn; và em gái giữa của tôi, Siana, đứa đang học trường luật, đã lo thương thuyết với Jason. Cái tên "Siana" được cho là tên trại đi của "Jane", nhưng theo tôi, cái tên đó có nghĩa thực sự là "con cá mập chén người có lúm đồng tiền". Đó là Siana. Với hành động của nữ giới nhà Mallory, vụ li dị tiến hành xong xuôi trong một thời gian kỷ lục mà bố còn chưa biết được chính xác tại sao tất cả chúng tôi lại nổi điên với Jason. Không phải là vì ông quan tâm; mà là nếu chúng tôi nổi điên thì ông cũng nổi điên thay cho chúng tôi. Ông không ngọt ngào sao? Tôi nhận được khá nhiều tiền từ vụ dàn xếp li dị với Jason, cám ơn. Tôi cũng nhận được chiếc Mercedes mui trần màu đỏ (há há, Linda thích xe màu đỏ thì phải), tất nhiên là thế rồi, nhưng tiền là quan trọng nhất bởi vì những gì tôi đã làm được với nó. Tôi mua một nhà thể dục thể thao. Một trung tâm thể dục thẩm mĩ. Cuối cùng thì bạn đồng hành cùng sức khoẻ của bạn cơ mà, và tôi biết tất cả về việc giữ phom người. Siana gợi ý tôi gọi nó là "Blair's Beautiful Butt" nhưng tôi nghĩ nó sẽ hạn chế nhóm khách hàng và có lẽ khiến người ta sẽ bị ấn tượng là tôi đã đi hút mỡ. Mẹ nghĩ ra cái tên "Great Bods" và tất cả chúng tôi đều thích, vì thế nó trở thành cái tên mới của Halloran's Gym trước đây. Tôi ném một đống tiền vào việc tân trang và trang trí lại, nhưng khi tôi hoàn thành, nơi nàyđáng phải hét lên là nơi "cao cấp". Những tấm gương bóng loáng, thiết bị là loại tốt nhất trên thị trường; những phòng tắm, phòng thay đồ, vòi hoa sen được làm lại hoàn toàn; hai phòng sauna và một bể bơi được xây dựng thêm, cùng với một phòng mát xa riêng. Thành viên của Great Bods có thể lựa chọn các lớp yoga, aerobics, Tea Bo hoặc đám đá. Nếu yoga không làm bạn dễ chịu thì bạn có thể làm việc khác bạn thích mà không cần phải rời khỏi toà nhà này. Tôi cũng quả quyết rằng tất cả nhân viên của tôi đều được đào tạo về CPR (Hô hấp nhân tạo - Cấp cứu hồi sức), bởi vì bạn không bao giờ biết được khi nào thì một ông sếp với một-cơ-thể-đã-mất- dáng với hàm lượng cholesterol cao sẽ đâm đầu vào cái máy tập nhằm làm giảm trọng lượng với nỗ lực lấy lại được dáng vóc thời tuổi teen chỉ trong vòng một đêm để có thể gây ấn tượng với cô thư ký mới của mình, và đây là kết quả: đau tim vì quá sức. Bên cạnh đó, nó cũng là thứ khá ấn tượng trên các bài quảng cáo. Tất cả tiền bạc và khóa đào tạo CPR là rất bõ. Trong vòng một tháng mở cửa, Great Bods đã đạt hiệu quả nhanh chóng. Tôi bán thẻ hội viên theo tháng hoặc theo năm - có khoản giảm giá nếu bạn trả tiền cả năm cho khoá học, một chiến lược khôn ngoan vì nó sẽ lôi kéo bạn và rồi sau đó hầu hết mọi người sẽ tận dụng hết các thiết bị vì họ không muốn phí phạm tiền của mình. Những chiếc ô tô trong bãi đỗ giúp nhận biết thành công, và, chà, bạn biết họ nói gì về nhận thức rồi đấy. Dù sao, thành công cũng sản sinh như chuột vậy (thực ra là như thỏ nhưng người Việt mình thì cho rằng chuột mới đẻ lắm ). Tôi rùng mình từ đầu tới tận vớ phủ chân - một trong số những loại không bị coi là lạc hậu, nhưng chúng thực sự chưa phải là thứ khá nhất làm đôi chân bạn trông tuyệt hơn. Giày cao gót mới đứng đầu danh sách này, còn vớ phủ chân là lựa chọn gần thứ hai thôi. Tôi dùng cả hai. Tất nhiên là không phải đồng thời rồi. Pờ liz. Great Bods mở cửa từ sáu giờ sáng đến chín giờ tối, giúp cho tất cả mọi người có thể dễ dàng sắp xếp lịch của mình. Ban đầu, các lớp yoga của tôi vắng teo, chỉ có vài phụ nữ tham gia, vì thế tôi thuê mấy anh chàng trong đội bóng đại học đẹp giai và được ái mộ tham gia vào lớp yoga một tuần. Vô số các chàng học lớp cử tạ và Tae Bo, đàn ông đến tận răng, đổ xô vào làm bất cứ thứ gì mà những anh chàng trẻ trung đẹp giai của tôi làm để giữ phom người chuẩn và phụ nữ thì hối hả tham gia vào cùng lớp với cùng những anh chàng trẻ trung đó. Vừa hết một tuần, lượng thành viên tham gia vào lớp yoga đã tăng lên gấp bốn lần. Đám đàn ông khám phá ra yoga khó nhằn thế nào và lợi ích của nó thế nào nên hầu hết bọn họ đều ở lại - và vì thế nên phụ nữ cũng vậy. Tôi có cần phải nói là tôi đã tham gia vài lớp học tâm lý hồi đại học không nhỉ? Nên đây là tôi, vài năm sau: ba mươi tuổi và sở hữu một công việc kinh doanh thành công khiến tôi luôn bận rộn và cũng mang lại nhiều lợi nhuận rất hấp dẫn. Tôi bán chiếc mui trần màu đỏ và mua một cái màu trắng vì tôi muốn hạ thấp mình đi một chút. Chẳng khôn ngoan chút nào khi một người phụ nữ sống một mình lại thu hút được quá nhiều chú ý. Ngoài ra, tôi cũng muốn một chiếc xe mới. Tôi yêu mùi vị đó. Vâng, tôi biết tôi có thể mua một chiếc Ford hay đại loại thế, nhưng việc tôi lái xe lượn lờ khắp thị trấn trong chiếc mui trần Mercedes mà Jason không thể nào làm vậy vì nó sẽ ảnh hưởng xấu đến hình ảnh tranh cử của anh ta, chẳng khác nào như cái kim đâm vào mông Jason. Anh ta có thể chết vì ghen tị với tôi. Tôi hi vọng thế. Dẫu sao tôi cũng không đỗ chiếc mui trần ở khu vực bãi đỗ xe công cộng phía trước bởi vì tôi không muốn gây bàn tán om xòm về chiếc xe. Tôi có một khu vực đỗ xe riêng dành cho nhân viên phía sau nhà thể dục, với lối vào tiện lợi hơn nhiều; chỗ đỗ xe dành riêng cho tôi, khá lớn để những chiếc xe của người khác không lại gần được, ở ngay phía trước cửa. Là người sở hữu cũng có mặt mạnh của nó. Tuy nhiên, là một người chủ tốt bụng, tôi cũng cho dựng những tấm kim loại lớn che kín phía sau nhà thể dục để chúng tôi có thể đậu xe dưới mái che và được che chắn khi chui ra, chui vào xe. Khi trời mưa, tất cả mọi người đều tán thưởng cái mái che đó. Tôi là chủ nhưng tôi không tin tưởng vào việc hống hách với nhân viên của mình. Ngoại trừ chỗ đỗ xe, tôi không đòi hỏi bất cứ đặc quyền nào cả. Ừm, tôi nghĩ là việc ký vào phiếu trả lương của họ đã là một mối lợi to lớn rồi, và tôi đã quản lý tất cả tiền nong và đưa ra tất cả các quyết định cuối cùng, nhưng tôi cũng trông chừng cho tất cả bọn họ. Chúng tôi có gói bảo hiểm y tế rất tốt, bao gồm cả nha khoa, tôi trả cho họ tiền công hậu hĩnh - cộng với việc họ được thoải mái nhận dạy lớp học riêng của mình vào ngày nghỉ để có thêm thu nhập - và tôi cho họ rất nhiều kỳ nghỉ. Vì lý do này, tôi không phải thay thế nhân viên nhiều lắm. Một số thay đổi không tránh được bởi vì cuộc sống thay đổi và người ta chuyển đi, những thứ kiểu đó, nhưng hiếm khi nhân viên của tôi bỏ việc để làm một công việc khác trong vùng. Giữ chân nhân viên rất tốt cho việc kinh doanh. Khách hàng thích cảm thấy họ quen biết giáo viên và người huấn luyện. Thời gian đóng cửa là chín giờ tối và tôi thường ở lại khoá cửa để nhân viên của tôi có thể về nhà với gia đình hoặc tham gia cuộc sống xã hội hay bất cứ điều gì khác. Đừng cho rằng điều đó nghĩa là tôi không có cuộc sống xã hội. Thực sự là giờ tôi không còn hẹn hò nhiều như ngày vừa mới li dị, nhưng Great Bods chiếm nhiều thời gian của tôi và nó cũng quan trọng với tôi nên tôi chăm lo cho công việc của mình. Tôi có ý tưởng sáng tạo mới cho việc hò hẹn của mình: chúng tôi sẽ đi ăn trưa, điều đó rất tốt nếu như anh chàng đó hoá ra không tuyệt như tôi hi vọng bởi vì "bữa trưa" thì chỉ có hạn. Bạn gặp gỡ, bạn ăn, bạn rời đi. Nhờ vậy mà nếu tôi không khoái buổi hẹn hò đó, tôi sẽ không phải né tránh anh ta hay nghĩ ra lý do xin thứ lỗi không thoả đáng vì không thể mời anh ta vào nhà. Bữa trưa có vai trò rất tốt, sự sáng suốt trong hẹn hò. Nếu tôi thích anh ta thì sẽ có nhiều tuỳ chọn mở ra sau đó, chẳng hạn như một cuộc hẹn hò thực sự sau giờ làm hoặc vào chủ nhật khi Great Bods đóng cửa. Dù sao, vào một đêm - tôi đã nói rằng tôi từng chứng kiến một vụ giết người, phải không nhỉ? - tôi khoá cửa như mọi khi. Muộn một chút vì tôi đang tiếp tục luyện tập các kỹ xảo; bạn không bao giờ biết được khi nào bạn cần thực hiện cú backflip đâu. Tôi luyện tập đến khi mướt mồ hôi, vì thế tôi tắm và gội đầu trước khi vớ lấy đống đồ của mình và tiến về phía cửa cho nhân viên. Tôi tắt đèn rồi mở cửa và bước ra ngoài mái che. Ồ, chờ đã, tôi đi hơi quá rồi. Tôi chưa nói về Nicole. Nicole Goodwin "gọi tôi là Nikki" là cái gai của tôi. Cô ta gia nhập Great Bods khoảng một năm trước và lập tức khiến tôi phát điên mặc dù mất hai tháng tôi mới nhận thấy. Nicole là một trong những người có giọng nói nhẹ như hơi thở khiến ngay cả những người đàn ông mạnh mẽ cũng phải tan chảy. Điều đó khiến tôi muốn kìm hãm cô ta lại. Có cái quái gì trong giọng nói thì thầm bắt chước MariLyn Monroe lại khiến đàn ông thích thế nhỉ? Một số đàn ông, ít ra là vậy. Nicole cũng quét lên mình sự ngọt ngào giả dối khi cô ta nói chuyện nữa; thật lạ là những người quanh cô ta vẫn chưa bị làm sao bị bệnh tiểu đường đấy. Ít ra cô ta cũng không làm cái trò lấy-tay-xoắn-xoắn-tóc. Nhưng đó là bởi vì tôi không làm thế - trừ phi tôi đang trêu chọc ai đó, vậy đấy. Nhìn chung, tôi chuyên nghiệp hơn. Bạn thấy rồi đấy, cô ta là con mèo bắt chước. Và tôi là con mèo mà cô ta bắt chước theo. Đầu tiên là tóc. Tóc tự nhiên của cô ta chỉ hơi vàng thôi nhưng trong vòng hai tuần vào Great Bods, tóc cô ta trở nên vàng óng, uốn thành từng lọn. Giống như của tôi, thực tế là thế. Khi đó tôi không thực sự chú ý bởi vì tóc cô ta không dài như tóc tôi nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, khi tất cả những chi tiết nhỏ bắt đầu đâu vào đấy thì tôi nhận ra rằng tóc cô ta có cùng màu với tôi. Rồi cô ta bắt đầu cột tóc đuôi ngựa để khỏi vướng víu khi cô ta tập luyện. Thử đoán xem ai cũng buộc tóc lên khi cô ấy tập luyện nhỉ? Tôi không trang điểm đậm khi làm việc bởi vì nó phí thời gian: nếu một cô gái nóng bừng mặt đến mức độ nào đó thì lớp trang điểm biết mất. Ngoài ra, da tôi khá đẹp với đôi lông mày và lông mi sậm màu nên tôi không lo lắng về khuôn mặt mộc. Tuy nhiên, tôi thích dùng sữa dưỡng có hạt li ti lấp lánh khiến cho da tôi lung linh huyền ảo. Nicole hỏi tôi dùng loại sữa dưỡng nào và như một kẻ đần độn, tôi nói cho cô ta biết. Ngày hôm sau, da Nicole cũng lung linh như vậy. Bộ đồ tập luyện của cô ta bắt đầu trông giống của tôi: áo nịt và vớ phủ chân khi tôi tập luyện, với quần yoga xắn lên khi tôi đi xem xét tổng quan các hoạt động tập luyện. Nicole bắt đầu mặc áo nịt ngực và vớ phủ chân, nếu không thì cô ta nhún nhảy quanh quẩn trong cái quần yoga. Và ý của tôi là nhún nhảy. Tôi còn không tin là cô ta có áo lót. Thật không may, cô ta là một trong những người phụ nữ nên có mấy thứ đấy. Các thành viên nam của tôi (tôi thích nói thế) dường như thích cách ăn mặc lố lăng này, nhưng tất cả những cái đưa đẩy đó khiến tôi hoa cả mắt, nên nếu tôi phải nói chuyện với cô ta, tôi tập trung vào duy trì việc tiếp xúc bằng ánh mắt. Rồi cô ta có một chiếc mui trần màu trắng. Nó không phải là một chiếc Mercedes, nó là chiếc Mustang nhưng nó vẫn - màu trắng và nó là chiếc mui trần. Còn gì rõ ràng hơn nữa mà cô ta có thể tạo ra đây? Có lẽ tôi nên thấy là mình được tâng bốc, nhưng tôi không thấy vậy. Không có vẻ như Nicole thích tôi và sao chép tôi vì ngưỡng mộ. Tôi nghĩ cô ta ghét tôi. Cô ta luôn tạo vẻ ngọt ngào thái quá khi nói chuyện với tôi, bạn biết không? Kiểu-nói-Nicole "Ồ, chị yêu, đó phải là đôi hoa tai tuyệt nhất đấy!" có nghĩa là "Tôi muốn nhổ nó ra khỏi tai bà và để lại cái tai máu chảy ròng ròng, mụ chó cái ạ." Một trong những thành viên của trung tâm - một phụ nữ, tất nhiên - thậm chí một lần còn nhận xét sau khi nhìn Nicole khệnh khạng bỏ đi, các bộ phận cơ thể nảy tưng tưng, như sau: "Ngời phụ nữ đó sẽ xé toạc cổ họng chị, đổ xăng lên người chị, đốt cháy chị và vứt chị vào máng xối rồi quay lại và nhảy nhót trên đống tro tàn của chị khi lửa tắt." Thấy chưa? Không phải tôi đặt điều đâu nhé. Bởi vì tôi mở cửa tự do, tôi phải cho phép bất cứ ai muốn tham gia được tham gia, nhìn chung thì nó cũng chẳng sao, mặc dù có lẽ tôi nên phân loại những thành viên tóc tai trước, nhưng có một điều khoản mà tất cả những người tham gia phải chấp nhận là nếu có ba thành viên khác phàn nàn về hành vi, cách cư xử trong phòng thay đồ hoặc một số lần vi phạm nào đó trong một năm thì người bị phàn nàn sẽ không được tham gia tiếp khi hết hạn làm hội viên. * Search: Là một người chuyên nghiệp, tôi sẽ chẳng đá đít Nicole đi chỉ bởi vì cô ta làm tôi bực mình chết đi được. Nó làm tôi khó chịu nhưng tôi vẫn kiềm chế vì tôi phải là người chuyên nghiệp. Tuy nhiên, là Nicole, cô ta thường xuyên gây khó chịu, lăng mạ, sỉ nhục, hay nói chung là gây bực mình với tất cả những người phụ nữ cô ta giao thiệp trong ngày. Cô ta bày bừa trong khu vực thay dồ và để cho người khác dọn dẹp. Cô ta cạnh khoé người khác khi người ta không có phom người chuẩn và chiếm dụng máy tập mặc dù quy định là chỉ được dùng tối đa là ba mươi phút cho một lần tập. Đa phần người ta chỉ than phiền bằng cách chê bai, nhưng cũng có một số phụ nữ đến nói với tôi với đôi mắt toé lửa và nhất quyết đòi ghi vào phiếu phàn nàn. Tạ ơn chúa, Jesus. Số lời than phiền được ghi lại trong hồ sơ của Nicole đã hơn con số ba khi thẻ hội viên của cô ta hết hạn và tôi có thể nói với cô ta - một cách dịu dàng, tất nhiên là vậy - rằng cô không được gia hạn thẻ hội viên nữa và cô ta nên thu dọn sạch sẽ tủ đựng đồ của mình. Kết quả là một tiếng kêu thét có thể làm cả con bò ở nước bên cạnh sợ hãi. Cô ta chửi tôi là chó cái, đĩ điếm, con đàn bà dâm đãng và đó mới chỉ là khởi đầu. Tiếng chửi bởi the thé của cô ta mỗi lúc một to hơn, chỉ đủ lôi kéo được sự chú ý của tất cả mọi người ở Great Bods và tôi nghĩ cô ta sẽ đánh tôi mất nếu cô ta không biết rằng tôi sung sức hơn cô ta và chắc chắn sẽ đánh trả cô ta, mạnh hơn. Cô ta gạt phăng mọi thứ trên bàn - hai chậu cây, đơn xin gia nhập, hai cái bút bi - xuống sàn nhà và bắn một phát đạn cuối cùng trước khi đi khỏi, nói rằng sẽ cho luật sư của cô ta liên hệ với tôi. Tốt thôi. Bất cứ điều gì. Tôi sẽ điều luật sư của tôi kiện cô ta một ngày nào đó. Siana còn trẻ nhưng nó có thể gây chết người, và nó không ngại chơi bẩn. Chúng tôi thừa hưởng điều đó từ mẹ. Những người phụ nữ túm tụm xung quanh xem cơn thịnh nộ của Nicole vỗ tay tán thưởng khi cánh cửa đóng lại sau cô ta. Đàn ông thì chỉ đơn thuần tỏ ra ngơ ngác. Tôi vãi đái vì Nicole không dọn dẹp tủ đựng đồ của cô ta nên tôi sẽ phải cho cô ta quay lại một lần nữa để cô ta lấy tất cả những gì thuộc về cô ta. Tôi nghĩ về chuyện hỏi Siana về việc tôi có thể đòi Nicole sắp xếp cuộc hẹn để dọn hết những thứ trong tủ để đồ của cô ta và yêu cầu có một cảnh sát làm nhân chứng cô ta đã thu hết đồ và ngăn chặn một cơn thịnh nộ khác hay không. Thời gian còn lại trong ngày trôi qua trong sự rực rỡ huy hoàng. Tôi đã thoát khỏi Nicole! Tôi thậm chí chả buồn quan tâm đến việc dọn dẹp cái đống bừa bộn cô ta gây ra bởi vì cô ta đã đi rồi, đi rồi, đi rồi. OK. Đó là những gì về Nicole. Để tôi quay lại với cái đêm tôi ở cửa vào phía sau, vân vân và vân vân. Ánh đèn đường ở góc chiếu sáng khu vực đỗ xe nhưng bóng tối vẫn sâu thẳm. Mưa phùn rơi đều đều làm tôi lẩm nhẩm chửi thề bởi vì con đường chết giẫm sẽ làm bẩn xe tôi và màn đêm bao phủ sương mù. Mưa và sương mù chẳng phải là một sự kết hợp hoàn hảo gì. Tạ ơn Chúa, tôi không làm tóc xoăn nên tôi chả phải phiền lòng vì những sợi tóc xoăn tít trong những trường hợp kiểu thế này. Nếu bạn đã từng có cơ hội trở thành nhân chứng cho một sự kiện vô cùng đáng giá, ít ra bạn cũng muốn trông mình ở tình trạng tốt nhất. Tôi khoá cửa và quay ngang trước khi tôi nhận ra chiếc xe ở góc sau của khu đỗ xe. Nó là một chiếc Mustang màu trắng. Nicole đang chờ tôi, chết tiệt thật. Dây thần kinh báo động của tôi rung lên ngay lập tức, báo động làm tôi mệt mỏi - thì trước đó cô ta đã trở nên hung dữ mà - tôi lùi lại dí lưng vào tường để cô ta không thể tóm lấy tôi từ đằng sau. Tôi nhìn theo tất cả các hướng, cho rằng cô ta sẽ tiến đến phía tôi từ trong bóng tối nhưng không có gì xảy ra hết và tôi lại nhìn chiếc Mustang, tự hỏi liệu có phải cô ta đang ngồi trong đó và chờ tôi không. Cô ta sẽ làm gì, bám theo tôi ư? Hay cô gắng đuổi bắt tôi trên đường? Tiến đến ngang xe tôi và bắn tôi vài phát đạn? Đối với cô ta, tôi không thể nói trước điều gì. Mưa và sương mù khiến khó có thể nói được có ai ngồi trong chiếc Mustang không, nhưng rồi tôi nhận thấy có bóng người ở phía bên kia chiếc xe, và tôi nhìn thấy một mái tóc vàng hoe. Tôi thò vào túi lấy chiếc điện thoại và bật lên. Nếu cô ta bước đến phía tôi một bước, tôi sẽ gọi 911. Rồi cái hình dáng phía bên kia chiếc Mustang bắt đầu động đậy và di chuyển, một cái bóng to hơn và tối hơn tách ra khỏi Nicole. Trời đất. Ôi, quỷ thật, cô ta đưa người đến để đánh tôi. Tôi bấm số 9 và số 1 đầu tiên. Một tiếng nổ xé toạc màn đêm làm tôi nhảy dựng lên và ý nghĩ đầu tiên của tôi là sẽ có ánh sáng loé lên gần đó. Nhưng đó không phải là loại loé sáng hay làm rung chuyển mặt đất. Rồi tôi nhận ra âm thanh đó có lẽ là tiếng súng và tôi có thể là mục tiêu, tôi thét lên vì hoảng loạn khi tôi ngã cả bốn vó xuống sau chiếc xe. Thực tế là tôi đang cố hét nhưng tất cả những gì phát ra chỉ như tiếng của Minnie Mouse khiến tôi sẽ phải xấu hổ nếu tôi không phải đang trong trạng thái sợ gần chết. Nicole không nhờ đến cơ bắp; cô ta nhờ một kẻ giết mướn. Tôi làm rơi điện thoại và trong bóng tối, tôi không thể nhìn thấy nó. Chẳng ích gì nếu tôi cố gắng nhìn ngó xung quanh khi tôi thực sự không thể mất thời gian tìm điện thoại. Tôi bắt đầu khua tay trên nền để cố gắng định vị nó. Ôi, cứt thật, sẽ ra sao nếu kẻ giết mướn kia đến đây để xem hắn đã bắn trúng tôi ngay phát đầu tiên chưa? Ý tôi là, tôi đã ngã xuống đất nên nghĩ rằng tôi bị bắn trúng là hoàn toàn có lý. Tôi có nên ép bẹp dí mình xuống và giả vờ chết không nhỉ? Trườn dưới chiếc xe? Cố gắng quay lại toà nhà và khoá cửa lại? Tôi nghe tiếng động cơ khởi động và nhìn lên khi chiếc xe bốn chỗ từ từ đi lên con đường hẹp và khuất khỏi tầm nhìn dọc theo toà nhà. Tôi nghe nó chậm lại và dừng ở chỗ giao với con đường bốn làn, Parker, ở phía trước rồi hoàn toàn hoà dần vào dòng xe cộ. Đó có phải kẻ giết mướn không nhỉ? Nếu có ai đó khác ở khu đỗ xe, chắc hẳn anh ấy hoặc cô ấy đã nghe thấy tiếng súng và không lái xe đi bình thản như thế. Chỉ có kẻ bắn người mới lái xe bình thản như vậy, đúng không? Bất cứ ai khác cũng sẽ chẳng dám đi khỏi đây, như tôi đang liều lĩnh muốn vậy. Chắc là Nicole đã nghĩ ra lý do đáng xấu hổ để thuê tên giết mướn đó; hắn còn chẳng thèm kiểm tra xem chắc chắn tôi đã chết chưa. Nhưng nếu gã giết mướn có bỏ đi chăng nữa thì Nicole đâu? Tôi chờ đợi và nghe ngóng nhưng chẳng có tiếng bước chân hay âm thanh chiếc Mustang khởi động gì cả. Tôi nằm ép bụng xuống và len lén nhìn qua một trong những bánh xe trước của tôi. Chiếc Mustang trắng vẫn đỗ ở bãi đỗ xe nhưng không hề có dấu hiệu gì của Nicole cả. Cũng không có ai đi ngang qua chạy vào kiểm tra tiếng súng hay xem có ai bị thương hay không. Great Bods nằm ở một quận khá tốt với những cửa hiệu nhỏ và nhà hàng gần đó, nhưng không có nhà dân - các cửa hiệu và nhà hàng cung cấp thực phẩm cho hầu hết các công sở quanh đây vì thế tất cả các nhà hàng đều đóng cửa vào sáu giờ, các cửa hiệu cũng không mở cửa sau đó. Nếu có ai đó rời khỏi Great Bods muộn hơn và muốn ăn sandwich thì nơi gần nhất cũng cách khoảng năm toà nhà. Cho đến bây giờ, tôi chưa từng nhận ra khu vực đỗ xe của nhân viên đơn độc thế nào vào giờ đóng cửa. Không ai khác nghe thấy tiếng súng. Chỉ mình tôi. Tôi có hai lựa chọn. Chìa khoá xe tôi ở trong ví. Tôi có hai chùm chìa khoá bởi vì số chìa khoá tôi cần cho nhà thể dục này làm chùm chìa khoá quá cồng kềnh khi tôi đi làm mấy việc lặt vặt hoặc mua sắm. Tôi có thể lấy chìa khoá xe không chậm trễ, mở khoá xe bằng điều khiển từ xa và nhảy vào trước khi Nicole có thể nhìn thấy tôi - trừ vì cô ta đứng ngay ở bên kia xe của tôi. Tôi không biết được cô ta nghĩ gì, nhưng điều gì cũng có thể. Nhưng chiếc xe, đặc biệt là chiếc mui trần, không đủ để giữ khoảng cách với con mèo bắt chước bị thần kinh ấy. Sẽ ra sao nếu cô ta có một khẩu súng? Tấm mui mềm không ngăn được đạn. Lựa chọn khác là moi chùm chìa khoá to của nhà thể dục ra khỏi túi, cảm nhận tìm chiếc chìa khoá cửa, mở khoá rồi chui vào trong. Việc này mất thời gian hơn nhưng tôi sẽ an toàn hơn nhiều đằng sau cánh cửa đã khoá. Ừm, tôi nghĩ tôi còn lựa chọn thứ ba, tôi sẽ tìm kiếm Nicole và cố gắng nhảy bổ vào cô ta, tôi có thể nếu tôi biết chắc chắn cô ta không có súng. Mặc dù vậy, tôi không biết chắc, nên chẳng có cách nào chơi trò anh hùng cả. Tôi có mái tóc vàng hoe nhưng tôi không ngu. Ngoài ra, đánh nhau cũng làm gẫy ít nhất hai cái móng tay của tôi. Nhất định thế. Vì thế tôi khua khoắng túi cho đến khi thấy những chiếc chìa khoá của mình. Chùm chìa khoá có cái gì đó ở giữa giữ mấy cái chìa không bị trượt lung tung để chúng luôn luôn theo đúng thứ tự. Chìa khoá cửa là cái đầu tiên bên trái. Tôi tách nó ra, rồi, ngồi thấp người, bước đi như vịt ngược trở lại cửa. Chuyển động kiểu đó trông thực sự khủng khiếp nhưng đó là cách luyện tập rất tuyệt cho đùi và mông. Không có ai nhảy xổ vào tôi. Không có âm thành nào ngoại trừ âm thanh xe cộ xa xa trên đường Parker, và không hiểu vì sao chuyện này còn đáng sợ hơn cả việc nếu như cô ta gào thét nhảy qua nóc chiếc xe của tôi và lao vào tôi. Không phải là tôi nghĩ Nicole có thể nhảy xa như thế, trừ phi là kỹ năng thể dục của cô ta rất, rất khá, khá hơn cô ta đã thể hiện, và tôi thì biết thừa là không được như thế, cô ta chỉ là mẫu người khoa trương thôi. Cô ta còn chẳng thể thực hiện được một cú split, và nếu cô ta có thử làm một cú backflip thì chắc sức nặng của ngực cô ta sẽ làm cô ta ngã đập mặt. Chúa ơi, tôi ước giá như cô ta thử làm cú backflip một lần. Tay tôi chỉ còn run một chút - ừm, hơn một chút một tẹo thôi - nhưng tôi vẫn có thể mở khoá cửa ngay lần mở đầu tiên. Thực tế là tôi đã bắn qua khe cửa và thực sự, tôi ước giá mà tôi cho mình có thêm một hay hai inch trống nữa vì tôi đã làm tím tay mình khi va vào rầm cửa. Nhưng rồi tôi cũng đã ở bên trong và tôi đóng sầm cửa lại, cài then, rồi lui lại đề phòng cô ta bắn qua cửa. Tôi luôn để hai ngọn đèn công suất thấp sáng vào ban đêm nhưng chúng đều ở phía trước. Công tắc đèn ở hành lang sau ở ngay cạnh cửa, tất nhiên là vậy, và không đời nào tôi đi đến quá gần cửa. Bởi vì tôi không thể nhìn thấy tôi đi đâu nên tôi tiếp tục lần mò dọc theo hành lang - rồi đến phòng nghỉ và cuối cùng đến cánh cửa thứ ba, đó là văn phòng tôi. Tôi cảm thấy như cầu thủ bóng chày chạy về đến đĩa nhà. An toàn! Bây giờ giữa tôi và ả chó cái là những bức tường và cánh cửa đã khoá, tôi đứng dậy và bật đèn trần rồi nhặt điện thoại lên, giận dữ bấm số 911. Nếu cô ta nghĩ rằng tôi không khiến cô ta bị bắt vì điều này, cô ta đã hoàn toàn đánh giá thấp mức độ giận dữ của tôi rồi. ... Mời các bạn đón đọc Hẹn Hò Theo Kiểu của Em của tác giả Linda Howard.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sự Nổi Loạn Dịu Dàng
Bạn nào đã theo dõi tập thứ hai trong Series Malory này từ bên phòng đọc trực tuyến thì hẳn đã biết nội dung câu chuyện về Anthony Malory và Roslynn Chadwick này rồi, còn bạn nào chưa thì mình hi vọng các bạn sẽ thích. Anthony là nhân vật nam mình yêu quý nhất trong series này. Vì là lần đầu làm ebook nên mình còn nhiều thiếu sót, mong các bạn thông cảm.Dưới đây mình xin bổ sung thêm một đoạn review của truyện. Nữ thừa kế người Scot Roslynn Chadwick cần tới sự bảo đảm của hôn nhân để bảo vệ nàng khỏi người anh họ vô liêm sỉ. Khi nàng gặp Anthony Malory, một quý tộc người Anh với sức hấp dẫn không thể cưỡng lại cùng đôi mắt xanh biển đầy nhục cảm nói lên sự vui sướng vô hạn. Làm sao nàng lại dám nghĩ tới chuyện yêu một người đàn ông như thế, khi bản thân nàng tin tưởng rằng những hứa hẹn đam mê của anh sẽ chỉ dẫn nàng tới vương quốc của những điều không hê bền vững….và tới cả những đáy sâu không bao giờ có thực của tình yêu. Tác phẩm thứ hai của Johanna Lindsey trong Malory Series, những câu chuyện tình yêu lãng mạn về những thành viên của một gia tộc đầy gắn bó. “ Những câu chuyện của bà là minh chứng cho sự vĩnh cửu của tình yêu. Lindsey đã thổi vào từng trang câu chuyện nguồn nhục cảm không bao giờ khô cạn. Người đọc gần như có thể ngửi thấy mùi hương của những đóa hoa, cảm nhận được làn gió, và chạm vào cả người anh hùng của mình.” _Romantic Times_ *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), Ngôi Sao Lạc Loài Chỉ Một Lần Yêu - Johanna Lindsey Nơi Em Thuộc Về - Johanna Lindsey Trái Tim Hoang Dã Chỉ Một Tình Yêu Ngọn Lửa Mùa Đông Trái Tim Đam Mê Đầu Hàng Tình Yêu Của Tôi Đánh Cắp Khát Khao Em Không Lựa Chọn Nhưng Quyến Rũ Tia Sét Hoang Ai Đó Hoàn Hảo The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Anh quốc, năm 1818 - “Mình đang sợ sao, ngốc thật?” Roslynn Chadwick quay khỏi cửa sổ chiếc xe ngựa và thôi nhìn những cảnh vật lướt qua trong một giờ vừa rồi, mà nàng thực sự cũng không để tâm nhìn chúng. Sợ hãi ư? Giờ thì nàng chỉ còn một mình cô đơn trên đời, không gia đình, cũng không ai che chở đáng để nhắc tới. Lo sợ? Nàng đã cảm thấy lo sợ. Nhưng Nettie MacDonald đã không biết được điều đó, không nếu nàng có thể che dấu nỗi sợ ấy. Bản thân Nettie đã quá lo lắng rồi, kể từ khi họ băng qua biên giới nước Anh sáng ngày hôm qua, mặc dù bà đã cố gắng che dấu bằng cách càu nhàu suốt, theo cách của bà. Nettie trước đây rất vui vẻ và hoạt bát, kể cả khi họ đi ngang qua Lowlands (vùng đất thấp của người Scot), nơi mà bà rất khinh bỉ. Bà là một người vùng Highlands trong cả 42 năm cuộc đời, Nettie chưa bao giờ nghĩ tới cái ngày mà bà phải rời bỏ vùng đất cao nguyên bà yêu quý một mình tới nước Anh. Anh Quốc! Nhưng Nettie sẽ không bị bỏ lại đằng sau, không phải Nettie yêu quý của nàng. Roslynn mỉm cười cho lợi ích của Nettie, và thậm chí còn hấp háy đôi mắt nâu lục nhạt của nàng để đoan chắc với bà: - Ôi, sao mà cháu phải sợ chứ nhỉ, Nettie? Không phải chúng ta đã xoay sở trốn được khỏi đó vào lúc nửa đêm mà không có cách nào khôn ngoan hơn sao? Geordie nhất định sẽ mất hàng tuần để tìm kiếm ở Aberdeen hay Edinburg và không bao giờ có thể đoán ra là chúng ta bỏ trốn tới London. - Đúng là hắn ta sẽ làm vậy. Nettie mỉm một nụ cười thỏa mãn cho thành công của họ, phút chốc quên mất nỗi sợ hãi và căm ghét người Anh của mình. Nỗi căm ghét của bà đối với Geordie Cameron đã trở nên quá sâu sắc. - Và cô hi vọng tên khốn đó sẽ nghẹt thở vì cái tính hằn học của mình khi hắn nhận ra là cháu đã thoát khỏi cái kế hoạch ngu ngốc của hắn, đúng là cô mong thế. Cô đã không thích Duncan, chúa phù hộ cho ông ta, bắt cháu hứa điều mà cháu ghét, nhưng ông ta biết điều gì là tốt cho cháu. Và cũng đừng nghĩ rằng cô là một người phiền toái, cô không nghe nổi khi cháu quên thứ tiếng Anh chuẩn của cháu, con gái, cũng do Duncan đã đưa tới một ông thầy hợm hĩnh để dạy cho cháu. Cháu sẽ không quên, đặc biệt là giờ chúng ta đang ở giữa những tên họ hàng quỷ quyệt. Roslynn cười toe toét khi câu nói cuối cùng của Nettie được nói ra với hàm ý trách móc nhất, và không thể nhịn được việc trêu chọc bà thêm chút nữa : - Việc cháu gặp được một người Anh nhất định sẽ khiến cháu sớm nhớ ra thứ tiếng Anh chuẩn của mình. Giờ thì cô sẽ không từ chối cho tôi một chút thời gian còn lại khi cháu không cần phải nghĩ về tất cả những gì cháu nói, đúng không ? - Được rồi, nhưng chỉ khi cháu biết là cháu không quên chút nào thôi, và cháu cũng biết cô không quên rồi. Dĩ nhiên là Nettie biết. Đôi lúc Nettie còn hiểu rõ Roslynn hơn cả bản thân nàng. Và khi Roslynn không giận dữ, mỗi khi giận dữ nàng thường quên mất bản thân mình và dùng lại chất giọng địa phương của người Scot mà nàng đã học từ Nettie và ông ngoại, nàng vẫn có lý do để buồn phiền. Nhưng vẫn không khiến nàng quên được thứ tiếng Anh chuẩn đã ăn sâu vào nàng bởi gia sư của nàng. Roslynn thở dài : - Cháu hi vọng va li của chúng ta đã tới đó, nếu không thì chúng ta sẽ ở vào hoàn cảnh đáng buồn.   Họ đã rời đi chỉ với một bộ quần áo để thay đổi, để dễ đánh lừa anh họ của nàng Geordie, đề phòng trường hợp ai đó nhìn thấy họ rời đi và báo với anh họ nàng. - Đó là điều cuối cùng cháu nên lo, con gái ạ. Chắc chắn là thế và điều đó cũng đã tiết kiệm thời gian khi mời mấy bà thợ may váy áo tới lâu đài Cameron để may tất cả những cái váy dễ thương đó cho cháu, mấy thứ mà cháu chẳng thể mặc vừa khi chúng ta tới đó. Duncan, chúa phù hộ ông ta lần nữa, đã suy tính mọi thứ, kể cả việc gửi tới trước những cái va li, từng thứ một, những thứ mà Geordie không nghi ngờ gì nếu có nhìn thấy. Và Nettie từng nghĩ nó giống như một trò đùa khi chạy trốn vào lúc giữa đêm như họ đã làm, với những chiếc váy được kéo lên và quần ống túm ở bên dưới để dưới ánh trăng trông họ như những người đàn ông nếu nhìn thoáng qua. Thành thực là Roslynn cũng đã từng nghĩ giống vậy. Thực tế đó là phần duy nhất trong cuộc chạy trốn điên khùng này làm nàng hứng thú. Họ đã cưỡi ngựa tới thị trấn gần nhất nơi đã có xe ngựa và người đánh xe chờ sẵn, rồi đợi một vài giờ để chắc chắn họ không bị đuổi theo trước khi thực sự bắt đầu cuộc hành trình. Nhưng tất cả mọi sự lén lút và phiền phức đó đều cần thiết để thoát khỏi Geordie Cameron. Ít nhất thì ông nàng cũng đã khiến Roslynn tin rằng điều đó là cần thiết. Và Roslynn tin điều này sau khi nhìn thấy gương mặt của Geordie khi di chúc của ông được đọc. Sau tất cả, Geordie là cháu trai lớn nhất của Duncan Cameron, cháu trai của người em trai út của ông, cũng là người họ hàng nam duy nhất của ông còn sống. Geordie có mọi quyền lợi để thừa kế một vài thứ trong số của cải khổng lồ của Duncan để lại cho hắn, cho dù chỉ là một phần nhỏ. Nhưng Duncan để lại tất cả mọi thứ cho Roslynn, người cháu duy nhất : lâu đài Cameron, tiền bạc, những công việc kinh doanh nhiều vô kể, mọi thứ. Và Geordie đã rất cố gắng để kiềm chế một cơn giận khủng khiếp. - Chắc hẳn là hắn ta đã rất bất ngờ - Nettie nói sau cái ngày Geordie rời đi khi bản di chúc được công bố - Hắn biết là Duncan ghét hắn, ông đổ lỗi cho hắn vì cái chết người mẹ yêu dấu của cháu. Đó là lý do tại sao hắn lại ve vãn cháu một cách sốt sắng như vậy trong những năm qua. Hắn đã biết Duncan sẽ để lại mọi thứ cho cháu. Và đó cũng là lý do tại sao chúng ta không còn thời gian nữa, giờ khi Duncan đã mất. Đúng vậy, không còn thời gian nữa. Roslynn đã hiểu điều này khi Geordie hơn một lần hỏi cưới nàng sau khi bản di chúc được công bố, và nàng một lần nữa từ chối. Nàng và Nettie đã rời khỏi ngay đêm đó, không có thời gian để thương tiếc, không có thời gian để hối hận với lời hứa nàng đã hứa với ông mình. Nhưng nàng đã thực sự đau buồn trong hai tháng cuối, khi mà họ đã biết thời gian của Duncan sắp hết. Và thực sự cái chết của ông như là một sự giải thoát, bởi vì trong suốt bảy năm cuối cuộc đời ông đã phải chịu đựng những cơn đau, và chỉ bởi tính ngoan cố của người Scot đã khiến ông còn sống lâu như vậy. Không, nàng không nên buồn bởi những cơn đau của ông đã kết thúc. Nhưng ôi, nàng nhớ làm sao người ông già nua đã là cha và cả mẹ nàng trong suốt những năm qua ! - Cháu không cần khóc thương ta, cháu yêu - ông đã nói với nàng nhiều tuần trước khi ông mất - ta cấm điều đó. Cháu đã ở bên ta quá nhiều năm, quá nhiều thời gian lãng phí, và ta không muốn cháu lãng phí thêm dù chỉ một ngày sau khi ta chết. Cháu hãy hứa với ta như vậy nhé. Thêm một lời hứa nữa với người ông già nua yêu quý của nàng, người ông đã nuôi dưỡng nàng, yêu thương nàng kể từ khi con gái của ông trở về với ông mang theo Roslynn mới 6 tuổi. Liệu thêm một lời hứa nữa có hề gì sau khi nàng đã cho ông lời hứa định mệnh khiến cho giờ đây nàng ở trong tình thế đầy bối rối như thế này. Và dù thế nào sau đó cũng vẫn không có thời gian để mà khóc thương, cho nên ít nhất nàng cũng đã hoàn thành lời hứa đó. Nettie cau có khi thấy Roslynn hướng mắt nhìn lại cửa sổ lần nữa và biết rằng nàng lại đang nghĩ về Duncan Cameron. « Gramp-ông ngoại» nàng đã gọi ông một cách bất kính như vậy kể từ cái ngày mẹ nàng lần đầu tiên mang nàng tới lâu đài Cameron sống chỉ để chọc tức ông. Đứa trẻ tinh nghịch ấy đã yêu thích việc chọc giận người ông Scot già và khó chịu, và làm thế nào mà ông lại thấy vui với mỗi trò nghịch ngợm và chọc phá mà cô bé dành cho ông. Cả hai người đều nhớ tới ông, nhưng giờ có quá nhiều thứ khác cần phải suy nghĩ tới. - Cuối cùng chúng ta cũng tới quán trọ. Nettie nhìn ra từ chỗ ngồi đối diện với phía trước xe ngựa. Roslynn nghiêng người về phía cửa sổ để nhìn về cùng một hướng, và ánh nắng như đang dát vàng trên khuôn mặt nàng, chạm vào mái tóc nàng khiến nó cũng ánh rực lên như nắng. Nàng có mái tóc đẹp, màu vàng ánh đỏ như mẹ nàng - Janet. Mái tóc của Nettie thì đen như than đá, và mắt bà màu xanh mờ như bóng những cây sồi cao lớn che phủ mặt hồ. Roslynn cũng có được đôi mắt giống mẹ, màu xanh lục pha xám khó tả bởi có thêm những ánh vàng sáng lấp lánh thu hút sự chú ý. Thêm vào đó, mọi thứ của nàng giống nhiều với Janet Cameron trước khi bà bỏ đi cùng với một người đàn ông Anh. Thực tế thì Roslynn không có điểm gì giống với cha, người đàn ông đã đánh cắp trái tim của mẹ nàng - Janet và để lại bà cùng với nỗi đau vô hạn khi ông chết sau một tai nạn bi thảm. Janet cũng như vậy, chết chỉ một năm sau đó. Và Roslynn, nhờ ơn Chúa, vẫn còn lại người ông để nương tựa. Một cô bé mới bảy tuổi, mà cả bố mẹ đếu đã qua đời, may mắn là đã có thể thích nghi, đặc biệt là với một người ông Scot luôn yêu quý và chiều theo mọi ý thích bất chợt của cô. Ôi, mình cũng tệ như cô bé, Nettie nghĩ thầm, khi nghĩ về cái chết khi mà giờ đây tương lai mới là thứ cần phân vân. - Cháu hi vọng là những chiếc giường tối nay ít ra cũng êm hơn tối qua- Roslynn nhận xét khi xe ngựa dừng lại trước quán trọ kiểu thôn quê- Đó là điều duy nhất khiến cháu thấy hăng hái khi tới London. Cháu biết Frances sẽ có những chiếc giường thoải mái chờ chúng ta. - Cháu muốn nói là cháu không thấy vui chút nào khi gặp lại người bạn thân sau ngần ấy năm ư ? - Dĩ nhiên là có chứ ạ, cháu không thể chờ đợi để được gặp lại cô ấy- Roslynn liếc Nettie với sự ngạc nhiên - nhưng hoàn cảnh này sẽ không cho phép một cuộc sum họp vui vẻ, phải không ? Cháu muốn nói là, vì không còn thời gian để mất, nên thực sự cháu có thể gặp Frances trong bao lâu ? Ôi, Geordie chết tiệt – nàng thêm vào với cái quắc mắt khiến cho đôi mày màu hung sáng của nàng nhích lại gần nhau - Nếu không phải vì hắn ta… - Cháu đáng lẽ không nên hứa hẹn gì cả, giờ thì chúng ta đã ở đây, và chẳng tốt tý nào khi than phiền về chuyện đó nưã, đúng không ?- Nettie bắt bẻ nàng.   Mời các bạn mượn đọc sách Sự Nổi Loạn Dịu Dàng của tác giả Johanna Lindsey.
Ảnh Phổ Diện
Vua John ra sắc lệnh Công nương Gabrielle xứ St. Biels phải rời khỏi quê hương Anh quốc của cô để kết hôn với một lãnh chúa Cao nguyên. Cô biết mình phải tuân lệnh và gói ghém đồ đạc đến Scotland cùng với đội cận vệ. Trên đường tới tu viện nơi dự định tiến hành lễ cưới, họ bắt gặp một nhóm người đang muốn chôn sống một kẻ khác. Cô đã giải cứu kẻ gần chết đó và bí mật mang anh ta đến tu viện.  Vì cô đến đó chờ để làm lễ kết hôn, hai nam tước đồi bại người Anh đang tranh giành để có được cô cũng đến tu viện. Nhưng vị lãnh chúa mà cô buộc phải cưới thì không. Ông ta bị sát hại trước khi tới nơi. Giờ hai nam tước đang tranh cãi xem ai là người thay mặt cho đức vua để quyết định tương lai của Gabrielle.  Lãnh chúa Colm MacHugh đến tu viện để đón em trai mình, người đã gần như bị chôn sống. Anh không khám phá ra người nào đã cứu em trai mình nên quyết định đưa vị linh mục đã giúp Liam hồi phục lại về vùng đất của anh để xem xem liệu anh có tìm hiểu được thêm gì nữa. Khi mệnh lệnh của hai nam tước người Anh đặt ra cho Gabrielle dẫn đến kết quả không mong đợi, anh liền giải cứu cho cô và đưa cô về với anh. Để đáp trả món nợ cũ, anh chấp thuận kết hôn với cô và trở thành người bảo hộ cho cô.  Ảnh Phổ Diện (Shadow Music) là cuốn tiểu thuyết lãng mạn, vì thế người đọc đều biết cuối cùng thì Colm và Gabrielle sẽ yêu thương nhau và cùng chống lại những thế lực đen tối vây quanh. Các nam tước dồn hết sức lực, đặc biệt là một kẻ trong số họ muốn “kho vàng ẩn” của St. Biel. Có cả những xung đột thị tộc tại Scotland – điều luôn luôn xuất hiện trong loại tiểu thuyết lãng mạn này.  Công nương Gabrielle có một cá tính mạnh mẽ. Cô không thắc mắc gì khi tuân lệnh nhà vua. Mặc dù vậy, cô sẽ sống cuộc sống của cô khi thấy phù hợp theo những hạn chế về mặt văn hóa và tín ngưỡng của thời bấy giờ. Colm nhanh chóng học được cách giải mã một số những từ ngữ của cô để biết cô sẽ làm điều mà cô thích. Colm là một vị lãnh chúa mạnh mẽ, điển hình và cũng là một chú rể bất đắc dĩ. Anh học được rằng cuộc hôn nhân này không phải là sự trói buộc như anh tưởng. *** Wellingshire, nước Anh. Công nương Gabrielle chỉ mới có 6 tuổi khi bị triệu đến bên giường người mẹ đang hấp hối. Hộ tống là người cận vệ trung thành, đằng sau là hai người lính hai bên, bước chân họ chậm rãi để cô bắt kịp khi họ trang trọng diễu qua hàng lang dài. m thanh duy nhất chỉ là tiếng những đôi ủng dập xuống nền nhà bằng đá lạnh buốt. Gabrielle đã được gọi đến giường mẹ nhiều lần đến nỗi cô bé không tài nào đếm nổi. Chân bước và mái đầu cúi xuống, ánh nhìn dán chặt vào viên đá sáng bóng mà cô vừa tìm được. Mẹ sẽ rất thích nó. Đó là một viên đá đen tuyền với một đường sọc màu trắng mảnh mai lượn vòng quanh. Một bên mặt trơn nhẵn như bàn tay mẹ lúc vuốt ve khuôn mặt Gabrielle. Mặt bên xù xì như những cái chạm của cha cô. Hàng ngày lúc hoàng hôn buông xuống, Gabrielle mang đến cho mẹ một món quà quý giá khác nhau. Hai ngày trước cô bé bắt được một con bướm. Đôi cánh của nó thật xinh đẹp, vàng óng xen lẫn những mảng màu tím biếc. Mẹ tuyên bố đó chính là chú bướm xinh đẹp nhất mà bà từng thấy trên đời. Bà khen ngợi Gabrielle vì đã biết nâng niu một tạo vật của Chúa lúc bà tiến về phía cửa sổ và thả cho nó bay đi. Ngày hôm qua Gabrielle hái những bông hoa ở ngọn đồi phía ngoài lâu đài. Hương cây thạch nam và mật ong vất vít quanh cô bé, và cô bé nghĩ mùi hương này thậm chí còn dễ chịu hơn cả mùi dầu thơm và nước hoa đặc biệt của mẹ cô. Gabrielle buộc một dải lụa xinh xắn quanh phần cuống bó hoa và cố gắng tạo thành một chiếc nơ đẹp, nhưng cô bé không biết cách và cuối cùng làm rối tung nó lên. Cô bé đã dỡ nó ra trước khi mang cả bó hoa đến cho mẹ mình. Những hòn đá là những món quà quý ưa thích của Mẹ. Mẹ giữ một hộp đầy những viên đá mà Gabrielle thu nhặt cho bà và đặt nó trên bàn ngay cạnh giường, chắc Mẹ sẽ thích viên này nhất cho mà xem. Gabriella không hề tỏ ra lo lắng về cuộc gặp gỡ ngày hôm nay. Mẹ đã hứa sẽ không đi tới thiên đường sớm, và mẹ chưa bao giờ thất hứa với cô. Những vệt nắng trải dài trên những bức tường và sàn nhà lát đá lạnh buốt. Nếu như Gabrielle không bận rộn với viên đá của mình, cô bé sẽ thích được đuổi bắt theo bóng nắng và cố gắng giành lấy một vệt cho mình. Hành lang dài là một trong số những chốn đùa nghịch ưa thích của cô bé. Cô bé thích co chân nhảy lò cò từ viên nọ sang viên kia trên mặt đá lát sàn, và quay lại xem xem khoảng cách xa đến bao nhiêu trước khi ngã phịch xuống. Thi thoảng cô bé nhắm chặt mắt, hai cánh tay giang rộng, và xoay tròn xoay tròn cho đến tận lúc loạng choạng ngã nhào xuống nền nhà, mặt mũi tối tăm đến nỗi những bức tường đá dường như bay lượn ngay trên đầu. Nhưng thích nhất là được chạy dọc hành lang, đặc biệt khi cha có ở nhà. Ông là người đàn ông to lớn, trang nghiêm , cao hơn bất kì chiếc cột chống nào trong nhà thờ. Cha cô sẽ gọi cô đến và chờ cô sà vào lòng ông. Rồi ông sẽ nhấc bổng cô lên trong vòng tay mình và nâng cô đến ngang đầu. Nếu đang ở khu sân trong, cô với hai bàn tay lên trời, cảm giác chạm vào được cả một đám mây. Cha lúc nào cũng vờ thả lỏng tay mình để cô tưởng ông sẽ làm cô rơi xuống. Cô biết ông sẽ không bao giờ làm thế, nhưng cô vẫn kêu thét lên thích thú. Cô bé quàng tay quanh cổ cha và bám thật chặt khi ông sải bước đến phòng mẹ. Khi tâm trạng cha đặt biệt vui vẻ, ông sẽ cất tiếng hát. Cha có một giọng hát dễ sợ, thỉnh thoảng Gabrielle cười rúc rích và bịt chặt lấy hai tai tỏ vẻ khiếp đảm cực kì, nhưng cô chưa bao giờ thực sự cười phá lên. Cô không muốn tổn thương đến những tình cảm dịu dàng của cha mình. Hôm nay cha vắng nhà. Ông rời Wellingshire để đến thăm chú Morgan ở phía bắc nước Anh, và vài ngày tới cũng sẽ chưa về. Gabrielle không hề lo lắng. Nếu không có cha ở nhà, bà sẽ không chết. Stephen, chỉ huy của đội cận vệ, mở cánh cửa phòng mẹ cô và vỗ về Gabrielle bước vào phòng bằng một cú thúc nhẹ qua vai. “Nào, Công nương,” anh hối thúc. Cô quay lại với một cái cau mày bất bình. “Cha nói anh phải gọi mẹ em là Công nương Geneieve, và gọi cháu là Lady Gabrielle chứ.” “Ở nước Anh, em sẽ là Lady Gabrielle.” Anh đập nhẹ vào chỏm lông trang trí trên chiếc áo dài của mình. “Nhưng ở St. Biel, em chính là công nương của chúng ta. Giờ thì đi đi nào, mẹ em đang đợi.” Nhìn thấy Gabrielle, mẹ cô lên tiếng gọi. Giọng nói phát ra yếu ớt, còn mặt bà trông trắng bệch. Từ lúc cô bé nhớ được tới bây giờ , mẹ đã nằm trên giường rồi. Hai chân mẹ đã quên mất bước đi, bà giải thích với Gabrielle như thế, nhưng cô bé vẫn hy vọng, cầu nguyện rằng một ngày nào đó chúng sẽ nhớ ra. Nếu như điều nhiệm màu ấy xảy đến, mẹ hứa với Gabrielle rằng mẹ sẽ đứng chân trần trên nền nhà sạch sẽ để đếm gạch cùng với cô bé. Và mẹ cũng sẽ khiêu vũ cùng với Cha. Phòng ngủ chật ních toàn những người là người. Họ nhích thành một lối nhỏ giành cho cô. Vị mục sư, Cha Gartner, đang lẩm bẩm lời cầu nguyện của ông qua tiếng thì thầm gần hốc tường, và thầy thuốc, người lúc nào mặt mày cũng cau có và thích chọc lấy máu mẹ bằng những con đỉa nhày nhụa, đen sì, cũng có mặt. Gabrielle thầm biết ơn vì ông ta đã không đặt những con vật đó vào cánh tay mẹ ngày hôm nay. Các tớ gái, người hầu và quản gia lảng vảng bên cạnh giường. Mẹ đặt khung thêu và chiếc kim của bà xuống, xua tay cho người hầu tránh sang một bên, và ra hiệu cho Gabrielle. “Lại đây ngồi cạnh mẹ nào,” bà ra lệnh. Gabrielle bước tới, trèo lên bục, và chìa hòn đá ra cho mẹ. “Chà, đẹp quá,” mẹ thì thầm khi cầm lấy viên đá và cẩn thận quan sát nó. “Đây hẳn là viên đá đẹp nhất,”, mẹ thêm vào với một cái gật đầu. “Mẹ, lần nào con mang tới cho mẹ một viên đá mẹ đều nói thế. Lúc nào cũng là viên đẹp nhất.” Mẹ cô chạm nhẹ vào cô bé. Gabrielle dịch tới gần hơn. “Mẹ không thể chết hôm nay được. Nhớ không? Mẹ hứa rồi.” “Mẹ nhớ mà.” “Cha sẽ rất giận dữ, vì mẹ không khỏe lên.” “Lean closer, Gabrielle,” her mother said. “I have need to whisper.” “Xích vào với mẹ, Gabrielle,” mẹ cô bé đáp. “Mẹ nói thầm thôi.” Một tia sáng lóe lên trong mắt báo cho Gabrielle biết mẹ lại đang bắt đầu trò chơi của mình. “Một bí mật ạ? Mẹ sẽ nói cho con biết?” Đám đông tiến lại gần. Ai cũng hăm hở giỏng tai nghe lời bà sắp nói. Gabrielle nhìn quanh phòng. “Mẹ, tại sao mọi người đều ở đây hết vậy?” Mẹ hôn lên má cô bé. “Họ nghĩ mẹ biết nơi cất giấu kho báu, và hi vọng mẹ sẽ nói cho con nghe.” Gabriella cười rúc rích. Cô bé rất thích trò chơi này. “Mẹ sẽ nói cho con chứ?” “Không phải hôm nay,” mẹ trả lời. “KHông phải hôm nay,” Gabrielle lặp lại để cho đám người tò mò đang vây xung quanh có thể nghe thấy. Mẹ cô bé gắng gượng ngồi dậy. Một người hầu nhanh chóng tiến lại đặt thêm gối vào sau lưng bà. Ngay tức khắc thầy thuốc loan báo rằng sắc mặt bà đã khá hơn. “Ta cả thấy khỏe hơn nhiều rồi,” bà lên tiếng. “Giờ hãy rời đi,” bà ra lệnh, giọng nói nhấn mạnh từng lời. “Ta muốn có phút giây riêng tư với con gái mình.” Vị thầy thuốc nhìn như thể ông muốn cự lại, nhưng vẫn im lặng giải tán đám đông ra khỏi phòng ngủ. Ông ra hiệu cho hai người hầu gái ở lại bên trong. Những người khác đứng túm tụm bên ngoài để chờ lệnh của bà chủ. “Có phải hôm nay mẹ khỏe hơn nhiều nên mới kể chuyện được cho con phải không?” Gabrielle hỏi. “Phải,” bà đáp. “Con muốn nghe chuyện gì nào?” “Câu chuyện về nàng công chúa,” Cô bé hăm hở lên tiếng. Mẹ cô bé không hề ngạc nhiên. Lúc nào Gabrielle cũng đòi bà kể đúng một câu chuyện. “NGày xửa ngày xưa có một nàng công chúa sống ở vùng đất xa thật xa tên gọi là St. Biel,” mẹ cô bắt đầu. “Chỗ ở của nàng là một lâu đài màu trắng thật lộng lẫy nằm tên đỉnh một ngọn núi cao. Nhà vua trị vì nơi ấy là chú của nàng. Ngài đối với công chúa rất ân cần và nàng vô cùng hạnh phúc.” Khi mẹ cô bé dừng lại, Gabrielle nôn nóng tiếp lời. “Mẹ là nàng công chúa đó.” “Gabrielle, đúng như thế, con biết mà. Và đó là câu chuyện của cha và mẹ.” “Con biết, nhưng con vẫn muốn nghe mẹ kể chuyện cơ.” Mẹ cô bé tiếp tục. “Khi nàng công chúa đến tuổi trưởng thành, một giao kèo được lập với Nam tước Geoffrey vùng Wellingshire. Công chúa buộc phải cưới vị nam tước và sống với anh ta tại nước Anh.’ Vì bà biết rằng con gái mình thích nghe đoạn kể về lễ cưới, những bộ váy áo xúng xính, âm nhạc, thế là bà đi vào chi tiết. Cô con gái bé nhỏ vỗ hai tay vào nhau đầy hào hứng khi nghe đến bữa tiệc cưới long trọng, đặc biệt là lời miêu tả những chiếc bánh tạc nhân hoa quả cùng với những chiếc bánh ngọt nhân mật ong. Đến cuối câu chuyện, lời kể của người mẹ trở nên chậm chạp và nặng nề. Bà kiệt sức. Cô con gái bé nhỏ nhận thấy điều đó và , theo thói quen, cô lại bắt mẹ cô hứa sẽ không được chết hôm nay. “Mẹ hứa. Giờ đến lượt con kể cho mẹ nghe câu chuyện mẹ đã dạy cho con đi nào.” “Đúng y như mẹ dạy, phải không Mẹ? Và cũng y như mẹ của mẹ dạy mẹ phải không?” Bà mỉm cười. “Từng từ một. Và con sẽ nhớ và lại kể cho con gái con một ngày nào đó để chúng biết về dòng dõi của chúng và vùng đất St. Biel.” Gabrielle trở nên trịnh trọng, hai mắt cô bé nhắm lại đầy tập trung. Cô bé biết mình không được bỏ sót một từ nào trong toàn bộ câu chuyện. Đây là di sản của cô, và mẹ cô chắc chắn rằng một ngày nào đó cô sẽ hiểu ý nghĩa của câu chuyện này. Cô bé đặt hai tay lên lòng mình và rồi mở bừng mắt. Nhìn vào nụ cười khích lệ của mẹ, cô bé bắt đầu. “Này xửa ngày xưa vào một năm nhiều bão lớn ập vào từ ngoài biển khơi…” Mời các bạn mượn đọc sách Ảnh Phổ Diện của tác giả Julie Garwood.
Nguồn Gốc Dịch Bệnh: Động Vật, Con Người Và Đại Dịch Toàn Cầu Tiếp Theo
Xuất bản năm 2012, cuốn sách Nguồn gốc dịch bệnh của tác giả David Quammen đến nay vẫn hấp dẫn với những dự cảm và khai phá thú vị được các nhà khoa học ghi chép lại. Theo dõi TGVN trên Nguồn gốc dịch bệnh: Động vật, con người và đại dịch toàn cầu tiếp theo là một kiệt tác thu hút giới truyền thông của tác giả David Quammen, mang đến góc nhìn khoa học về các mầm gây bệnh trên động vật và đôi khi lây truyền cho chính con người. 'Nguồn gốc dịch bệnh': Cuốn tiểu thuyết trinh thám đặc biệt về khoa học Tác phẩm nằm trong Top 10 sách khoa học năm của Booklist, Top 11 cuốn sách của Daily Beast và được New York Times Book Review bình chọn là Cuốn sách đáng chú ý vào năm 2012. (Nguồn: Medinsights) Gương mặt của những kẻ sát nhân khác biệt: Với Nguồn gốc dịch bệnh, David Quammen đã dệt lên một câu chuyện đặc biệt, một tiểu thuyết trinh thám với những kẻ sát nhân rất khác biệt, nhưng cũng rất chân thực. Chúng là virus, vi khuẩn và những sinh vật đơn bào gây bệnh trên động vật, nhưng đôi khi, chúng sẽ thay đổi mục tiêu và nhảy sang loài người. Mỗi chương của cuốn sách là một hành trình theo đuổi một tên tội phạm mới, chịu trách nhiệm bởi một nhóm các thám tử đến từ khắp nơi trên thế giới. Cuốn sách là những ghi chép của David Quammen trong quá trình đồng hành với họ, lần theo các dấu vết để tìm ra thủ phạm. Sau chương đầu tiên về thứ virus khủng khiếp hạ gục cả ngựa và người, virus Ebola nổi lên qua câu chuyện đen tối, với những con khỉ đột chết chồng lên nhau, món thịt từ xác thối trong rừng và ma thuật. Câu chuyện chẳng cần đến những sự thổi phồng thường gặp về Ebola để tạo ra không khí rùng rợn (với nước mắt máu cũng như nội tạng tan chảy) và tác giả cũng không cần phải làm vậy, bởi chính bản thân căn bệnh cũng đã đủ khủng khiếp rồi. Ông quan tâm nhiều hơn đến việc đào sâu tìm hiểm những dịch bệnh này, tìm hiểu những gì chúng ta đã biết về chúng và cách điều đó giúp chúng ta dự phòng những căn bệnh mới xuất hiện trong tương lai, đồng thời hạn chế hậu quả của chúng. Trong mỗi chương, những căn bệnh đều dần trở nên rõ ràng, bắt đầu chỉ từ đôi ba tin đồn, vài cái chết bí ẩn dường như chẳng hề liên quan đến nhau. Quá trình điều tra dần dần bóc gỡ vấn đề, cho đến khi cuối cùng chân tướng của thủ phạm được phơi bày. Trong suốt quá trình đó, chúng ta sẽ được thấy muôn vàn cách mầm bệnh có thể di chuyển từ vật chủ này sang vật chủ khác – qua phân, dịch tiết, chấy nhầy và máu – và khám phá những hành vi nguy hiểm có thể dẫn đến phơi nhiễm: leo cây, uống nhựa chà là, ăn hay đơn thuần là chạm vào động vật đã chết. Tác giả cũng tìm kiếm cả những đồng phạm không cố ý là những loài động vật mang mầm bệnh trước khi truyền cho người: lợn, chim, khỉ, khỉ đột và dơi. Hành trình của những thám tử: Thế nhưng, những người hùng thực sự ở đây là những vị thám tử – những nhà khoa học làm việc không ngừng nghỉ, từ phòng thí nghiệm cho đến nơi thực địa, tìm kiếm lời giải cho những vụ án do những tên sát nhân nhỏ bé gây ra. Không chỉ tài ba trong việc mô tả cách hoạt động của virus, David Quammen còn rất thành công trong việc vẽ lên bức chân dung của những người hùng đó: từ những nhà sinh học phân tử nghiên cứu về SARS “với bản năng của một nhà dịch tễ học cùng sự dũng cảm của một con khỉ mặt đỏ”, cho đến nhà sinh thái học đam mê những món ăn phương Đông kỳ lạ, cho đến chuyên gia bệnh thú y với “thân hình rắn rỏi và nghiêm nghị của một cựu cầu thủ bóng bầu dục đã qua tuổi 40 tuổi”. Có thể thấy trong cuốn sách những chi tiết lịch sử cũng vô cùng thú vị như: các nhà khoa học thế kỷ XIX sử dụng kính hiển vi quang học để tìm kiếm các sinh vật nhỏ bé trong tế bào máu của bệnh nhân sốt rét, trong khi virus vẫn tiếp tục nấp sau tấm màn bí ẩn cho đến khi kính hiển vi điện tử được phát minh vào những năm 1930. Độc giả cũng thấy cả những dấu mốc lịch sử quan trọng như: Tổng thống Hoover cấm nhập khẩu vẹt vào nước Mỹ; sự bùng phát của viêm khớp và phát ban, trước khi được liên hệ với bọ ve hươu, tại thị trấn Lyme tại bang Connecticut; và loạt ca bệnh tưởng chừng vô hại, nhưng thực tế lại chết người, trên hàng loạt bệnh nhân nam tại Mỹ vào những năm 1980. David Quammen đã mang chúng ta đi khắp thế giới, từ những phòng thí nghiệm cho đến nơi thực địa cùng các điều tra viên – bẫy dơi tại Trung Quốc, khỉ tại Bangladesh, thâm nhập sâu vào cánh rừng ở Cameroon. Đến phần cuối cuốn sách, chúng ta sẽ bỏ lại thực tại một chút để bước lên chuyến du hành viễn tưởng đi tìm nguồn gốc của HIV dọc theo sông Congo. Tác giả cũng khẳng định sự xuất hiện của những căn bệnh lây truyền từ động vật, những mầm bệnh tìm đến chúng ta từ những loài sinh vật khác, không phải điều gì mới mẻ, nhưng đang có xu hướng tăng lên. Ông đi tìm lý do ẩn sau hiện tượng đó trong chương cuối cùng của cuốn sách: dân số khổng lồ của loài người, cùng với lượng gia súc vô cùng lớn, sự hủy diệt của môi trường sống tự nhiên, những hệ sinh thái bị phá vỡ – những thứ hoàn toàn có thể biến thành cuộc tranh cãi về sự trả thù của tự nhiên lên loài người. David Quammen là một trong những nhà báo và tác giả ảnh hưởng nhất hiện nay, ba lần được trao tặng giải thưởng Tạp chí quốc gia Hoa Kỳ. Các bài viết của ông được đăng tải trên các tạp chí nổi tiếng như National Geographic, New York Times, Rolling Stone và Harpers. *** “Nguồn gốc dịch bệnh” là cuốn tiểu thuyết trinh thám hấp dẫn, lôi cuốn với những kẻ sát nhân rất khác biệt, nhưng cũng rất chân thực. Chẳng có gì phải bàn cãi khi nói đây là một cuốn sách phi thường. Tác giả cuốn sách David Quammen đã dệt lên một câu chuyện đặc biệt, một tiểu thuyết trinh thám với những kẻ sát nhân rất khác biệt, nhưng cũng rất chân thực. Chúng là virus, vi khuẩn và những sinh vật đơn bào gây bệnh trên động vật; nhưng đôi khi, chúng sẽ thay đổi mục tiêu – và nhảy sang loài người. Mỗi chương của cuốn sách là một hành trình theo đuổi một tên tội phạm mới, chịu trách nhiệm bởi một nhóm các thám tử đến từ khắp nơi trên thế giới; cuốn sách là những ghi chép của Quammen trong quá trình đồng hành với họ, lần theo các dấu vết để tìm ra thủ phạm. Sau chương đầu tiên về thứ virus khủng khiếp hạ gục cả ngựa và người, Ebola virus nổi lên qua câu chuyện đen tối, với những con khỉ đột chết chồng lên nhau trong rừng, món thịt từ xác thối trong rừng và ma thuật. Câu chuyện chẳng cần đến những sự thổi phồng thường gặp về Ebola để tạo ra không khí rùng rợn (với nước mắt máu cũng như nội tạng tan chảy), và Quammen cũng không cần phải làm vậy, bởi chính bản thân căn bệnh cũng đã đủ khủng khiếp rồi. Ông quan tâm nhiều hơn đến việc đào sâu tìm hiểm những dịch bệnh này, tìm hiểu những gì chúng ta đã biết về chúng và cách điều đó giúp chúng ta dự phòng những căn bệnh mới xuất hiện trong tương lai, đồng thời hạn chế hậu quả của chúng. Và cũng chẳng có lời nào về “đây là cơ sở khoa học đằng sau”: các bài học về virus, dịch tễ và di truyền học được đan xen vào câu chuyện một cách rất tài tình. Trong mỗi chương của “Nguồn gốc dịch bệnh”, những căn bệnh đều dần trở nên rõ ràng, bắt đầu chỉ từ đôi ba tin đồn, vài cái chết bí ẩn dường như chẳng hề liên quan đến nhau. Quá trình điều tra dần dần bóc gỡ vấn đề, cho đến khi cuối cùng chân tướng của thủ phạm được phơi bày. Trong suốt quá trình đó, chúng ta sẽ được thấy muôn vàn cách mầm bệnh có thể di chuyển từ vật chủ này sang vật chủ khác – qua phân, dịch tiết, chấy nhầy và máu – và khám phá những hành vi nguy hiểm có thể dẫn đến phơi nhiễm: leo cây, uống nhựa chà là, ăn hay chỉ đơn thuần là chạm vào động vật đã chết… Quammen cũng tìm kiếm cả những đồng phạm không cố ý: những loài động vật mang mầm bệnh trước khi truyền cho người: lợn, chim, khỉ, khỉ đột và dơi. Những người hùng thực sự ở đây là những vị thám tử – những nhà khoa học làm việc không ngừng nghỉ, từ phòng thí nghiệm cho đến nơi thực địa, tìm kiếm lời giải cho những vụ án do những tên sát nhân nhỏ bé gây ra. Không chỉ tài ba trong việc mô tả cách hoạt động của virus, Quammen còn rất thành công trong việc vẽ lên bức chân dung của những người hùng đó: từ những nhà sinh học phân tử nghiên cứu về SARS “với bản năng của một nhà dịch tễ học cùng sự dũng cảm của một con khỉ mặt đỏ”, cho đến nhà sinh thái học đam mê những món ăn phương Đông kỳ lạ, cho đến chuyên gia bệnh thú y với “thân hình rắn rỏi và nghiêm nghị của một cựu cầu thủ bóng bầu dục đã qua tuổi 40 tuổi”. Những chi tiết lịch sử cũng vô cùng thú vị: các nhà khoa học Thế kỷ 19 sử dụng kính hiển vi quang học để tìm kiếm các sinh vật nhỏ bé trong tế bào máu của bệnh nhân sốt rét, trong khi virus vẫn tiếp tục nấp sau tấm màn bí ẩn cho đến khi kính hiển vi điện tử được phát minh vào những năm 1930. Còn cả những dấu mốc lịch sử quan trọng: Tổng thống Hoover cấm nhập khẩu vẹt vào nước Mỹ; sự bùng phát của viêm khớp và phát ban, trước khi được liên hệ với bọ ve hươu, tại thị trấn Lyme tại bang Connecticut; và loạt ca bệnh tưởng chừng vô hại, nhưng thực tế lại chết người, trên hàng loạt bệnh nhân nam tại Mỹ vào những năm 1980. Quammen mang chúng ta theo chuyến đi khắp miền thế giới, từ những phòng thí nghiệm chuẩn mực cho đến nơi thực địa cùng các điều tra viên – bẫy dơi tại Trung Quốc, khỉ tại Bangladesh, thâm nhập sâu vào cánh rừng ở Cameroon để nghe về những nghi thức trưởng thành cần hiến lên tay khỉ. Đến phần cuối cuốn sách, chúng ta sẽ bỏ lại thực tại một chút để bước lên chuyến du hành viễn tưởng đi tìm nguồn gốc của HIV, đan xen cùng hành trình của chính Quammen dọc theo sông Congo. Một trong những đoạn ấn tượng nhất của cuốn sách “Nguồn gốc dịch bệnh” là khi Quammen kể lại sự bùng nổ sâu bướm lều tại thị trấn quê nhà ở tây Montana năm 1993, “như một đại dịch trong Kinh thánh”. Ông viết: “Trong những đêm tháng Sáu, chúng ta có thể đứng dưới tán cây và nghe thấy những âm thanh lách tách như tiếng lửa, là tiếng chất thải của chúng rơi xuống trong tán lá.” Và rồi cũng đột ngột như khi xuất hiện, lũ sâu biến mất. Mãi sau này ông mới biết nguyên nhân sự sụp đổ của quần thể sâu bướm là do một loại virus gây bệnh. Liệu con người, ông tự hỏi, có phải hứng chịu số phận tương tự hay không? Cũng như loài sâu bướm lều, chúng ta quá đông đúc trên hành tinh này, và dân số loài người vẫn ngày một tăng lên. “Chính chúng ta cũng là một loại dịch bệnh”, ông viết, và là đối tượng cho một đại dịch chết người dễ dàng đánh gục cả nền văn minh nhân loại. Sự xuất hiện của những căn bệnh lây truyền từ động vật – những mầm bệnh tìm đến chúng ta từ những loài sinh vật khác – không phải điều gì mới mẻ, nhưng đang có xu hướng tăng lên, và Quammen đi tìm lý do ẩn sau hiện tượng đó trong chương cuối cùng của cuốn sách: dân số khổng lồ của loài người, cùng với lượng gia súc vô cùng lớn, sự hủy diệt của môi trường sống tự nhiên, những hệ sinh thái bị phá vỡ – những thứ hoàn toàn có thể biến thành cuộc tranh cãi về sự trả thù của tự nhiên lên loài người. Nhưng Quammen không phải một nhà hoạt động vì môi trường đầy lãng mạn và lòng trắc ẩn. Ông nhấn mạnh, một cách đầy cẩn trọng, rằng con người chính là một phần của tự nhiên – và đó chính là vấn đề. VỀ TÁC GIẢ David Quammen – Một trong những nhà báo và tác giả ảnh hưởng nhất hiện nay, ba lần được trao tặng giải thưởng Tạp chí Quốc gia Hoa Kỳ. Các bài viết của ông được đăng tải trên các tạp chí nổi tiếng như National Geographic, New York Times, Rolling Stone và Harpers. Cuốn sách “Nguồn gốc dịch bệnh”, được xuất bản năm 2012, mang đến góc nhìn khoa học về các mầm bệnh gây bệnh trên động vật, và đôi khi lây truyền cho chính con người. Bằng kiến thức và trải nghiệm thực tế, những phân tích – cũng như dự đoán – của ông đã thu hút sự quan tâm và chú ý của rất nhiều phương tiện truyền thông trên toàn thế giới. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ SÁCH “Cuốn sách đáng sợ nhất mà bạn sẽ đọc trong năm nay.”  – The Daily Beast “[Một] chuyến đi đầy tham vọng và mang tính bách khoa … Ông. Quammen đã làm một công việc tuyệt vời khi cho thấy lượng kiến ​​thức khoa học là tạm thời, với những ẩn số lớn về các bệnh truyền nhiễm.” – Richard Preston, tác giả của The Hot Zone “David Quammen đã làm được điều đó một lần nữa. Hấp dẫn và đáng sợ, Spillover là một bộ phim kinh dị đời thực với kết cục ảnh hưởng đến tất cả chúng ta.” – Elizabeth Kolbert, tác giả của The Sixth Extinction “Nguồn gốc dịch bệnh” là một kiệt tác báo cáo khoa học đáng sợ và hấp dẫn, giống như một câu chuyện trinh thám. David Quammen đưa chúng ta vào cuộc tìm hiểu về AIDS, Ebola và các căn bệnh khác có chung một điểm chung đáng sợ: chúng đều nhảy từ động vật hoang dã sang người. Giải thích cho xu hướng đang phát triển này, Quammen không chỉ đưa ra lời cảnh báo về những căn bệnh mà chúng ta sẽ phải đối mặt trong tương lai, anh ấy còn khiến chúng ta suy ngẫm về vị trí của chúng ta với tư cách là con người trong hệ sinh thái trái đất. ” – Walter Isaacson, tác giả của Leonardo Da Vinci “David Quammen là một trong những nhà báo khoa học hiếm hoi có sự pha trộn giữa sự khám phá với tài năng tổng hợp và kể chuyện.” – Nathan Wolfe – Nature *** Loại virus được biết đến với cái tên Hendra không phải loại vi sinh vật nguy hiểm mới đầu tiên. Hiển nhiên cũng không phải loại đáng sợ nhất. Thậm chí, so với một số khác, nó còn là thứ yếu. Số lượng tử vong do loài virus này gây ra ngay từ đầu đã rất nhỏ, và vẫn duy trì ở mức thấp như vậy; phạm vi địa lý của virus chỉ thu hẹp ở mức địa phương, và những đợt bùng phát sau đó cũng không đưa căn bệnh lan rộng hơn bao nhiêu. Virus Hendra xuất hiện lần đầu tiên ở gần Brisbane, Úc vào năm 1994 với có hai ca nhiễm bệnh và một trong số đó tử vong. Hay chính xác hơn: hai người mắc bệnh, một trong hai đã tử vong. Những sinh vật khác cũng mắc bệnh và tử vong, bao gồm hơn chục con ngựa, và chúng cũng là một phần của câu chuyện này. Đề tài dịch bệnh trên động vật và dịch bệnh trên người, như chúng ta sắp được tìm hiểu, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như những sợi dây trong một bện thừng. Đợt bùng phát đầu tiên của virus Hendra dường như không mấy đáng sợ hay mang tính thời sự, trừ khi bạn sống ở miền đông nước Úc. Nó không thể sánh với một trận động đất, một cuộc chiến tranh, một vụ xả súng ở trường học hay một cơn sóng thần; nhưng đầy kỳ lạ và ma quái. Dù hiện nay người ta đã biết nhiều hơn về nó, ít nhất là trong giới bệnh lý học, nhưng virus Hendra, dù có bớt ma quái hơn, dường như vẫn rất kỳ lạ. Một nghịch lý hoàn toàn: cận biên, lẻ tẻ, nhưng ở một góc độ lớn hơn lại mang tính đại diện. Chính vì lý do đó, Hendra là dấu mốc quan trọng hướng tới hiểu được sự xuất hiện của những thực thể chết người trên hành tinh này – cũng như sự thật là chúng mang đến cái chết của hơn 30 triệu người kể từ năm 1981. Những câu chuyện đó liên quan tới hiện tượng mang tên Bệnh Lây truyền từ Động vật. Sở dĩ có cái tên như vậy bởi đó là những căn bệnh có khả năng lây truyền sang người. Và chúng có số lượng nhiều hơn bạn nghĩ. AIDS là một căn bệnh như thế. Và cúm là cả một phân nhóm cho những bệnh còn lại. Xem xét tổng thể những căn bệnh này dường như củng cố nhận định từ lâu của Darwin (nhận định đen tối nhất của ông – được nhiều người biết đến và thường xuyên bị cố ý bỏ quên) rằng loài người là một loài động vật, có liên hệ mật thiết với những loài động vật khác: từ nguồn gốc cho đến tiến hóa, khi ốm đau lẫn khi khỏe mạnh. Còn khi xét một cách riêng rẽ, đơn cử trường hợp mơ hồ này ở Úc, đây là lời nhắc nhở vững vàng rằng mọi thứ, bao gồm cả dịch bệnh, đều phải bắt đầu từ đâu đó. 2 Tháng Chín năm 1994, một tai họa khủng khiếp giáng xuống những con ngựa ở vùng ngoại ô phía bắc của Brisbane: những con vật thuần chủng, bóng bẩy và chăm chút, được sinh ra chỉ để chạy đua. Vùng ngoại ô cổ kính với cái tên Hendra, là một khu dân cư lâu đời với các trường đua và những người đam mê đua ngựa; những căn nhà gỗ mà sân sau được cải tạo thành chuồng ngựa; các sạp báo đầy tờ rơi hay những quán café góc đường với cái tên như The Feed Bin (Tạm dịch: Máng ngựa). Con ngựa đầu tiên nhiễm bệnh là một con ngựa cái với lông màu nâu đốm đen tên là Drama Series, đã được cho nghỉ đua vì mang thai, và sắp đẻ. Drama Series bắt đầu biểu hiện những dấu hiệu của vấn đề trong một chuồng ngựa trên đồng cỏ nghèo nàn vài dặm về phía tây nam Hendra, nơi mà những con ngựa được đưa tới để nghỉ ngơi giữa các cuộc đua. Đáng ra Drama Series sẽ ở lại đó cho tới trước lúc sinh nở, nếu nó không bị ốm. Tuy vậy, tình trạng của con ngựa cái không quá xấu – ít nhất là tại thời điểm đó. Nó chỉ có vẻ không được ổn, và người huấn luyện cho rằng nó sẽ khỏe lại. Người huấn luyện tên là Vic Rail: một người đàn ông từng trải với dáng người nhỏ bé, áp đặt nhưng dễ mến, với mái tóc nâu vuốt ngược và nổi tiếng với phương pháp luyện tập cứng rắn trong giới đua ngựa địa phương. “Cứng rắn nhưng dễ mến”, có thể tóm gọn Vickie bằng một câu như vậy. Một số người có thể không ưa gì anh ta, nhưng không ai phủ nhận rằng anh biết rất rõ về những con ngựa. Bạn gái của Rail, Lisa Symons, là người đã đem xe kéo ngựa tới để đón Drama Series. Con ngựa cái miễn cưỡng di chuyển. Chân của nó có vẻ bị mỏi. Quanh vùng môi, mi mắt và hàm có những vết sưng. Trở về khu chuồng nhỏ của Rail ở Hendra, Drama Series đổ mồ hôi đầm đìa và tỏ ra uể oải. Với hi vọng chăm nom ngựa mẹ và cứu lấy con con, anh ép nó ăn cà rốt bào và mật mía nhưng không thành. Sau nỗ lực, Vic Rail đi rửa hai bàn tay và cánh tay, dù sau này khi ngẫm lại, có vẻ như điều đó không đủ. Hôm đó là thứ Tư, ngày 7 tháng Chín năm 1994, Rail gọi cho bác sĩ thú y Peter Reid, một người đàn ông cao lớn, nghiêm túc và chuyên nghiệp, để đến khám cho Drama Series – lúc này đang được nhốt trong ô riêng tại khu chuồng bê tông với sàn phủ cát, gần với những con ngựa khác của Rail. Bác sĩ Reid không tìm thấy dịch quanh mũi hay mắt của nó, hay bất kỳ dấu hiệu nào của sự đau đớn. Tuy vậy, con ngựa chẳng còn giữ được chút nào vẻ vạm vỡ trước đây. “Suy nhược thể chất” là kết luận của ông. Thân nhiệt và nhịp tim của nó đều cao. Reid để ý thấy những vết sưng trên mặt. Khi mở miệng con ngựa ra để kiểm tra lợi, ông thấy những mẩu cà rốt bào mà nó chẳng buồn hoặc chẳng thể nuốt. Sau cùng, ông ta tiêm cho nó thuốc kháng sinh và giảm đau, rồi ra về. Khoảng sau bốn giờ sáng ngày hôm sau, Reid nhận được cuộc gọi thông báo: Drama Series đã ra khỏi chuồng của nó, đổ gục trên sân, và đang hấp hối. Tới khi Reid đến nơi, con ngựa đã chết. Mọi thứ diễn ra nhanh và khủng khiếp. Bị kích động do tình trạng sức khỏe xấu đi, con ngựa lết ra ngoài, ngã xuống một vài lần khiến chân rách toạc đến xương, đứng dậy, rồi đổ gục ở sân trước. Người trông coi chuồng ngựa đã phải đè nó xuống đất. Con ngựa cố gắng vùng vẫy trong tuyệt vọng và va vào một chồng gạch. Lần này để giữ nó nằm xuống, người coi chuồng cần đến cả sự hỗ trợ của Rail. Để giúp Drama Series thở, Rail đã chùi đi chỗ bọt trên mũi của con ngựa – một nỗ lực hoàn toàn vô ích. Reid kiểm tra cái xác và phát hiện một chút bọt vẫn còn sót lại trong lỗ mũi, nhưng không khám nghiệm tử thi bởi Vic Rail không có vẻ hứng thú đến thế, và, cũng không ai đoán trước được tình trạng khẩn cấp sắp xảy để, khi mà mọi chi tiết dù là nhỏ nhất cũng có thể trở nên vô cùng quan trọng. Xác của Drama Series cứ thế được một chiếc xe tải hợp đồng chở tới bãi tập kết của vùng Brisbane. Nguyên nhân gây ra cái chết của con ngựa vẫn chưa được xác định. Liệu có phải nó bị rắn cắn? Hay ăn phải loại cỏ độc nào đó trong cái chuồng bụi bặm, xập xệ đó? Những giả thuyết đó nhanh chóng sụp đổ sau 13 ngày, khi những con ngựa khác trong chuồng nối tiếp nhau bị ốm. Đây không thể là do rắn cắn hay thức ăn độc. Phải là thứ gì đó truyền nhiễm. Những con ngựa còn lại bị sốt, suy hô hấp, mắt đỏ ngầu, co giật, và lờ đờ; một số có bọt máu sùi ra từ lỗ mũi và miệng, số khác lại bị sưng ở mặt. Reid chứng kiến thấy một con ngựa sục miệng điên cuồng vào một xô nước, trong khi một con khác điên cuồng đập đầu vào bức tường bê tông. Mặc cho nỗ lực của Reid và những người khác, chỉ trong vài ngày đã có thêm 12 con ngựa tử vong. Reid sau đó thừa nhận rằng: “tốc độ lây lan giữa những con ngựa thật khó tin,” nhưng tại thời điểm đó, không ai hiểu được vấn đề là gì . Thứ gì đó lây lan qua những con ngựa. Thời điểm tồi tệ nhất, chỉ trong 12 giờ, họ phải chứng kiến bảy con ngựa chết trong đau đớn quằn quại, đến mức một số trường hợp họ phải thực hiện an tử . Bảy con ngựa chỉ trong mười hai giờ – đó là một thảm kịch, ngay cả với một bác sĩ thú y dày dạn kinh nghiệm. Một trong số chúng, con ngựa cái có tên Celestial Charm, đã vùng vẫy và thở hổn hển một cách tuyệt vọng đến lúc tắt thở, khiến Reid không thể tới gần để cho nó mũi tiêm nhân đạo. Con ngựa thiến 5 tuổi mà Rail gửi tới một chuồng ngựa phía bắc phát bệnh ngay khi đến, và người ta cũng phải kết thúc sự sống của nó không lâu sau đó. Một bác sĩ thú y đã khám nghiệm tử thi con ngựa thiến và phát hiện tình trạng xuất huyết trên toàn bộ nội tạng. Chuồng ngựa ở góc đường lân cận chuồng ngựa của Rail ở Hendra, cùng lúc đó, một con ngựa thiến khác cũng đổ bệnh với triệu chứng tương tự, và cũng bị buộc phải cho an tử. Điều gì gây nên tình trạng hỗn loạn này? Làm thế nào nó có thể lây lan từ con ngựa này qua con ngựa khác, hay đồng thời tiếp cận được nhiều ngựa đến thế cùng một lúc? Có khả năng là một tác nhân độc hại nào đó trong nguồn cung thực phẩm. Hay thuốc độc, từ những kẻ thù hằn. Ngoài ra, Reid cũng bắt đầu tự hỏi liệu đây có thể do một loại virus lạ, giống như loại virus gây ra bệnh ngựa châu Phi (AHS), loại bệnh được truyền do ruồi cắn ở vùng Hạ Sahara châu Phi. Virus AHS tác động lên các con la, lừa và ngựa vằn cũng như ngựa nhà, nhưng chưa từng được phát hiện ở Úc, và cũng không lây lan trực tiếp từ ngựa sang ngựa. Hơn nữa, ruồi mang bệnh ở Queensland thông thường không cắn ngựa vào tháng Chín, khi thời tiết mát mẻ. Do đó AHS không phải là câu trả lời hợp lý. Hay nguyên nhân có thể là một loại mầm bệnh lạ? “Tôi chưa từng thấy virus nào gây ra tình trạng như vậy trước đây,” Reid nói. Một người có xu hướng nói giảm nói tránh, ông ta gọi thời điểm đó là “một khoảng thời gian tương đối hoảng loạn.” Reid tiếp tục chữa cho những con ngựa bị bệnh với tất cả các phương tiện cũng như phương pháp ông có, dựa trên chẩn đoán vẫn còn không chắc chắn –kháng sinh, truyền dịch, thuốc chống sốc. Trong khi đó, bản thân Vic Rail cũng bắt đầu đổ bệnh. Người trông coi chuồng ngựa cũng vậy. Thoạt tiên có vẻ họ đều bị cúm – một cơn cúm nặng. Rail tới bệnh viện, nơi tình trạng của ông tiếp tục xấu đi, và qua đời sau một tuần chăm sóc đặc biệt. Nội tạng của ông ngừng hoạt động. Rail cũng không thở được. Khám nghiệm tử thi cho thấy phổi của ông chứa đầy máu, các loại dịch, và (sau khi kiểm tra bằng kính hiển vi điện tử) một loại virus nào đó. Ray Unwin, người coi chuồng, đã về nhà và tự chịu đựng qua cơn sốt, lại sống sót. Peter Reid, dù phải chăm sóc những con ngựa bị bệnh đến mức sùi bọt máu, vẫn khỏe mạnh. Ông và Unwin đã kể cho tôi câu chuyện của mình khi gặp được họ nhiều năm sau đó, sau khi hỏi han xung quanh Hendra và gọi một vài cuộc điện thoại Ở Máng ngựa có người nói rằng: Ray Unwinhả, nhiều khả năng anh ta sẽ ở chỗ của Bob Bradshow. Tôi đi theo chỉ dẫn tới chuồng ngựa của Bradshaw và gặp Unwin ngay ở lối vào với xô cám trong tay. Thời điểm đó, ông ta đã đứng tuổi với mái tóc đuôi ngựa màu đỏ cát với đôi mắt u ám nỗi buồn. Ông hơi ngại khi được từ một người lạ sự chú ý, thứ ông đã nhận đủ từ các bác sĩ, cán bộ y tế công cộng và phóng viên địa phương. Ngay khi ngồi xuống nói chuyện, ông thừa nhận ông không phải là một kẻ hay than vãn, nhưng sức khỏe của ông đã kém đi rõ ràng từ khi chuyện đó xảy ra. Mời các bạn mượn đọc sách Nguồn Gốc Dịch Bệnh - David Quammen.