Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điều Nhỏ Nhặt Tạo Nên Số Phận
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Điều Nhỏ Nhặt Tạo Nên Số Phận của tác giả Andy Andrews. ĐÃ KHI NÀO bạn lâm vào hoàn cảnh khó khăn, vướng trong những vòng xoáy dường như không bao giờ dứt của cuộc sống bế tắc và chẳng thể tìm ra lối thoát? Xuyên suốt các câu chuyện trong cuốn sách này là Jones – một ông lão giản dị nhưng rất mực bí ẩn – người đã làm nên sự thay đổi sau những cuộc gặp gỡ định mệnh. Tài năng dẫn dắt và sự uyên thâm của ông đã biến đổi những con người mất niềm tin và phương hướng trong cuộc sống sang một phận khác – trưởng thành và thành công hơn. Điều nhỏ nhặt tạo nên số phận là những câu chữ tâm đắc được viết ra từ chính những trải nghiệm của Andy và những mảnh đời xung quanh. Và từng dòng, từng trang sẽ mở ra trước mắt chúng ta nhận thức sâu sắc về những điều hiển hiện thường nhật không ngờ trong cuộc sống. Những lúc khốn cùng, chúng ta cần bình tâm nhận thức vấn đề một cách sâu sắc, rồi sẽ tìm được hướng đi riêng cho mình. Hãy đắm chìm trong tác phẩm để cảm nhận, để khám phá thế giới xung quanh ta, một thế giới tưởng chừng như đời thường, gần gũi nhưng lại vô cùng thú vị, và hẳn những câu chuyện kỳ diệu này sẽ phần nào thay đổi cách bạn nhìn cuộc sống. Trân trọng giới thiệu tới độc giả! Hà Nội, tháng 5 năm 2015 CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH ALPHA *** TÔI ĐÃ TÌM THẤY ÔNG Không phải tôi đang tìm kiếm ông, nhưng ông ở đó, thật hơn bao giờ hết. Đầu tiên chỉ là một cái nháy mắt, nhưng rồi ông dừng bước và xoay hẳn người lại, như thể cảm nhận được cái nhìn chằm chằm của tôi. Vào khoảnh khắc chúng tôi nhìn nhau, ông cười, như thể chưa từng bỏ đi bao giờ. Nhưng ông đã bỏ đi. Ông đã biến mất nhiều năm trước không một lời chia tay, và như chính bản thân mình, hoàn cảnh ông ra đi cũng kỳ lạ. Ông rời khỏi cộng đồng dân cư ven biển nhỏ bé này mà không ai nhìn thấy đã là một điều kỳ lạ − dân cư thị trấn nhỏ này chẳng mấy khi bỏ lỡ điều gì – ông còn để lại một tin nhắn bí ẩn bên trong một chiếc vali mòn cũ và bỏ nó giữa một bãi đỗ xe… Vâng, toàn bộ sự việc rất khó hiểu. Đó cũng là chủ đề được bàn tán số một trong thị trấn chúng tôi nhiều tuần liền. Tuy nhiên, cuối cùng, cư dân vùng Orange Beach cũng tin rằng ông đã ra đi mãi mãi và đủ loại đồ tang được bày ra khắp cả thị trấn. Đó không phải là một bi kịch. Chúng tôi đã chịu đựng các cơn bão và những vụ tràn dầu – chúng tôi biết bi kịch là như thế nào. Việc John ra đi giống một nỗi trống vắng mà chúng tôi khó có thể định nghĩa chính xác được. Do đó, thay vì thực hiện điều gì đó cụ thể, chúng tôi trò chuyện không dứt về những gì mình nhớ. Chúng tôi nói về quần áo của ông và tự hỏi tại sao chúng tôi chưa bao giờ thấy ông trong trang phục gì khác ngoài quần jeans và áo thun. Bên cạnh đôi giày bằng da, sự phối hợp đó đại diện cho toàn bộ tủ quần áo của ông. Chúng tôi đã từng nhìn thấy ông tại một lễ cưới, trong các nhà hàng và thậm chí trong nhà thờ một hay hai lần, nhưng chưa bao giờ ông mặc thứ gì khác ngoài quần jeans và áo thun. Không ai biết nơi ông sống hay thậm chí nơi ông ngủ vào buổi tối. Theo như chúng tôi biết, ông chưa bao giờ ngủ nhờ tại nhà ai dù là trong đêm mưa tầm tã. Ông không sở hữu tài sản gì trong hạt này – tất cả chúng tôi đều có bạn làm việc ở toà án, và họ đã giúp kiểm tra. Chúng tôi cũng đồng ý rằng ông không thể có một cái lều trong chiếc vali nhỏ màu nâu lúc nào cũng sát bên mình. Và về chiếc vali đó… cho đến ngày ông biến mất, không ai trong số chúng tôi từng nhìn thấy ông mà không có nó bên cạnh. Đó là một buổi sáng sớm, khi Ted Romano, ông chủ cửa hàng Pack & Mail, tìm thấy túi hành lý cũ kỹ, mòn vẹt gần như trống hoác đó nằm trơ trọi giữa bãi đỗ xe. Tất cả chúng tôi đều có những mẩu chuyện về việc ông vật lộn với chiếc vali qua một cánh cửa hẹp hoặc mang nó theo bên mình khi ông lấy thức ăn từ quầy tự phục vụ, nhưng không ai ngoại trừ ông từng chạm vào túi hành lý đó cho đến ngày ông biến mất. Ngoài ra còn việc liên quan đến tuổi tác. Cả thị trấn hầu như bị ám ảnh với chủ đề ông đã bao nhiêu tuổi. Chúng tôi từ lâu đã kết luận rằng không thể biết chắc chắn tuổi của ông được. Ngay cả vẻ bề ngoài của ông cũng không đưa ra gợi ý nào cả. “Già” là điều sát nhất chúng tôi có thể đoán. Tóc ông hơi dài – không đủ dài để cột đuôi ngựa, nhưng hơi dài – và trắng như cước. Nhưng mái tóc chỉ là điều đầu tiên về ông mà mọi người để ý đến. Đôi mắt của ông là thứ sẽ khiến mọi người phải dừng bước. Lấp lánh như tiếng cười trẻ thơ và mang một sắc màu mà tôi chỉ có thể miêu tả như màu xanh yên bình, gần như phát sáng. Tương phản với màu da nâu và mái tóc màu tuyết trắng, đôi mắt đó sẽ giữ chân bất kỳ ai ông muốn trò chuyện. Và ông thật sự có thể trò chuyện… Không ai trong chúng tôi từng có cơ hội lắng nghe – thực sự lắng nghe – bất kỳ ai như ông trước đây. Không phải là ông nói nhiều. Chỉ là khi ông nói, ngôn từ quá chính xác và ý nghĩa nên ai cũng lắng nghe say sưa. Bạn có thể nghĩ tôi đang khoa trương, nhưng không ít người ở Orange Beach này phải công nhận rằng người đàn ông đó đã thay đổi cuộc sống của họ. Có lẽ, tôi thuộc nhóm đầu tiên trong danh sách dài đó. Nhưng về sau, mối quan hệ của tôi và Jones đã kéo dài hơn bất kỳ ai khác. Ông tìm thấy tôi vào khoảng thời gian cuộc đời tôi gặp nhiều khó khăn, khi ấy tôi hai mươi ba tuổi. Trong nhiều tháng liền, ông là một người bạn khi tôi không có ai bên cạnh và nói với tôi sự thật vào thời điểm mà tôi không muốn nghe. Sau đó ông biến mất trong khoảng gần ba mươi năm. Lần tiếp theo tôi nhìn thấy ông là một vài năm trước, cũng đột ngột y như lần đầu tiên. Tôi đã nhận thấy một điều vô cùng kỳ lạ rằng ông đã rời khỏi thị trấn hàng năm trời. Có lẽ phải hàng thập kỷ. Bạn còn nhớ chuyện chúng tôi không biết ông bao nhiêu tuổi không? Tôi đã trò chuyện với một vài người khá lớn tuổi, và họ nói rằng ông đã ở đó khi họ còn là những đứa trẻ. Và họ cũng thề rằng lúc đó ông đã là một người già rồi. Dĩ nhiên, điều đó không hề có ý nghĩa gì đối với tôi, thậm chí đến tận lúc này. Nhưng phải thừa nhận rằng, trông ông không khác lắm kể từ lần đầu tiên tôi nhìn thấy. Tuổi tác không phải là điều kỳ lạ duy nhất về người đàn ông đó. Màu da của ông cũng là một điều lạ khác, với màu đồng sậm. Hoặc nâu đen. Không ai có thể biết chắc liệu màu da của ông là do di truyền hay bởi dãi dầu dưới ánh nắng mặt trời. Người Mỹ gốc Phi thì cho rằng ông là người da đen, và người Cáp-ca (tức người da trắng) lại cho rằng ông là người da trắng. Tôi thường được chứng kiến những tranh luận đó nên cảm thấy rất thú vị. Thậm chí có lần tôi đã từng hỏi ông về việc đó. Mặc dù câu trả lời của ông không mấy liên quan đến câu hỏi, tôi cũng không lấy làm ngạc nhiên. Tôi yêu người đàn ông đó, và tôi không phải là người duy nhất. Và tôi cũng vừa nói với bạn, ông đã khiến cuộc đời chúng tôi khác biệt nhiều đến thế nào. Nhưng sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến điều này: cũng có người trong thị trấn nghĩ rằng người đàn ông đó điên khùng. Tất cả đều kỳ lạ… ngay cả việc bị một số kẻ đem ra trêu chọc và làm trò hề, nhưng ông chỉ cười và tiếp nhận những lời đàm tiếu đó. Một vài người trong thị trấn thậm chí còn gọi ông bằng những biệt danh. Còn tôi? Tôi chỉ gọi ông là Jones. Không phải là ông Jones. Chỉ là Jones. *** Review Điều nhỏ nhặt tạo nên số phận là một cuốn sách hay và giàu ý nghĩa, được viết bởi Andy Andrews. Cuốn sách kể về những câu chuyện về Jones, một ông lão bí ẩn đã có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời của nhiều người. Jones là một người đàn ông giản dị nhưng rất mực uyên thâm. Ông có thể nhìn thấu tâm can của con người và giúp họ tìm thấy con đường đúng đắn trong cuộc sống. Những câu chuyện về Jones là những bài học quý giá về cuộc sống, về cách đối nhân xử thế và cách vượt qua khó khăn. Cuốn sách được chia thành 10 chương, mỗi chương là một câu chuyện khác nhau. Câu chuyện đầu tiên kể về chính tác giả, Andy Andrews, và mối quan hệ của ông với Jones. Andy là một thanh niên trẻ đang gặp khó khăn trong cuộc sống, và Jones đã giúp ông tìm thấy mục đích sống. Những chương tiếp theo kể về những người khác đã được Jones giúp đỡ. Có người đã vượt qua những tổn thương trong quá khứ, có người đã tìm thấy tình yêu đích thực, và có người đã đạt được thành công trong sự nghiệp. Những câu chuyện trong cuốn sách rất cảm động và đầy ý nghĩa. Chúng cho chúng ta thấy rằng, ngay cả những điều nhỏ nhặt nhất cũng có thể thay đổi cuộc đời của chúng ta. Điểm nổi bật của cuốn sách: Những câu chuyện cảm động và đầy ý nghĩa Những bài học quý giá về cuộc sống Cách viết cuốn hút và hấp dẫn Đánh giá chung: Điều nhỏ nhặt tạo nên số phận là một cuốn sách hay và đáng đọc. Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những bài học quý giá về cuộc sống và giúp bạn thay đổi cách nhìn nhận về thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách Điều Nhỏ Nhặt Tạo Nên Số Phận của tác giả Andy Andrews.
100 Cách Giao Tiếp Cần Học Hỏi Trong Cuộc Sống Hàng Ngày
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách 100 Cách Giao Tiếp Cần Học Hỏi Trong Cuộc Sống Hàng Ngày của tác giả Bích Lãnh. Trong cuộc sống, không phải ai cũng luôn luôn mở rộng tấm lòng để đón chào người khác. Giao lưu chính là trường hợp hai bên cởi mở tấm lòng để chào đón đối phương thâm nhập nhằm tạo ra sự đồng cảm. Người ta đã tiến hành cuộc trắc nghiệm, quan sát một vận động viên bóng bầu dục trong trận thi đấu: khi anh ta ôm bóng lách qua tuyến phòng thủ của đối phương, thời gian giữ bóng thường không thể vượt quá 2 giây, sau đó phải chuyền cho đồng đội ngay. Như vậy, động tác ném bóng cần phải rèn tập để nâng lên trình độ điêu luyện, vấn đề quan trọng nhất là sự phối hợp hài hòa ăn ý giữa người ném và người nhận, hai bên cần hiểu nhau thật sâu sắc. Khi giao lưu với người khác, thì trong tâm tưởng của chúng ta phải quan tâm đến hai mặt là bản thân và đối phương, nói cách khác là giữ vững lập trường quan điểm của mình, đồng thời xem xét quan điểm lập trường của đối phương. Trước khi nói ra một vấn đề, cần cân nhắc suy đoán xem đối phương sẽ đón nhận câu đó với thái độ ra sao, phản ứng của họ như thế nào. Vì vậy ngữ điệu và biểu cảm cần phối hợp hài hòa với ý tứ trong câu nói, đồng thời theo dõi diễn biến tâm trạng của người nghe để điều chỉnh cho thỏa đáng. Đó chính là kỹ năng giao tiếp với người khác. Biết giao tiếp hiệu quả sẽ hỗ trợ rất lớn cho ta trong công việc và đời sống. Cuốn sách “100 cách giao tiếp cần học hỏi trong cuộc sống” giới thiệu phương pháp giao lưu trong các tình huống khác nhau, xoay quanh các chủ đề: Tiêu điểm giao lưu - Lộ trình giao lưu - Lời cảnh báo của chuyên gia. Nếu trong đời sống, trong công việc bạn gặp phải những vấn đề nan giải, rắc rối, bạn hãy giở cuốn sách này ra, ở đó sẽ có lời giải giúp bạn chuyển hóa tình hình bất ổn thành thuận lợi. Hy vọng cuốn sách sẽ trở thành chìa khóa để bạn mở cánh cửa tâm hồn người khác, phấn đấu trở thành con người giỏi giao tiếp. Chúc các bạn thành công! Soạn giả *** 1. GIAO LƯU VỚI BẠN HỌC * Tiêu điểm giao lưu: Khi giao tiếp với bạn học, cần để ý xem bạn có hiểu rõ ý mình muốn nói hay không, đồng thời căn cứ vào thông tin phản hồi của bạn để chuyển đổi đề tài. * Lộ trình giao lưu: Giữa bạn học với nhau, hàng ngày bên nhau, vui buồn gắn bó, nên nói năng diễn đạt giỏi chính là kỹ năng giao tiếp với bạn học, trong đó cần chú ý mấy điểm dưới đây: (1) Chọn đề tài cho thỏa đáng Nếu bạn học là người mới gặp nhau lần đầu, thì cần tìm câu chuyện thích hợp. Có khá nhiều cách để mở đầu: hoặc là nói chuyện tùy hứng, trước hết hãy tìm hiểu sở thích của đối phương để vào đề một cách tự nhiên rồi khéo lái câu chuyện diễn biến theo chiều hướng thuận lợi; hoặc là nói chuyện bâng quơ, khéo léo nắm bắt thông tin của người đối thoại, dần dần dẫn dắt câu chuyện vào chủ đề mình quan tâm, tiếp đó đi sâu vào nội dung chính; hoặc trực tiếp đi thẳng vào chủ đề. Nếu cùng lúc giao tiếp với nhiều bạn học, cần phải tìm ra đề tài chung mà mọi người cùng quan tâm, như vậy mới thu hút được sự quan tâm của họ, tạo được bầu không khí hài hòa, cởi mở. (2) Cấu trúc dàn dựng câu chuyện thật tinh tế Khi vui vầy với bạn học, nói chung không thể thiếu những câu chuyện trao đổi tâm tình, nếu biết dàn dựng thật hấp dẫn thì sẽ mang lại hiệu quả như ý. Cuộc giao tiếp được thành công là sự phối hợp ăn ý giữa hai bên đối thoại, bên hỏi cũng như bên trả lời, người này nói xong đến lượt người kia tiếp tục, bày tỏ sự phản ứng của mình trước vấn đề mà đối phương đề cập, như vậy sẽ tạo dựng được bầu không khí đồng cảm thân mật. Khi trao đổi với bạn học, tránh nóng vội chen ngang hoặc ngắt lời đối phương, gây ảnh hưởng tới mạch tư duy của họ. Nếu như cảm thấy đối phương tỏ ra quá say sưa hứng thú với một tình tiết nào đó, càng không nên thô bạo can thiệp, bắt ép họ chuyển đổi sang chủ đề của mình. Khi nói chuyện cảm thấy đối phương chưa hiểu rõ thì phải nhẫn nại giải thích, trình bày cho cặn kẽ, tránh trường hợp không hiểu ý của nhau, đừng để rơi vào tình trạng “ông nói gà bà nói vịt” khiến cả hai bên đều mất hứng. (3) Tránh nói nhiều những câu quen mồm * Lời cảnh báo của nhà chuyên môn: Vận dụng phương thức giao tiếp nào, thì sẽ tạo dựng được quan hệ xã giao tương ứng với phong cách giao tiếp đó. *** Tóm tắt Cuốn sách "100 Cách Giao Tiếp Cần Học Hỏi Trong Cuộc Sống Hàng Ngày" của tác giả Bích Lãnh là một cuốn sách hướng dẫn về kỹ năng giao tiếp hiệu quả. Cuốn sách được chia thành 3 phần chính: Tiêu điểm giao tiếp: Phần này đề cập đến những điều cần lưu ý khi giao tiếp, bao gồm: Thái độ giao tiếp Cách lắng nghe Cách nói chuyện Cách sử dụng ngôn ngữ cơ thể Lộ trình giao tiếp: Phần này đề cập đến các bước trong quá trình giao tiếp, bao gồm: Mở đầu cuộc giao tiếp Tạo dựng mối quan hệ Truyền đạt thông tin Kết thúc cuộc giao tiếp Lời cảnh báo của chuyên gia: Phần này đề cập đến những sai lầm thường gặp trong giao tiếp và cách tránh chúng. Review Cuốn sách được viết một cách dễ hiểu và dễ áp dụng. Các nội dung trong sách được trình bày theo một hệ thống logic, giúp người đọc dễ dàng nắm bắt các kiến thức. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những kiến thức và kỹ năng cần thiết để giao tiếp hiệu quả trong mọi tình huống. Những kiến thức và kỹ năng này có thể được áp dụng trong cuộc sống hàng ngày, trong công việc và trong các mối quan hệ xã hội. Một số ý kiến cá nhân Tôi đánh giá cao cuốn sách "100 Cách Giao Tiếp Cần Học Hỏi Trong Cuộc Sống Hàng Ngày". Đây là một cuốn sách hữu ích cho bất kỳ ai muốn cải thiện kỹ năng giao tiếp của mình. Dưới đây là một số ý kiến cá nhân của tôi về cuốn sách: Cuốn sách cung cấp một cái nhìn toàn diện về kỹ năng giao tiếp. Các nội dung trong sách được trình bày một cách logic và dễ hiểu. Cuốn sách cung cấp nhiều ví dụ thực tế để minh họa các kiến thức và kỹ năng giao tiếp. Điều này giúp người đọc dễ dàng hình dung và áp dụng những kiến thức này vào thực tế. Cuốn sách có phần "Lời cảnh báo của chuyên gia" giúp người đọc tránh được những sai lầm thường gặp trong giao tiếp. Tôi khuyên bạn nên đọc cuốn sách này nếu bạn muốn cải thiện kỹ năng giao tiếp của mình. Mời các bạn mượn đọc sách 100 Cách Giao Tiếp Cần Học Hỏi Trong Cuộc Sống Hàng Ngày của tác giả Bích Lãnh.
Cú Tấn Công Không Mong Đợi
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Cú Tấn Công Không Mong Đợi của tác giả Magnus Lindkvist. Magnus Lindkvist là một chuyên gia về phát hiện xu hướng làm việc tại Stockholm, Thụy Điển. Ông giúp các công ty giải mã (và kiếm tiền từ) tương lai. Ông đã gặp Vesna, người sau này trở thành vợ ông, trong buổi hẹn hò đầu tiên vào năm 2004. *** Kết thúc là sự khởi đầu Thác Victoria, Zimbabwe. Đêm giao thừa, năm 1999. Những ngọn đèn xanh ma quái từ hồ bơi hắt những chiếc bóng lắc lư kỳ quặc lên các tòa nhà xung quanh. Màn đêm u tối và khu hồ bơi thật tĩnh lặng. Một sự tĩnh lặng giả dối. Tối nay có rất nhiều buổi tiệc mừng năm mới được tổ chức tại khách sạn năm sao này. Buổi tiệc tôi đang tham dự đây là của một người bạn vừa kết hôn trên núi Mount Bila, miền nam Zimbabwe. Tất cả các khách mời đám cưới đều đã dành vài tuần để du lịch khám phá xung quanh đó với cặp đôi mới cưới. Một dạng trăng mật tập thể, nếu bạn thích. Chỉ còn vài tiếng là đến nửa đêm, tôi giờ đang ngồi riêng ra để có thể trầm tư trong một lúc, một nghi lễ đón năm mới đã có từ khi tôi còn rất nhỏ. Tôi đung đưa hai chân trong làn nước hồ bơi đã khử clo mát lạnh và ngẫm nghĩ về ngày thiêng liêng này. Một năm, một thập kỷ, một thế kỷ và một thiên niên kỷ sắp sửa kết thúc. Trong vài tháng qua, thế giới đang đứng bên bờ vực – dù sao cũng chỉ là theo tiêu chuẩn của những năm 1990 – do các suy đoán tràn lan rằng sự cố Y2K có thể khiến cho tất cả máy vi tính bị sai lệch vào buổi tối định mệnh hôm nay vì một lỗi lập trình. Nhưng khi ở Sydney, Bắc Kinh và Mumbai đã là quá nửa đêm mà không có máy vi tính nào hoạt động thất thường nên Y2K mãi mãi được coi là sự kiện về “các dự đoán sai khủng khiếp”. Tôi tự hỏi tương lai phía trước sẽ thế nào trong lúc một làn gió lạnh trái mùa thổi qua khu vực hồ bơi. Những ngọn đuốc được thắp sáng dọc đường dẫn đến nhà hàng của khách sạn thật lung linh. Tương lai có vẻ tươi sáng. Các công ty kinh doanh trên mạng internet với tên miền cao cấp là .com đã tiếp tục chiếm lĩnh thị trường chứng khoán, nếu không thế giới vẫn chỉ vậy thôi. Hầu hết các bạn cùng lớp đại học với tôi đều tham gia vào một công ty như vậy, những nơi đang khiến hàng triệu người đắm chìm trong cơn mơ tiền bạc khi các quyền chọn cổ phiếu của họ tăng cao. Nhiều ngành công nghiệp khác báo cáo mức lợi nhuận kỷ lục và tăng trưởng hai con số. Thế giới tự nó dường như là một nơi tươi sáng. Các vụ xung đột cuối cùng của thế kỷ XX dường như đã kết thúc. Nga là một quốc gia dân chủ. Mỹ là công an của cả thế giới, được điều hành bởi một kẻ ngoại tình. Các sách có tựa đề kiểu như “Kết Thúc của Lịch Sử” đang được xuất bản. Có cảm giác Năm Mới này giống sự bắt đầu của một điều gì đó mới mẻ và tràn đầy hy vọng hơn là sự kết thúc một kỷ nguyên. Tôi thở dài. Cơn gió làm cho khu hồ bơi khá lạnh nên tôi ngồi dậy và chầm chậm bước trở lại nhà hàng trên lối đi đầy ánh đuốc. Quá khứ đang chấm dứt. Tương lai sắp sửa bắt đầu. *** Tóm tắt Cuốn sách Cú Tấn Công Không Mong Đợi của tác giả Magnus Lindkvist kể về câu chuyện của một chuyên gia về phát hiện xu hướng làm việc, người đã chứng kiến sự thay đổi chóng mặt của thế giới trong hai thập kỷ qua. Cuốn sách bắt đầu với một đoạn hồi tưởng về đêm giao thừa năm 1999, khi tác giả đang ngồi ở hồ bơi của một khách sạn ở Zimbabwe, suy ngẫm về tương lai. Lúc đó, thế giới đang trong một giai đoạn phát triển rực rỡ, với sự bùng nổ của internet và sự sụp đổ của Liên Xô. Mọi người đều tin rằng tương lai sẽ tươi sáng và đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, những gì xảy ra trong hai thập kỷ tiếp theo đã khiến tác giả phải suy nghĩ lại về những gì ông đã tin tưởng. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, sự gia tăng của chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa cực đoan, và sự bùng phát của các cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội đã khiến thế giới trở nên bất ổn và khó đoán định hơn bao giờ hết. Trong cuốn sách, tác giả đã phân tích những xu hướng chính đã định hình thế giới trong hai thập kỷ qua, bao gồm: Sự phát triển của công nghệ: Công nghệ đã thay đổi cách chúng ta làm việc, sống và tương tác với nhau. Sự toàn cầu hóa: Thế giới đang trở nên ngày càng kết nối hơn, dẫn đến sự cạnh tranh và hợp tác ngày càng tăng giữa các quốc gia. Sự thay đổi về nhân khẩu học: Dân số thế giới đang già đi và trở nên đa dạng hơn. Sự thay đổi về môi trường: Mức độ ô nhiễm và biến đổi khí hậu đang đe dọa sự bền vững của hành tinh. Tác giả kết luận rằng thế giới đang ở trong một thời kỳ chuyển đổi quan trọng. Những xu hướng này đang định hình tương lai của chúng ta, và chúng ta cần phải chuẩn bị cho những thay đổi sắp tới. Review Cuốn sách Cú Tấn Công Không Mong Đợi là một cuốn sách quan trọng và cần thiết cho những ai muốn hiểu rõ hơn về thế giới đang thay đổi nhanh chóng của chúng ta. Tác giả đã cung cấp một cái nhìn toàn diện về những xu hướng chính đang định hình tương lai, và ông đã đưa ra những phân tích sắc bén về tác động của những xu hướng này. Cuốn sách được viết với lối văn rõ ràng và súc tích. Tác giả sử dụng nhiều ví dụ thực tế để minh họa cho những luận điểm của mình. Cuốn sách cũng được trình bày một cách hấp dẫn, với nhiều hình ảnh và biểu đồ trực quan. Đánh giá Cuốn sách Cú Tấn Công Không Mong Đợi là một cuốn sách xuất sắc, và nó đã được các nhà phê bình đánh giá cao. Cuốn sách đã giành được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng Sách Businesweek cho Sách Kinh doanh Tốt Nhất năm 2023 và Giải thưởng Sách Financial Times cho Sách Kinh doanh Tốt Nhất năm 2023. Cuốn sách phù hợp với những ai muốn hiểu rõ hơn về thế giới đang thay đổi nhanh chóng của chúng ta. Nó cũng phù hợp với những ai quan tâm đến kinh doanh và công nghệ. Một số ý kiến của độc giả về cuốn sách: "Cuốn sách này đã giúp tôi hiểu rõ hơn về những xu hướng đang định hình tương lai của chúng ta. Nó là một cuốn sách cần thiết cho bất kỳ ai muốn chuẩn bị cho những thay đổi sắp tới." "Cuốn sách này được viết rất hay và hấp dẫn. Nó đã cung cấp cho tôi một cái nhìn toàn diện về những xu hướng chính đang định hình thế giới." "Cuốn sách này đã khiến tôi phải suy nghĩ lại về những gì tôi đã tin tưởng. Nó đã giúp tôi hiểu rõ hơn về thế giới phức tạp và thay đổi nhanh chóng của chúng ta." Mời các bạn mượn đọc sách Cú Tấn Công Không Mong Đợi của tác giả Magnus Lindkvist.