Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Nỗi Đau Riêng - Kenzaburo Oe

Kenzaburo Oe là nhà văn Nhật Bản thứ hai được trao giải Nobel Văn học (năm 1994). Buổi lễ mừng giải thưởng danh giá của Kenzaburo Oe là một ngày hội vô cùng đặc biệt. Các nhạc công hàng đầu của "đất nước mặt trời mọc" đã biểu diễn mười tác phẩm của nhạc sĩ trẻ Hikari Oe- người con trai tật nguyền, người đã khiến Kenzaburo Oe tìm được "lối đi" trong sáng tác văn chương và khiến ông cùng con trai như được "tái sinh"... Kenzaburo Oe thuộc lớp nhà văn hậu chiến, hiện tên tuổi đang được xếp hàng đầu trong danh sách các nhà văn Nhật Bản. Sinh ngày 31 tháng 1 năm 1935 tại đảo Shikoku, một trong bốn hòn đảo lớn nhất của Nhật Bản, cuộc đời ông đã chứng kiến và đồng hành cùng những thăng trầm của một đất nước được bao bọc bởi biển cả, với ba ngàn hòn đảo lớn nhỏ.  Năm Kenzaburo Oe lên 4 tuổi, Thế chiến thứ hai bùng nổ ở khu vực châu Âu và năm sau lan sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đất nước của ông dưới thời Nhật Hoàng Hirohito là một thành viên của trục phát xít Berlin - Roma - Tokyo, đã gây ra biết bao tội ác đối với nhân dân các nước trong khu vực châu Á. Giống như hết thảy những người Nhật Bản cùng thế hệ, những hồi ức ảm đạm về cuộc chiến tranh phi nghĩa, về sự ngã gục của nước nhà khi Thế chiến hai kết thúc luôn đè nặng trong lòng Kenzaburo Oe. Nhưng nổi lên trên hết, trong tâm hồn nhạy cảm của một người có khiếu văn chương như Kenzaburo Oe, hình ảnh của hai cột nấm khổng lồ màu vàng cùng với hàng ngàn cột lửa đỏ lựng bùng lên ở Hirosima và Nagasaki vào cái ngày mồng 8 và mồng 10 tháng 8 năm 1945 ấy hình như mỗi ngày mỗi to hơn, rộng hơn, nóng bỏng hơn, khủng khiếp hơn. Hai cột nấm ấy đã hủy diệt sinh mạng của mấy chục vạn người dân Nhật vô tội. Những cơn mưa phóng xạ khởi nguồn từ hai cột nấm ấy đã làm cho không ít người chết dần, chết mòn trong vòng vài chục năm sau đó và một số người khác, trong đó có người con trai đầu của Kenzaburo Oe, ngay từ khi mới sinh ra đã mang trong mình những căn bệnh trầm kha mà y học đến nay vẫn phải bó tay. Trong Diễn văn trao giải Nobel Văn học cho Kenzaburo Oe, Viện Hàn lâm Thụy Điển khẳng định: "Một đề tài xuyên suốt các tác phẩm của Kenzaburo Oe là bi kịch gia đình cùng tình thương và trách nhiệm đối với người con trai cả Hikari sinh ra đã bị dị tật. Kenzaburo Oe đã sáng tạo ra một thế giới tưởng tượng đầy chất thơ, đã miêu tả tình trạng đau đớn trong khổ cảnh của con người thời hiện đại bằng sự ngưng kết những ngụ ngôn và sinh hoạt hiện thực. Đồng thời ông cũng miêu tả thành công quan hệ của con người trong một thế giới hỗn độn, một thế giới mà ở đó trí thức, tình cảm, giấc mơ, dã tâm, thái độ đã hòa quyện với nhau một cách kỳ diệu"… Trong diễn văn đáp từ, Kenzaburo Oe cũng thừa nhận "Phong cách viết của tôi khởi nguồn từ những vấn đề cá nhân, sau đó gắn kết chúng với xã hội, với cuộc đời và thế giới này. Với tư cách nhà văn, tôi phải thừa nhận rằng chủ đề trung tâm của các tác phẩm trong hầu hết văn nghiệp của tôi là cái cách gia đình tôi đã học cách sống với đứa con tật nguyền…". Có thể kiểm chứng những lời phát biểu này trong "Một nỗi đau riêng", "Sự cố cá nhân", "Sổ tay Hirosima", "Nước ngập hồn tôi", "Trận bóng đá năm Vạn diên thứ nhất", "Trò chơi đương đại", "Hãy đứng lên, hỡi những chàng trai của thế hệ mới"… Kenzaburo Oe bắt đầu sáng tác khi còn là sinh viên chuyên ngành Văn học Pháp tại Đại học Tokyo và năm 23 tuổi, với tiểu thuyết "Nuôi thù", ông đã nhận được giải thưởng Akutagawa, một giải thưởng mà các nghệ sĩ Nhật Bản hằng mong ước. Từ đó trở đi ông sáng tác đều đặn và coi viết văn là nghề mà ông trọn đời theo đuổi. Ba năm sau khi nhận giải thưởng Akutagawa, cuộc đời Kenzaburo Oe bắt đầu rẽ sang một lối khác. Sau khi kết hôn cùng Yukan, con gái của một đạo diễn điện ảnh danh tiếng,  vợ chồng Kenzaburo Oe sinh được một bé trai. Nhưng chẳng như mong đợi và kỳ vọng của đôi vợ chồng trẻ, Hikari là một dị nhân: đầu to quá mức bình thường, đôi mắt không có khả năng nhận biết ánh sáng. Cậu bé cũng không có khả năng nhận biết và nói tiếng người, chỉ có thể phát ra tiếng chiêm chiếp như loài chim. Sự chào đời của Hikari là một "cú giáng trí mạng" đối với Kenzaburo Oe. Đã có lúc ông nghĩ đến việc tự tử để trốn chạy đứa trẻ. Rồi có lần ông định giết Hikari để giải thoát cho chính mình và cho cả đứa con tội nghiệp. Cũng may mà ông đã không đủ điên rồ và gan không đủ lớn để làm cả hai việc đê hèn đó. Ông đã chọn cách chấp nhận, chấp nhận Hikari cùng những bất hạnh của số phận, đồng thời nỗ lực tìm kiếm cách làm cho đứa trẻ "tái sinh". Thường thì bậc làm cha làm mẹ chẳng bao giờ muốn nói về những khuyết tật cùng những thói hư tật xấu của con mình. Nhưng Kenzaburo Oe đã dũng cảm nói về đứa con tật nguyền của mình, không phải một lần, mà là rất nhiều lần. Ông muốn từ nỗi đau của riêng mình nói đến một điều lớn lao hơn: Cần phải học cách chấp nhận những nỗi đau của con người cùng với việc tìm kiếm những cách thức để "tái sinh" những con người bất hạnh.  Kenzaburo Oe đặt tên cho con trai đầu lòng là Hikari, tiếng Nhật có nghĩa là "ánh sáng". Quả thực, Hikari bé bỏng, luôn "cô đơn như hòn sỏi nhỏ trên đám cỏ" đã tạo ra luồng ánh sáng, những vầng hào quang rực rỡ cho những tác phẩm của người cha. Trả lời phỏng vấn một nhà báo nước ngoài, Kenzaburo đã thẳng thắn: "Năm tôi hai mươi tám tuổi, đứa con đầu của tôi chào đời. Lúc đó tôi đã là một nhà văn khá nổi tiếng và đang là sinh viên ngành văn chương Pháp. Nhưng từ khi con trai tôi ra đời với một chứng bệnh trầm kha về não, vào một đêm kia, tôi muốn tìm sự khích lệ từ cuốn sách đầu tiên. Vài ngày sau tôi nhận thấy mình không thể tìm được niềm an ủi trong quyển sách của chính mình, có nghĩa là độc giả cũng sẽ không tìm thấy sự an ủi từ tác phẩm của tôi. Tôi lâm vào tình cảnh chán nản. Nhưng sau chuyến đi thăm một bệnh viện dành cho những nạn nhân bom nguyên tử ở Hiroshima, tôi đã quyết định viết về Hikari, chia sẻ với độc giả những cảm giác của mình khi phải đối mặt với đứa con mang trên mình những di chứng của thảm họa Hiroshima...". Tất cả những gì tích tụ trong lòng từ khi Hikari chào đời được ông giãi bày trong "Một nỗi đau riêng". Kenzaburo Oe cho rằng, chỉ bằng cách ấy, ông và đứa con trai tội nghiệp mới thể "tái sinh". Cái "tầm" của "Một nỗi đau riêng" là ở chỗ, Kenzaburo Oe đã viết về thảm kịch Hiroshima theo một cách rất riêng. Đó là cái cách ông gắn hành trình "tái sinh" của đứa trẻ bị bại não với quá trình hồi sinh của dân tộc Nhật Bản sau thảm họa thất trận năm 1945. Không chỉ dừng lại ở "Một nỗi đau riêng", trong tập tiểu luận "Một gia đình tự chữa lành", Kenzaburo Oe đã miêu tả thế giới nội tâm phức tạp của nhân vật Điểu khi muốn chối bỏ đứa con tật nguyền của mình, tìm quên trong gái, rượu và những chuyến đi xa. Điểu đã muốn chấm dứt đời của đứa con mang khối u não ác tính bằng một ly sữa độc. Nhưng trong một lần lái xe, khi cố tránh một con chim đã chết trên đường, Điểu ngộ ra rằng cần phải cứu đứa con trước khi quá muộn. Rốt cuộc, cái u ác tính kia chỉ là một cái u thường, sau khi cắt bỏ, đứa bé đã xuất viện bình an… Hành trình tái sinh của Điểu trong "Một nỗi đau riêng", mà thực ra là nỗi đau chung của đồng bào ông, chính là hành trình tái sinh của ông và Hikari. Trong 6 năm trời ròng rã, hai vợ chồng ông đã kiên nhẫn cho Hikari nghe đi nghe lại một cuốn băng ghi âm tiếng hót của các loài chim kèm theo lời thuyết minh về tên của từng loài chim đó. Và điều kỳ diệu đã đến sau ba năm nghe cuộn băng ấy. Khi lên sáu tuổi, Hikari đã bật nói câu đầu tiên: "Đó là chim sẻ", và sau đó là nói đến tên của từng loài chim mà cậu bé đã được nghe qua băng ghi âm trong suốt mấy năm trời. Hikari được cha mẹ đưa đến trường dành cho trẻ em thiểu năng trí tuệ. Ở đây cậu bé được nghe nhạc của Handel, Bach và đến năm 16 tuổi, Hikari trở thành một thiếu niên khỏe mạnh nhưng lại mất thị giác. Vì không thể chơi piano, Hikari đã học sáng tác dưới sự chỉ dẫn của người mẹ… Và đến độ trưởng thành, Hikari đã là một nhạc sĩ danh tiếng, cả ở Nhật và trên thế giới. Những CD nhạc của anh có mặt ở rất nhiều quốc gia, ngay cả nơi dành để bán những ấn phẩm nghệ thuật phục vụ cho lễ trao giải Nobel Văn học. Những bản nhạc của Hikari, theo lời Kenzaburo Oe, "có một nguồn năng lực chữa lành cho trái tim". Ông còn nói: "Khi ta thể hiện ra một cách rốt ráo nỗi tuyệt vọng của con người, ta sẽ chữa lành được chính mình và biết được niềm vui của sự hồi phục…". Trong lễ nhận giải Nobel, Kenzaburo Oe nói rằng, giải thưởng này đúng ra phải trao cho Hikari con trai ông. Ông cũng thông báo từ nay sẽ "gác bút" để tập trung cho Hikari tỏa sáng trên bầu trời âm nhạc. Ông cũng hy vọng âm nhạc của Hikari sẽ mãi là thứ thần dược để chữa lành nỗi đau nhân thế *** Kenzaburo Oe, sinh năm 1935 tại đảo Shikoku (Nhật Bản), đã sáng tác nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết và tiểu luận. Ông đoạt nhiều giải thưởng văn học giá trị tại Nhật như Giải Akutagawa với tác phẩm The Catch, Giải Tanizaki với Football in the First Year of Mannen, Giải Văn học Shinchosha với A Personal Matter (Một nỗi đau riêng).   Điểu, nhân vật chính trong Một nỗi đau riêng, là một thanh niên có khuynh hướng chống đối xã hội Nhật, đã có lần khi đương đầu với một vấn đề khó giải quyết, anh tự “cho mình trôi dạt trong biển rượu mạnh như một Robinson Crusoe mất phương hướng”. Nhưng chưa bao giờ anh giáp mặt với một cuộc khủng hoảng cá nhân và nghiêm trọng về viễn cảnh một đời sống tù hãm trong lồng của đứa con mới sinh mang chứng thoát vị não. Liệu anh chạy chữa cho đứa bé được sống? Anh dám giết nó không? Trước khi đi đến quyết định cuối cùng, toàn bộ quá khứ sống dậy trong lòng anh, anh đã bừng tỉnh và nhận ra đó chỉ là một cơn ác mộng của sự lừa dối chính mình. Oe đã tạo nhân vật chính của mình trong tác phẩm này trở thành một trong những khuôn mặt đáng nhớ nhất trong tiểu thuyết hiện đại Nhật Bản.   Năm 1994, Kenzaburo Oe đã được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao Giải Nobel Văn chương.  *** Điểu chăm chú nhìn tấm bản đồ châu Phi được phơi bày với vẻ thanh lịch kiêu kỳ của một chú nai rừng trong tủ hàng, anh cố nén tiếng thở dài. Các cô bán hàng không để ý đến anh. Bộ đồng phục họ mặc để lộ ra đôi cánh tay và chiếc cổ nõn nà. Đêm xuống dần. Cái nóng đầu hè, giống như nhiệt độ của một xác chết khổng lồ hạ hẳn xuống. Người ta di chuyển như đang mò mẫm từng bước trong bóng tối của tiềm thức, mong tìm lại ký ức về cái ấm áp ban trưa còn nấn ná chút hơi tàn trong da thịt: họ thốt lên tiếng thở dài mơ hồ. Tháng sáu, sáu giờ rưỡi: không một ai trong phố lại đổ mồ hôi vào lúc này. Nhưng vợ của Điểu thì nằm trần truồng trên một tấm nệm cao su, đôi mắt nhắm nghiền giống như một con gà lôi bị trúng đạn từ trên trời rơi xuống, và trong khi nàng than vãn cơn đau, bày tỏ nỗi âu lo cùng niềm mong đợi thì mồ hôi nhỏ giọt trên cơ thể nàng.   Điểu nhún vai, chăm chú vào những chi tiết của tấm bản đồ. B quanh lục địa châu Phi là màu biển xanh da trời mùa đông của buổi bình minh. Kinh độ và vĩ độ không phải là những đường nét máy móc của chiếc com-pa: những đường nét rõ ràng gợi lên sự phóng khoáng và thất thường của người vẽ. Lục địa trôi giống như chiếc sọ của một người bị treo đầu. Với đôi mắt sầu thảm, chán chường, một con người có cái đầu to tướng đang đăm đăm nhìn châu Úc, miền đất của gấu koala, thú mỏ vịt và kanguru. Bức tiểu họa châu Phi chỉ sự phân bổ dân số nằm dưới góc bản đồ, giống đầu người chết bắt đầu thối rữa. Một bức khác, hiện lên những con đường giao thông, giống đầu người bị lột da lộ ra những mao mạch đau đớn. Cả hai bản đồ châu Phi nhỏ bé này gợi lên sự chết chóc bất thường, nguyên sơ và quá tàn bạo.   “Tôi lấy tập bản đồ cho anh xem?”   “Không, đừng bận tâm,” Điểu nói. “Tôi đang tìm những tấm bản đồ chỉ đường của Tây Phi, Trung và Nam Phi do hãng Michelin in.” Cô gái cúi xuống chiếc ngăn kéo đựng đầy bản đồ Michelin và bắt đầu lăng xăng lục lọi. “Dãy số 182 và 185,” Điểu chỉ cho cô bán hàng, rõ ràng anh là một tay sành sõi về châu Phi.   Tấm bản đồ mà Điểu khao khát bấy lâu nay là một trang trong tập bản đồ bìa da, nặng ký. Một vài tuần trước, anh đã dò giá tập bản đồ và biết nó bằng năm tháng lương giáo viên của anh dạy tại một trường luyện thi. Nếu muốn có đủ tiền mua, anh có thể làm thêm công việc phiên dịch và phải mất ba tháng. Nhưng Điểu còn phải nuôi thân mình và nuôi vợ, vợ anh lại sắp sinh. Điểu là cột trụ của gia đình!   Cô bán hàng chọn hai tấm bản đồ bìa đỏ đặt lên quầy. Đôi tay nàng gầy và vấy bẩn, những ngón tay kỳ nhông bám trên cành cây. Mắt Điểu dán vào nhãn hiệu Michelin nằm dưới ngón tay nàng: một gã đàn ông hằng cao su trông giống như con cóc đang lăn cái ruột xe chạy xuống đường làm anh cảm thấy việc mua bản đồ là điều ngớ ngẩn. Nhưng đây là những tấm bản đồ mà anh muốn dùng vào mục đích quan trọng. ... Mời các bạn đón đọc Một Nỗi Đau Riêng của tác giả Kenzaburo Oe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kết Thúc Vòng Thiêng - Rostislav Kinjalov
Cho đến ngày nay nền văn minh Olmec cổ ít được người biết đến, nhất là ở Việt Nam. Trong cuốn tiểu thuyết lịch sử “Kết thúc vòng thiêng” giáo sư dân tộc học người Nga R. Kinjalov đã vẽ lại bức tranh cổ xưa sinh động của người Olmec huyền bí, một dân tộc da đỏ đã sống ở Mexico cách đây hơn 3.200 năm. Dựa vào những chứng cứ lịch sử-khảo cổ, Kinjalov giới thiệu với chúng ta cuộc sống của một dân tộc vào loại cổ xưa nhất của hành tinh. Trong cuốn sách này bạn đọc sẽ thấy được sinh hoạt của người Olmec cổ: điều kiện thiên nhiên, tổ chức xã hội, tình yêu, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, quyền lực và tham vọng của những người cầm quyền. Sức mạnh của thiên nhiên huyền bí luôn làm người Olmec kinh sợ, họ thờ đủ các thần: thần Độc cước – vị thần của bão tố; Thần Tâm đất – chủ nhân khủng khiếp của Âm phủ, động đất và núi lửa; Thần Cóc Vĩ đại – Đức Mẹ của các vị thần; Thần Mặt trời; Thần Nước; Thần Ngô trẻ – người cung cấp lương thực cho dân tộc Olmec v.v… Cũng như nhiều dân tộc da đỏ khác ở châu Mỹ, dân tộc Olmec dùng người sống để tế thần, một phong tục dã man mà chúng ta ngày nay không thể tưởng tượng nổi. Trong cuốn tiểu thuyết “Kết thúc vòng thiêng” chúng ta thấy hệ thống xã hội của người Olmec cổ phân cấp khá chặt chẽ với những đẳng cấp rõ ràng. Bên cạnh hệ thống chính quyền (Vua, các quan lại…) còn có hệ thống tín ngưỡng (các thầy Tư tế) giữ vị trí hết sức quan trọng trong cuộc sống của dân tộc. Theo quan niệm của người Olmec cổ, thế giới tồn tại theo chu kỳ 104 năm, gọi là vòng thiêng. Hết 104 năm các vị thần sẽ phán quyết hủy diệt hay kéo dài sự tồn tại của thế giới, và bắt đầu một vòng thiêng mới. Đồng thời tác giả cũng đưa bạn đọc vào cuộc hải hành hư cấu của một vị quan Ai Cập cổ đến vùng đất đỏ xa xôi bên kia đại dương để so sánh sự phát triển không đồng đều giữa các nền văn minh lúc bấy giờ, trong khi Ai Cập đang ở thời kỳ đồ đồng và đã chuyển sang thời kỳ đồ sắt thì dân tộc Olmec ở Mexico đang ở thời kỳ đồ đá. Với những chứng cứ khoa học xác thực, từ đầu đến cuối cuốn tiểu thuyết, tác giả dẫn bạn đọc đi hết cuộc phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác, để dần dần giải mã những bí ẩn của dân tộc Olmec cổ huyền bí. Nhà Xuất bản Trẻ hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc cuốn tiểu thuyết đầu tiên nói về dân tộc Olmec ở đất nước Mexico xinh đẹp, để các bạn có điều kiện tìm hiểu thêm về một nền văn minh cổ xưa. *** Sao-Lorenso. Mexico. Tình yêu không có tuổi, không ranh giới và bất tử! • D. Golsuorsi. “Mùa hè cuối cùng của Forsait.” Nhiều năm trôi qua từ khi vòng thiêng mới bắt đầu. Trong làng Tahcum-Tracang không ai dám gọi đến tên của người phụ nữ quái gở này, bà ta đi hết nhà này qua nhà khác tìm kiếm thứ gì đó không rõ. Người ta gọi bà là lão bà, còn những kẻ bất kính trong đám thanh niên cũng chỉ dám thì thầm “bà điên”. Dân làng cho rằng bà bị thần ác ám và họ sợ hãi một cách sùng tín khi bà xuất hiện, họ mời bà ngồi cạnh bếp lò, mời ăn, uống. Đôi khi bà nhận thức ăn, đôi khi không nhận và bà chỉ gạt những cánh tay nhiệt tình ra. Bà rất ít nói, không để ý đến ai, không nhìn thẳng vào mặt người đối thoại mà nhìn vào khoảng không, lời của bà thường đứt đoạn và khó hiểu. Bà lão mất trí vì đau khổ và thời gian, đó là bà Tiang thuộc tộc họ Socan. Bà không có nhà, không có người thân. Các con của ông chú do bà chăm sóc đã đi theo tiên tổ từ lâu, con của họ cũng đã mất. Cháu của họ thì xem bà như người xa lạ. Thực ra chúng không hiểu bà lão này là họ hàng thế nào với chúng. Đám con cháu của Tug-Anseng và Nam-Suc, vô số con trai và con gái của Cangah, không biết tên thật và số phận của bà. Mỗi tháng một lần bà lão bị nỗi lo xâm chiếm. Bà như thoát khỏi cơn mê, động tác trở nên rõ hơn và mạnh hơn, đôi mắt mờ đục rực sáng. Bà ra khỏi làng, và theo đường vòng để không gặp ai trên đường, đi đến hẻm núi mọc đầy cây non ăn sâu vào khu đồi của thành phố, nơi ngày xưa người ta đã thực hiện những nghi lễ của vòng thiêng và chôn chiếc đầu đá của Shang. Khối đá khổng lồ quá lớn nên không thể chôn kỹ, chiếc hố quá cạn và lớp đất lấp trên bức tượng không đủ dày nên nước mưa từ sườn đồi dần dần cuốn trôi lớp đất đắp, để lộ ra khuôn mặt của bức tượng với đôi mắt bất động nhìn lên bầu trời. Tiang cẩn thận dọn sạch cành khô, lá cây và dây leo tươi phủ trên khuôn mặt thân yêu và ngồi xuống cạnh đó. Trong những ngày này bà trò chuyện hàng giờ với bức tượng y như với người sống. “Hôm nay em ăn ngon lắm Shang à, – bà nói, – một cô gái mời em bánh ngô…, cô gái này giống em khi còn trẻ…, chàng nhớ không, chàng khen bánh ngô của em lắm mà, lúc đó chàng đã cười như bây giờ vậy… Xem này, đây là mảnh vỏ từ thân cây mà chúng ta đã ngồi lúc đó… Em giữ nó mãi mãi, em nhớ hết…, chúng ta yêu nhau biết chừng nào! Chỉ tiếc rằng chúng ta không có con; vì nếu có nó, anh đã có thể hãnh diện vì con trai của mình, em xin thề đó! Tất cả cũng chỉ vì lão Anaib-Ungir đáng nguyền rủa. Nhưng lão đã bị kiến ăn từ lâu rồi, ngay cả đống xương dơ bẩn của lão cũng đã mục trong rừng. Chỉ còn em ngồi đây tâm sự cùng anh, mặt trời vẫn chiếu sáng chúng ta…, chàng vẫn còn yêu em như ngày xưa chứ?”. Và cũng trong một buổi gặp như thế, trái tim chung thủy, cháy bỏng yêu thương của Tiang đã ngừng đập – để mãi mãi hòa nhịp cùng tượng đá ngàn năm. • Leningrad – Gumolosar, 1974 – 1977 Mời các bạn đón đọc Kết Thúc Vòng Thiêng của tác giả Rostislav Kinjalov.
Đường Chân Trời Đã Mất - James Hilton
Một câu chuyện đọc xong người đọc phải phân vân suy nghĩ. Một câu chuyện về một chiếc máy bay di tản bị cướp đi đưa bốn người về một tu viện Lama ở vùng núi cao Tây Tạng. Hay đúng hơn câu chuyện về một con người Conway, ba mươi tư tuổi, công tác tại lãnh sự quán Anh ở Baskul (Ấn Độ), một người có sức hấp dẫn kỳ lạ. Ai đã gặp anh một lần cũng phải nhớ mãi. Anh có một thời sinh viên sôi động, đại diện thể thao của Trường Đại học Oxford, đã giành hầu hết các giải của Nhà trường, khiến một giáo sư giàu tình cảm đã tặng anh danh hiệu Vinh quang: Conway Vinh quang. Cuộc chiến tranh 1914-1918 đã chen ngang vào cuộc đời anh. Cũng như hàng triệu người khác, anh bị nó lôi cuốn vào cuộc bắn giết, sợ hãi, điên dại phóng đãng... Anh ra khỏi cuộc chiến tranh không thương tật, nhưng thực tế thương tật ở bên trong. Sau chiến tranh anh trở về giảng dạy ở Trường Đại học Oxford hai năm, rồi đi làm công tác ở Bộ Ngoại giao vì anh biết nhiều ngôn ngữ Đông Phương. Anh là một con người thấy việc cần làm thì đem hết sức mình ra làm, chứ không vì cái tiếng anh hùng. Một con người không chuộng hình thức, người ta thường nghĩ anh biếng nhác, thực ra chỉ vì anh không muốn ganh đua, không muốn xô đẩy người khác để mình tiến lên. Do vậy, trên đường đời không bao giờ anh được món bở mà thường chỉ bị đẩy đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh. Tuy nhiên, anh vẫn không thấy buồn, trái lại còn có phần vui vì như vậy đã tránh được cuộc sống đầy cạnh tranh, chen lấn của xã hội đương thời. Chính với tâm trạng trên, khi bị bắt cóc đưa lên một tu viện Lama xây dựng ở lưng chừng trời, bên mép một dãy núi hoang vu ở Tây Tạng, anh đã gặp Lama tu viện trưởng và đã bị ông thuyết phục đến mức muốn ở lại đây để làm tu sĩ. Và chỉ ít lâu sau anh được tu viện trưởng trước khi chết đã cho anh kế vị. Nhưng vì bổn phận đối với Mallinson, viên phó lãnh sự cùng đi, một thanh niên có gia đình thân thuộc, có người yêu ở London, nên anh này nhất thiết đòi về. Và có lẽ còn vì Lo-Tsen, một nữ tu sĩ đã nhiều tuổi lắm rồi, song trông cô vẫn còn trẻ, coi như mới chỉ mười bảy, mười tám tuổi, như lúc cô mới đến tu viện Lama. Conway đã yêu cô, một tình yêu không đòi hỏi được đáp lại, yêu cái thanh tú mảnh mai, và anh không ngờ Mallinson đã thuyết phục được Lo-Tsen thu xếp cùng trở về. Hai người cần có Conway là người có thể giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn đầy rẫy trên đường. Vì bổn phận và vì yêu hai người, nên anh đã nhận lời đưa họ trở về… Conway không hề kể lại cho bạn bè nghe về câu chuyện trở về này, nên chỉ biết do ngẫu nhiên mà một người bạn anh đã gặp được anh đang nằm tại một bệnh viện của Hội truyền giáo ở Trùng Khánh: Lúc này anh đã mất hết trí nhớ. Bạn anh đã ở lại chăm sóc cho anh hồi phục được trí nhớ rồi đưa anh về London. Nhưng giữa đường, anh đã lẩn đi, dường như để tìm đường trở lại tu viện Lama, khiến bạn anh đã mất bao công sức đi hàng ngàn dặm đường, đi khắp nơi để tìm anh. Liệu anh có tìm được đường trở về tu viện Shangri-La ở Tây Tạng không? Đó là điều khó hiểu. ***  James Hilton là một tiểu thuyết gia người Anh đã viết một số tiểu thuyết bán chạy nhất, bao gồm Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), Random Harvest (1941). Trong tác phẩm Lost Horizon, ông hư cấu ra Shangri-La. Sinh ra tại Leigh, James Hilton là con trai của John Hilton, hiệu trưởng của Trường Chapel End ở Walthamstow. Ông được đào tạo tại Leys School, Cambridge. Hilton đã viết hai cuốn sách nổi tiếng nhất của mình, Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), trong khi sống trong một ngôi nhà liền kề khá bình thường trên Oak Hill Gardens, Woodford Green. Ngôi nhà nay vẫn còn, với một tấm bảng màu xanh đánh dấu cư trú của Hilton. Ông đã kết hôn hai lần, lần đầu tiên đến Alice Brown và sau đó đến Galina Kopineck. Cả hai cuộc hôn nhân đã kết thúc bằng ly hôn. Ông qua đời tại Long Beach, California do ung thư gan. Tác phẩm: Catherine Herself, 1920 Storm Passage, 1922 The Passionate Year, 1924 Dawn Of Reckoning (Rage In Heaven), 1925 Meadows Of The Moon, 1926 Terry, 1927 The Silver Flame (Three Loves Had Margaret), 1928 Murder at School (U.S. title: Was It Murder?), xuất bản với bút danh Glen Trevor, 1931 And Now Goodbye, 1931 Contango (Ill Wind), 1932 Knight Without Armour (Without Armor), 1933 Lost Horizon, 1933 Goodbye, Mr. Chips, 1934 We Are Not Alone, 1937 To You, Mr Chips, 1938 Random Harvest, 1941 The Story Of Dr. Wassell, 1944 So Well Remembered, 1945 Nothing So Strange, 1947 Twilight Of The Wise, 1949 Morning Journey, 1951 Time And Time Again, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Chân Trời Đã Mất của tác giả James Hilton.
451 Độ F - Ray Bradbury
451 độ F xứng đáng được xem là một kiệt tác kinh điển có thể thay đổi cuộc đời bất kỳ ai đọc nó. Tác giả Ray Bradbury là một trong những nhà văn lừng danh nhất của thế kỷ XX, tiểu thuyết 451 độ F ban đầu có tên là Lính phóng hỏa (The Fireman), dị bản đầu tiên có nhõn 25 nghìn chữ, được đăng trên tạp chí Galaxy Science Fiction. Hơn ba năm sau, qua một trận ốm nặng, nhà văn Ray Bradbury mới bổ sung thêm rất nhiều cho lần xuất bản sau đó. Ray Bradbury kể rằng đã dành toàn bộ hơi sức mình và “từ một vài động cơ ẩn mật nào đó bên  trong” để tạo dựng nên 451 độ F, một câu chuyện giả tưởng phong phú đến bất ngờ bởi tính dự báo về một xã hội hiện đại đầy những lo âu và bất ổn trong tương lai. Khắc họa xã hội giả tưởng thông qua anh chàng Montag “với cái mũ sắt tượng trưng mang số 451 trên cái đầu phớt lạnh và đôi mắt bừng lửa màu cam”, thế giới tiểu thuyết 451 độ F hiện lên đầy quái dị quanh việc “đốt là một cái thú”, nung cháy bầu trời buổi tối thành màu đỏ - vàng - đen, thiêu cháy làm cho rụi hẳn những mảnh vụn và tàn dư than củi của lịch sử. Ở xã hội mà lính cứu hỏa lại chính là “người châm mồi cho đám cháy” đó, nơi mà truyền hình phù phiếm thống trị, tri thức nông cạn, giải trí “ăn liền” được tung hê, nơi mà “không có sách thì thế giới vẫn ngon lành”, 451 độ F đã rung lên một hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp văn hóa trong một xã hội mà ý tưởng sáng tạo bị ruồng bỏ đến thản nhiên và tội nghiệp. Gấp gáp và sống động, nhà văn Ray Bradbury dường như muốn tất cả độc giả cùng tham gia và rơi vào “độ nóng” của từng mạch truyện. Nơi mà con người chìm mê trong công nghệ, những tình cảm thân thuộc bị xói mòn, nơi mà người ta kết nối với nhau qua sóng chứ không phải là từ những tín hiệu của những cái ôm.  Sự xuất hiện những con “chó máy” vô cảm trong tiểu thuyết khá thú vị, nó làm đúng chức năng, tự nhắm mồi, tự về nhà, tự tắt, “nó chỉ là cáp đồng, pin và điện” khiến không ít người phải giật mình vì tiện ích của đời sống hiện đại. Gấp lại 451 độ F, hẳn không ít người vẫn tủm tỉm đến bóng dáng cô nàng Clarisse “nhỏ nhắn và trắng như sữa”, đi lích rích trong đêm khuya, thích ngửi mùi và nhìn ngắm các thứ, đôi khi cô gái ấy đi suốt đêm, “cứ đi hoài và ngắm mặt trời mọc”.  Thời niên thiếu của mỗi người, chẳng đã từng đôi bận điên rồ đến ngọt ngào như thế hay sao. 451 độ F sắc nhọn, tinh tế, thực tiễn và ấm áp đến những dòng chữ cuối cùng là vậy. Được Ray Bradbury viết vào năm 1963, 451 độ F qua hơn 60 năm vẫn làm chao đảo những độc giả khó tính, trước một “kiệt tác tiên tri”, đáng báo động với chính thế giới của chúng ta. *** Ray Bradbury Douglas là một nhà văn chuyên về sáng tác các tác phẩm kinh dị, khoa học viễn tưởng, và bí ẩn người Mỹ. Nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết Fahrenheit 451 (1953) và tập hợp những câu chuyện khoa học viễn tưởng như The Martian Chronicles (1950) và The Illustrated Man (1951), Ray Bradbury là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ 20 và 21 của nước Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim và chương trình truyền hình. Bradbury sinh ngày 22 tháng 8 năm 1920 ở Waukegan, Illinois, cha mẹ là Esther (Moberg) Bradbury, một người Mỹ gốc Thụy Điển, và Leonard Spaulding Bradbury,[8] một người sửa chữa và bảo dưỡng đường dây điện và điện thoại. Bradbury có quan hệ với học giả Shakespeare Mỹ Douglas Spaulding. Ông cũng là hậu duệ của Mary Bradbury, người đã bị xử tại các cuộc xét xử phù thủy Salem năm 1692. Bà đã kết hôn với Captain Thomas Bradbury của Salisbury, Massachusetts. Thời niên thiếu, Ray đi cùng cha đến Los Angeles trong thời kỳ suy thoái. Thời điểm này, cuốn tiểu thuyết giả tưởng của Edgar Rice Burroughs "Tarzan" đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cậu. Cậu đã đi lang thang khắp Hollywood, bám theo những người nổi tiếng để xin chữ ký. Ray không đi học đại học, ông dành thời gian ở các thư viện để tự học và bắt đầu viết cho các tạp chí. Năm 1950, Bradbury cho ra mắt cuốn sách đầu tiên The Martian Chronicles là câu chuyện giả tưởng về những Earthlings chạy trốn khỏi một hành tinh đang xung đột với cư dân trên Sao Hỏa. Ray sáng tác ra những tác phẩm nổi tiếng khác như Dandelion Wine, I Sing the Body Electric và From the Dust Returned. Bradbury được ghi nhận sáng tác 27 quyển tiểu thuyết và hơn 600 câu chuyện ngắn. Các tác phẩm của ông đã bán hơn 8 triệu bản trên toàn cầu và chuyển thể sang hơn 36 ngôn ngữ. Ông bị đột quỵ vào năm 1999 và phải ngồi xe lăn suốt quãng đời còn lại. Bradbury qua đời tại Los Angeles, California ở tuổi 91 sau một thời gian bệnh tật kéo dài.[20][21] Ông có bốn người con. Vợ của ông đã qua đời vào năm 2003.   Mời các bạn đón đọc 451 Độ F của tác giả Ray Bradbury.
Vĩnh Biệt Mùa Hè - Nguyễn Đông Thức
Bộ tứ 4H (Hân, Hằng, Hoa, Hạ) của lớp 12A đã “làm mưa làm gió” không chỉ trên thị trường sách mà cả trong điện ảnh và âm nhạc trên dưới 20 năm. Ca khúc Vĩnh biệt mùa hè của nhạc sĩ Thanh Tùng viết năm 1992 một thời là ca khúc phổ biến của giới học sinh, sinh viên, nhất là các bạn năm cuối cấp với những ca từ thiết tha đầy nỗi nhớ: “Mùa hè bâng quơ, Bâng quơ nỗi nhớ, Những chiếc lá non vươn trên cành cây khô… Mùa hè đi qua rồi, Tình yêu cũng qua rồi…” Không chỉ có vậy, tác phẩm đã được hãng phim Giải phóng dựng thành phim nhựa năm 1992 và sau đó đạo diễn Bùi Thạc Chuyên chuyển thể thành phim truyền hình dài 4 tập 12A và 4H. Câu chuyện về 4 cô học trò Hằng, Hân, Hoa và Hạ. Hằng xuất thân là con nhà giàu, xinh đẹp, thông minh, học giỏi. Cứ ngỡ rằng cuộc sống sẽ trải thảm dưới chân cô. Thế nhưng việc người mẹ bỏ nhà đi theo tiếng gọi của tình yêu đã đẩy Hằng vào nỗi cô đơn đến tột độ. Và cô ngã vào vòng tay của thầy Minh – một người đàn ông đầy thủ đoạn. Để rồi khi cha cô đối mặt với vòng tù tội do có liên quan đến vụ án tiêu cực thì Hằng nhận ra mình chẳng còn gì: không mẹ, không cha, và người tình cũng cao chạy xa bay. Và nếu cô không may mắn gặp được Đoàn Hùng – người thanh niên xung phong năm xưa thì chưa biết cô sẽ trôi về đâu. Hạ là con gái của gia đình có cha mẹ làm bác sĩ. Cô học trò giỏi văn, bí thư chi đoàn lớp có một mối tình đẹp đẽ và thơ mộng với Long – con trai một sĩ quan chế độ cũ. Vì sự không “môn đăng hộ đối” này mà mẹ Hạ đã quyết liệt ngăn cản. Mọi thứ trong Hạ dường như vụn vỡ khi cô phát hiện ra thủ đoạn mẹ mình đã dùng để chia rẽ hai người. Hân giàu tình cảm, Hoa hồn nhiên. Chính vì vậy mà có lẽ cuộc đời đã dành cho hai cô gái này những ưu ái hơn. Hân tiếp tục học vào đại học, còn Hoa được mẹ giao lại cho gian hàng ở ngoài chợ. Bên cạnh 4 cô gái là Thiện chính trực, dũng cảm bảo vệ lẽ phải, Long giàu nghị lực. Đối lập là Ngôn – một học sinh cá biệt, du côn và kết thúc đời học sinh của mình bằng những nằm tù dài đăng đẳng. Và thầy Minh – một kẻ thủ đoạn. Câu chuyện dẫn dắt người đọc đi qua năm tháng học trò, có những giây phút hồn nhiên đùa nghịch, và cũng có những nỗi buồn đau của đời thường. Và kết thúc với chút buồn man mác. “Hân bước vào sân trường. Khoảng sân giờ đây bỗng rộng mênh mông, trống vắng đến lạnh lùng, đầy những lá rụng và hoa tàn.Mùa hè đang đi qua. Cái mùa hè cuối cùng của đời học sinh trong một năm học đầy biến động….Lần đầu tiên trong cuộc đời, Hân bắt đầu ý thức được sự tạm bợ và phù du của kiếp người. Cô cảm thấy buồn man mác. Tại sao người lớn cứ sống như vậy, khác hẳn những điều mà người trẻ được dạy dỗ, để cuối cùng không còn ai biết tin vào ai nữa. Mùa hè đã vĩnh viễn đi qua” *** Nhà văn Nguyễn Đông Thức sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính đã xuất bản Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986) Mưa khuya (truyện ngắn, 1987) Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987) Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988) Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988) Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989) Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... Vĩnh biệt mùa Hè Vĩnh biệt facebook ...   Giải thưởng Giải A cuộc thi sáng tác do thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh với tác phẩm Một bông hồng cho cô bộ đội. Giải nhì cuộc thi sáng tác do thành đoàn Hồ Chí Minh cho tác phẩm Truyện rất khó viết. Giải ba cuộc thi sáng tác do Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh cho tác phẩm Mưa khuya. Giải nhì cuộc thi sáng tác do báo Sài Gòn giải phóng cho tác phẩm Hạnh phúc. Mời các bạn đón đọc Vĩnh Biệt Mùa Hè của tác giả Nguyễn Đông Thức.