Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mười Ba Lý Do

Ở thời điểm hiện tại, có 3 cuốn sách tôi chưa “can đảm” đọc lại lần nữa trong tương lai, 3 cuốn đó, là: Mắt Biếc (Nguyễn Nhật Ánh), Tình nhỏ làm sao quên (Đoàn Thạch Biền) và Mười ba lý do (Jay Asher). Tôi chạm đến những trang gây “ám ảnh” với chính mình vào ngày “thất tịch” (mồng 7-7), buổi trưa trời đương nắng bỗng mưa ào xuống, rồi thôi… Rạng sáng, trời mưa lớn, kéo dài, như đã thấm bao ẩn ức chất chứa bấy lâu và chực vỡ òa sau thời khắc gặp nhau ấy; tôi giật mình bởi tiếng động, hồi tưởng về nhân vật trong câu chuyện, tôi nặng lòng lắm! Ngưu Lang – Chức Nữ dẫu mỗi năm chỉ gặp được một lần, ít ra họ còn được nhìn thấy nhau; nhưng hai nhân vật chính trong “MƯỜI BA LÝ DO” mãi mãi chẳng thể nghe giọng nhau, cùng trò chuyện hay thấy nhau nữa… Tôi chợt nhớ dòng trạng thái người quen đăng trên mạng xã hội: “Cuộc đời này vô thường lắm, có lỡ thương ai, nhớ ai thì cứ nói đi, biết còn được gặp nhau bao nhiêu lần nữa đâu… Ngại ngùng không nói, thờ ơ không nói, vô tâm không nói… Để rồi, muốn nói thì chẳng còn ai nghe nữa rồi!” Và, chúng ta sẽ chẳng thể biết rằng, phút giây bất chợt, có khi ta là điểm tựa, là “phao cứu sinh” tinh thần mà đối phương trông ngóng để trút hết những tâm sự thầm kín nhất đời mình. Một ánh mắt, một lời ủi an đúng lúc là liều thuốc tinh thần kịp thời vực dậy ý chí lịm dần giữa đại dương tuyệt vọng chỉ chực nhấn chìm người nặng mang ý nghĩ tiêu cực… * 13 mặt, 7 cuộn băng – 13 lý do như lời trăn trối của Hannah Baker trước khi tự sát. Cô đã thu âm số băng này gửi những nhân vật có liên quan và “yêu cầu” họ chuyển tiếp số băng trên đến những đối tượng khác là một phần của 13 lý do trên. Nếu ai đó làm trái luật, một bộ băng khác sẽ được phát hành ra công chúng. Nhân vật tôi “Clay” ngoài nghe hết 13 mặt băng, cậu còn đi đến những địa điểm được Hannah đánh dấu trên bản đồ, như một cách tưởng niệm người bạn quá cố, như một cách hình dung câu chuyện Hannah kể lại. * Cuốn sách gợi cho tôi khá nhiều suy tư: Về phía Hannah Baker: Thứ 1, cô có quá “ích kỷ” và “tàn nhẫn” lắm không khi nêu tên 13 người trong cuộn băng cùng lý do khiến cô tự sát, như ngầm đeo quả tạ nặng lên vai đảo lộn cuộc sống họ mà họ không được một lần đính chính và xác tín từng chi tiết xuất hiện trong câu chuyện. Thứ 2, cô bất công lắm không khi “quy kết” toàn bộ việc mình tự vẫn cho thầy tâm lý (tôi lờ mờ phán đoán thế). . Về phía Clay Jensen: Giá như anh “lì lợm”, chịu “chai mặt” một chút, không “nghe lời” Hannah bỏ về mà nán lại, rồi ôm cô vào lòng mặc cô đẩy anh ra xa thì có thể anh sẽ không phải nghe cuộn băng nói về mình trong nước mắt, dẫu Hannah nói về anh chỉ những điều tốt đẹp. Giá như Clay cứng rắn hơn, quyết đoán hơn tìm hiểu tin đồn thay vì im lặng, chết nhát để rồi giờ đây tự dày vò mình. . Và, về phía chúng ta; những người làm công tác giáo dục, những bạn học sinh – sinh viên, những con người bình thường trong cuộc sống: Có bao giờ chúng ta từng “kết tội” người tự sát chưa? Có bao giờ mọi người to nhỏ hoặc nhìn đối phương với ánh mắt khinh rẻ thông qua tin đồn mình nghe được về họ chưa? Có bao giờ chúng ta hứng chí lập một danh sách trêu đùa cá nhân bởi vẻ bề ngoài họ có phần “nổi bật” (như thừa cân, số đo 3 vòng…) chưa? Có bao giờ chúng ta tự bào chữa cho hành động đùa quá trớn vô thưởng vô phạt của mình bằng câu chống chế “Vui mà, sao căng vậy…” chưa? Có bao giờ chúng ta lên tiếng tố cáo những việc làm vi phạm pháp luật để bảo vệ chính mình và bảo vệ người khác chưa? Có bao giờ chúng ta bàng quan chuyện ấy không liên quan đến mình và tốt nhất không nên dây vào tránh rắc rối chưa? … Câu chuyện đặt ra rất nhiều vấn đề trong môi trường giáo dục quá cởi mở như nước Mỹ, từ đó dẫn đến các vấn nạn, như: sử dụng chất kích thích và gây tai nạn khi lái xe, hiếp dâm,… * Tôi vẫn thường nói, thời chúng ta đang sống là “thế kỷ cô đơn.” Nhịp sống mỗi ngày thúc hối, công nghệ chi phối con người,… mỗi cá thể tự dựng xây ốc đảo giam hãm mình, sẽ đến một ngày, cá thể không thể tiếp tục chịu đựng và tự kết liễu đời mình. Mãi đến phút cuối, Clay mới thực sự vượt qua bức tường thỏ đế bản thân tạo nên, tiếp cận đối tượng mà anh sợ sẽ rơi vào hoàn cảnh như Hannah Baker, cứ để quả cầu tuyết lăn mãi và đến lúc buông xuôi cho chúng cuốn mình… Cảm ơn Jay Asher đã viết “MƯỜI BA LÝ DO” – cuốn sách đầu tay đầy tinh thế, xoáy vào chủ đề quen thuộc dẫu tồn tại quanh chúng ta nhưng ít tác giả đề cập. Qua “MƯỜI BA LÝ DO”, tôi mong mọi người quan tâm và hiểu nhau hơn, để không còn trường hợp đau lòng nào như Hannah Baker nữa… *** “Anh?” cô nhân viên nhắc lại. “Anh muốn chừng nào nó đến nơi?” Tôi lấy hai ngón tay gãi mạnh lông mày mắt trái. Đầu tôi càng ngày càng nhức. “Sao cũng được,” tôi bảo. Người nhân viên nhận gói bưu kiện. Cái hộp giày đó cũng chính là cái hộp giày đã nằm trước thềm cửa nhà tôi hai mươi bốn tiếng trước; nó đã được tôi gói lại trong một cái túi giấy màu nâu và dán kín bằng băng keo trong, y như lúc tôi nhận được. Nhưng giờ thì địa chỉ nó sắp đến lại là một cái tên khác. Cái tên tiếp theo trong danh sách của Hannah Baker. “Một tá của thợ bánh,(*)” tôi lẩm bẩm. Rồi lại thấy tởm vì như vậy cũng nghĩ ra được. “Anh nói gì cơ?” Tôi lắc đầu. “Hết bao nhiêu vậy?” Cô ta đặt chiếc hộp lên một tấm đệm cao su, sau đó gõ liên tục trên bàn phím. Tôi đặt cốc cà phê mua ở cây xăng lên thành quầy và ngó vào màn hình. Tôi móc vài tờ tiền từ trong ví ra, lục vài xu trong túi, rồi đặt chúng lên quầy. “Tôi nghĩ cốc cà phê đó chưa ép phê đâu,” cô nhân viên nói. “Anh đưa thiếu một đô la.” Tôi đưa thêm một đô la, rồi dụi mắt cho tỉnh ngủ. Cà phê còn âm ấm khi tôi làm một ngụm, nên lại càng khó uống hơn. Nhưng dù thế nào tôi cũng phải tỉnh. Hoặc có lẽ không. Có lẽ tốt nhất tôi nên nửa tỉnh nửa mơ cho đến hết ngày. Có lẽ đó là cách duy nhất để tôi trụ qua hết ngày hôm nay. “Đúng lịch thì ngày mai cái hộp đến nơi,” cô ta nói. “Hoặc mốt.” Rồi thả cái hộp vào chiếc xe đẩy đằng sau. Đáng lẽ tôi nên chờ tới sau giờ học. Tôi nên để Jenny tận hưởng ngày yên bình cuối cùng của cậu ta mới phải. Dù cậu ta chẳng đáng để tôi làm vậy. Khi về tới nhà ngày mai, hoặc mốt, cậu ta sẽ thấy một bưu kiện trước thềm cửa nhà mình. Hoặc nếu bố, mẹ hay ai đó nhận thư trước thì có thể cậu ta sẽ thấy chiếc hộp nằm trên giường mình. Và cậu ta sẽ phấn khích. Tôi cũng đã phấn khích đấy. Một bưu kiện không đề tên người gửi à? Họ quên đề tên, hay là cố ý? Có thể từ một người hâm mộ bí mật chăng? “Anh có muốn lấy hóa đơn không?” cô nhân viên hỏi. Tôi lắc đầu. Dù vậy, cái máy cũng in ra một tờ hóa đơn. Tôi nhìn cô nhân viên xé dọc rìa răng cưa nhựa của máy in rồi quăng tờ giấy vào thùng rác. Trong thị trấn có độc một bưu điện. Không biết có phải chính cô nhân viên này cũng là người nhận cái hộp giày này từ những người khác trong danh sách không, những người nhận được nó trước tôi. Rồi bọn họ có giữ hóa đơn như vật lưu niệm bệnh hoạn không? Giấu chúng vào ngăn đồ lót? Ghim chúng lên một tấm bảng? Suýt nữa tôi đã xin lại tờ hóa đơn rồi. Suýt nữa tôi nói, “Em xin lỗi, cho em xin lại hóa đơn được không?” Để về sau có thứ nhắc tôi nhớ chuyện này. Nhưng nếu muốn có thứ nhắc nhớ mình thì tôi đã đi sao lại số băng cát sét hoặc giữ lại tấm bản đồ rồi. Nhưng tôi không bao giờ muốn nghe lại đống băng đó nữa, dù giọng cậu ấy sẽ còn vang mãi trong đầu tôi. Và những ngôi nhà đó, những con phố đó, và ngôi trường cấp ba đó sẽ luôn luôn còn đó để nhắc tôi nhớ về chuyện này. Giờ thì hết làm gì được nữa rồi. Bưu kiện đã trên đường gửi đi. Tôi ra khỏi bưu điện mà không lấy hóa đơn. Sâu bên trong chân mày mắt trái, đầu tôi vẫn nhức. Mỗi ngụm nước bọt tôi nuốt đều có vị chua, và càng gần đến trường, tôi càng thấy mình sắp ngã gục. Tôi muốn gục ngã. Tôi muốn ngã xuống ngay vỉa hè đằng kia rồi lết thân mình vào trong đám thường xuân đó. Vì ngay bên kia bụi thường xuân, vỉa hè uốn cong, men theo rìa ngoài bãi đỗ xe của trường. Rồi nó cắt xuyên qua bãi cỏ trước, tiến vào tòa nhà chính. Nó đi xuyên qua cửa chính và nhập vào hành lang, ngoằn ngoèo giữa những dãy tủ đồ và lớp học ở hai bên, rồi cuối cùng dẫn vào cánh cửa luôn để mở của tiết học thứ nhất. Phía trước lớp, đối diện với học sinh, sẽ là bàn của thầy Porter. Thầy ấy sẽ là người cuối cùng nhận được gói bưu kiện không có tên người gửi. Và ở giữa phòng, dịch qua bên trái một bàn, sẽ là bàn của Hannah Baker. Không người ngồi. (*) Một tá của thợ bánh, hay Baker’s dozen, có nghĩa là 13 chứ không phải 12 như nghĩa thường của một tá. Cụm từ này được cho là có nguồn gốc từ thời Trung cổ ở Anh. Thời đó, giá bán bánh mì được quy định phải dựa theo giá của bột mì, thợ bánh nào bán thiếu cân sẽ bị trừng phạt. Và vì bánh mì được tính theo cân bột chứ không phải số lượng nên để tránh thiếu cân, các thợ bánh thường cho thêm vào một hoặc hai ổ bánh giống hệt mỗi khi bán ra một tá bánh. Họ Baker của Hannah cũng có nghĩa là thợ làm bánh. Mời các bạn mượn đọc sách Mười Ba Lý Do của tác giả Jay Asher & Tuấn Phúc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Gái Mắt Nâu - Lisa Kleypas
Series Travis Family gồm có: Sugar Daddy Blue Eyed Devil - Người Tình Hoạt Ngôn Smooth Talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) *** Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Tác phẩm: Người Tình Hoạt Ngôn Chuyện Xảy Ra Giữa Mùa Thu Bí mật đêm hè Ngoài Vòng Tay Anh Là Bão Tố Người Tình Của Tiểu Thư Sophia Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê Devil in Winter A Wallflower Christmas Scandal in Spring Again The Magic Smooth-talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) Bỗng Gặp Được Anh Giá Nào Cũng Yêu Giá Nào Cũng Yêu ... *** Là một chuyên gia hôn lễ dày dặn kinh nghiệm, tôi đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho bất kì sự cố nào có thể xảy ra. Trừ bò cạp. Con quái vật cứ bò tới bò lui cạnh hồ bơi tự nhiên như nhà nó ấy. Trên đời này, còn thứ gì đáng nguyền rủa hơn bò cạp nữa chứ. Thường thì nọc độc của nó sẽ không giết chết bạn đâu, nhưng nó sẽ làm bạn thấy thà chết đi còn sướng hơn. Quy tắc đầu tiên để giải quyết những tình huống cấp bách là: không được mất kiểm soát. Nhưng con bò cạp đang bò như bay về phía này thì tôi còn hơi đâu mà quan tâm quy tắc hay là nội quy gì nữa chứ . Trong cơn hoảng loạn, tôi lục lọi túi xách, mà… trời đất quỷ thần ơi, cái túi nặng khủng khiếp, tới nỗi mỗi lần để ở ghế hành khách, cái nút báo động thắt dây an toàn trong xe tôi lại báo lên inh ỏi. Tay tôi rà qua cả tỷ thứ, nào là khăn giấy, bút bi, băng keo cá nhân, chai nước khoáng Evian, mấy thứ chai dưỡng tóc này nọ; rồi lăn khử mùi, nước khử trùng tay, lotion, bộ dụng cụ làm móng, trang điểm các kiểu; tới nhíp, hộp kim chỉ, chai hồ, tai nghe, kẹo ngậm, thanh sôcôla, các loại thuốc nhức đầu, đau bao tử,…còn có cả cây kéo, cây giũa móng, lược, chui bông tai, thun cột tóc, băng vệ sinh, thuốc tẩy vết ố, cây lăn quần áo, kẹp tăm, dao lam, băng keo hai mặt, và tăm bông nữa này. ... Mời các bạn đón đọc tập 4 của series Travis Family: ​Cô Gái Mắt Nâu của tác giả Lisa Kleypas
Hảo Hán Nơi Trảng Cát - Jorge Amado
Hảo hán nơi Trảng cát là câu chuyện kể về nhóm một trăm đứa trẻ mồ côi và bụi đời sống bằng tài xoay sở láu cá và tính liều lĩnh trong những khu ổ chuột nóng bức và những con hẻm bẩn thỉu ở Salvador. Dẫn đầu bởi cậu nhóc mười lăm tuổi Pedro Bala, nhóm hảo hán có những nhân vật quan trọng như một cu cậu nói dối thành nghề tên “Cẳng Nhũn”, một “Giáo sư” thông minh và “Gã Mèo” dậy thì sớm. Chúng đã thực hiện trót lọt những vụ trộm và đào thoát thành công khỏi những con người chuẩn mực và được ưu tiên ở Brazil. Nhưng khi công chúng phản ứng dữ dội và yêu cầu chính quyền phải bắt hết lũ “giặc con” này, thì số phận của bọn trẻ bỗng chốc trở thành một cuốn phim cay đắng và vô cùng thương tâm về tình yêu và tự do trên vùng đất bị kìm kẹp. Viết về tuổi trẻ sôi nổi bằng những ngôn từ giàu cảm xúc, Hảo hán nơi Trảng cát là một trong các tác phẩm phổ biến nhất trong giới học sinh sinh viên ở Brazil. Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, được chuyển thể thành truyện tranh và phim điện ảnh. Tại Việt Nam, đây cũng là một tác phẩm ưa thích của nhiều thế hệ và sức hấp dẫn của nó vẫn còn mãi theo thời gian. *** Trong Hảo hán nơi trảng cát - một tác phẩm sinh động, từ ngữ được sử dụng rất giản dị - Jorge Amado đã kể một câu chuyện về những cậu bé nghèo sống trong một nhà kho bỏ hoang trên sông Salvador. ðó là những cậu bé chỉ mới 9 đến 16 tuổi gặp gỡ nhau trong những trò ngỗ nghịch và ăn cắp vặt, khiến thuyền trưởng Bahia cũng phải khiếp sợ. Từ chàng thủ lĩnh dũng cảm với vết sẹo trên mặt Pedro Bala (Bullet) tới cậu Pirulito ngoan đạo (Lolly pop)-vẫn cầu nguyện hằng đêm để rửa tội cho những lỗi lầm của mình; từ cậu Giáo sư khôn ngoan (Teacher)-người có học duy nhất trong nhóm, tới cậu Gato quyến rũ-một tay ma cô mới vào nghề; mỗi cậu có tình tình, cách nhìn cuộc suống rất riêng và cả những ước mơ viển vông nhất. Tai tiếng của cả bọn lan truyền khắp thành phố, khiến cho cả báo chí, cảnh sát, tòa án vị thành niên cùng các “gia đình kiểu mẫu” phải bất bình giận dữ. Nhưng vẫn còn có những người tốt giúp đỡ các cậu: cha Jose Pedro, mẹ Don'Aninha, anh công nhân João de Adão (John Adam) và chàng Queirdo-de-Deus (God Beloved) nhảy capoeria. Các cậu bé lớn lên và đi con đường riêng của mình: người làm thủy thủ, nghệ sĩ, tu sĩ; kẻ làm làm ma cô, cướp đường. Chàng thủ lĩnh Pedro Bala của chúng ta thì lên đường chiến đấu để thay đổi số phận cho những người nghèo khốn khổ nhất. Dù chịu ảnh hưởng bởi lý tưởng cộng sản tại thời điểm tác phẩm được viết, nhưng Hảo hán nơi trảng cát đã vượt qua lý tưởng chính trị của chính tác giả vào thời điểm đó. Tuổi thơ trong sáng của các em phải lớn lên trong một thế giới người lớn khắc nghiệt, các cậu bé được sống tự do như ý chúng nhưng tự do ấy cũng đầy cạm bẫy. Câu chuyện đã mở ra góc nhìn về những mảnh đời bé nhỏ vẫn còn giá trị tới tận ngày nay. Hồng Quân dịch *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ Hải Trình Ven Bờ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)    Mời các bạn đón đọc Hảo Hán Nơi Trảng Cát của tác giả Jorge Amado.
Biển Chết - Jorge Amado
Tôi muốn kể cho bạn nghe những truyền thuyết về biển ở vùng Bahia. Những ngư phủ già không còn đi biển, các hoa tiêu, đám da đen xăm mình, các giang hồ bạt tử đều biết về những câu chuyện này, những bài ca được nhắc đến ở đây. Hẳn tôi đã được nghe chúng trong những đêm trăng trên các cầu tàu, trong những buổi chợ phiên, tại nhiều cảng nhỏ quanh vịnh, bên những con tàu Thủy Điển khổng lồ thả neo ở Ilhéus. Những thần dân của Iemanja có biết bao điều để kể.   Hãy đến nghe các truyền thuyết và những bài hát ấy. Hãy đến nghe câu chuyện về Guma và Livia, câu chuyện về cuộc sống và tình yêu của biển. Và nếu bạn không cảm nhận được vẻ đẹp của chúng thì lỗi không thuộc về những con người chất phác kể lại mà bởi bạn đã nghe từ miệng những người của đất liền, và thật khó cho người con của đất liền hiểu được trái tim con người nơi biển cả. Dẫu rất yêu các truyền thuyết, những bài ca ấy, luôn tôn sùng những nghi lễ của Dona Janaina, anh ta vẫn không thể biết hết mọi bí mật nơi biển cả. Bởi biển quá mênh mông huyền bí, ngay những người đi biển lão làng cũng có ai hiểu được tận tường.   IEMANJA, NỮ THẦN CỦA BIỂN CẢ VÀ NHỮNG CON THUYỀN *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)    Mời các bạn đón đọc Biển Chết của tác giả Jorge Amado.
Cha, Con Và Những Thước Phim - David Gilmour
Người cha đã nhìn thấy mình thuở nhỏ trong hình bóng của Jesse Gilmour - cậu con trai đang ở cùng vợ cũ. Ông băn khoăn "Jesse cần phải làm một cái gì đó, nhưng chính xác là phải làm gì? Tôi có thể cho nó làm việc gì mà không động chạm đến những thất bại ở trường học? Nó không thích đọc và cực ghét thể thao. Jesse thích điều gì? Nó rất thích xem phim. Ngay cả tôi cũng thích." Và quyết định cuối cùng đã được đưa ra: "Con không cần phải làm việc, cũng không cần phải trả tiền thuê nhà. Hàng ngày con có thể ngủ tới năm giờ chiều cũng được. Nhưng không được hút thuốc... Bố muốn mỗi tuần, con sẽ cùng bố xem ba bộ phim. Bố sẽ là người lựa chọn phim. Đây là kiến thức duy nhất con sẽ phải học." Quyết định này được đưa ra bởi ông nghĩ "đây một cách tốt nhất để đi sâu vào những bộ phim nghệ thuật của Châu Âu, tôi biết những bộ phim này sẽ khiến nó không chán khi nó học được cách để xem chúng. Điều đó cũng giống như một sự biến tấu trong việc học ngữ pháp thông thường". Liệu đó có phải là một quyết định liều lĩnh, sai lầm của một người cha - người đang quyết định số phận cuộc đời con trai mình? Cuốn sách The film club là câu chuyện có thật diễn ra trong ba năm của tác giả David Gilmour và con trai ông - hai thành viên duy nhất của câu lạc bộ phim sinh hoạt hàng tuần tại ngôi nhà nhỏ của mẹ Jesses. Những bộ phim được chiếu trong câu lạc bộ này do David chọn bằng kinh nghiệp của một nhà phê bình tài năng và lém lỉnh. Mỗi bộ phim được chiếu, ông tóm tắt nội dung, giới thiệu về tác giả, các diễn viên, giải thích từ việc làm phim, các cảnh quay cho đến những việc ở hậu trường. Tham gia câu lạc bộ của hai cha con Gilmour, độc giả sẽ như được xem tận mắt những bộ phim kinh điển: Crimes and Misdemeanors (Trọng tôi và khinh tội) (1989), Basic Instinct (Bản năng gốc) (1992), Giant (Người khổng lồ) (1956), Notorious (Khét tiếng) (1946), The Shinning (Ngôi nhà ma) (1980), Around the world (Vòng quanh thế giới) (1956), Last Tango in Paris (Bản tango cuối cùng ở Paris) (1972)... Những bộ phim hiện lên thật sống động, hấp dẫn qua lời kể của David - một nhà phê bình phim kinh nghiệm và hóm hỉnh. Những buổi sinh hoạt của câu lạc bộ kì lạ này, không chỉ đơn thuần là những kiến thức về điện ảnh, mà đó là thời gian David quan sát cậu con trai đang tuổi dậy thì, suy nghĩ những việc cần làm cho Jesse và đôi khi đó là khoảng thời gian hai cha con tâm sự về tất cả những mối quan tâm của Jesse: Tương lai, bạn gái, thuốc lá, rượu, ma túy, công việc.... "Khi con đi học ở trường, con phải lo lắng về việc bị điểm kém và gặp rắc rối. Bây giờ, con không phải đến trường nữa, con lo lắng rằng, có thể con đã hủy hoại cuộc đời mình"... Hi vọng, lo lắng, thất vọng, giận dữ, hoài nghi, mừng vui... tất cả những cảm xúc đó được trải nghiệm qua từng bộ phim và từng trải nghiệm thực tế của Jesse. Mỗi bộ phim là một câu chuyện, một thông điệp mà các đạo diện, diễn viên và ekíp thực hiện gửi gắm. Qua những thước phim ấy, David đã dạy con cách sống bằng một phương pháp đặc biệt. Ông đã biết cách để Jesse tự quyết định cuộc đời của chính mình. Jesse đã vào đời từ những thước phim... *** Những lời khen tặng dành cho cuốn sách:   "Một cuốn hồi kí thông thái." - USA Today "Nhẹ nhàng... một bức chân dung tuyệt đẹp, không tô vẽ về những người cha và những cậu con trai - có những điều không theo qui tắc, có những rạn vỡ, tổn thương và có cả tình yêu thương." - Newsweek "[Cuốn sách] kể lại chi tiết về mối quan hệ giữa cha và con, gần gũi và gắn bó đến mức khiến nhiều bậc cha mẹ có con ở lứa tuổi thiếu niên phải ganh tỵ." - San Joe Mercury News "Chân thành... khiến tôi không chỉ một lần xúc động và bật khóc." - Douglas McGrath, Chuyên mục điểm sách của New York Times *** Và rồi một điều kỳ diệu đã xảy ra(nhưng không phải một bất ngờ) Chloe, kẻ đam mê danh vọng ngất trời, dường như đã suy nghĩ lại. Morgan, theo lời đồn, thì đã được giải quyết nhanh gọn. Feelers bị đuổi ra ngoài. Đứa bạn thân nhất của Chloe “ngẫu nhiên” gặp Jesse tại một buổi tiệc, rồi bảo với cu cậu rằng Chloe “thực sự, thực sự nhớ nó.” Sắc thái hồng hào, tôi cho là thế, đã trở lại trên gương mặt thằng bé, thậm chí còn có cả sự khác biệt trong cách đi đứng và cái vẻ huênh hoang thì dù đã cố, vẫn không tài nào che giấu nổi. Jesse chơi cho tôi nghe một ca khúc, rồi thêm một bài hát khác nữa. Nhóm Nostalgia Đồi Bại hóa ra, ý chúng ám chỉ trong ngành công nghiệp giải trí, trở lại trong thời kỳ ăn khách. Chúng biểu diễn ở một quán bar trên phố Queen. Còn tôi thì rơi vào tình trạng bị đày ải. Ý thức rằng mối quan tâm của nó với chương trình xem phim Buried Treasures (Những kho báu bị lãng quên) đang nguội lạnh dần, tôi đã có tầm nhìn xa hơn. Cần có thứ gì đó để viết lách lúc này vì dường như thằng nhóc đang có khuynh hướng đi theo con đường đó. Nhưng hoạt động này đã có rồi, rõ ràng như việc trên mặt tôi có mũi ấy: Hai cha con đã lập một chương trình về các bộ phim có kịch bản được viết hay không chịu nổi. Chúng tôi nghiên cứu bộ phim Manhattan (năm 1979) của Woody Allen. Xem phim Pulp Fiction (năm 1994) để làm rõ sự tương phản giữa việc viết vui và viết thật. Pulp Fiction là một bộ phim vô cùng thú vị, với lời thoại long lanh tráng lệ nhưng không có khoảnh khắc có tính người thực sự nào trong đó. Tôi đã nhắc mình kể cho Jesse nghe câu chuyện về nhân vật Chekhov đi xem vở kịch The Dolh Hordse của Ibsen trong một rạp hát ở Moscow, suốt buổi diễn, anh ta quay sang một người bạn và thì thầm: “Nghe này, Isben không phải một nhà biên kịch... ông ta chẳng hiểu gì về cuộc sống cả. Trong cuộc sống thực, mọi thứ đơn giản không giống như thế này.” Mời các bạn đón đọc Cha, Con Và Những Thước Phim của tác giả David Gilmour.