Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phong Tỏa

LỜI NÓI ĐẦU Vào năm 2005, khi phát hiện rằng tôi không thể nào tìm được một nhà xuất bản cho The Blackhouse (tạm dịch Ngôi Nhà Đen), hoặc cho quyển truyện đầu tiên trong loạt truyện Enzo của mình, Extraordinary People (tạm dịch Người Phi Thường), tôi đã bắt đầu nghiên cứu về một quyển tiểu thuyết trinh thám lấy bối cảnh là trận đại dịch cúm gia cầm. Vào lúc bấy giờ, các nhà khoa học đã dự đoán rằng cúm gia cầm, hay H5N1, có nhiều khả năng trở thành trận đại dịch kế tiếp. Trận dịch Tây Ban Nha năm 1918 đã giết chết ở nhiều nơi trên khắp thế giới khoảng từ hai mươi đến năm mươi triệu người, và cúm gia cầm - với tỉ lệ tử vong khoảng sáu mươi phần trăm hay cao hơn - đã được dự báo vào lúc ấy là sẽ vượt qua con số trên với một khoảng cách đáng kể. Đã tìm hiểu kỹ về cúm Tây Ban Nha trong lúc viết Snakehead(tạm dịch Cá lóc), một đầu sách trong loạt truyện trinh thám lấy bối cảnh Trung Quốc của tôi, cúm là một chủ đề tôi đã thành thạo. Nhưng sự thành thạo đó chẳng chuẩn bị cho tôi điều gì từ những tìm hiểu của tôi liên quan đến H5N1, cũng như những nỗi kinh hoàng mà một trận đại dịch cúm gia cầm có thể bộc phát trên thế giới. Tôi bắt đầu nghiên cứu cẩn thận về những hỗn loạn mà nó sẽ có thể gây ra, và xã hội như ta đang thấy có thể bị tan rã nhanh chóng đến mức nào. Tôi chọn London làm bối cảnh cho truyện của mình, nơi bắt đầu bùng phát cơn đại dịch, một thành phố bị phong tỏa hoàn toàn. Trên nền của bối cảnh đó, những mẩu xương của một đứa trẻ bị sát hại đã được phát hiện tại một công trường nơi các công nhân đang hối hả xây dựng một bệnh viện dã chiến. Viên thám tử (quen thuộc) của tôi, Jack MacNeil, được yêu cầu điều tra, ngay cả khi chính gia đình anh ta đã bị nhiễm virus. Suốt sáu tuần lễ ngắn ngủi miệt mài làm việc cả đêm, tôi đã viết xong quyển Phong tỏa. Quyển sách không hề được xuất bản. Các biên tập viên Anh Quốc trong thời điểm đó nghĩ rằng những điều mô tả của tôi về thành phố London bị vây hãm bởi kẻ thù vô hình H5N1 là không thực tế và chẳng bao giờ có thể xảy ra - bất kể thực tế là tất cả những nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng điều đó hoàn toàn có thể. Thế rồi một nhà xuất bản Hoa Kỳ mua loạt truyện Enzo, và những truyện trinh thám về Trung Quốc của tôi lần đầu tiên được xuất bản ở Hợp chủng quốc. Sự tập trung của tôi chuyển sang bờ bên kia Đại Tây Dương, Phong tỏa đã được ký thác vào một thư mục trong tài khoản dịch vụ lưu trữ trực tuyến Dropbox của tôi, nơi tác phẩm vẫn còn đấy, đến tận bấy giờ. Khi viết những dòng chữ này, tôi đang ngồi bó gối tại nhà ở Pháp, bị cấm ra khỏi nhà trừ những trường hợp đặc biệt. Một con coronavirus mới, Covid-19, đang tàn phá thế giới này, và xã hội như ta biết đang nhanh chóng thay đổi. Ngay cả với một tỷ lệ tử vong chỉ là một phần của cúm gia cầm, các chính trị gia đang phải chiến đấu để kiểm soát sự hỗn loạn và sự hoảng hốt mà Covid-19 đang truyền đi trên toàn thế giới. Sự tương đồng với Phong tỏa thật đáng sợ. Vì vậy dường như đây là dịp mở lại thư mục Dropbox đầy bụi bặm và khai thác bản thảo cũ kỹ kia để chia sẻ với bạn đọc của tôi - dù chỉ để khiến tất cả chúng ta nhận ra thực sự mọi chuyện có thể tồi tệ đến mức nào. Peter May Pháp, 2020 *** Phong tỏa (tựa tiếng Anh: Lockdown) - tiểu thuyết vừa ra mắt bạn đọc VN của nhà văn trinh thám nổi tiếng Peter May. Cuốn sách không chỉ hấp dẫn bởi sự hồi hộp, phức tạp, nghẹt thở, mà còn 'nóng' bởi sự tương đồng đáng ngạc nhiên với câu chuyện dịch bệnh của thế kỷ. Hai chữ Phong tỏa có lẽ là từ khóa được quan tâm nhiều nhất trong hơn 1 năm qua, kể từ khi đại dịch Covid-19 xuất hiện từ Vũ Hán (Trung Quốc) và sau đó liên tiếp là những thành phố, những đất nước, những châu lục, cả thế giới xáo trộn, chia cắt, giãn cách, phong tỏa bởi Coronavirus. Thế nhưng, điều đáng ngạc nhiên là cuốn sách này được tác giả - nhà báo, biên kịch truyền hình, tiểu thuyết gia Peter May (sinh năm 1951 tại Glasgow, Scotland) viết nên từ năm 2005. Khởi nguồn từ hiện thực lúc bấy giờ là dịch cúm gia cầm, H5N1, có khả năng trở thành đại dịch, Peter May đã viết cuốn tiểu thuyết Phong tỏa (Lockdown) trong 6 tuần lễ, lấy London làm bối cảnh câu chuyện, nơi dịch bùng phát và thành phố bị phong tỏa hoàn toàn. Một bệnh viện dã chiến được hối hả xây dựng, và các công nhân phát hiện ra chiếc ba lô đựng xương người trước khi họ đổ bê tông lấp đầy nó như chôn vùi “giúp” một bí mật khủng khiếp. Cuộc điều tra được mở ra với viên thám tử MacNeil. Câu chuyện diễn tiến đầy hồi hộp, khi MacNeil cùng những cộng sự của anh, trong đó có Amy - nhà nhân chủng học tài giỏi bị khuyết tật sau một tai nạn giao thông, cũng là người tình của MacNeil; và sau này là bà Tiến sĩ Castelli, cùng đi sâu tìm hiểu vụ án. MacNeil cũng chính là nạn nhân khi con trai anh bị dịch cúm cướp mất sinh mạng. Amy đã dựng lên từ bộ xương chân dung bé gái Choy người Trung Quốc bị sát hại; trong khi cuộc điều tra liên tục bị theo dõi bởi Pinker, một tay thiện xạ, một kẻ bệnh hoạn, tay sai của những thế lực trong bóng tối... “Cơn bệnh diễn tiến thật nhanh thành ra một tình trạng suy giảm chức năng hô hấp với sự tiến triển không thể thay đổi được, được gọi là Adult, hay Hội chứng Suy giảm Hô hấp cấp tính”, “Bên kia căn phòng có tiếng hắt hơi khiến tất cả những cái đầu đều hướng về phía Zoe. Trong những ngày này, mọi người đều quá nhạy cảm ngay cả với tiếng sụt sịt nhẹ nhất”, “Chắc chắn một trăm phần trăm rằng đứa bé đã bị nhiễm một thứ vi-rút được biến đổi gien mạnh mẽ nhất”… Những câu văn trong Phong tỏa không khỏi khiến người đọc liên tưởng, rùng mình vì quá tương đồng với hiện thực chúng ta đang sống, khi cả thế giới đang phải gồng mình chống chọi với dịch Covid-19. Những nút thắt của câu chuyện dịch bệnh, trong đó có đan cài câu chuyện tình yêu của viên thanh tra với nữ nhân chủng học Amy được nhà văn đưa ra và giải quyết bằng sự tháo gỡ tài tình là điểm cuốn hút của tác phẩm. Peter May nổi danh là tiểu thuyết gia trinh thám với các tác phẩm đoạt nhiều giải thưởng ở nhiều quốc gia (Giải Barry Arwards của Mỹ cho tiểu thuyết trinh thám hay trong năm; Giải văn học quốc gia của Pháp CEZAM Prix Litteraire; giải ITV Crime Thriller Book Club Best Read of the Year của Anh…). Nhưng điều hấp dẫn của Phong tỏa không chỉ là ở tính trinh thám hồi hộp với từng chi tiết như một cuốn phim nghẹt thở diễn ra trước mắt chúng ta, mà chính là tính dự báo, linh cảm về đại dịch của thế giới. Những vấn đề nóng từ cuộc cạnh tranh lợi nhuận, khi những tiến sĩ hóa - sinh siêu việt, khi sự phát triển của y học - dược phẩm lại dẫn đến tội ác tàn phá, hủy diệt chính con người khiến bạn đọc suy tư. Cái chết của Tiến sĩ Roger Blume - người đứng đầu Lực lượng Đặc nhiệm Đại dịch FluKill của Stein-Frankcks, cũng là kẻ chủ mưu tội ác, là chiến thắng của cái thiện với cái ác, của chính nghĩa với phi nghĩa, của con người tiến bộ với những kẻ mang danh khoa học mà chống lại loài người. Những điều này khiến cuốn tiểu thuyết có độ sâu sắc, chinh phục bạn đọc. Được biết, tiểu thuyết Phong tỏa không được xuất bản vào năm nó ra đời - 2005, vì bị cho là bối cảnh “phi hiện thực”. Mãi đến năm 2020, khi nhà văn Peter May “ngồi bó gối tại nhà ở Pháp, bị cấm ra khỏi nhà trừ những trường hợp đặc biệt. Một con coronavirus mới, Covid-19, đang tàn phá thế giới này”, cuốn sách mới được chấp nhận, ra mắt độc giả. Trong Lời nói đầu, tác giả tự nhận xét “Sự tương đồng (bối cảnh tiểu thuyết - NV) với Phong tỏa thật đáng sợ”. Và từ nỗi sợ ấy, thông điệp mà tác phẩm đưa ra là sự cảnh báo con người hiện đại trong bước phát triển quá nhanh của thế kỷ 21 này, lại càng thấm thía hơn bao giờ. Chúng ta luôn cần những cuộc đấu tranh phân định trắng - đen, những việc làm đề cao giá trị đạo đức, nhân văn; và cả thái độ không khoan nhượng với cái ác, với những gì dẫn con người đến sự diệt vong. *** Dẫn truyện Tiếng thét của cô vang vọng khắp vùng bóng tối sau khi khó khăn lắm nó mới bật ra được khỏi cái cuống họng đã bị co thắt lại vì sợ hãi. Tiếng thét ấy, run rẩy theo nỗi kinh hoàng mà chính cô cảm nhận được, đủ làm cho lông tóc dựng ngược trên cánh tay hay vai gáy của bất kỳ người nào biết nghĩ đến người khác. Thế nhưng những bức tường dày của ngôi nhà cổ này bao bọc lấy nhau quanh nỗi sợ hãi của màn đêm để bảo đảm rằng chỉ những cái tai đã điếc trước cảnh ngộ của cô mới nghe được tiếng thét ấy. Y nguyền rủa, rít lên và khạc nhổ trong bóng tối, giận dữ và thất vọng. Cô có thể nghe tiếng y trên những bậc thang và biết rằng y muốn làm hại cô. Người đàn ông mà cô đã biết rõ và đã tin tưởng, kể cả đã thương yêu. Cô chìm vào trong sự mơ hồ của chính mình. Làm sao mà điều đó có thể xảy ra được? Cô nhớ lại sự đụng chạm nhạt nhẽo khi bàn tay y đặt lên vầng trán nóng bỏng của cô suốt những ngày dài bị hành hạ bởi cơn bệnh. Trong ánh mắt của y cũng có chút thương hại. Nhưng ánh mắt ấy giờ đây cháy bỏng sự giận dữ và hiểm độc. Cô nín thở. Y đã leo lên một cầu thang khác. Y nghĩ cô vẫn còn trên tầng thượng và cô lén rời khỏi phòng đọc sách để thấy được cái bóng của y trên các bậc thang khi y tiến lên đến tầng áp mái. Thế rồi cô quay lại và vội vàng đi xuống, đôi chân nhỏ nhắn rón rén bước trên tấm thảm dày tới chỗ ánh sáng lọt qua cửa sổ lắp kính màu chiếu xuống sàn của gian phòng chính. Những ngón tay tuyệt vọng nắm lấy và xoay tay nắm cửa. Nhưng cửa ra vào đã bị khóa. Không có lối thoát. Cô lạnh cóng cả người khi nghe tiếng y gầm rống từ trên tầng thượng của tòa nhà. Y biết rằng y đã mất cô. Trong một khoảnh khắc, cô ngần ngừ. Những bậc đá đi xuống tầng hầm bắt đầu từ phòng tắm bên dưới cầu thang. Nhưng cô biết nếu đi xuống đấy thì cô sẽ bị mắc kẹt. Ở đó chỉ có một cái máng trượt cũ kỹ dùng để chuyển than dẫn đến một khoảng hành lang giữa những căn nhà; và mặc dù có thân hình nhỏ nhắn, cô cũng không đủ nhỏ bé để lách người qua khoảng trống ấy. Cả tòa nhà rung chuyển với những bước chân của y trên các bậc thang và cô quay lại trong hoảng loạn chỉ để thấy rằng mình phải đương đầu với một bé gái. Một con ma trong một bộ váy ngủ màu trắng mái tóc đen cắt ngắn, cặp mắt hình trái hạnh đào mở to và đen nhánh, gương mặt bệt phấn. Hình ảnh của đứa trẻ gây nên nỗi sợ hãi xuyên qua người cô như những lưỡi nhọn của con dao vẫn chờ đợi cô, trước khi cô nhận ra rằng chẳng qua đó là cô đang phản ứng với sự suy nghĩ của chính mình mà thôi. Sự sợ hãi đã làm cho cô không thể nhận biết đúng sự vật. “Choy!”, cô nghe y gầm lên trong khu vực cầu thang, và chợt nhớ đến người phụ nữ đầu tiên đã hướng dẫn y và cô đi thăm toàn bộ ngôi nhà này vài tháng trước. Bảng điều khiển đặt âm tường của phòng ăn rộng lớn ở ngay trước mặt. Một căn phòng mà họ chưa hề sử dụng. Một căn phòng luôn sôi sục trong một bóng tối ngột ngạt, ánh mặt trời lúc ban ngày và những ngọn đèn lần lượt chiếu qua những vết tưa ra quanh mép những bức rèm. Nhân viên hãng bất động sản đã dời chỗ một chiếc bàn nhỏ để dỡ bỏ bảng điều khiển và để lộ một cửa ra vào nằm phía sau. Một cánh cửa cũ kỹ sơn trắng với cái tay nắm tròn mà cô đã mở vào vùng bóng tối phía bên kia. Vùng bóng tối ẩm ướt, lạnh lẽo, bụi bặm của một căn phòng gạch nhỏ, nơi từng có một gia đình gồm sáu người đã thu mình trong màn đen để trốn tránh những cuộc thả bom. Choy không hình dung được bà chủ nhà có ý nói về điều gì khi bà dùng từ “blitz” nhưng cô đã được nghe nói rằng khi những chiếc máy bay thả bom của Đức hoàn tất cuộc tấn công London, chúng chuyển hướng bay về phía Nam và trút tất cả lượng bom dư trong khoang tàu xuống khu vực bất hạnh này. Rồi khi còi báo động vang lên, dân chúng nhốn nháo như bầy chuột chạy vội vào “những chiếc bẫy chuột bằng gạch” của họ để nghe ngóng, để thấp thỏm chờ đợi và để cầu nguyện trong tăm tối. Choy lại nghe y gào thét gọi tên cô lần nữa, hệt như tiếng còi báo động của hơn nửa thế kỷ trước, tiếng thét khiến cô nháo nhác chạy vội vào căn phòng phía trước. Vội vàng, cô đẩy trượt chiếc bàn nhỏ qua một bên và dò dẫm để tháo bớt những vật ẩn giấu trên tấm bảng điều khiển màu xanh sẫm. Tấm bảng quá nặng, đôi bàn tay nhỏ bé của cô phải vật lộn để nậy cho nó rời ra. Cô có thể nghe thấy tiếng y trên đầu cầu thang tầng trên, thế rồi có tiếng bước chân của y trong phòng ngủ chính ở ngay phía trên. Cô kéo lệch tấm bảng điều khiển qua một bên rồi đẩy mạnh cánh cửa. Nó mở vào một vùng tối om om, một luồng không khí lạnh lẽo và ẩm thấp bao bọc khắp người cô. Cô bước hẳn vào bên trong rồi kéo tấm bảng điều khiển trở về chỗ cũ. Từ phía trong, cô không thể nào gắn chặt nó lại mà chỉ cầu nguyện để y đừng phát giác. Cô đóng cửa lại, mọi ánh sáng đều tắt ngấm. Cô ngồi xổm trên mặt đất rồi vòng cả hai tay ôm lấy đầu gối cho có chút hơi ấm. Chung quanh cô thật lạnh, thật tối tăm và thật cùng quẫn. Không hề có lối thoát. Cô không thể tưởng tượng làm thế nào mà sáu con người có thể ép chặt vào nhau trong khoảng không gian này. Thật là vượt ngoài sức tưởng tượng điên rồ nhất của cô để biết người ta có cảm giác như thế nào khi nghe tiếng bom rơi khắp chung quanh rồi tự hỏi liệu mình có phải là người kế tiếp hay không. Thế nhưng cô không cần tưởng tượng để hình dung về người đàn ông mà giờ đây cô đang nghe tiếng bước chân trên những bậc thang hay ánh sáng lấp lánh trên lưỡi dao mà cô biết chắc y đang mang theo. Nhà nuôi trẻ mồ côi ở Quảng Đông là một ký ức xa vời, đứa trẻ lúc ấy là cô, một con người khác trong một cuộc đời khác. Chỉ trong sáu tháng mà quá nhiều điều đã thay đổi, thế nhưng dường như vẫn có một điều gì đó vĩnh cửu, và cuộc đời khác kia chẳng qua chỉ là cái bóng của một giấc mộng. Cô thở hụt hơi, gấp gáp và ồn ào một cách bất thường. Nhưng hơn cả điều đó, cô có thể nghe thấy y đang có mặt ở sảnh trước. Những bước chân nặng nề trên sàn gỗ. Sự giận dữ trong giọng nói khi y gọi tên cô lần nữa. Rồi lại im lặng. Sự im lặng khiến từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác dường như kéo dài hàng nhiều giờ đồng hồ. Cô vội nín thở, càng lâu càng tốt, vì cô tin chắc rằng y sẽ nghe thấy, vẫn là sự im lặng. Thế rồi cô thở hổn hển khi nghe tiếng vỡ của tấm bảng điều khiển ở mặt ngoài của cánh cửa. Tim cô đập mạnh đến nỗi cô có cảm tưởng ai đang đấm vào ngực mình. Tay nắm cửa xoay. Cô ép sát người vào tường khi cánh cửa từ từ mở ra. Ánh sáng từ gian sảnh hắt bóng y lên khuôn cửa sau lưng y. Cô có thể thấy hơi thở của cô, đọng thành sương trong làn không khí lạnh, được rọi vào bởi cùng luồng ánh sáng ấy. Y từ từ cúi xuống rồi vươn tay về phía cô. Cô không thể nhìn thấy mặt y nhưng có thể nghe được tiếng cười mỉm của y. “Hãy lại đây với ba nào”, y dịu dàng lên tiếng. Mời các bạn mượn đọc sách Phong Tỏa của tác giả Peter May & Nguyễn Văn Nhật (dịch) & Nguyễn Thuần Phác (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Arthur Conan Doyle (Bản Đinh Tị - Thái Hà dịch)
Sherlock Holmes là một nhân vật thám tử hư cấu vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm của nhà văn Arthur Conan Doyle xuất bản năm 1887. Ông là một thám tử tư ở Luân Đôn nổi tiếng nhờ trí thông minh, khả năng suy diễn logic và quan sát tinh tường trong khi phá những vụ án mà cảnh sát phải bó tay. Nhiều người cho rằng Sherlock Holmes là nhân vật thám tử hư cấu nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học và là một trong những nhân vật văn học được biết đến nhiều nhất trên toàn thế giới. Đã có rất nhiều vở kịch và bộ phim được sáng tác dựa trên những tác phẩm của Conan Doyle về Holmes, về mặt này có thể so sánh Holmes với những nhân vật hư cấu nổi tiếng khác như Hamlet hay Dracula. Sherlock Holmes được độc giả hâm mộ tới mức đã có rất nhiều hội những người hâm mộ ông được thành lập. Năm 1990 người ta đã mở Bảo tàng Sherlock Holmes ở phố Baker, đây là bảo tàng cho một nhân vật hư cấu đầu tiên được mở trên thế giới. Sherlock Holmes đã xuất hiện trong 4 tiểu thuyết và 56 truyện ngắn của nhà văn Conan Doyle. Hầu như tất cả các tác phẩm đều được viết dưới dạng ghi chép của bác sĩ John H. Watson, người bạn thân thiết và người ghi chép tiểu sử của Holmes, chỉ có 2 tác phẩm được viết dưới dạng ghi chép của chính Holmes và 2 tác phẩm khác dưới dạng ghi chép của người thứ ba. Hai tác phẩm đầu tiên trong số này, 2 tiểu thuyết ngắn, xuất hiện lần đầu tiên trên tờ Beeton's Christmas Annual năm 1887 và tờ Lippincott's Monthly Magazine năm 1890. Thám tử Holmes trở nên cực kì nổi tiếng khi loạt truyện ngắn của Doyle được xuất bản trên tạp chí The strand Magazine năm 1891. Các tác phẩm được viết xoay quanh thời gian từ năm 1878 đến năm 1903 với vụ án cuối cùng vào năm 1914. *** Một buổi sáng cuối năm 1896, tôi nhận được tờ giấy viết vội của Sherlock Holmes, mời tôi lập tức tới phố Baker ngay. Tới nơi, tôi thấy anh đang ngồi trong một căn phòng mù mịt khói thuốc, trên chiếc ghế đối diện là một phụ nữ đẫy đà đã luống tuổi và có dáng dấp một bà chủ nhà trọ. - Anh Watson, đây là bà Merrilow ở quận South Brixton. - Ông bạn tôi giơ tay giới thiệu - Bà đây không phản đối việc hút thuốc, nên anh cứ mặc sức tận hưởng thú vui của mình. Bà Merrilow muốn kể cho chúng ta nghe một câu chuyện vô cùng thú vị. Và có thể sự việc sẽ còn tiến triển, nên sự có mặt của anh ở đây là vô cùng hữu ích. - Nếu tôi có thể giúp được gì… - Bà Merrilow, chắc bà cũng hiểu rằng nếu tôi tới gặp bà Ronder thì tôi hy vọng có một người làm chứng. Xin bà hãy nói với bà ấy về điều này trước. - Chúa sẽ phù hộ cho ông, ông Holmes ạ! - Người khách nói - Bà ấy rất muốn gặp ông, nên ông có gọi tất cả mọi người trong khu này đến thì bà ấy cũng chả bận tâm gì đâu. - Vậy chiều nay chúng ta nên xuất phát sớm một chút. Trước khi đi, phải đảm bảo là chúng ta đã nắm rõ mọi việc. Bà hãy kể lại tất cả một lần nữa, giúp bác sĩ Watson có thể hiểu được tình hình. Ban nãy bà có nói, bà Ronder đã trọ ở nhà bà bảy năm rồi, nhưng bà mới nhìn rõ mặt bà ấy chỉ một lần duy nhất phải không? Bà Merrilow nói: - Thề có Chúa, tôi ước gì mình chưa bao giờ nhìn thấy mặt bà ấy thì hơn! - Mặt bà ấy bị thương tổn rất nặng nề, phải vậy chứ? - Thưa ông Holmes, không thể gọi đó là một cái mặt người được! Thật là vô cùng khủng khiếp. Một lần, người đưa sữa cho tôi nhác thấy bà ấy đang đứng ngắm cảnh ở cửa sổ tầng trên, anh ta kinh hoàng tới mức làm đổ cả thùng sữa! Lần nọ, bất ngờ tôi chợt nhìn thấy mặt bà ấy, bà ấy lập tức che mặt lại và nói: “Bà Merrilow, chắc bây giờ bà đã hiểu vì sao tôi luôn luôn che mặt bằng tấm mạng này rồi chứ?”. - Bà có biết tí gì về quá khứ của bà ấy không? - Tôi hoàn toàn không biết gì về bà ấy cả. - Khi bà ấy tới thuê nhà, có sự giới thiệu của ai không? - Không, nhưng bà ấy trả bằng tiền mặt và luôn trả trước rất nhiều. Tiền thuê nhà trả cả quý, hơn nữa cũng không hề cò kè mặc cả. Tôi ngần này tuổi rồi, lại bơ vơ một mình trong thời buổi khó khăn, ngài bảo làm sao có thể từ chối được một người khách giàu có và hào phóng như vậy được? - Lý do gì khiến bà ấy chọn thuê căn hộ của bà? - Căn hộ của tôi cách đường khá xa, yên tĩnh hơn so với các căn hộ cho thuê khác. Hơn nữa, tôi chỉ nhận mỗi một người khách trọ; bản thân tôi cũng không có người thân. Tôi đoán rằng bà ấy đã từng thuê nhiều nơi, nhưng bà ấy thích căn hộ của tôi nhất. Bà ấy cần yên tĩnh và không tiếc tiền. - Bà có nói rằng, kể từ khi tới ở, bà ấy chưa bao giờ để lộ khuôn mặt của mình, chỉ trừ một lần duy nhất kia thôi. Đây quả là một chuyện khá đặc biệt và vô cùng kỳ lạ. Do đó tôi hiểu vì sao bà muốn điều tra xác minh nó đến vậy. - Không phải tôi muốn thế, thưa ông Holmes. Với tôi mà nói, chỉ cần có tiền thuê nhà là tôi đã cảm thấy rất hài lòng rồi. Không có vị khách thuê nhà nào yên lặng hơn, ít chuyện hơn bà ấy. - Vậy thì tại sao bà lại tới đây? - Thưa ông Holmes, đó là vì sức khỏe của bà ấy. Bà ấy càng ngày càng yếu đi. Hơn nữa, trong lòng bà ấy có những bí mật rất hãi hùng nào đó. Có lúc bà ấy la to: “Giết người! Giết người!”. Lần khác lại nghe tiếng bà ấy hét toáng: “Đồ súc sinh tàn ác! Đồ yêu ma quỷ quái!”. Bà ấy kêu gào vào lúc nửa đêm, tiếng hét của bà ấy vang dội khắp nhà làm tôi sợ run lên. Sáng hôm sau, tôi lên thăm bà ấy. Tôi chân thành khuyên: “Bà Ronder này! Nếu trong lòng bà có điều gì u uất không thể nói ra, bà có thể tìm tới cha xứ hoặc cảnh sát, biết đâu họ có cách giúp bà”. “Ơn Chúa, tôi không cần tới cảnh sát!” - Bà ấy nói - “Cha xứ thì không thể làm gì để thay đổi được quá khứ. Nhưng trước khi tôi chết, nếu có một ai đó biết được toàn bộ câu chuyện này thì tôi có thể được an ủi phần nào”. Tôi mách cho bà ấy: “Ồ, nếu bà không muốn nhờ cảnh sát, thì bà hãy nhờ đến ông thám tử nổi tiếng mà mọi người đều biết là Sherlock Holmes ấy”. Thưa ngài, xin lỗi vì tôi đã nhanh mồm như vậy. Nhưng bà ấy vừa nghe liền đồng ý ngay: “Đúng rồi, tôi cần một người như thế”. Bà ấy nói: “Tại sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ? Xin bà hãy mau chóng mời ông ta tới đây, bà Merrilow! Nếu ông ta không chịu tới, bà hãy nói với ông ta rằng tôi là vợ của Ronder, người dạy thú ở đoàn xiếc. Bà chỉ cần nói vậy thôi và cho ông ta cái tên “Abbas Parva””. Bà ấy viết chữ đó lên mảnh giấy đưa cho tôi rồi nói: “Cái tên này sẽ khiến ông ta tới ngay, nếu ông ta đúng là người như tôi nghĩ”. - Đúng là tôi phải đi thật, bà Merrilow ạ! - Holmes nói - Giờ tôi cần trao đổi với bác sĩ Watson một lúc và cuộc nói chuyện này phải kéo dài tới bữa trưa. Khoảng ba giờ chiều, chúng tôi mới có thể tới nhà bà được. Vị khách của chúng tôi vừa lạch bạch bước ra khỏi phòng, vì không còn từ nào có thể miêu tả đúng hơn dáng đi của bà ấy, thì Holmes liền đứng bật dậy, vùi đầu vào lật tìm đống tài liệu trong góc phòng. Vài phút sau, chỉ có tiếng lật giấy “soạt, soạt”, sau đó anh à lên một tiếng đầy thoả mãn. Nghe thế, tôi biết là Holmes đã tìm ra được điều gì đó. Anh ngồi bệt xuống sàn nhà, hai chân khoanh lại, một đống sách to đùng bao quanh, và trên đùi lại có một tập báo đang mở nữa. ... Mời các bạn đón đọc Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes của tác giả Arthur Conan Doyle. Mời các bạn đón đọc Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes của tác giả Arthur Conan Doyle.
Mười Người Da Đen Nhỏ - Agatha Christie
Mười người phát hiện rằng mình đã bị lừa ra đảo để "trả giá" cho "tội ác" đã gây ra, họ ứng với 10 bức tượng nhỏ đặt trên bàn ở phòng khách. Những ngày sau đó từng người lần lượt thiệt mạng tương tự cái cách bài đồng dao trong phòng mỗi người đã mô tả. Kỳ lạ hơn là sau khi một người qua đời, số tượng trong phòng khách bằng cách nào đó đều giảm đi một. Người đầu tiên thiệt mạng là Anthony Marston, anh ta chết vì ngộ độc với triệu chứng tương tự người bị nghẹn. Sau Marston là Ethel Rogers, bà quản gia chết được chồng phát hiện đã chết vì dùng thuốc ngủ quá liều. Vị tướng Macarthur dường như linh cảm được cái chết sẽ đến nên đã bỏ ăn mà ngồi nhìn ra biển và lảm nhảm một mình, bác sĩ Armstrong sau đó phát hiện ông đã chết vì bị một vật cứng đập vào sau đầu. Người thứ tư thiệt mạng là Thomas Rogers, trong lúc bổ củi chuẩn bị cho bữa sáng, dường như Thomas đã để trượt tay và làm lưỡi búa bay thẳng vào đầu. Là người luôn tin rằng mình không làm gì trái với Đức tin, rằng những người khác chết là do bị Chúa trừng phạt, tuy nhiên Emily Brent cũng không thể sống sót, bà bị tiêm thuốc độc vào cổ sau bữa ăn trưa, vết tiêm trên cổ bà tương tự như vết ong đốt. Buổi tối hôm đó đến lượt quan tòa Wargrave được bác sĩ Armstrong phát hiện đã thiệt mạng vì bị bắn vào đầu trong khi đang đội bộ tóc giả của quan tòa. Bản thân bác sĩ vào ngày hôm sau cũng được những người còn lại phát hiện đã chết đuối ở vách đá. Blore là người thứ tám thiệt mạng trên đảo, viên thám tử tư bị bức tượng trong phòng cô Vera Claythorne rơi trúng đầu trong lúc hai người còn lại đang ở ngoài bờ biển bên xác bác sĩ Armstrong. Rơi vào trạng thái hoảng loạn, Claythorne lừa cướp được súng của Lombard và giết chết tay cựu lính đánh thuê. Cuối cùng cô trở lại phòng và treo cổ tự tử với chiếc ghế và dây thòng lọng do một ai đó đã bày sẵn… Đây là một vụ án mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. *** Mười người da đen nhỏ, nguyên bản tựa gốc tiếng Anh: Ten Little Niggers (10 gã mọi đen nhỏ) hoặc And Then There Were None (Và rồi chẳng còn ai) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà xuất bản Collins Crime Club phát hành lần đầu ở Anh ngày 6 tháng 11 năm 1939[2]. Tác phẩm đôi khi còn được xuất bản (và chuyển thể thành phim) dưới tên Ten Little Indians (10 gã da đỏ nhỏ). Tiểu thuyết nói về vụ án bí ẩn trên hòn đảo Soldier Island với 10 người bằng cách này hay cách khác đã thiệt mạng mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. Đây được coi là một trong những tiểu thuyết hình sự xuất sắc và nổi tiếng nhất của Agatha Christie, trên 100 triệu bản sách đã được bán ra khiến tác phẩm này trở thành tiểu thuyết hình sự bán chạy nhất trong lịch sử xuất bản thế giới. Mười người da đen nhỏ cũng là tác phẩm của Agatha Christie được chuyển thể nhiều lần nhất, cả trực tiếp và gián tiếp, dưới dạng phim điện ảnh, truyền hình và kịch sân khấu. Mời các bạn đón đọc Mười Người Da Đen Nhỏ của tác giả Agatha Christie.
Xác Chết - Carter Brown
Cô gái tóc vàng đã có thể. Cô gái tóc nâu đã sẵn sàng. Và Al Wheeler đã sẵn sàng ... vì tình yêu. Cho đến khi tìm thấy ba xác chết. Cảnh sát California bắt đầu cuộc chạy đua truy tìm hung thủ khi xác chết đầu tiên xuất hiện. Xác chết thứ hai xuất hiện trong một căn nhà phòng. Và rồi người thứ ba. Xác chết là một câu chuyện về những cô gái tóc vàng, và những kẻ tống tiền. Và viên cảnh sát tên là Al Wheeler xuất hiện với mục tiêu ngăn chặn tên sát nhân. *** Annabelle Jackson sôi nổi quảng cáo, “Đó là một nơi ăn chơi thật độc đáo, rồi anh sẽ thấy!” Tôi như một thằng ngố mặc cho Annabelle muốn dẫn đi đâu thì dẫn. Khi Annabelle dừng lại trước tấm bảng cũ kỹ có hai chữ ‘Guốc Vàng’ chạy đèn néon vàng óng, tôi ngước nhìn lên và thấy rõ hàng chữ cũng được chạy đèn néon nổi bật “Minuit - nửa đêm”. Tôi giơ tay gãi đầu, hỏi, “Ở đây à?” Không trả lời, Annabelle chộp tay tôi lôi tới trước một cánh cửa, nơi có cầu thang dẫn xuống nhà hầm. Khi đã chọn được chiếc bàn sát tường ưng ý, tôi kéo ghế ngồi và bắt đầu quan sát xung quanh. Nhà hầm rộng mênh mông nhưng nom nó có vẻ giống một cái hang nhiều hơn là một nhà hàng, chẳng có tới một cái máy điều hòa không khí dù là loại tồi tàn nhất. Không khí nóng bức trộn lẫn mùi nước hoa lan tỏa càng tạo cho tôi một cảm giác khó chịu. Thêm vào đó là thứ ánh sáng lờ mờ của nhà hầm khiến tôi phải cố gắng căng mắt lắm mới nhìn thấy được một mái đầu với mớ tóc vàng đang lắc lư bên cạnh. Tôi chồm tới ghé sát mặt để yên chí rằng mình không nhìn lầm. Một gã hầu phòng béo mỡ, thứ lề mề bất cần việc, cặp mắt láo liên tiến đến, gã chống hai bàn tay bẩn thỉu lên mặt bàn và hỏi một cách xấc xược, “Hai người ăn uống ra làm sao? Kể mau nghe!” Tôi ngáp dài, “Hai scotch có đá. Mà này, lần sau nên lịch sự một chút nhé. Nhớ tráng sạch ly trước khi mang ra cho chúng tôi!” Gã nhe răng cười nhăn nhở, “Tại sao vậy? Đêm nay anh không định thầu hết chỗ này chứ?” Gã trả đòn, rồi nhún vai biến nhanh như gió. Tôi nheo một bên mắt, nhìn cô bạn, “Trước đó anh luôn thắc mắc, không hiểu em sẽ tìm đâu ra thứ hang ổ hắc ám trong Pin City này. Bây giờ mới hiểu ra. Thánh thật!” Cô nàng đáp nhanh, “Nếu chịu khó nhìn chung quanh, anh sẽ nhìn thấy tín đồ ở đây đều có trán bóng lưỡng và những tròng kính dày cộm. Chúng ta đang trong hậu cung của các nhà học giả đấy!” “Quí vị đó chui vào hốc bò tó này làm gì?” “Họ đến vì… Jazz. Đó là bộ sậu gồm Clarence Nesbitt đàn bass, Cubn Carter trống và Wesley Stewart kèn đồng, ba tay này trước đây là những kẻ vô danh tiểu tốt, giờ thì mọi người đều ngưỡng mộ họ.” “Hừ, không có tôi trong số đó đâu nhé.” “Chưa hết, còn một nguyên nhân nữa.” “Nguyên nhân gì?” “Cái này dứt khoái là anh ngưỡng mộ: Nàng Minuit, như tấm biển đề ngoài cửa.” “Chà, hấp dẫn đấy. Nàng trốn đâu, sao không thấy? Biệt danh à?” “Không, nàng có tên Minuit O’Hara, chỉ xuất hiện vào.nửa đêm. Lý do như thế nào, hiện giờ chưa rõ. Còn ít phút nữa…” Tôi cắt ngang, lay nhẹ khuỷu tay Annabelle. “Các ca sĩ lớn đang chờ em, ở nhà anh, trong băng nhựa. Máy thu băng của anh thuộc loại thượng hảo hạng, một trong những…” “Anh khoan kể nốt,” cô chặn lại giọng lạnh tanh. “Annabelle là cô gái không dễ mắc câu!” Rượu Scotch được mang ra và gã hầu phòng béo mỡ đang ném cái nhìn chòng chọc vào Annabelle, trước khi đặt chiếc ly trước mặt nàng. “Ối dào, phù… phù! Xin cho biết.” Gã hít một hơi thật sâu. “Cái gì đây?” “Một cô gái,” tôi quát vẻn vẹn ba chữ tạo thành câu. “Tôi nhắc nhở anh! Có cần hiểu rộng thêm ý nghĩa tôi muốn nói không?” “Mẹ kiếp, đêm nay mình gặp hên..” Thốt xong, hắn phe phẩy chiếc khăn trên tay như chó vẫy đuôi, rồi lỉnh vào bếp. Annabelle đầy hưng phấn, nói với vẻ háo hức, “Anh nghe đấy, ta còn thưởng thức dài dài. Từ New Orleans thuần nhất có thể rút tỉa ra vài câu thơ theo cung cách Chicago. Qua thể điệu Wing anh sẽ túy lúy bằng những tiếng ‘hí… hê’ thoát ra từ…” Lạy chúa, giọng lưỡi của cô nữ tín đồ sùng bái được bộ tam sên trên bục diễn che lấp mất qua bản “Có một đứa ngu”. Tôi lơ đãng nhấm nháp Whisky, những điều nghi ngờ tệ hại nhất của tôi về Annabelle Jackson đã được xác nhận rồi. Khi bài hát vừa dứt, Annabelle quay sang tôi, đôi mắt lóng lánh, cuồng nhiệt. Cô hăm hở, “Anh cảm thấy thế nào?” Tôi nhăn mặt, ngáp dài, “Ồn ào quá,” tôi đáp. “Trong khi anh chỉ cần ấn nhẹ cái nút, âm thanh đã vừa đủ nghe và hàng loạt ca sĩ nổi danh đương thời lần lượt cất giọng…” Annabelle vờ ngơ ngác, “Chúa ơi, ở đâu có?” “Trong băng nhựa! Xin nói thêm, tủ rượu của anh có vô số rượu khai vị. Còn Whisky thì khỏi nói, toàn là thứ còn nguyên con dấu và nhãn hiệu đàng hoàng, chưa hết…” ... Mời các bạn đón đọc Al Wheeler [#6]: Xác Chết của tác giả Carter Brown.
Tiếng Chó Tru Trong Đêm - Erle Stanley Gardner
Truyện rất tuyệt, một trong những #Mason hay nhất tôi từng đọc. Tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, đoạn kết phải nói là: Hảo Hảo - Mỳ tép số 1 VN. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** - Xin mời vào, thưa ngài Cartrait, - Della Street mở cửa. - Ông Mason đang đợi ngài ạ. Người đàn ông cao lớn vai rộng gật đầu và đi vào văn phòng. - Ngài là Perry Mason? - Ông ta hỏi. - Ngài là luật sư ạ? - Vâng, - Mason đáp. - Xin mời ngài ngồi. Người đàn ông ngả xuống ghế bành, rút thuốc lá nhét một điếu vào miệng và chìa bao thuốc cho Mason. Trầm ngâm ngó bàn tay run rẩy, Mason lắc đầu từ chối. - Cảm ơn ngài, tôi thích loại thuốc khác hơn. Người đàn ông hấp tấp nhét bao thuốc vào túi. Quẹt diêm, tựa khuỷu tay vào tay vịn của ghế và châm thuốc hút. - Thư kí của tôi báo với tôi rằng. - Mason thong thả nói. - ngài muốn trò chuyện cùng tôi về con chó và về bản di chúc. - Về con chó và di chúc, - người đàn ông lặp lại như tiếng vọng. - Được rồi. Đầu tiên chúng ta bàn về bản di chúc, bởi vì tôi hiểu biết về chó ít lắm! Mason kéo cuốn sổ tay lại gần mình và cầm lấy bút máy. - Tên ngài là gì? - Artur Cartrait. - Tuổi? - Ba mươi hai. - Địa chỉ thường trú? - 4893, Milpas Draiv. - Có vợ hay độc thân? - Lẽ nào điều đó lại có ý nghĩa gì chăng? - Vâng, - Mason nói, ngước nhìn khách hàng. - Điều đó không quan trọng đối với di chúc, - ông kia cự lại. - Mặc dù thế vẫn cần. - Nhưng tôi đã nói rồi, điều đó không liên quan gì với di chúc của tôi. - Vợ ngài tên là gì? - Paula Cartrait. - Bà ấy sống với ngài chứ? - Không. - Vậy thì ở đâu? - Tôi không rõ. Mason ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ tay. - Được rồi, - ông nói sau một khoảng im lặng ngắn, - trước khi chúng ta quay lại những chi tiết về cuộc sống gia đình ngài, chúng ta hãy nói về việc ngài định làm gì với tài sản của ngài. Ngài có con cái không? - Không. - Ngài muốn để tài sản của mình lại cho ai? - Trước hết hãy nói với tôi, bất kể việc người viết ra di chúc chết như thế nào, nó có còn hiệu lực hay không? Mason im lặng gật đầu. - Chúng ta cứ cho rằng, - Cartrait tiếp tục. - theo phán quyết của toà vì vụ án mạng con người gây ra, y sẽ chết trên giá treo cổ hoặc trên ghế điện. Chuyện gì sẽ xảy ra với di chúc của y? - Con người có từ giã cuộc đời bằng cách nào đi nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực di chúc về mặt pháp lí, - Mason đáp. - Cần bao nhiêu người làm chứng cho một bản di chúc? - Hai, với một loại tình huống và không cần một ai, với những tình huống khác. - Ngài có ý gì? - Nếu di chúc được đánh máy và ngài kí, thì chữ kí được khẳng định bởi hai nhân chứng. Nếu bản di chúc được viết tay toàn bộ, kể cả ngày tháng và chữ kí, và không có một chữ nào được đánh máy, thì theo luật pháp của bang này, không cần đến nhân chứng. Bản di chúc như thế có hiệu lực pháp lí và việc thi hành nó là một điều tất yếu. Artur Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Gì đi nữa, thì ít nhất với điều này mọi thứ cũng đã rõ. - Ngài muốn để tài sản lại cho ai? - Mason nhắc lại. - Bà Clinton Fouli, sống tại Milpas Draiv, 4889. Mason sửng sốt nhướng lông mày. - Cho bà hàng xóm ư? - Cho bà hàng xóm, - Cartrait khẳng định. - Rất tốt. Nhưng hãy lưu ý, ngài Cartrait, ngài đang nói với luật sư của mình. Ngài không nên có bí mật gì đối với tôi. Xin đừng lo, tất cả những điều nói ra tại đây, sẽ ở lại giữa hai chúng ta mà thôi. - Thì tôi có giấu giếm gì đâu! - Cartrait kêu lên nôn nóng. - Tôi không tin chắc vào điều đó, - Mason nhận xét trầm tĩnh. - Thế nhưng chúng ta quay lại với di chúc của ngài đã. - Tôi nói hết rồi. - Hết là thế nào? - Sở hữu riêng của tôi tôi di chúc lại cho bà Clinton Fouli. Perry Mason đặt bút xuống bàn. - Nếu thế thì chuyển sang chuyện con chó vậy. - Con chó tru. Mason gật đầu vẻ khuyến khích. - Cơ bản là nó tru vào ban đêm, nhưng đôi khi cả ban ngày. Tiếng tru này đẩy tôi đến chỗ phát điên. Thì ngài cũng biết, lũ chó tru khi có ai đó chết. - Con chó này sống ở đâu? - Trong ngôi nhà bên cạnh. - Tức là bà Clinton Fouli sống một phía nhà ngài, còn từ phía khác, con chó đã tru? - Không, con chó tru trong nhà của Clinton Fouli. - Hiểu rồi, - Mason gật đầu. - Hãy kể cho tôi nghe về mọi chuyện đi, thưa ngài Cartrait. Người khách dụi đầu mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn, đứng lên, đi đi lại lại trong văn phòng và quay trở lại ghế bành. - Ngài nghe này, tôi rất muốn hỏi ngài thêm một câu về bản di chúc. - Tôi nghe đây. - Chúng ta cứ giả sử rằng, bà Clinton Fouli trong thực tế không phải là bà Clinton Fouli. - Ngài có ý nói gì? - Chúng ta cứ cho là bà ta sống với ông Clinton Fouli như một người vợ chính thức, nhưng đám cưới của họ không có đăng kí hợp pháp. - Điều đó không có ý nghĩa gì, - Mason chậm rãi đáp, - nếu trong bản di chúc của mình, ngài miêu tả bà ta như “bà Clinton Fouli, sống với ông Clinton Fouli, theo địa chỉ Milpas Draiv, 4889”. Nói đúng hơn, người làm di chúc có quyền để lại sở hữu của mình cho bất cứ ai, nếu bản di chúc xác định rõ ràng ý định của người đó. Ví dụ, người đàn ông để tài sản của mình cho vợ, nhưng sau đó hoá ra rằng họ đã không đăng kí một cách chính thức. Đôi khi gia tài được để lại cho các con trai, mà lại không phải là con trai họ... - Tôi không quan tâm điều đó, - Cartrait sốt ruột cắt lời ông. - Tôi muốn biết sự thế sẽ thế nào trong trường hợp cụ thể của tôi thôi. Bà Clinton Fouli có cần phải là vợ hợp pháp của Clinton Fouli hay không? - Điều đó không nhất thiết. - Thế nếu như, - cặp mắt Cartrait biến thành hai khe hẹp, - vẫn tồn tại bà Clinton Fouli đích thực? Nếu Clinton Fouli có vợ và chưa li dị với người vợ hợp pháp của mình, còn tôi di chúc lại sở hữu của mình cho bà Clinton Fouli đang sống với ông ta trong một ngôi nhà? - Tôi đã giải thích với ngài rồi, - Mason nhẫn nại đáp, - điều chủ yếu: Đó là dự định của người lập di chúc. Nếu ngài viết là ngài để lại sở hữu riêng của ngài cho người phụ nữ hiện đang sống theo địa chỉ được nêu như là vợ của Clinton Fouli là đủ. Nhưng như tôi hiểu, ông Fouli vẫn còn sống chứ? - Dĩ nhiên, ông ta vẫn sống. Ông ta là hàng xóm của tôi. - Hiểu rồi. Và ông Fouli có biết ngài sắp để lại tài sản cho vợ ông ấy không? - Tất nhiên không, - Cartrait cắt ngang. - Ông ta chẳng biết gì hết và sẽ không được biết gì cả. - Được rồi, với điều đó mọi sự đã rõ. Chúng ta chuyến sang chuyện con chó. - Ngài phải làm gì đó với con chó này. - Đề xuất của ngài? - Tôi muốn để người ta bắt Fouli vào tù. - Dựa trên cơ sở nào? - Trên cơ sở là tiếng chó tru làm tôi phát điên. Đó như là sự tra tấn. Lão dạy cho nó tru. Trước đây con chó không tru. Nó chỉ mới tru một, hai đêm vừa rồi thôi. Lão cố ý chọc tức tôi và vợ của lão. Vợ lão đang ốm, mà con chó cứ tru như trước cái chết của ai đó vậy, - Cartrait lặng đi, thở nặng nhọc. Mason lắc đầu. - Thật tiếc, thưa ngài Cartrait, tôi sẽ chẳng giúp gì được cho ngài. Trong lúc này tôi rất bận. Thêm nữa, lại vừa kết thúc một vụ tố tụng khó khăn và... - Tôi biết, tôi biết, - Cartrait cắt lời ông. - Và ngài nghĩ rằng tôi là một gã thần kinh. Ngài cho rằng tôi đề nghị ngài một thứ vặt vãnh gì đó. Đâu phải như thế. Tôi đề nghị ngài làm một việc cực kì quan trọng. Và tôi đến với ngài chính là bởi vì ngài đã thắng vụ tố tụng ấy. Tôi theo dõi tiến trình của nó, thậm chí đã đến phòng xử án để nghe ngài. Ngài là một trạng sư chân chính. Lần nào ngài cũng vượt lên trước biện lí tối thiểu là một nước đi. Mason mỉm cười yếu ớt. - Cảm ơn vì những lời tốt lành, ngài Cartrait ạ, nhưng xin ngài hiểu cho. Tôi là luật sư tư pháp. Việc lập các bản di chúc không phải là lĩnh vực của tôi, còn tất cả những gì dính líu đến con chó, thì chúng ta có thể điều chỉnh được mà không cần sự can thiệp của luật sư. - Không! - Cartrait kêu lên. - Ngài chưa biết Fouli đấy thôi. Ngài không tưởng tượng nổi đó là hạng người thế nào đâu. Có thể là ngài nghĩ rằng tôi không có tiền? Tôi có tiền, và tôi sẽ trả rất khá cho ngài, - ông ta lôi từ túi ra cái ví căng phồng, mở nó, bàn tay run rẩy rút ra ba tờ giấy bạc và đặt chúng lên bàn. - Ba trăm đôla. Đó là đặt cọc. Sau này ngài sẽ được nhận nhiều hơn. Các ngón tay của Mason đánh nhịp trên mặt bàn. - Thưa ngài Cartrait, - ông thốt ra dè dặt, - nếu ngài muốn để tôi làm luật sư cho ngài, tôi yêu cầu lưu ý tới điểm sau: Tôi sẽ chỉ làm điều gì mà theo niềm tin của tôi là đem lại lợi ích cho ngài. Chắc ngài hiểu? - Tôi mong được như thế. - Có nghĩa là tự tôi sẽ quyết nên làm gì để bảo vệ trọn vẹn nhất các quyền lợi của ngài. - Tốt, - Cartrait đáp. Mason cầm tiền ở bàn và bỏ chúng vào túi. - Đã thoả thuận xong. Tôi sẽ đại diện cho ngài trong vụ này. Nghĩa là ngài muốn Fouli bị bắt? - Vâng. - Đành thế, điều đó cũng không phức tạp gì lắm. Ngài cần đâm đơn kiện, và chánh án sẽ viết lệnh bắt giữ. Nhưng tại sao ngài lại nhờ cậy tôi? Ngài muốn để tôi giữ vai trò đại diện của nguyên cáo? - Ngài chưa biết Fouli, - Artur Cartrait nhắc lại. - Lão sẽ chẳng để cho yên thế đâu. Lão sẽ đâm đơn ra toà hặc tôi vì sự buộc tội giả trá. Có thể là lão bắt con chó tru, nhằm nhử tôi vào bẫy đấy. - Con chó giống gì? - Bécgiê cảnh sát to tướng. Perry Mason liếc nhìn Cartrait và mỉm cười. - Nếu người đưa đơn kiện đã sơ bộ nhờ đến luật sư, kể hết với ông ta tất cả không che giấu điều gì, và trong tương lai tuân thủ các lời khuyên của luật sư, thì trong khi xem xét tố tụng về sự buộc tội giả trá, điều đó sẽ có lợi cho người kiện. Còn bây giờ, tôi muốn làm để sao cho Clinton Fouli không có nguyên cớ đâm đơn kiện ngài lên toà. Tôi sẽ đưa ngài đến gặp trợ lí ngài biện lí khu, người phụ trách những vấn đề tương tự. Tôi muốn để ngài nhắc lại với ông ấy tất cả những gì liên quan đến con chó. Có thể không nhắc tới bản di chúc. Nếu ông ấy quyết rằng điều ngài nói là đủ để có lệnh bắt giam, thì lệnh sẽ được viết. Nhưng tôi cảnh báo trước, ngài không nên giấu giếm gì cả. Hãy đưa ra trước ông ấy tất cả các cứ liệu, và lúc ấy bất cứ đơn kiện nào của Fouli cũng không làm hại được ngài. Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Giờ ngài mới nói ra vấn đề. Chính tôi cần một lời khuyên như thế. Chúng ta tìm ông trợ lí ở đâu đây? - Bây giờ tôi sẽ gọi điện thoại cho ông ấy và thỏa thuận về cuộc gặp, - Mason đáp. - Xin thứ lỗi, tôi phải ra ngoài một lát. Xin ngài hãy cứ tự nhiên như ở nhà vậy. - Hãy cố thoả thuận với ông ấy vào ngay hôm nay. Tôi sẽ không chịu đựng thêm nổi một đêm nữa với con chó tru đâu. Khi Mason rời khỏi văn phòng, Cartrait lấy thuốc lá ra. Để châm thuốc, ông ta buộc phải lấy tay khác đỡ bàn tay cầm que diêm... Ở phòng tiếp khách Della Street ngẩng đầu lên. - Bị cắm sừng à? - Cô hỏi. - Tôi không biết, - Mason đáp, - nhưng tôi cố làm sáng tỏ điều đó. Hãy nối tôi với Pit Dorcas. Tôi dự định chuyển vụ này cho ông ta. Trong khi Della quay số, Mason đứng cạnh cửa sổ, ngó xuống cái giếng xi măng, từ đó vọng lại tiếng động của xe cộ. Dorcas ở đầu dây. Mason quay lại, đi đến chiếc bàn đặt trong góc phòng tiếp khách và nhấc ống nói. - Chào anh Pit. Perry Mason đây. Tôi sẽ đưa khách hàng của tôi tới chỗ anh, nhưng tôi muốn cho anh biết trước vấn đề nói về việc gì. - Ông ta cần gì? - Ông ta muốn đâm đơn kiện. - Về lí do gì? - Về con chó tru. - Về... - Phải, phải, con chó tru. Hình như trong khu chúng ta đã có một nghị định cấm giữ chó tru sủa trong vùng dân cư. - Đúng là có, nhưng có ai để ý đến nó đâu. Chí ít tôi cũng chưa vấp phải những lời than phiền như thế. - Đây là trường hợp đặc biệt. Khách hàng của tôi đang phát điên hoặc đã điên rồi vì tiếng tru này. - Chỉ vì tiếng chó tru ấy à? - Tôi muốn làm sáng tỏ chính cái điều đó. Nếu khách hàng của tôi cần đến sự giúp đỡ về y tế, hẳn tôi muốn để ông ta nhận được nó. Chính anh cũng hiểu, ở người này tiếng chó tru chỉ gây ra sự bực bội, với người khác có thể làm họ phát điên. - Điều đó là chính xác, - Dorcas đồng ý. - Anh đưa ông ta đến gặp tôi chứ? - Vâng. Và tôi muốn buổi trò chuyện của chúng ta diễn ra với sự có mặt của nhà tâm thần học. Không nên nói với ông ta đó là bác sĩ, anh cứ giới thiệu ông ấy như trợ lí của anh, và cứ để ông ấy đặt vài ba câu hỏi. Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ rõ ngay trạng thái tâm lí khách hàng của tôi. - Tôi sẽ đợi các anh, - ngừng một chút, Dorcas nói. - Chúng tôi sẽ có mặt sau mười lăm phút. - Mason đặt ống nói xuống. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #04: Tiếng Chó Tru Trong Đêm của tác giả Erle Stanley Gardner.