Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bọn Chiếm Đóng - Kobo Abe

Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. *** Abe Kôbô là một trong những nhà văn hậu chiến Nhật Bản thế hệ Shôwa 30 (từ năm 1955 trở đi) có khuynh hướng đi tìm một thủ pháp mới với mục đích bắt gặp con người toàn thể như một sinh vật có tính xã hội và chính trị. Nhà văn thế hệ nầy đều muốn tìm hiểu đâu là lối sống thích hợp của con người trong điều kiện của xã hội hiện tại. Abe Kôbô trên giấy tờ được gọi là Kimifusa theo cách đọc âm Nhật của hai chữ Hán Kôbô. Song thân gốc miền bắc (đảo Hokkaidô) nhưng ông sinh ra ở Tôkyô ngày 7 tháng 3 năm 1924. Cha ông, một bác sĩ y khoa tùng sự tại Mãn Châu. Do đó, ông lớn lên ở Phụng Thiên (nay là Thẩm Dương thuộc Trung Quốc) nhưng đã trở về nước để học thuốc và tốt nghiệp y khoa Đại học Đế Quốc Đông Kinh năm 1948. Sau khi Nhật bại trận và cha chết, ông sống cuộc đời nghèo túng nhưng vẫn cố gắng bỏ tiền túi in thơ (1947) và tiểu thuyết (1948). Không hành nghề y như cha, ông theo nghiệp văn như mẹ, một nhà giáo có đầu óc khuynh tả. Đầu tiên, ông sử dụng một bút pháp trừu tượng, xa rời hiện thực, nhưng sau chuyển qua văn phong tiền vệ với khuynh hướng đi tìm những ý tưởng và phương pháp biểu hiện mới mà trung tâm là những câu chuyện ngụ ngôn có tính khoa học giả tưởng. Đặc điểm của văn chương ông trước tiên là bản chất con người khoa học của ông. Thứ đến là tình cảm thiếu quê hương vì nơi ông gắn bó sâu đậm nhất là Mãn Châu, một nơi về sau đã trở thành một tỉnh của Trung Quốc. Ở Tôkyô, ông có cảm tưởng như mình sống trong một miền đất lạ. Quê hương ông là Mãn Châu có sa mạc ngút ngàn và những cơn bão cát chứ không phải là thành phố Tôkyô xô bồ, lạ mặt. Đặc điểm thứ ba là kinh nghiệm đau thương của cuộc sống khốn cùng sau những ngày Nhật Bản bại trận, lúc người di dân lập nghiệp ở thuộc địa trong số đó có gia đình ông đã phải vượt qua bao khó khăn để có thể về đến mẫu quốc. Người có ảnh hưởng đến lối suy nghĩ của ông là Abe Rokurô, ông giáo dạy tiếng Đức và là nhà nghiên cứu về triết học của Nietsche [1] và Shestov [2]. Qua Abe Rokurô, ông làm quen được Haniya Yutaka [3]. Trước khi ra trường (1947), ông kết hôn với Yamada Machiko, một nữ sinh viên ngành hội họa. Họ sống đạm bạc trong một căn nhà lợp tạm và đeo đuổi hoạt động nghệ thuật. Bà Machiko đã giúp đỡ ông rất nhiều trong việc trang trí hình bìa những tác phẩm và trong việc dựng phông cảnh khi Abe chuyển qua kịch nghệ. Tài năng của Abe đa dạng. Ông không những làm thơ, viết văn, dựng kịch, vẽ tranh mà còn chen vào các lãnh vực truyền thanh, truyền hình. Ở đâu, ông cũng chứng tỏ một tài năng phi thường và thí nghiệm không mệt mỏi những thủ pháp diễn đạt mới. Vì lúc nào cũng đi trước thời đại nên không phải ai cũng yêu chuộng ông. Mumyô shishuu "Tập thơ không tên" (1947) là tác phẩm đầu tay. Akai Mayu "Cái kén đỏ" (1950) giúp ông đoạt giải thưởng văn học hậu chiến, Kabe - S. Karuma nohanzai "Bức tường. tội của S. Karma" (1951) đem giải Akutagawa về tay ông lúc mới có 27 tuổi. Sau đó là một loạt tác phẩm như Daishikan Hyôki "Thời kỳ băng hà thứ tư" (1959), Suna no Onna "Người đàn bà trong động cát" (1962), Ta.nin no kao "Gương mặt kẻ khác" (1964), tất cả đều gây nên tranh cãi. Ngoài các vở kịch như Doreigari "Săn nô lệ" (1955), Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958), sau nầy ông còn viết Hako-otoko "Người hộp"(1973) Hakobune sakuramaru "Chiếc thuyền lợp mái tránh lụt tên gọi anh đào" (1984). Với lối viết tiền vệ, nhà văn Abe Kôbô được sắp vào số tác giả khoa học giả tưởng qua "Bức Tường - Tội của ông Karuma","Thời băng hà thứ tư"nói trên, cũng như Moetsukitachizu "Bức địa đồ cháy rụi" (1967) mà ông viết theo phong cách nhà văn Pháp Alain Robbe-Grillet. Ông đặc biệt chú trọng tới chủ đề tha hóa (alienation). Abe Kôbô còn nhảy vào sân khấu như lạc bước vào một mê cung lúc nào không hay. Năm 1955, trong một cuốn tiểu thuyết nhan đề Seifuku "Đồng Phục" ngẫu nhiên có một số đoạn, ông trình bày như đối thoại của kịch. Thế rồi, Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958) của ông đã ra đời 3 năm sau như ta đã biết. Ông đưa lên sân khấu những ảo tưởng (phantasm) của thời mới như ảo tưởng tinh thần, tâm lý hay thương mãi và muốn bắt nọn khán giả. Ông xem sân khấu phải là một loại chất dẻo để khán giả có thể nắn theo ý mình và để lại những dấu tích sự tham dự của họ vào quá trình xây dựng chung giữa nhà viết kịch bản, diễn viên và khán giả đó. Khán giả không thể là vô can. Họ được xem như có khả năng phạm tội. Ông muốn nói như thế về vai trò của người xem kịch khi viết vở Omae ni mo tsumi ga aru "Mầy cũng có tội nữa đấy" (1965). Một ví dụ khác với vở Enomoto Takeaki (1967), trong đó ông mô tả cuộc nổi loạn để thành lập một chế độ Cộng Hòa ở Hokkaidô năm 1870 của Enomoto Takeaki nhưng không phải là không muốn chất vấn khán giả về thái độ họ phải chọn lựa trước sự kiện ấy. Từ năm 1969, Kôbô chuyển qua dàn cảnh và thành lập trung tâm nghiên cứu và thí nghiệm kịch nghệ Abe Kôbô Studio (từ 1973), thử sửa đổi và dựng lại nhiều vở cũ, chuyển một số tiểu thuyết, kịch phóng thanh, kịch bản phim đã viết thành kịch nói. Danh tiếng ông vang dội trong lẫn ngoài nước. Hầu như cứ một lần viết một tác phẩm mới, ông lại như nới rộng thêm chân trời văn học. Ông được quốc tế đánh giá cao, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Ý, Đức. Tháng 9 năm 1992, ông được Hàn Lâm Viện Khoa Học Nghệ Thuật Hoa Kỳ trao tặng danh hiệu hội viên danh dự. Chẳng bao lâu, một ngày cuối năm, đang ngồi viết trong thư phòng, ông bị tai biến mạch máu não, mê man và được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Đầu năm sau, lại nhập viện vì vấn đề tim mạch và mất vào ngày 22 tháng giêng năm 1993, khép lại cánh cửa một cuộc đời hoạt động văn học nghệ thuật không ngừng nghĩ.   Mời các bạn đón đọc Bọn Chiếm Đóng của tác giả Kobo Abe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Giá Phải Trả - Warren Fellows
Năm 1978, Warren Fellows đã bị kết án tù chung thân ở Thái Lan do buôn bán và vận chuyển heroin. Cái Giá Phải Trả là câu chuyện về một cơn ác mộng không thể tưởng tượng trong một nơi mà chuột cống và gián là nguồn thực phẩm bổ dưỡng duy nhất, và nơi diễn ra hình phạt tồi tệ nhất là khun deo - phòng biệt giam, theo phong cách Thái. Warren Fellows biết mình phạm tội, nhưng ông đã phải chịu đựng và tồn tại trong một môi trường kinh hoàng ngoài sức tưởng tượng. Tác giả viết cuốn sách này không vì mục đích cầu xin sự tha thứ, cũng không phủ nhận mình là kẻ tội lỗi, nhưng đây là câu chuyện về một thử thách mà không ai muốn trải qua… Đau lòng, hấp dẫn và không thể đặt xuống là điểm nổi bật của cuốn sách này. "Warren Fellows thừa nhận rằng ông bị bắt là chính đáng, nhưng ngay cả một tù nhân phạm tội nặng nhất cũng thành vô tội trong hoàn cảnh này. Bức tranh mà ông miêu tả thật khủng khiếp. Nếu bạn muốn biết điều gì đã khiến Warren Fellows kinh hoàng, hãy đọc cuốn sách này". *** Hãy suy nghĩ về những ngày tồi tệ nhất trong cuộc đời bạn. Có lẽ đó là khi người mà bạn yêu thương qua đời; hoặc khi bạn bị thương nặng trong một tai nạn, hoặc bạn gặp một điều ghê sợ đến nỗi khó có thể chịu đựng nổi. Bây giờ hãy hình dung 4000 ngày như thế trong một nhà tù lớn. Trong cuốn sách này, W. Fellows mô tả những gì ông đã trải qua suốt 12 năm tại nhà tù Bangkok. Thật khó để tưởng tượng làm thế nào có thể tồn tại với tình trạng tinh thần kiệt quệ mỗi ngày. Hãy tưởng tượng bạn bị buộc phải đứng trong một hệ thống cống với tay chân bị xiềng. Một vài phút có lẽ sẽ dài bằng cả thế kỷ. Hãy tưởng tượng bạn phải ăn gián và chuột cống để duy trì sự sống. Nghe có vẻ siêu thực quá, phải không? Nhưng đó chỉ là một trong những khoảnh khắc mà tác giả cuốn sách này đã chịu đựng trong 12 năm ròng rã. “Cái giá phải trả” chính là những trải nghiệm đau thương mà Warren Fellows muốn gửi đến độc giả. Chỉ vì thiếu suy nghĩ, muốn kiếm tiền thật nhanh và thật dễ dàng nên ông đã đánh mất tuổi thanh xuân, đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Nhưng trên hết, những hình ảnh kinh hoàng về cách con người đối xử với nhau trong nhà ngục đã trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi. Câu hỏi đọng lại trên tất cả các trang sách của ông là liệu con người có đáng phải chịu đựng những gì có lẽ chỉ tồn tại trong ác mộng như vậy? Tác giả không trực tiếp trả lời nhưng chắc chắn bạn sẽ có câu trả lời khi đọc xong trang cuối cùng của cuốn sách. Mạn phép gửi đến bạn đọc cuốn hồi ký này, hy vọng sẽ góp một phần nhỏ trong việc thức tỉnh những ai đang mê muội dấn thân vào con đường tội lỗi! Rằng, việc gì cũng có cái giá của nó. Người dịch Ung Thị Bạch Tuyết Mời các bạn đón đọc Cái Giá Phải Trả của tác giả Warren Fellows.
Bước Đường Cùng - Nguyễn Công Hoan
Bước đường cùng - Nguyễn Công Hoan là tiểu thuyết gắn liền với số phận của anh Pha, một người nông dân với những khó khăn chồng chất đã đánh dấu đỉnh cao về tư tưởng của nhà văn Nguyễn Công Hoan và là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng *** Nguyễn Công Hoan  (1903 - 1977) là nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú, như một "bách khoa thư", một "tấn trò đời"mà đặc trưng là xã hội thuộc địa nửa phong kiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Với một số lượng khá lớn như vậy, truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan họp lại thành một bức tranh rộng lớn, khá đầy đủ về xã hội cũ. Về nghệ thuật viết truyện ngắn, phải nói rằng Nguyễn Công Hoan là người có nhiều khả năng và kinh nghiệm. Truyện của ông thường rất ngắn. Lời văn khúc triết, giản dị. Cốt truyện được dẫn dắt một cách có nghệ thuật và kết cục thường rất đột ngột để hấp dẫn người đọc. Mỗi truyện như một màn kịch ngắn có giới thiệu, thắt nút và mở nút. Tiêu biểu là các truyện ngắn: Kép Tư bền, Người ngựa, ngựa người..., tiểu thuyết  có Bước đường cùng... Ngay từ khi xuất hiện, Nguyễn Công Hoan luôn gây được sự chú ý, quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và nhiều thế hệ độc giả. Mặc dù có nhiều người khen kẻ chê, nhưng truyện ngắn truyện dài của Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo, Ba Vì hùng vĩ. Trong thời tiền chiến, ai mà chẳng đọc qua các quyển: Tắt lửa lòng, Bước đường cùng, Tấm lòng vàng, Cô giáo Minh, Trên đường sự nghiệp, Lệ Dung, Nợ nần, Bơ vơ, v. v... Hơn nữa, một số tác phẩm của ông đã được và Đoàn Kịch nghệ nổi tiếng thời ấy phóng tác thành tuồng cải lương, lưu diễn từ Nam chí Bắc và được đồng bào các giới tán thưởng nồng nhiệt! Ông sáng tác đủ mọi chiều hướng: Trữ tình, Xã hội, Tranh đấu, Giáo dục,... nhưng có một điểm nổi bật hơn hết là mỗi tác phẩm của ông đều mang một sắc thái đặc biệt... đánh dấu một bước tiến mới cho bộ môn tiểu thuyết thời ấy. Nhưng, từ 20 năm qua... những tác phẩm của ông hầu hết bị thất lạc, bị mai một vì nạn Đất Nước qua phân! *** Anh em rất ngạc nhiên về cái thái độ của Nghị Lại chịu nước lép. Thấy sự đoàn kết rất có công hiệu, Dự trỏ vào đống lúa xếp đầy sân: - Đáng lẽ mẫu bảy thóc của anh Thi với anh San đã vào túi tham không đáy hết cả. Pha lo ngại: - Nhưng quyết hắn trả thù, mà thù này phải biết hắn tính toán kỹ lưỡng lắm. Thi gật đầu: - Cho nên hôm nào lúa của anh chín, ta nên rủ người đi cho đông, và phải cẩn thận lắm, kẻo thua mất. San xua tay: - Nếu tám sào của anh Pha bị hắn cướp hết thì thóc của chúng mình gặt về, đem chia ba. Mấy anh em rất cảm động. Một lát Pha nói: - Bác trưng bảo rằng thua, nhưng tôi cho là không đúng. Chúng mình ba lần gặt, đã được đến hai lần, dù có thua một lần ta cũng vẻ vang quá rồi. Dự tiếp: - Như thế tức là đằng nào mình cũng giữ phần thắng lợi rồi. Bốn người cười vui vẻ, nghỉ tay để uống nước. Bát chè tươi sóng sánh dưới ánh trăng. Tiếng thình thịch đập lúa ở sân các nhà theo luồng gió lạnh hiu hắt đưa đi làm cho làng An Đạo có vẻ hoạt động. Một lát, San nói: - Từ nay chúng ta phải giữ mình. Hắn có đến hằng trăm thứ khí giới, mà ta chỉ có trơ mỗi đứa hai cánh tay không. Dự đáp: - Nhưng hai cánh tay mạnh mẽ, hai cánh tay làm cho đất cát có giá trị. ... Mời các bạn đón đọc Bước Đường Cùng của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Thừa Tự - Khái Hưng
Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn" là tên gọi mà nay đã trở nên thông dụng. đó là sự xác định về một thiên tiểu thuyết có luận đề, tức là một câu chuyện hư cấu với những nhân vật và cốt truyện hư cấu, nhằm thể hiện một hoặc một vài tư tưởng xã hội, nhân sinh của tác giả. So với truyện truyền kỳ, truyện Nôm, truyện chương hồi, thì đây là một cơ cấu nghệ thuật khác, được tạo dựng theo mô hình tiểu thuyết châu Âu. Các tiểu thuyết gia Tự Lực văn đoàn đã đem chất liệu đời sống Việt Nam, ngôn từ Việt Nam đan dệt theo cái mô hình dù sao cũng còn xa lạ ấy, dân tộc hóa nó đi để nó có thể được tiếp nhận bởi công chúng Việt Nam. Và họ đã thành công trên hướng này. Link Suport:  Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934), Tiêu Sơn tráng sĩ (1934), Gia đình (1936), Thoát ly (1937), Thừa tự (1938) của Khái Hưng; Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937)… của Nhất Linh, Con đường sáng (1938) của Hoàng Đạo, v.v… đã gây được dư luận về các vấn đề xã hội và văn học. Người ta thấy các câu chuyện trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn thường là những chuyện tình, xoay quanh tình yêu, hôn nhân. Nhưng các chuyện tình ở đây khác với chuyện tình trong truyện Nôm tài tử giai nhân ở mức độ chống lễ giáo phong kiến quyết liệt không khoan nhượng của nó. Đây là chuyện tình của những con người đô thị, của những "chàng" những "nàng" tân thời, học chữ Tây, sống ở đô thị, hấp thụ văn minh châu Âu. Tình yêu và hôn nhân là lĩnh vực mà họ dễ vấp phải những gò bó của lễ giáo cũ; họ phải vượt qua để tự khẳng định nhu cầu tự do của mình. Họ đòi tự do trong cuộc sống, trước hết là tự do yêu đương, tự do kết hôn. Họ tìm thấy cái đẹp, thấy giá trị trong cuộc sống Âu hóa: cá nhân, tự do, hạnh phúc. Họ phủ nhận con người chức năng trong luân thường đạo lý Nho giáo. (2) Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn tìm tòi và thể hiện những con người mới ấy, trong cuộc sống mới, đô thị hóa. Nó xây dựng một văn hóa nhân cách mới mà giá trị trung tâm là con người cá nhân tự do: không có những "con người mới" kiểu này thì trong cộng đồng xã hội người không thể có "dân chủ", "dân quyền". Lúc đầu, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn bị phản đối quyết liệt: cả ở nội dung đòi hỏi giải phóng con người cá nhân tự do, cả ở hình thức văn học ít nhiều xa lạ với truyền thống. Nhưng rồi, từng bước một, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn chinh phục được công chúng, trở nên quen thuộc với họ, nhất là lớp công chúng thị dân, học sinh. Và khi các nhà tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đã đi hết chặng đường sáng tạo của họ, thì "kiểu dáng" tiểu thuyết họ tạo dựng đã trở thành cái nền, thành điểm tựa để nhiều nhà văn thuộc các xu hướng khác tiếp nhận để đi tới những thành tựu cao hơn. Ngày nay nhìn lại, chúng ta buộc phải nhận rằng: các tiểu thuyết gia Tự Lực như Khái Hưng, Nhất Linh đã không tạo ra được những tác phẩm kết tinh cỡ như một Số đỏ (của Vũ Trọng Phụng), một Chí Phèo (của Nam Cao), nhưng sẽ không công bằng nếu chúng ta không thấy rằng ngay ở những kiệt tác không phải của Tự Lực văn đoàn ấy vẫn có phần đóng góp của Tự Lực văn đoàn, bởi ảnh hưởng của lối viết tiểu thuyết kiểu mới do Tự Lực văn đoàn đề xuất có một ảnh hưởng rất đậm, rất mạnh, tác động đến hầu hết những người viết văn xuôi hư cấu đương thời. *** Tài xế! Tài xế đâu? Theo liền tiếng ông huyện Bỉnh gọi, tiếng “dạ” ran từ công đường vào tới nhà trong. Rồi một anh lính lệ thét lớn nhắc lại lời quan: - Bác tài! Bác tài đâu lên quan truyền! Một người từ vòm trại cơ đâm bổ ra, mắt như còn ngái ngủ, vừa chạy vừa cài vội khuy chiếc áo lương mới. Bỉnh đã đứng chờ ở bậc gạch xuống sân: - Tài xế! Đánh xe ra ga Hà Nội đón ông Hai, ông Ba. - Dạ. - Hai ông ở Nam lên chuyến hai giờ. Phải đi ngay mới kịp. Bây giơ mấy giờ rồi? Bỉnh móc túi lấy đồng hồ ra xem: - Năm giờ kém hai mươi. Từ đây ra Hà Nội chỉ độ nửa giờ là cùng. Còn kịp đấy. - Dạ. - Lúc về nhớ rẽ qua phố Hàng Buồm mua vài cân lẽ, vài cân cam với lại vài cân táo. - Dạ. - Bây, cầm lấy năm đồng. ... Mời các bạn đón đọc Thừa Tự của tác giả Khái Hưng.
Nhà Bác Học Mù - Lê Mai
Gián điệp là người đi thu lượm tin tức một cách bí mật khiến người bị theo dõi không biết rằng mình đang bị theo dõi. Yếu tố quan trọng của gián điệp là hoạt động bí mật vì nếu người bị theo dõi khám phá ra thì họ sẽ tìm cách thay đổi môi trường để không bị lộ mật. *** Một lần chót, Lệ Lan kiểm điểm lại mọi vật dụng và thực phẩm đựng trong một túi lớn được đan bằng sợi ni lông, rồi tắt lửa trên bếp hơi và ra khỏi phòng. Nàng khóa cửa rồi đứng nhìn đám trẻ nhỏ ngoài đường đang chạy đua ra bãi biển. Lúc đó chồng nàng là Yên Lịch vẫn mãi mê thảo luận với bác sĩ Giang Điền trong phòng khách. Đã ba tuần, Yên Lịch không ra khỏi nhà, chàng phải giam mình cả ngày lẫn đêm trong phòng nghiên cứu. Bác sĩ Giang Điền - y sĩ trưởng của Trung Tâm, đã nhiều lần thúc giục chàng nên đi hóng gió ngoài trời vài ba giờ. Mãi tới hôm nay Yên Lịch mới bằng lòng đi. Lợi dụng khoảng thời gian trống trong khi chồng nàng và Giang Điền chưa chấm dứt câu chuyện, Lệ Lan trong bộ trang phục thể thao ngắn gọn, đứng soi gương coi lại cách trang điểm của mình - đó là động tác thông thường của bất kỳ thiếu phụ nào, nhất là đối với một người trẻ đẹp và duyên dáng như nàng. Lúc ấy, tiếng bác sĩ Giang Điền lọt ra khỏi phòng khách: - Tôi không cho điểm ấy là quan trọng hơn hết. Vũ trụ tuyến là vấn đề sinh tử phải giải quyết. Lớp vỏ ngoài bằng nhôm của hỏa tiễn không đủ sức chống lại vì quá mỏng. Cần phải đặt những tấm bình phong bằng thép dày 5 xăng ti mét hay hơn nữa. Yên Lịch đáp: - Không được! Như vậy hỏa tiễn sẽ trở nên quá nặng. - Dĩ nhiên! Nhưng từ độ cao 30 ki lô mét trở lên, người nào không được trang bị thật đầy đủ và kỹ càng để che chở thân thể thì sẽ chết, vì trên đó sức tấn công của vũ trụ tuyến mạnh gấp 25 lần sức chịu đựng trung bình của cơ thể. Phải sớm tìm ra một giải pháp cho vấn đề trước khi chế tạo một "hành tinh nhân tạo" chở người theo. Yên Lịch cười rộ và tiếp lời bạn bằng một giọng khôi hài: - Dạ, thưa bác sĩ! Chúng tôi còn ở giai đoạn chế tạo một "Nguyệt cầu tí hon" không đủ sức và không có chỗ để mang theo một con mèo. ... Mời các bạn đón đọc Nhà Bác Học Mù của tác giả Lê Mai.