Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Và Màn Đêm

Mùa đông năm 1992 Trong khuôn viên của một trường trung học danh tiếng ở miền Nam nước Pháp, dưới bóng đêm đen, trên màn tuyết trắng, ba người bạn bị số phận đưa đẩy cùng chia sẻ một bí mật khủng khiếp!  Và một cô gái đã bị màn đêm cuốn đi!  Hai mươi lăm năm sau  Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường, ba người bạn học hội ngộ. Những lá thư nặc danh, những lời đe dọa xuất hiện cùng với nguy cơ quá khứ bị khơi dậy!  Cô gái năm xưa có trở lại? Đâu là bộ mặt thật của màn đêm? Làm thế nào để băng qua đêm đen?  Với đặc quyền cùng tài năng thiên bẩm của một tiểu thuyết gia, Guillaume Musso sẽ giúp độc giả khám phá ra sự thật trong khi không phút nào hết sững sờ. *** Nhi Nguyễn's review Jan 19, 2019 Lời đầu tiên, phải nói là mình cực thích địa điểm diễn ra câu chuyện trong cuốn tiểu thuyết này, vùng Côte d’Azur nằm bên bờ Địa Trung Hải của Pháp, nơi mà tiếng Anh gọi là French Riviera. Vùng đất này, cùng thành phố Nice (một trong những thành phố mình muốn đến thăm nhất nếu có cơ hội được du lịch đến Pháp, sau Lyon, Strasbourg và dĩ nhiên là Paris) đẹp đến nỗi không thốt nên lời được (những lời văn của bác Musso chỉ miêu tả được phần nào vẻ đẹp ấy thôi, còn tốt nhất là các bạn cứ google hình ảnh của vùng này để mà chiêm ngưỡng :D). Vùng đất ấy có ngôi trường quốc tế mang tên St. Exupéry (ơ bác Musso lấy cả tên của bác tác giả “Hoàng Tử Bé” đặt tên cho trường kìa hi hi hi :D), nơi mà 25 năm trước, vào một đêm mùa đông giá lạnh của năm 1992, một cô nữ sinh trẻ tuổi tên là Vinca Rockwell đã được cho là bỏ trốn cùng với tình nhân của mình – thầy giáo dạy Triết học Alexis Clément. Câu chuyện mở đầu bằng một xác chết mặt mũi bầm dập trên một mỏm đá hướng ra biển, để rồi tua lại vài ngày trước đó, khi Thomas – người kể chuyện – trở về mái trường năm xưa để dự lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường. Bên trong con người Thomas là một bí mật động trời đã luôn ám ảnh anh suốt 25 năm qua, bí mật liên quan đến sự biến mất của Cô gái Vinca vào Màn đêm bất tận của năm 1992. Để rồi từng bước từng bước, khi độc giả theo dấu Thomas điều tra, khám phá ra những ngóc ngách còn kinh hoàng hơn nữa của cái tấn bi kịch trong cái đêm định mệnh ấy, theo sau lời đe dọa trả thù của một kẻ thù bí mật, thì sự thật hóa ra còn hơn cả những gì một tiểu thuyết gia như Thomas có thể tưởng tượng ra. Đúng như danh tiếng bấy lâu nay của bác Musso, bác đúng là “the plot twist King” đỉnh của đỉnh, khi những gì Thomas phát hiện ra đã thực sự khiến mình muốn rớt hàm, phải nói là khiến mình rất nhiều lần thốt lên “What da fuck?”, da gà thì nổi khắp người. Và không chỉ có một cú plot twist, tác giả đã cài cắm rất nhiều sự thật, nhiều phát hiện động trời mà đúng là chỉ có bộ não như Musso mới có thể nghĩ ra. Từng khúc quanh, ngã rẽ dẫn dụ người đọc vào một mê cung, trong đó mỗi nhân vật đều có dây mơ rễ má buộc chặt số phận của họ lại với nhau, và chính giữa mê cung ấy là Vinca Rockwell – cô gái tóc hung với đôi mắt hai màu, nữ thần quyến rũ, là tâm điểm chú ý và đối tượng ái tình của rất nhiều người những năm đầu thập niên 90, trong đó có Thomas – chàng trai luôn khác biệt so với những người còn lại. Và như lời một nhân vật trong truyện, hoặc nhận xét của một nhà phê bình đằng sau cuốn sách, câu chuyện của “Cô gái và Màn đêm” thực sự là một cuộc len đỏ, mà chỉ cần tìm đúng đầu dây và kéo ra, thì toàn bộ sự thật sẽ tuôn trào; ghê gớm hơn, sự thật ấy còn như một bọng máu, vỡ bục ở đoạn cuối và đi theo một hướng không ai có thể ngờ. Ái tình có sức mạnh ghê gớm đến vậy sao? Và con người chúng ta, những sinh thể phàm trần ấy, chúng ta sống những cuộc đời nào, che giấu những bí mật gì, bàn tay vấy máu những ai, và làm sao chúng ta có thể sống tiếp mà vẫn mang trong mình những bí mật ấy, những bọc máu ấy? Cách kể chuyện xen lẫn giữa hiện tại và quá khứ của Thomas cùng nhiều nhân vật khác đã phả vào câu chuyện đậm chất trinh thám này một nét hoài cổ mà mình rất thích. Có thể dễ dàng tìm thấy điểm chung giữa “Cô gái và Màn đêm” với một tác phẩm khác nữa của Musso, đó là “Cô gái Brooklyn”. Cả hai đều là câu chuyện về những cô gái với danh tính và số phận bí ẩn, cùng hành trình khám phá sự thật của những chàng trai, hành trình kéo dài chỉ trong vòng 1, 2 ngày, đưa đẩy người đọc cùng nhân vật chính đi từ khám phá này đến khám phá khác (hình như Musso là một trong những tác giả hiếm hoi có thể viết nên những câu chuyện chỉ kéo dài trong 1, 2 ngày ngắn ngủi đó mà lại khiến người đọc không rời mắt được khỏi trang sách). Cá nhân mình thì vẫn thích “Cô gái Brooklyn” hơn, vì nhịp điệu câu chuyện này hồi hộp, mang tính bất ngờ và gây nghiện hơn “Cô gái và Màn đêm”. Tuy nhiên, không thể phủ nhận là Musso đã một lần nữa cực kỳ thành công khi cho ra đời một “Cô gái và Màn đêm” hấp dẫn và xuất sắc đến như thế này. Mình đọc ngấu nghiến những trường đoạn cuối, khi sự thật được hé lộ, những khúc mắc được lý giải và Thomas làm lành với quá khứ chỉ trong sáng nay. Guillaume Musso có lẽ là một trong những tác giả hiếm hoi mà 400 trang sách của bác ấy, mình đọc hết chỉ trong 2 ngày cuối tuần ha ha ha :D :D :D *** Ôi trời đất ơi. Thật sự là một cú lừa. Guillaume Musso từ lâu đã là tác giả yêu thích của tớ, ít nhiều chính là do những quả plot twist không ngờ được ở cuối truyện. Cô Gái Và Màn Đêm cũng là một trò lừa tâm trí của Musso đối với người đọc, bởi độc giả đã bị Musso dẫn dắt vào mê cung ngay từ đầu truyện. Tác giả đã kích thích trí tò mò của người đọc bằng việc mở đầu một vụ án giết người để mà từ đó làm tiền đề, hé lộ ra quá khứ đen tối ẩn sau cuộc đời của ba người bạn cũ: Thomas, Fanny và Maxime. Cô Gái Và Màn Đêm có nội dung xoay quanh Vinca – một cô gái bí ẩn và là bạn học cùng trường của ba người bạn phía trên. Hơn nữa, Vinca cũng chính là giấc mơ, là mối tình thầm lặng của cậu học trò Thomas 18 tuổi ngày ấy. Tuy nhiên vào đêm Mười chín tháng mười hai năm 1992, cuộc sống của tất cả bọn họ đã vĩnh viễn thay đổi: Vinca biến mất một cách bí ẩn, người tình của cô là Alexis cũng không rõ tung tích. Cho đến 15 năm sau ở buổi kỷ niệm 50 năm thành lập trường, bóng ma của Cô gái Màn Đêm một lần nữa trỗi dậy, bủa vây lấy ba người bạn cũ. Những lá thư nặc danh, những lời đe dọa cùng với mối hận của Màn đêm tái hiện, gào thét đòi một sự thật tưởng như đã bị chôn vùi trong bức tường của nhà thể chất. Cái hay ở tiểu thuyết Musso đó là khả năng khơi gợi được sự hồi hộp của người đọc. Một khi đã đọc thì hoàn toàn bị cuốn theo mạch truyện tưởng như không dời mắt ra được luôn. Cô Gái Và Màn Đêm với mạch truyện rõ ràng, tội ác đan xen tội ác, vụ án chồng chất vụ án, và đủ để làm xoắn não độc giả, tung cho họ một hỏa mù. Những khi tưởng như đã biết chắc được thủ phạm nhưng hóa ra hoàn toàn trật lất, và những kẻ mình không thể ngờ lại chính là hung thủ giết người. Người đọc được theo dấu chân của Thomas tìm lại về quá khứ, cùng anh chàng tìm hiểu và khám phá ra dần dần làn sương mù bao phủ lấy sự thật chưa được soi tỏ. Đằng sau vỏ bọc cô gái hoàn hảo, hóa ra Vinca cũng đem theo mình một khía cạnh khác, một khía cạnh mà không có ai biết cũng như cái bí mật mà không ai có thể ngờ. Thực sự tớ rất ấn tượng với Thomas, bởi lẽ anh vốn là một nhà văn nhưng lại điều tra manh mối đỉnh không kém đặc vụ FBI luôn, giỏi thế chứ lị. Cô Gái Và Màn Đêm cũng giúp bản thân tớ nhận ra đúng là những người điên vì tình có thể làm mọi thứ kể cả những việc kinh khủng nhất. Và cũng chính vì quá khứ sai lầm ấy mà tất cả các nhân vật trong câu chuyện này đã đều phải sống trong sự sợ hãi và nỗi ám ảnh bao phủ lấy cuộc đời mình. Nói luôn đến plot twist, thực sự quả chốt hạ cuối cùng rất ổn luôn. Đúng là Musso rất giỏi trong việc dẫn dắt tâm trí độc giả. Các nhân vật trong Cô Gái Và Màn Đêm tài tình thế nào lại liên quan đến nhau hết. Từ Vinca, Thomas, Fanny, Maxime; cảm tưởng như số phận của họ phải bện xoắn lấy nhau vậy. Lời giải cuối truyện logic, tình tiết và những manh mối rải rác đã được lắp ghép logic với nhau để tạo thành một bức tranh hoàn chỉnh. Đúng là Musso có khác không để độc giả thất vọng bao giờ. Nhìn chung, tớ khá ưng cuốn sách mới nhất Cô Gái Và Màn Đêm của Musso. Từ nội dung, cách dẫn dắt tình huống và cả cách dịch của dịch giả. Ngoài ra tớ còn thích cả cách mà Musso cho thêm vào cuốn sách của mình những câu nói của những tiểu thuyết gia, những tác phẩm,… vv nổi tiếng nữa, đúng là gia vị quen thuộc của Guillaume Musso mà. Cô Gái Và Màn Đêm thích hợp cho mọi người để đọc, và chắc chắn fan Musso thì càng không thể bỏ qua rồi! *** 2017 Mỏm Nam Mũi Antibes. Ngày 13 tháng Năm. Manon Agostini đỗ chiếc xe công vụ ở đầu đường Chemin de la Garoupe. Nữ cảnh sát quận vừa đóng sập cửa chiếc xe Kangoo cũ kỹ vừa thầm nguyền rủa diễn biến các sự kiện đã lôi kéo cô đến tận đây. Khoảng 21 giờ, người bảo vệ của một trong những dinh thự sang trọng bậc nhất Mũi Antibes đã gọi điện đến sở cảnh sát Antibes để báo tin về một tiếng pháo hoặc tiếng súng – dù thế nào thì cũng là một âm thanh lạ – có thể đã phát ra trên con đường mòn lởm chởm đá bên cạnh khuôn viên dinh thự. Sở cảnh sát không mấy quan tâm đến cuộc gọi này, và đã chuyển nó lại cho các phòng cảnh sát quận, và cảnh sát quận không tìm ra cách gì hay hơn là liên hệ với cô, trong khi thời gian làm việc trong ngày của cô đã hết. Khi cấp trên gọi điện yêu cầu cô đến ngó qua con đường mòn ven biển đó, Manon đã diện xong đồ dự tiệc và sẵn sàng xuất phát. Cô những muốn đáp lại là ông hãy tự đi mà xem, nhưng lại không thể từ chối nhiệm vụ này. Mới sáng nay, con người nhân hậu ấy đã đồng ý cho cô giữ chiếc Kangoo sau giờ làm việc. Xe riêng của Manon vừa trút hơi thở cuối cùng, và tối thứ Bảy này, cô nhất thiết phải có phương tiện để đi đến một cuộc hẹn rất quan trọng với mình. Trường trung học Saint-Exupéry, nơi cô từng theo học, tổ chức kỷ niệm năm mươi năm ngày thành lập, và nhân dịp này, đám bạn cũ lớp cô sẽ tụ họp trong một bữa tiệc. Manon thầm hy vọng tại bữa tiệc cô sẽ gặp lại anh chàng từng để ý đến mình trước đây. Một anh chàng khác biệt so với những người khác, mà hồi ấy cô đã ngốc nghếch bỏ qua, vì thích những người lớn tuổi hơn, những gã rốt cuộc đều đã chứng tỏ bọn họ chỉ là những kẻ đần độn ngu xuẩn. Niềm hy vọng đó chẳng hề có căn cứ – thậm chí cô còn không chắc anh chàng ấy sẽ có mặt ở bữa tiệc, và hẳn là anh ta cũng đã lãng quên cả sự tồn tại của cô – nhưng cô cần tin rằng rốt cuộc sẽ có điều gì đó xảy ra trong đời mình. Cắt sửa móng tay, làm tóc, mua sắm: Manon đã sửa soạn suốt cả chiều. Cô đã tặc lưỡi chi ba trăm euro cho một chiếc váy suông bằng đăng ten màu xanh đen pha jersey lụa, mượn chiếc vòng cổ ngọc trai của chị gái và đôi giày cao gót của cô bạn thân – một đôi Stuart Weitzman bằng da đanh khiến chân cô đau nhức. Chênh vênh trên đôi giày cao gót, Manon bật đèn pin điện thoại và bước vào con đường hẹp, chạy dọc hơn hai ki-lô-mét ven bờ biển cho đến tận Biệt thự Eilenroc. Cô biết rất rõ nơi này. Hồi cô còn là một đứa trẻ, bố thường đưa cô đi câu trong những vũng nhỏ ở đây. Ngày xưa, dân khu vực này gọi đây là con đường của hải quan hoặc đường mòn của dân buôn lậu. Sau này, nơi đây xuất hiện trong các cẩm nang du lịch dưới cái danh xưng nên thơ là đường mòn Tire-Poil1. Ngày nay, nó mang cái tên nhạt nhẽo hơn, vô vị hơn, là đường mòn ven biển. Đi được chừng năm chục mét, Manon vấp phải một hàng rào có gắn tấm biển cảnh báo: Khu vực nguy hiểm – cấm vào. Giữa tuần vừa rồi đã xảy ra một cơn bão lớn. Những cơn sóng biển dữ dội đã làm đất đá sụt lở nghiêm trọng, khiến người ta không thể đi dạo ở một số điểm nữa. Manon lưỡng lự một lát rồi quyết định bước qua hàng rào. 1992 Mỏm Nam Mũi Antibes. Ngày 1 một tháng Mười. Tâm hồn vui phơi phới, Vinca Rockwell nhảy chân sáo đi qua trước bãi biển Joliette. Đã 10 giờ tối. Để từ trường trung học đến được tận đây, cô đã phải thuyết phục một cô bạn cùng lớp văn học, người có một chiếc xe máy, chở mình tới đầu đường Chemin de la Garoupe. Khi rẽ vào con đường mòn của dân buôn lậu, cô cảm thấy kích thích ở vùng bụng dưới. Cô sắp gặp lại Alexis. Cô sắp gặp lại tình yêu của mình! Gió thốc dữ dội, nhưng đêm thật đẹp và trời quang đãng đến nỗi cảnh vật nhìn rõ gần như ban ngày. Vinca vẫn luôn yêu mến nơi này, bởi vì nó hoang dã và không giống với hình ảnh mùa hè French Riviera2 bị hiểu sai lệch đi. Dưới ánh mặt trời, ta sững sờ trước sắc trắng và đỏ son chói lọi của những vách đá vôi, và trước vô vàn những biến tấu của sắc xanh bao trùm những vùng vịnh nhỏ. Một lần, khi nhìn về phía quần đảo Lérins, thậm chí Vinca còn thoáng thấy những chú cá heo. Khi có gió lớn, như tối nay, khung cảnh thay đổi hoàn toàn. Những vách đá dốc đứng trở nên nguy hiểm, những cây ô liu và thông dường như đang oằn mình vì đau đớn, như thể chúng đang tìm cách rứt mình khỏi mặt đất. Nhưng Vinca không quan tâm. Cô sắp gặp lại Alexis. Cô sắp gặp lại tình yêu của mình! 2017   Chết tiệt! Một trong hai gót giày của Manon vừa gãy gập. Chết tiệt! Trước khi đến bữa tiệc, cô sẽ phải vòng về qua nhà, và ngày mai, sẽ bị cô bạn thân mắng cho một trận. Cô tháo giày, nhét vào túi xách rồi tiếp tục bước đi trên đôi chân trần. Cô vẫn đi theo vệt đường mòn hẹp nhưng được đổ bê tông vắt chênh vênh trên những vách đá. Không khí trong lành khiến cô phấn chấn hẳn lên. Gió mistral khiến màn đêm trở nên quang đãng và phủ đầy sao lên bầu trời. Tầm nhìn ngoạn mục trải dài từ những bức tường thành của khu Antibes cổ kính đến tận vịnh Nice, vượt qua những ngọn núi làm nền ở hậu cảnh. Ẩn hiện bên dưới, đằng sau những cây thông, là một vài trong số những dinh thự đẹp nhất Côte d’Azur. Người ta nghe thấy tiếng những con sóng tung bọt trắng và cảm nhận được toàn bộ sức mạnh cũng như quyền lực của nước triều. Trong quá khứ, nơi này từng chứng kiến những tai nạn thảm khốc. Sóng lừng đã cuốn đi nhiều ngư dân, du khách hoặc những cặp tình nhân ra hôn nhau nơi mép nước. Dưới sức ép của những lời chỉ trích, chính quyền đã buộc phải cải thiện mức độ an toàn của con đường bằng cách xây dựng những cầu thang kiên cố, cắm cọc tiêu trên lối đi và dựng hàng rào để hạn chế ý thích bốc đồng của những người đi dạo muốn ra quá sát mép nước. Nhưng chỉ cần gió thốc trong vòng vài giờ đồng hồ là nơi này lại trở nên rất nguy hiểm. Manon đi đến đúng chỗ một cây thông Alep bị đổ gục, làm bật tung tay vịn khỏi hàng rào và chắn ngang lối đi. Không thể đi xa hơn nữa. Cô nghĩ mình nên quay trở lại. Nơi này chẳng có lấy một bóng người. Gió mistral thốc mạnh đã làm nhụt chí những người đi dạo. Chuồn thôi, cô mình ơi. Cô đứng sững tại chỗ và lắng nghe tiếng gió gầm gào. Tưởng như nó đang cuốn theo những lời than thở, vừa gần lại vừa xa. Một mối đe dọa ngấm ngầm. Mặc dù đang đi chân trần, Manon vẫn leo lên một vách đá để vòng qua chướng ngại vật và tiếp tục hành trình, với nguồn sáng duy nhất là đèn pin của điện thoại. Một khối sẫm màu hiện lên dưới chân vách đá. Manon nheo mắt. Không, cô đứng quá xa nên không nhìn rõ. Cô thử tìm cách đi xuống, hết sức cẩn trọng. Có tiếng rách xoạc. Gấu váy đăng ten vừa rách, nhưng cô không để ý. Lúc này, cô đã nhìn rõ hình dáng khiến cô tò mò. Đó là một cái xác. Cái xác của một phụ nữ, bị vứt trên mỏm đá. Càng lại gần, cô càng cảm thấy kinh hoàng. Đây không phải một vụ tai nạn. Khuôn mặt người phụ nữ đã bị dập nát đến nỗi chỉ còn là một đám bầy nhầy đẫm máu. Lạy Chúa. Manon cảm thấy hai chân bủn rủn, và tưởng mình sắp xỉu xuống đến nơi. Cô mở khóa điện thoại để gọi cứu hộ. Không có sóng, nhưng màn hình vẫn hiển thị dòng chữ: Chỉ gọi số khẩn cấp. Đang định ấn nút gọi thì Manon nhận ra nơi này không chỉ có mình cô. Một người đàn ông giàn giụa nước mắt đang ngồi cách đó một chút. Có vẻ suy sụp, ông ta khóc nức nở, hai tay bưng mặt. Manon hoảng hồn. Đúng lúc này, cô hối tiếc vì đã không mang theo súng. Cô cẩn thận tiến lại gần. Người đàn ông đứng dậy. Khi ông ta ngẩng đầu lên, Manon nhận ra đó là ai. “Chính tôi đã gây ra chuyện này,” ông ta vừa nói vừa giơ ngón tay chỉ vào cái xác. 1992   Duyên dáng và nhẹ nhàng, Vinca Rockwell nhảy nhót trên các vách đá. Gió thổi càng lúc càng mạnh. Nhưng Vinca thích thế. Sóng lừng, hiểm nguy, sự ngất ngây vì gió biển, những vách đá dốc đứng khiến người ta chóng mặt. Chẳng thứ gì trên đời lại khiến cô ngất ngây như cuộc gặp với Alexis. Một cảm giác choáng váng trọn vẹn, choáng váng đến tột bậc. Sự hòa trộn của cả thể xác và tâm hồn. Cho dù cô có sống đến trăm tuổi, cũng chẳng thứ gì có thể sánh được với ký ức này. Viễn cảnh được gặp lại Alexis trong bí mật, được cùng Alexis yêu nhau trong hõm vách đá khiến cô ngây ngất. Cô cảm thấy làn gió ấm bao bọc toàn thân, thổi quanh hai chân, tốc vạt váy cô, chẳng khác nào khúc dạo đầu của màn yêu đương mà cô đang chờ đợi. Trái tim đập thình thịch, luồng hơi nóng bốc lên cuốn ta đi trong niềm ngây ngất, máu dồn lên, những phập phồng khiến từng xăng-ti-mét trên thân thể ta run rẩy. Cô sắp gặp lại Alexis. Cô sắp gặp lại tình yêu của cô! Alexis chính là bão tố, là màn đêm, là thời khắc hiện tại. Tự đáy lòng, Vinca biết rằng cô đang làm một chuyện ngu ngốc, và tất cả sẽ kết thúc theo cách tồi tệ. Nhưng có lẽ cô sẽ không đánh đổi niềm phấn khích lúc này lấy bất cứ thứ gì trên đời. Chờ đợi, yêu đương điên cuồng, cảm giác ngọt ngào đau đớn khi được màn đêm cuốn đi. “Vinca!” Đột nhiên, vóc dáng Alexis hiện ra giữa bầu trời quang đãng, dưới bóng trăng tròn vành vạnh. Vinca bước thêm vài bước để đến sát bên bóng người ấy. Trong chớp mắt, dường như cô có thể cảm nhận được niềm lạc thú sắp đến. Mãnh liệt, nóng bỏng, không thể kiểm soát. Hai thân thể trộn lẫn và tan biến vào nhau cho đến khi hòa cùng sóng gió. Những tiếng hét hòa vào tiếng kêu của lũ hải âu. Những cơn co thắt, đợt bùng nổ quật ngã ta, ánh chớp trắng sáng và chói lòa lan tỏa bao trùm lấy ta và khiến ta có cảm giác toàn bộ thân thể mình tan tác khắp nơi. “Alexis!” Cuối cùng, khi Vinca ôm siết lấy chủ thể tình yêu của mình, một giọng nói bên trong lại thì thầm với cô rằng tất cả những chuyện này sẽ kết thúc theo cách tồi tệ. Nhưng cô gái trẻ không đếm xỉa đến tương lai. Tình yêu là tất cả hoặc chẳng là gì hết. Chỉ có thời khắc hiện tại là quan trọng. Sự quyến rũ cháy bỏng và độc địa của Màn đêm. Nghĩa là: Nhíp nhổ lông. (Mọi chú thích nếu không có lưu ý gì thêm đều của người dịch.) Phần bờ biển Địa Trung Hải thuộc Pháp, tiếng Pháp là Côte d’Azur.   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Và Màn Đêm của tác giả Guillaume Musso & Bình An (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đại Đường Nê Lê Ngục
Trăng sáng giữa trời chiếu xuống cây ngô đồng, in bóng vào cửa sổ khiến cành cây giống như sừng rồng. Có lẽ ngày xưa Thôi phán quan đã treo cổ trên chính cành cây này. Bóng cành cây trên cửa sổ lay động trong gió, trông như phía dưới có người treo cổ tự sát, thi thể đung đưa, lắc qua, lắc lại… Đây mới chỉ là khởi đầu khi cao tăng Huyền Trang đặt chân đến huyện Hoắc Ấp. Nơi đây đang có một âm mưu hết sức kỳ quái. Ma trong huyện nha không phải ma. Người vạch kế lại không phải người. Miếu phán quan trở thành đất hung tà. Chùa Hưng Đường như hang hổ hang sói.  *** Bộ sách 81 Án Tây Du gồm có: Đại Đường Nê Lê Ngục Tây Vực Liệt Vương Ký Đại Đường Phạm Thiên Ký Đại Đường Đôn Hoàng Biến *** #review KHÔNG SPOIL ~ 81 ÁN TÂY DU (Đại đường Nê Lê Ngục) người review Camellia Phoenix Tác giả: Trần Tiệm. Dịch giả: Losedow Thể loại: Trinh thám cổ đại TQ Đánh giá: Xuất sắc Sau bộ Trâm, bộ Liên Hoa Lâu và “Nữ ngỗ tác họa cốt”, Biển vẫn chờ để gặp được một bộ trinh thám cổ đại hay tương tự như vậy. Cứ đọc sách cũ hoài nên lâu lâu tự thưởng cho mình quyển sách mới tinh, thế là phát hiện một câu chuyện còn hay hơn cả Liên Hoa Lâu. Biển xếp “81 Án Tây Du – Đại Đường Nê Lê Ngục” là sách hay nhất đọc trong tháng 10/2018 và là một trong những quyển sách ưa thích nhất của mình. Bối cảnh câu chuyện diễn ra ở đời Đường phồn hoa thịnh thế, Lý Thế Dân đang cai trị, lấy niên hiệu là Trinh Quán – nghĩa là dẹp yên thiên hạ, mở rộng chính đạo. Nhà sư Huyền Trang đã một lần dâng biểu xin đi Tây Trúc thỉnh kinh nhưng vì biên cương còn loạn lạc nên nguyện vọng của ngài chưa được chuẩn tấu. Trước khi dấn thân vào chuyến vân du không biết khi nào trở lại, Huyền Trang muốn truy tìm tung tích nhị ca là Trần Tố, xuất gia chùa Tịnh Thổ ở Lạc Dương với pháp danh Trường Tiệp, đã giết sư phụ Huyền Thành rồi bỏ trốn, sau đó còn dùng lời lẽ yêu mị xúi giục Huyện lệnh Hoắc Ấp là Thôi Giác treo cổ tự vẫn. Manh mối đưa đến huyện Hoắc Ấp, tại đây Huyền Trang được nhờ chữa bệnh cho phu nhân của tân Huyện lệnh Quách Tể. Chưa ở lại nội trạch của Quách Tể được một ngày thì Huyền Trang đã mấy lần gặp nguy hiểm tính mạng, vì vậy quyết định cùng người hầu Ba La Diệp đến chùa Hưng Đường cách huyện Hoắc Ấp vài dặm đường để trú lại. Những sự kiện thần bí cứ liên tục xảy ra xung quanh khiến Huyền Trang không thể không nghĩ rằng mình đang vướng vào một âm mưu rất lớn nào đó... Trong phần 1 của “81 Án Tây Du”, những độc giả từng say mê “Tây Du Ký” sẽ được thấy một Huyền Trang rất mới mẻ khác biệt, dùng tư duy của một vị cao tăng nhiều năm nghiên cứu kinh luận để làm thám tử, thật là đặc sắc! Ngài luôn bình tĩnh (có lúc cười nhạt lạnh lùng), suy luận nhạy bén, ý chí sắt đá và can đảm có thừa, không hề giống nhân vật Đường Tăng yếu yếu đuối đuối cứ phải trông chờ sự bảo vệ và giải cứu của Tôn Ngộ Không. Tác giả Trần Tiệm cũng không tả nhân vật của mình anh tuấn tiêu sái mỹ mạo tuyệt luân như trong những truyện TQ khác, tuy vậy Huyền Trang vẫn được khắc họa rất rõ nét qua suy nghĩ của các nhân vật khác về ngài: “… vị hòa thượng trẻ tuổi thoạt nhìn ngu ngơ ngốc nghếch này có lòng dạ thâm trầm, ý chí kiên cường, ánh mắt nhạy bén, rất dễ khiến người khác thấy khó xử. Dường như ở trước mặt ngài, người nào cũng không thể che giấu điều gì, dường như hết thảy sự vụ trên đời đều hiển hiện rõ trong đôi mắt từ bi mà bình thản của ngài”. Còn nhiều đoạn tả hay hơn nữa nhưng Biển để dành cho các bạn tự đọc và thưởng thức. Vị mỹ nữ Lục La trong truyện khiến Biển nhiều lần nghĩ đến Tử Tây trong “Ngọc xuyến án”. Cùng là thiếu nữ mà hai người một trời một vực, cách biệt không tưởng. Tử Tây xuất thân bần hàn nhưng duyên dáng tinh tế, hiểu người hiểu chuyện, còn Lục La bất kỳ lời nào hành động nào cũng khiến Biển ê buốt cả răng, chỉ hận không thể bỏ qua những đoạn có nàng để đọc tiếp! Tuy hoàn cảnh và cuộc đời Lục La quả thật đáng thương nhưng Biển nghĩ nàng có thể lựa chọn một tâm thế hoàn toàn khác để quyết định số phận của mình. Dù sao thì “một gáo nước chứa ba ngàn phù du, trong hạt cát có thế giới vô tận”, giữ chấp niệm quá sâu thì kẻ đau khổ nhất vẫn là chính mình. Dù đọc truyện với một tấm lòng hết sức trong sáng vô tư nhưng Biển vẫn nhìn ra chút hint đam mỹ giữa Huyền Trang và Ba La Diệp: tên người hầu Thiên Trúc này nhiều lần bảo vệ che chở, thậm chí là cứu mạng Huyền Trang; còn vị cao tăng này lúc gặp nạn ngã lên người Ba La Diệp thì tay chạm đâu không chạm lại cứ phải chạm trúng điểm nhạy cảm (kaka). Nhưng nghiêm túc mà nói thì Biển nghĩ tác giả không cố tình đưa hint đam mỹ vào, chỉ viết như vậy để tăng thêm độ thú vị cho câu chuyện thôi. ____ Chi tiết cảm động nhất trong truyện là khi một nam nhân vai năm tấc rộng thân mười thước cao, là dũng tướng nơi sa trường giết giặc như rạ lại bằng lòng yêu thương một góa phụ, sau lại bằng lòng thả cho góa phụ đó - cũng là thê tử của mình - chạy trốn cùng tình lang. Đối với Biển, đoạn ấn tượng nhất trong truyện là: “Trời đất bao la, phu nhân của lão tử là lớn nhất! Kẻ nào dám tổn thương phu nhân của lão tử, dù có to lớn đến đâu lão tử cũng một đao chém thành hai đoạn!”. Vẫn biết đó chỉ là nhân vật trong sách, nam nhân như vậy không thể tồn tại ngoài thực tế, nhưng đôi lúc đọc được những chi tiết ngôn-tình-giả-tưởng như vậy thì vẫn có thể mỉm cười. Tuy biết không được xem nhẹ tài trí của người xưa nhưng những cơ quan mật đạo được miêu tả trong “81 Án Tây Du” quả thật hơi hoang đường: xây những “buồng thang máy” bằng gỗ chạy bằng sức gió + nước để lên xuống núi, hoặc lắp ròng rọc để di chuyển cả những công trình nặng hàng trăm tấn… Tuy nói là hơi hoang đường nhưng trong lúc đọc vẫn không thấy có điểm nào vô lý, chỉ thầm tán thưởng đầu óc của tác giả Trần Tiệm đã tưởng tượng ra và dùng bút lực trác tuyệt để diễn tả lại tất cả những khung cảnh hoành tráng đó. Truyện không có những đoạn khiến người đọc phải cười lăn lộn nhưng vẫn có thể cảm nhận sự hài hước ngấm ngầm, làm dịu đi những yếu tố đáng sợ. Đọc truyện mà Biển nhớ đến bộ phim hoạt hình 3D TQ từng xem là “Họa giang hồ chi bôi mạc đình” và “Họa giang hồ chi bất lương nhân”. Nay mới biết “Bất lương nhân” là một tổ chức tình báo – sát thủ do Lý Thế Dân sáng lập ra. Trong bộ Trâm từng có câu “Nhất thế Trường An”, trong quyển “81 Án Tây Du” này cũng nhiều lần miêu tả Trường An như một “kinh đô ánh sáng”. Biển thắc mắc không biết thành phố này hoa lệ cỡ nào mà được nhiều người ca ngợi nên đã tìm hiểu được chút thông tin sau: “Trong thời hoàng kim của mình, Trường An từng là thành phố lớn nhất và đông dân nhất thế giới. Dưới thời nhà Đường, kinh đô Trường An là thành phố đông dân nhất bấy giờ” (theo wikipedia). Đây là lần đầu Biển đọc truyện TQ chứa đựng rất nhiều điển tích lịch sử Trung Hoa mà không chán, đọc nhiều kiến thức Phật pháp mà không buồn ngủ, thậm chí còn hiểu biết thêm nhiều điều mới lạ. Từng câu từng chữ trong quyển sách dày này đều như châu như ngọc, xứng đáng nuốt vào bụng, thu vào tâm. Trong thời gian ngắn (khoảng 11 tiếng) liên tục đọc khá nhiều từ Hán-Việt khiến Biển hơi choáng váng, tuy nhiên vì thích sử dụng từ Hán-Việt nên đã cố gắng đọc và ghi chú lại. Quyển “81 Án Tây Du - Đại Đường Nê Lê Ngục” có thiết kế bìa rất đẹp, giấy sạch chữ rõ, đặc biệt KHÔNG CÓ một lỗi chính tả hay lỗi đánh máy nào. Tuy được biết dịch giả Losedow đã nổi danh trong giới dịch thuật nhưng Biển vẫn xin phép khen ngợi phần chuyển ngữ của bác ấy trong quyển sách này, đọc vô cùng mượt mà dễ hiểu, những đoạn giữ nguyên từ Hán-Việt thì tao nhã thi vị. Mọt sách đọc được quyển sách hoàn hảo cũng giống như người sành ăn được thưởng thức món ăn ngon lành tinh tế. Cuốn sách khổ lớn 542 trang này sẽ là một tuyệt phẩm đối với các bạn thích thể loại trinh thám cổ đại, riêng Biển thì đọc xong sẽ đem tặng. Cái gì mình yêu thích mà không sở hữu được thì sẽ càng thương nhớ nó nhiều hơn. (Sea, 18-10-2018) P.S.1: Truyện có đề cập đến cách cứu người chết đuối rất hay ho, không rõ có thể áp dụng ngoài thực tế không. *** LỜI DẪN 1 Đại Đường, năm Vũ Đức thứ tư, Ích Châu, chùa Không Tuệ. Vạt tăng bào của hòa thượng quét qua thềm đá phủ rêu xanh, thanh giới đao dài ba xích cọ lên nền đá xanh phát ra âm thanh chói tai. Ánh nắng rực rỡ, bên trong thiền phòng dường như vắng vẻ không người, chỉ có tiếng chim hót từ xa xa vọng lại. Giới đao là đao của tăng nhân, một trong những dụng cụ được mang theo bên người sau khi xuất gia. Theo giới luật chỉ cho phép dùng để cắt quần áo, không được dùng để sát sinh. Do sử dụng hạn chế, nên gọi là “giới đao”. Một xích bằng mười thốn, xấp xỉ 33,33 centimet. Tuy nhiên khi hòa thượng bước lên thềm đá, bên trong thiền phòng lại vang lên một tiếng thở dài già nua: “Trường Tiệp, tuy là gây chuyện giết người, mặc dầu cũng là mở tâm bồ đề, nhưng nếu giữ niệm sát nhân, con sẽ phải chịu đọa sinh vào cõi thấp.” Hòa thượng khẽ run lên, tay cầm giới đao, chậm rãi mở cửa bước vào. “Cuối cùng con vẫn nhất định phải xuống tay sao?” Lão tăng ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, mỉm cười nhìn hắn. Nước trào qua khóe mắt, hòa thượng nâng giới đao trong tay lên, đờ đẫn nói: “Thanh đao này, đệ tử đã ngâm dưới suối sâu ba đêm, mặt đao bọc ba ngàn phù du, lại phơi nắng ba ngày, trên phủ thêm phật quang trăm thước. Nay đến để đưa tiễn sư phụ.” Lão tăng chỉ mỉm cười nhìn hắn, nét mặt tỏ rõ nỗi niềm thương tâm không kìm nén được: “Sau hôm nay, đối với lão nạp mà nói, không ngoài một cái chết mà thôi, công đức toàn vẹn, mọi ác nghiệp đều được tịnh trừ. Ba cõi giới trong trần đời thế tục cũng coi nhẹ như không, không để lọt vào trong mắt nữa. Nhưng con, sau hôm nay, thần phật chư thiên sẽ không còn ban phúc cho con, người đời và thân hữu sẽ không còn tán tụng con, thiên hạ Đại Đường này sẽ không còn nơi sống yên ổn cho con. Giới luật trong lòng con cũng theo đó mà sụp đổ, cả đời con sẽ phải ẩn nấp trong bóng tối, trốn tránh nội tâm của chính mình. Đường tu hành của con sẽ vĩnh viễn không thể viên mãn, sau khi chết bị đày xuống Nê Lê đại địa ngục A Tì, chịu ức vạn kiếp khổ, vô cùng vô tận… Những điều này con có thể chịu đựng được không?” Trong “Thập Bát Nê Lê kinh”, đại địa ngục A Tì là ngục thứ mười ba - Huyết Trì địa ngục là ngục nặng nhất. Đối chiếu với “Bát đại địa ngục/ Bát nhiệt địa ngục” thì đại địa ngục A Tì được xét là một khám lớn, phân tách thành mười sáu địa ngục nhỏ hơn, trực thuộc Vô gián địa ngục. A Tỳ nghĩa là không xen hở, không gián đoạn. Đây chỉ cho cảnh giới địa ngục đau khổ nhất, trong ấy tội nhân bị hành hạ liên tục. “Đệ tử…” Mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên trán, nhưng hòa thượng vẫn cắn răng nói: “Đệ tử dù chết chín lần cũng không hối hận.” “Chết là chuyện đơn giản nhất!” Lão tăng lắc đầu, thở dài một tiếng: “Có lẽ đây chính là đường tu hành của con! Tay không, cầm cán cuốc. Đi bộ, ngồi lưng trâu. Trên cầu người đi lại. Cầu trôi, nước chẳng trôi*. Ôi…!” Trích “Cảnh Đức truyền đăng lục - Quyển 27 - Đại sĩ Thiện Tuệ”. Toàn bộ bài thơ này, kỳ thực là điều hòa mâu thuẫn, hướng tới “Tính Không”, chỉ cần thuyết minh một chữ “không” thôi, cũng đã bao hàm toàn bộ vũ trụ vạn hữu rồi. Nghĩa là “không tức thị sắc, sắc tức thị không”. Hát xong bài kệ, lão tăng từ từ nhắm mắt lại, tựa như nhập định. Hòa thượng đột nhiên không cầm được nước mắt, quỳ rạp xuống khóc lớn, sau đó giới đao trong tay vung lên, máu bắn cao ba thước, đầu lão tăng đã rơi xuống đất. Giới đao rơi xuống đất kêu leng keng. Trong một khoảnh khắc này, trên mặt hòa thượng dính đầy máu tươi, lại thoáng lộ ra vẻ nanh ác. Hắn dùng vạt tăng bào bọc lấy đầu lão tăng, loạng choạng đứng dậy, lê từng bước rời khỏi thiền đường. Thiền đường cổ ngàn năm, bậc đá xanh trăm tuổi, xuất hiện một vệt máu tươi chạy dài… *** LỜI DẪN 2 Đại Đường, năm Vũ Đức thứ sáu, đạo Hà Đông, huyện Hoắc Ấp. Đạo là một đơn vị hành chính cổ dùng để phân chia địa giới, tương đương với tỉnh ngày nay. Huyện nha nằm ở phía đông thành, trước mặt là đường cái quan, lúc nào cũng đông đúc, huyên náo. Cửa nha môn dựng ở hướng nam, hai bên tường xây mở chéo theo hình chữ bát, trên tường dán đủ các loại thông cáo, theo thời gian dầm mưa dãi nắng, chất giấy cũng mục nát, nhòe mực nhìn không ra chữ, một cơn gió thổi qua, mảnh giấy nát bung ra khỏi mặt tường, bị gió cuốn bay đi mất. Hoắc Ấp là trọng trấn của Hà Đông, muốn một đường vượt sông Hoàng Hà, theo từ bến Bồ Châu đến Thái Nguyên, nhất định phải đi qua chốn này, nơi đây dân ngụ cư đông đúc, khách buôn tấp nập, huyện thành náo nhiệt vô cùng. Hoàng hôn hôm đó, trong dòng người đông vui tấp nập trên đường cái, một hòa thượng đi giày rơm, mặc sa y màu xám từ xa đi tới. Trong tay hòa thượng cầm một chiếc mõ bằng gỗ đàn hương đỏ, tay kia cầm dùi gỗ gõ mõ theo nhịp tụng, tiếng mõ phát ra nhàn nhã, xa xăm, rất không hài hòa với sự huyên náo trên phố lớn. Hòa thượng này đi đến bên ngoài bức tường kè theo hình chữ bát của huyện nha, liếc nhìn chiếc trống kêu oan kê trên bậc thềm, nhưng không tới gõ trống mà bỗng mỉm cười, có phần kỳ quái, vừa gõ mõ vừa cất bước đi lên bậc thềm. Trên công đường, huyện lệnh Hoắc Ấp - Thôi Giác, ngồi nghiêng người trên tấm thảm lông cừu nền đỏ thêu hoa, lật xem chỗ công văn đặt trên án kỷ. Bỗng dưng nghe thấy có tiếng ồn ào ngoài cửa, cùng tiếng gõ mõ đều đều bên tai. “Có chuyện gì thế?” Thôi Giác bực mình hỏi. Vị huyện lệnh này tuổi mới hai mươi tám, tướng mạo nho nhã, trên mặt thoáng ý cười cười nhàn nhạt. Dù mặc áo quan màu xanh, đội mũ cánh chuồn cũng không có vẻ uy nghiêm khí phách mà có phần phiêu dật, rất ra dáng danh sĩ thời Ngụy - Tấn. Ngoài cửa có một gã tư lại chạy vào báo: “Khởi bẩm đại nhân, bên ngoài nha môn có một gã hòa thượng muốn xông vào, nhất quyết đòi gặp ngài. Hạ quan nói đại nhân đang xử lý công vụ, sẽ vào báo lại sau, nhưng hắn lại gõ mõ rất to.” Danh từ cổ chỉ chức quan coi việc bắt giặc cướp. Sau chỉ chức quan nhỏ. Còn gọi là thư lại. Tư lại này còn chưa nói xong, trong tiếng mõ, một tiếng phật kệ vang lên: “Một bát cơm ngàn nhà, thân vượt vạn dặm xa. Chỉ vì chuyện sinh tử, xin độ pháp ngày qua.* Tri phủ đại nhân anh minh, bần tăng vượt vạn dặm xa xôi đến đây, cốt chỉ mong được gặp đại nhân để hóa duyên.” Bài thơ ca ngợi Đức Phật Thế Tôn, qua hình ảnh người khoác y áo đơn sơ, tay chỉ cầm một chiếc bát mộc, nhưng dáng vẻ lại thanh thoát, vân du tự tại đi hóa độ chúng sinh. Thôi Giác cười: “Vị hòa thượng này xem chừng cũng thú vị đây, mời vào!” Hòa thượng được sai dịch dẫn lối, vẻ mặt bình thản đi vào công đường, cũng không cần mời đã khoanh chân ngồi xuống đối diện với Thôi Giác. “Đại sư pháp hiệu xưng hô thế nào?” Thấy hòa thượng này ngông cuồng, Thôi Giác cũng không đứng lên, chỉ lạnh nhạt hỏi. “Pháp hiệu là gì?” Hòa thượng trợn mắt, lạnh lùng nói: “Lòng chỉ cầu một cơ duyên đối trước Phật, cần chi đến danh hiệu chốn trần gian nhơ nháp này đây.” “Ơ?” Lúc này Thiền tông còn chưa phát triển rộng rãi, Tịnh độ tông vẫn là tông phái tu chính ở Đại Đường, chưa có nhiều hòa thượng nói chuyện kiểu này. Thôi Giác cảm thấy rất mới lạ, mỉm cười hỏi tiếp: “Đại sư từ đâu đến? Định đi tới nơi đâu?” Tịnh độ tông là một pháp môn quyền khai của Phật giáo, do Cao tăng Trung Quốc Huệ Viên sáng lập. Mục đích của Tịnh độ tông là tu học nhằm được tái sinh tại Tây phương Cực lạc Tịnh độ của Phật A Di Đà. Thiền tông là tông phái Phật giáo Đại thừa, sinh ra trong khoảng thế kỉ thứ VI, thứ VII, khi Bồ Đề Đạt Ma đưa phép Thiền của đạo Phật vào Trung Quốc cùng với sự hấp thụ một phần nào đạo Lão. Thiền tông quan tâm đến kinh nghiệm chứng ngộ, đả phá mạnh nhất mọi nghi thức tôn giáo và mọi lý luận về giáo pháp. “Từ trong thai mẹ đến, đi tới bình bát của Phật.” Hòa thượng đáp. Thôi Giác ngán ngẩm: “Vậy… đại sư đến tìm hạ quan có chuyện gì? Cần hóa duyên gì đây?” “Thứ bần tăng cần hóa, chỉ đại nhân mới có. Nên mới vượt đường xa vạn dặm mà đến, chỉ có điều không biết đại nhân chịu cho hay không thôi.” Hòa thượng nói, có phần ngạo mạn. Thôi Giác khẽ cười: “Hạ quan có thứ gì mà người khác không có?” “Cái mạng này của đại nhân!” Hòa thượng vừa cười vừa nói, nét mặt cổ quái: “Cái đầu trên cổ, túi da ngoài thân.” Thôi Giác mặt biến sắc, ngồi thẳng lên, dùng bộ dáng âm trầm lặng lẽ quan sát, đánh giá vị hòa thượng đang mỉm cười như trêu ngươi người khác kia: “Đại sư hẳn đang đùa ta thì phải?” “Trên đường tới đây, sương gió đã mài rách của bần tăng ba tấm sa y, đất vàng cào nát của bần tăng chín đôi giày cỏ.” Hòa thượng chậm rãi nói: “Chỉ có chiếc mõ trong tay bần tăng càng mài càng sáng, có thể chiếu rõ tâm bần tăng. Có phải là thật hay không, bản thân bần tăng nhìn thấy rất rõ.” Thôi Giác cẩn thận quan sát cho kỹ, thấy hòa thượng này tuổi áng chừng khoảng ngoài ba mươi, da mặt sạm đen, thô ráp, lộ rõ vẻ phong sương, sa y mặc trên người vá chằng vá đụp, rách nát như tàu lá chuối gặp mưa rào. Đôi giày cỏ đi dưới chân đã thủng cả đế, gót chân trực tiếp giẫm trên mặt đất. Đôi bàn tay với khớp xương to dài, vết chai sạn dày cộp. Xem ra quả thật đã đi vạn dặm đường, không phải đến đây nói đùa với mình. “Cái mạng này của hạ quan tại sao lại khiến đại sư cảm thấy hứng thú?” Tâm tình Thôi Giác dần ổn định lại, trên mặt thậm chí còn mang ý cười. “Đại nhân sinh năm Khai Hoàng Tiền Tùy thứ mười bốn, ba tuổi có thể đọc hiểu sách “Luận Ngữ”, bảy tuổi có thể làm văn thơ, tuổi tròn nhược quán đã nổi danh khắp Tam Tấn, văn chương thi phú được xưng tụng đệ nhất Tiền Tùy, người đương thời khen là con của phượng hoàng, vì vậy đại nhân lấy Phượng Tử làm hiệu. Có điều đại nhân số mệnh trái ngang, đường làm quan không được như ý. Sau khi thành danh, còn chưa kịp thi triển tài năng đã gặp lúc Tùy Dạng Đế ba lần viễn chinh Cao Ly, thiên hạ rối ren, dân chúng lầm than, đành phải vào núi lánh nạn, lánh một mạch năm năm. Đại nhân có cảm thấy chua xót vì chí hướng cao xa khó có thể thực hiện hay không?” Thời xưa đàn ông hai mươi tuổi đều làm lễ đội mũ (quán), xem như thành niên, nhưng cơ thể còn chưa có tráng kiện, tương đối niên thiếu, nên xưng là “nhược”. Năm 595 TCN, thời kỳ sơ khai của nhà Tùy, dưới sự cai trị của Tùy Văn Đế - Dương Kiên - Niên hiệu: Khai Hoàng (581 - 600), Nhân Thọ (601 - 604). Lời nói của hòa thượng gây nên sóng gió ngập trời trong lòng Thôi Giác, vẻ mặt bình thản dần chuyển sắc, nhợt nhạt hẳn đi, một hồi lâu sau mới lẩm bẩm nói: “Quả thật đúng như đại sư nói.” Hòa thượng cũng không để ý, tiếp tục nói: “Năm năm sau, đương kim hoàng thượng* dời Thái Nguyên, nghe nói đến tài danh của đại nhân nên mời làm quân sư ở lại trấn phủ. Đại nhân vốn cho rằng có thể tiếp tục thăng quan, thực hiện hoài bão của mình, không ngờ năm sau hoàng thượng đã khởi binh phản Tùy. Sau đó hoàng thượng lập nên Đại Đường, nếu không ngoài dự liệu, đại nhân theo hoàng thượng tiến vào Trường An, đến nay dù thế nào cũng là trọng thần trong triều. Nhưng đại quân tiến đánh xuống phía nam, phải qua Hoắc Ấp, đại nhân lập được công lớn, công này lại thay đổi cả cuộc đời đại nhân. Hoàng thượng bị ngăn trở, Thôi đại nhân ngài hiến kế bao vây dụ địch, đánh tan quân Tùy của Tống Lão Sinh. Thế là hoàng thượng lệnh đại nhân làm huyện lệnh Hoắc Ấp, trấn giữ vùng yếu địa. Đại quân của Tống Kim Cương áp sát dưới thành, đại nhân chỉ có ba trăm dân quân mà dám đánh úp ban đêm. Tướng phòng thủ Hoắc Ấp là Tầm Tương định đầu hàng địch, đại nhân liền dẫn theo hai gia nhân chạy tới phủ của hắn hành thích. Hoắc Ấp bị phá, đại nhân dẫn bách tính toàn thành chạy vào núi Hoắc tị nạn, ngay cả một hạt lương thực cũng không để lại cho quân địch. Sau khi Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương bị diệt, đại nhân cai trị Hoắc Ấp, người người không nhặt của rơi, đêm đêm không cần đóng cửa, bách tính ai ai cũng an cư lạc nghiệp. Ta muốn hỏi đại nhân, công lớn như thế, vì sao hoàng thượng đã trị vì bao nhiêu năm mà ngài vẫn chỉ là một huyện lệnh?” Tống Kim Cương vốn là thủ lĩnh một đội nghĩa quân hơn vạn người ở Dị Châu (nay là Dị Huyện, Hà Bắc) sau quy hàng theo Lưu Vũ Chu (một thủ lĩnh quân phản Tùy) dấy binh đánh nhà Đường. Danh tướng nhà Tùy, trấn thủ Hoắc Ấp khi quân nhà Lý tiến đánh xuống phía nam. Vốn ỷ thành cao, muốn tính kế dài chờ nhà Lý cạn lương thực mới diệt, nhưng bị Lý Uyên lừa, giả đánh thua rồi chạy, quân Tùy mắc bẫy bị bao vây, nhà Lý cho đồn Tống Lão Sinh đã chết, quân Tùy vì thế mà đầu hàng, Lão Sinh để mất thành nên tự sát. Tức Đường Cao Tổ Lý Uyên, niên hiệu Vũ Đức. Nghe hòa thượng này nói tỉ mỉ những chuyện mình đã trải qua suốt nửa cuộc đời, Thôi Giác không khỏi ngây ra như phỗng, tay nắm chặt một cuộn công văn, đến độ đốt ngón tay chuyển sắc trắng bệch: “Xin đại sư chỉ điểm!” Hòa thượng đột nhiên quát lên: “Bản tâm như lửa địa ngục thiêu đốt, dục vọng không mời gọi cũng tự đó mà khởi sinh. Ba ngàn cõi giới đầy phiền não, tựu trung lại cũng chỉ là một hố lửa hung hiểm mà thôi! Ngài mặc dù tướng mạo thư sinh, nhưng mắt ngài lại bùng cháy dã tâm và dục vọng trần trụi không hề che giấu. Trên đời này, không có cái gọi là mục đích cuối cùng, ngài vĩnh viễn không biết tự thỏa mãn, không biết điểm dừng. Thân là kẻ ngồi ở ngôi cao, nếu không biết mục tiêu mà ngài đeo đuổi là gì, sao hoàng thượng dám tin dùng ngài đây?” Thôi Giác chấn động, nhất thời rơi vào trầm tư. “Ha ha, bần tăng sẽ chỉ cho ngài một con đường sáng.” Hòa thượng cười một tiếng quái dị: “Đại nhân chắc cũng biết, thế giới quỷ ma phương Tây tồn tại một cõi địa ngục Nê Lê?” “Địa ngục Nê Lê?” Thôi Giác thoáng lộ vẻ kinh ngạc. Hắn đã đọc qua kinh điển của các giáo, đương nhiên không cảm thấy xa lạ, vì thế gật đầu: “Theo cách nói của nhà Phật, địa ngục Nê Lê là một trong sáu đạo dục giới. Đạo Phật có ‘Thập Bát Nê Lê kinh’, nói con người sau khi chết, người làm nhiều việc thiện lên trời, người làm nhiều việc ác vào cõi Nê Lê. Nê Lê tổng cộng có mười tám tầng, tám nóng, tám lạnh, du tăng, cô độc. Có người gọi là Nê Lê, có người gọi là Nại Lạc Ca, cũng có người gọi nó là địa ngục.” Địa ngục, tiếng Hồ gọi là Nê Lê, tiếng Phạn gọi là Nại La Ca. “Nại Lạc” có nghĩa là người. “Ca” có nghĩa là ác. Người ác sinh ra ở nơi đó nên gọi nơi đó là Nại Lạc Ca. Do những con người ác đó lúc sinh thời đã gây ra những hành động cực kỳ tàn ác về thân, khẩu, ý cho nên phải tái sinh và tiếp tục ở cõi đó. Bởi vậy mới gọi là Nại Lạc Ca. Hòa thượng bấm ngón tay mỉm cười: “Cái danh Phượng Tử quả không phải ngoa truyền. Bần tăng nguyện đưa ngài tới Nê Lê một chuyến, đại nhân có chịu hay không?” Thôi Giác bàng hoàng kinh ngạc. “Có vua Nê Lê tên là Viêm Ma La muốn mở ngục Nê Lê ở Đông Thổ, quản lý luân hồi của Nê Lê, xét xử thiện ác của lục đạo, bây giờ còn thiếu một phán quan. Trí tuệ của đại nhân có thể coi là có một không hai ở Đông Thổ, đôi mắt có thể nhìn thấu lòng người, trăm họ ở Hoắc Ấp đồn rằng đại nhân tra xét thiện ác chưa từng sai lầm, tâm của mười vạn bách tính Hoắc Ấp xét ra vẫn còn thua, thua xa trái tim có bảy lỗ* của đại nhân đây. Nê Lê dơ bẩn, là nơi quy tập tội ác của nhân gian, vừa lúc có thể mượn nghiệp hỏa vô minh ngàn trượng của đại nhân để đè ép tà uế. Không biết ý đại nhân thế nào?” Ý chỉ người thông tuệ, có lương tâm thuần chất. Tương tự với Tỷ Can trong “Phong thần diễn nghĩa” sở hữu “thất khiếu linh lung tâm”. Hòa thượng cười nhạt, trong mắt rực lên tia sáng quái dị. “Bản quan… ta… “ Thôi Giác nghẹn lời, mồ hôi trên trán chảy xuống như mưa, lại không biết trả lời thế nào. “Uổng mang tài cao, tham vọng khó đạt. Nhân gian này đã không có duyên với đại nhân, ngục Nê Lê có lẽ là nơi để đại nhân thi triển khát vọng.” Hòa thượng cười ha hả: “Bần tăng dừng lời tại đây, duyên này có hóa hay không, đại nhân cứ tự mình suy nghĩ.” Dứt lời, hòa thượng cười to rồi rời khỏi huyện nha. Trời đã vào đêm, trong nha môn âm trầm u ám, chỉ còn tiếng mõ khoan thai xa dần. Đêm đó, huyện lệnh Hoắc Ấp Thôi Giác dùng một dải lụa trắng tự vẫn dưới gốc cây trước sân.   Mời các bạn đón đọc Đại Đường Nê Lê Ngục của tác giả Trần Tiệm & Losedow (dịch).
Và Rồi Chẳng Còn Ai
“Mười…” Mười người bị lừa ra một hòn đảo nằm trơ trọi giữa biển khơi thuộc vịnh Devon, tất cả được bố trí cho ở trong một căn nhà. Tác giả của trò bịp này là một nhân vật bí hiểm có tên “U.N.Owen”.  “Chín…” Trong bữa ăn tối, một thông điệp được thu âm sẵn vang lên lần lượt buộc tội từng người đã gây ra những tội ác bí mật. Vào cuối buổi tối hôm đó, một vị khách đã thiệt mạng.  “Tám…” Bị kẹt lại giữa muôn trùng khơi vì giông bão cùng nỗi ám ảnh về một bài vè đếm ngược, từng người, từng người một… những vị khách trên đảo bắt đầu bỏ mạng. “Bảy…” Ai trong số mười người trên đảo là kẻ giết người, và liệu ai trong số họ có thể sống sót? “Một trong những tác phẩm gây tò mò hay nhất, xuất sắc nhất của Christie.” – Tạp chí Observer “Kiệt tác của Agatha Christie.” – Tạp chí Spectator *** “Và rồi chẳng còn ai” (tên Tiếng Anh: And Then There Were None), còn có tên gọi khác là “Mười người da đen nhỏ” (tên Tiếng Anh: Ten Little Nigger) - một tác phẩm trinh thám đủ sức gây ám ảnh. 1.Về tác giả Agatha Christie Agatha Christie (sinh năm 1890 - mất năm 1976) là một nữ nhà văn trinh thám đến từ nước Anh. Người ta biết đến bà với tiếng vang của nhân vật thám tử nổi tiếng Hercule Poirot và sau đó là nhân vật Bà Marple. Một điều ấn tượng đầy thú vị cho thấy sức ảnh hưởng của thám tử Hercule Poirot chính là việc ông là nhân vật hư cấu duy nhất cho đến nay được đăng cáo phó trên tờ The New York Times (khi ông bị bà Christie “giết chết” trong tác phẩm Curtain). Vai thám tử Poirot trong phim "Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông" do Kenneth Branagh đóng Vai thám tử Poirot trong phim "Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông" do Kenneth Branagh đóng Có quá nhiều thứ để nói về Agatha Christie, về tác phẩm và cả cuộc đời bà. Christie đã cho ra đời hơn 80 tiểu thuyết trinh thám, có thể kể đến những tác phẩm quen thuộc như Thời khắc định mệnh, Vụ án sát ông Roger Ackryo, Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông, Chuỗi án mạng ABC, Án mạng trên sông Nile… Tuy nhiên, ít ai biết rằng “nữ hoàng trinh thám” cũng viết tiểu thuyết lãng mạn với cái tên Mary Westmacott - bút danh mà bà đã giữ kín gần 2 thập kỷ. Theo Sách kỷ lục Guiness, Agatha Christie là nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại của thể loại trinh thám, và đứng thứ hai nếu tính cả các thể loại khác (chỉ xếp sau William Shakespeare). Bên cạnh đó, vở kịch The mousetrap (Cái bẫy chuột) của bà cũng đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, khi được diễn lần đầu năm 1952 và tiếp tục được diễn cho đến nay. Tác phẩm của Christie phản ánh con người và cuộc đời bà. Christie có một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Trong Thế chiến thứ nhất, bà làm việc tại bệnh viện và tiệm thuốc, do đó, rất nhiều vụ giết người trong tác phẩm của bà được thực hiện bằng các loại thuốc độc. Christie cho rằng sử dụng thuốc độc là một hành vi bớt bạo lực và tạo ra cảm giác bí hiểm nhiều hơn. Cha của Christie qua đời khi bà 11 tuổi, đẩy Christie vào sự ám ảnh tài chính. Bà sợ đói nghèo. Tiền bạc thường là trung tâm trong các tiểu thuyết của bà. Hai nhân vật nổi tiếng mà bà tạo ra là thám tử Poirot và bà Marple đều coi tiền bạc là động cơ hàng đầu trong mỗi tội ác - Theo lời Laura Thompso trong cuốn tiểu sử Agatha Christie: An English Mystery. Cuộc đời Agatha Christie đã từng có một cuộc mất tích bí ẩn 11 ngày vào năm 1926, thời điểm mà cuộc hôn nhân của bà gặp nhiều đau khổ cùng với nỗi đau đớn khi người mẹ qua đời. Gia đình và cảnh sát đã đi tìm bà khắp nơi, nhưng phải mất đến tận 11 ngày, người ta mới tìm thấy bà trong một khách sạn nghỉ dưỡng. Sau lần mất tích đó, Agatha Christie dường như quên sạch mọi thứ về bản thân. Bà khăng khăng mình đến từ Nam Phi, không nhận ra chồng và con cái. Đối với Christie, đây là ‘sự kiện không bao giờ nên được nhắc lại”. Nói thêm một chút về điều mà mình ấn tượng với Agatha Christie. Chúng ta biết rằng Arthur Conan Doyle - cha đẻ của Sherlock Holmes đã quyết định kết thúc cho nhân vật của mình bằng “cái kết” gây phẫn nộ. Trong lúc ‘cuộc chiến” giữa Holmes và Moriarty đang trong hồi gay cấn, Doyle đã để hai nhân vật này cùng nhau bỏ mạng tại thác Reichenbach. Quyết định này khiến người hâm mộ choáng váng và tạo nên một làn sóng phản đối dữ dội. Cuối cùng, ông đã phải hồi sinh nhân vật của mình. Lý giải cho cái chết của Holmes, Conan Doyle bảo rằng thời điểm đó ông cần tập trung nhiều cho sự nghiệp phòng khám của mình. Tuy nhiên, có một sự thật rõ ràng rằng phòng khám của Doyle không thật sự phát triển, trong khi Holmes của ông lại đang rất thành công. Do đó, nhiều người cho rằng Doyle đã bước vào giai đoạn bế tắc trong sáng tác, không biết nên tiếp tục Holmes như thế nào. Một nhân vật vĩ đại cũng cần một kết thúc vĩ đại. Đó thật sự là áp lực của một người cầm bút. Nhưng điều này thì liên quan gì đến Agatha Christie? Bà cũng đã từng cảm thấy chán ngán với thám tử Poirot của mình. Christie từng viết trong nhật ký rằng bà “không thể chịu đựng nổi” với Poirot, nhưng bà đã chống lại được cảm giác muốn kết liễu Poirot khi ông vẫn đang còn nổi tiếng. Với Christie, viết lách là phụng sự, bà phục vụ khán giả, và chừng nào khán giả còn yêu thích Poirot, bà không muốn chấm dứt niềm yêu thích đó. Trên thực tế, từ lúc phát sinh cảm giác chán ngán đó, đến tận 35 - 45 năm sau, Agatha mới viết cho Poirot một cái kết. Agatha Christie đã sống 85 năm trên cuộc đời. Thế giới của bà có quá nhiều chuyện để người ta muốn lắng nghe và tìm hiểu. Từ cuộc hôn nhân đổ vỡ, cuộc mất tích bí ẩn, những tổn thương trong tâm hồn, áp lực của một người sáng tác… cho thấy một Agatha Christie rất có chiều sâu và chiều rộng.  2. “Và rồi chẳng còn ai” - "Mười người da đen nhỏ" "Mười tên lính nhỏ đi ăn Một tên chết nghẹn, giờ còn chín tên Chín tên thức muộn trong đêm Một quên không dậy, tám tên ngậm ngùi. Devon du thuyền chúng chơi Một tên nằm lại, bảy thời ra đi. Một tên bổ củi làm chi, Bổ đôi một đứa, sáu tên muộn phiền. Sáu đem tổ ong ra nghiền, Một ong đốt chết, còn năm sững sờ. Đến toà năm đứa kia chờ, Một vào Thượng thẩm, bốn ra biển ngồi. Bốn tên cùng ra biển trời. Trích đỏ nuốt một, giờ còn lại ba. Vườn thú ba đứa la cà, Gấu to vồ một, còn hai vẹn toàn. Hai tên đi dưới nắng vàng, Một cong khô chết, một tên bơ phờ. Còn tên lính nhỏ thẫn thờ Hắn đi treo cổ mình lên trần nhà. Và rồi chẳng còn ai" Frank, 1869 Bài thơ đầy ám ảnh! Đây là bài thơ được xuất hiện nhiều lần trong câu chuyện. Cùng với cái tên, có thể dễ dàng đoán được rằng những vụ án mạng sẽ được diễn ra giống như những gì mà bài thơ nói đến. Câu chuyện bắt đầu với sự xuất hiện của Wargarave - một vị thẩm phán mới về hưu, trên chuyến tàu ra Đảo Chiến Binh. Đảo Chiến Binh là một địa điểm đầy bí ẩn với nhiều lời đồn đoán và thổi phồng về nó. Ông tới Đảo Chiến Binh theo lời hẹn của quý cô Constance Culmington - một người ông từng gặp ở nước Ý. Cứ như thế, thêm 7 nhân vật nữa là cô Vera Claythorne, Philip Lombard - đại uý, cụ bà Emily Brent, tướng Macarthur, bác sĩ Armstrong, Tony Marston và ông Blore cùng đi ra hòn đảo Chiến Binh nằm trên vịnh Devon, theo những lời đề nghị vô cùng hợp lý và hấp dẫn. Sau khi tới hòn đảo, chỉ có hai người được thuê làm quản gia đón tiếp họ, đó là vợ chồng Thomas và Ethel Roger. Vậy là đủ 10 người, còn nhân vật bí ẩn đã mời họ đến hòn đảo này thì lại chẳng thấy đâu. Sau khi nhận phòng, họ nhận ra rằng trong phòng mỗi người đều có một bài thơ chết chóc giống hệt nhau, báo hiệu thời gian sắp tới sẽ mù mịt và u ám. Bữa tối kết thúc, một giọng nói vang lên, liệt kê lần lượt những tội ác mà 10 con người kia đã từng làm trong quá khứ. Đối với họ, đây là những lời buộc tội vô lý và không có căn cứ hay bằng chứng nào để xác nhận. Nhưng họ ám ảnh với những lời buộc tội đó. Và đây cũng là khởi nguồn của một màn bi kịch đẫm máu. Không khó để biết rằng kết cục của 10 con người này sẽ tương ứng với những lời được nêu trong bài thơ. Nhưng cái tài tình của cô Agatha Christie là khiến cho người ta biết trước rồi mà vẫn hồi hộp đến thót tim. Agatha Christie thật sự là người kỹ lưỡng với những chi tiết, đặc biệt là chi tiết mang tính biểu tượng.  Vụ án trên hòn Đảo Chiến Binh là vụ án bí ẩn kinh điển, những fan truyện trinh thám ắt hẳn quá quen với những cái gọi là “vụ án trong phòng kín” hay “vụ án bất khả thi”. Người ta suy nghĩ mãi mà vẫn không tìm ra được ai là kẻ bí ẩn đứng sau tội ác, bởi không có dấu hiệu cho thấy có người thứ 11 xuất hiện trên hòn đảo này. Nhưng dĩ nhiên là Agatha Christie đã giải đáp mối nghi ngờ đó. 3. Cảm nhận của bản thân mình. Điều mình ấn tượng nhất ở “Mười người da đen nhỏ” là cách cô Agatha Christie xây dựng các chi tiết, thật sự sắc sảo, hợp lý và thông minh. Nhưng ở một khía cạnh nào đó, mình thấy hơi hụt hẫng vì dựa trên bài thơ, độc giả có thể đoán được sơ bộ nội dung của câu chuyện. Tất nhiên là cái kết vẫn gây nên sự bất ngờ! Mình cũng thích cách cô Christie truyền tải thông điệp trong tác phẩm này. Là một người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, mình hiểu rằng trên đời này có những tội ác, biết rõ mười mươi nhưng vì nhiều lý do mà pháp luật không thể yêu cầu kẻ gây nên phải đền tội. Và bởi thế, trong tác phẩm của cô Christie, đã xuất hiện một kẻ mang trong mình hai trạng thái đối nghịch: một mặt là “khát vọng chết chóc”, mặt khác là “ý thức sâu sắc về lẽ công bằng”. Chính hắn cũng đã bảo rằng: “Tôi có một thú vui điên cuồng là chứng kiến hay gây nên sự chết chóc”, nhưng “đối với tôi thì việc bất cứ một con người hay một sinh vật vô tội nào phải chịu đau khổ hay phải chết dưới tay mình là một việc không thể dung thứ”. Chính điều này đã tiết lộ cách mà hắn điều khiển câu chuyện như thế nào. Nhưng có một điều rằng mình không hề thích cái kết mà cô Agatha Christie lựa chọn. Có lẽ nó hơi trái ngược những quan niệm của mình về cuộc sống. Với mình, không ai nhân danh công lý được bằng chính bản thân sự thật. Không ai có thể tự trao cho bản thân cái quyền trừng phạt, phán xét và định đoạt cho bất kỳ kẻ gây ra tội ác nào.  Một số người cho rằng “Và rồi chẳng còn ai” là tác phẩm ấn tượng nhất của cô Agatha Christie, bởi cách xây dựng câu chuyện khá lạ và mạo hiểm. Nhưng mình vẫn highly recommend mọi người đọc một số quyển khác như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông hay Án mạng trên sông Nile… Mình thích những tác phẩm này hơn! Tuy nhiên, mình đã bị ám ảnh với “Và rồi chẳng còn ai”, mặc dù mình đọc không quá ít về dòng trinh thám. Có lẽ do tính biểu tượng của chi tiết ở trong câu chuyện này quá mạnh, nó khiến mình suy nghĩ rất nhiều về những gì đang diễn ra trong cuộc đời này, nó thực tế đến mức đáng sợ. Có lẽ, mỗi một giây phút nào đó trên thế giới này, một tội ác cũng đang được thực thi.   Mời các bạn đón đọc Và Rồi Chẳng Còn Ai của tác giả Agatha Christie & Việt Hà (dịch).
Thời Hoang Dã
Một kị sĩ dưới cái lạnh âm hai mươi lăm độ giữa thảo nguyên mênh mông. Một cô gái điếm giữa căn phòng khách sạn vắng. Sáu đứa trẻ trong một container tại kho hàng bỏ hoang. Một phụ nữ dưới đáy hố khai thác sỏi. Một giáo sư điểu học bên ngoài căn lều giữa mùa dzüüd khủng khiếp. Họ đều không còn sống khi được tìm ra. Họ được phát hiện gần như cùng thời điểm. Các cuộc điều tra đưa Yeruldelgger cùng cộng sự đến với lãnh thổ nhiều quốc gia, khiến câu chuyện mở ra một hướng hoàn toàn khác Sau Công lý thảo nguyên, Ian Manook lại gói gọn những phong cảnh, tập tục, ẩm thực và cả những bí mật của một vùng đất xưa nay vẫn luôn bí ẩn với thế giới vào trong một cuốn “đại” trinh thám, nơi ông một lần nữa tái khẳng định tài năng trong việc xây dựng các tình tiết và soi chiếu sâu sắc vào nhiều vấn đề của xã hội hiện đại. Giải thưởng Saint-Pacôme cho thể loại trinh thám năm 2015. *** Bộ sách Yeruldelgger gồm có: Công Lý Thảo Nguyên Thời Hoang Dã ... *** Ian Manook (tên thật là Patrick Manoukian) sinh ngày 13/8/1949 tại Meudon, Pháp. Sau khi tốt nghiệp Luật châu Âu và Khoa học chính trị thuộc Đại học Sorbonne và Học viện Báo chí Pháp, ông làm phóng viên độc lập, biên tập viên và nhà văn.Ông là người ưa thích du lịch, và đã đi rất nhiều nơi: Mỹ, Canada, Ấn Độ, Kathmandu, Iceland, Belize, Braxin,…Trong sự nghiệp viết văn, ông đã được nhận giải Gulli 2012 cho tiểu thuyết Anh em Bertignac. Công lý thảo nguyên là tiểu thuyết trinh thám đầu tiên của Patrick Manoukian, được viết dưới bút danh Ian Manook, đã đạt nhiều giải thưởng danh giá: SNCF, Elle Polar, Quais du polar (năm 2014) và Audiolib 2015,… và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   ***   …và đặt tay lên cò súng. Rụt cổ trong chiếc áo choàng lót lông có mũ, thanh tra Oyun cố gắng tìm hiểu tổng thể mọi việc. Cô ngồi xổm trên lớp tuyết lạo xạo và cúi xuống để nhìn cho rõ hơn. Cái lạnh rạch đứt hai bên đồng tử của cô, còn không khí giá buốt như cào xoang mũi mỗi lần hít vào. Cảm giác chẳng khác gì đang hít phải những mảnh thủy tinh vỡ. Xung quanh cô, thêm một dzüüd[^b1] khủng khiếp nữa bao trùm lên thảo nguyên trắng xóa. Đây là năm thứ ba liên tiếp nỗi bất hạnh trắng giáng xuống đất nước này. Những mùa đông lạnh giá vùng cực dài dằng dặc nối tiếp bằng những mùa hè nóng hừng hực quá ngắn ngủi. Những cơn bão tuyết kéo dài nhiều ngày khiến người ta không thể nhìn thấy cả căn lều, lạc lối để rồi đứng chết cóng khi chỉ cách lều có một mét. Rồi đến những ngày bầu trời xanh như sơn mài bị xuyên thủng bởi vầng dương nhỏ xíu trắng bệch chiếu lên một vùng đất đông cứng trong băng. Oyun không có chút ký ức nào về những dzüüd như thế trong tuổi thơ của mình. Lần đầu tiên cô còn nhớ là mùa đông năm 2001. Một mùa đông khắc nghiệt và kéo dài tới mức bảy triệu gia súc đã chết trên toàn quốc. Cô nhớ như in trong ký ức hình ảnh hàng nghìn người du mục, mới vài tháng trước còn đầy kiêu hãnh và cứng cỏi, bị đẩy dạt về thành phố để ăn xin và chết trong im lặng, rét cóng dưới cống ngầm ở Oulan-Bator. Đàn ông mất hết ngựa, phụ nữ mất hết bò và dê, trẻ con thì mất hết cừu non, thậm chí cả lũ cún con. Mùa đông năm đó đã cướp đi nhiều sinh mạng ở Mông Cổ hơn cả mấy chiếc máy bay đâm vào tòa tháp đôi ở Manhattan. Và trong hai năm tiếp theo, những dzüüd khác đã tàn sát nốt những gì còn lại của đàn gia súc yếu ớt. Đã từng có những nỗi bất hạnh đen, những mùa hè nóng như thiêu làm mặt đất nứt nẻ bị nung cháy đến tận tầng sâu, lẫn những nỗi bất hạnh trắng khi mà tuyết trùm kín thảo nguyên dưới một lớp vỏ băng giá. Hai nỗi bất hạnh khiến lũ gia súc bị bỏ mặc suốt mùa đông. Những con vật tản mát đi tìm thức ăn, lạc đàn, rồi chết vì đói và lạnh. Chỉ tới mùa xuân người ta mới tìm thấy hàng nghìn cái xác gầy trơ xương, bị tuyết làm chín cả da lẫn thịt. Thậm chí là hàng triệu, khi một dzüüd hội tụ trong nó nỗi bất hạnh còn lớn hơn cả hai nỗi bất hạnh đen và trắng. Đống xác nhỏ là chỗ nhô lên duy nhất trong bán kính nhiều kilômét thảo nguyên xung quanh. Oyun tự hỏi điều gì có thể lý giải sự hiện diện của nó, nhưng tránh tìm câu trả lời ở phía chân trời. Không khí lạnh căm khiến đường viền của những chỏm núi trở nên rõ nét tới mức mắt cô nhức như bị xé. Cô tập trung vào đám xác chất đống. Người lính lái chiếc xe bọc thép cổ lỗ từ thời Liên Xô xuống khỏi buồng lái chiếc AT-L cũ kỹ rồi đi tới bên cô. Cô nghe thấy tiếng cửa đóng sập lại, đanh gọn như tiếng một thân cây rỗng bị gãy, rồi tiếng lạo xạo đều đều của tuyết bị ép lún xuống dưới đôi bốt anh ta đi. Không nói một lời, anh ta ngồi xổm cạnh cô, đưa cho cô một cái ca sắt tây rồi lấy bình giữ nhiệt từ trong cái áo vạt dài truyền thống chần bông. “Ở trên cùng là một con bò Tây Tạng thuần hóa, cái này thì chắc rồi!” người lái xe xác nhận. “Một con bò Tây Tạng thuần hóa hoặc một con bò lai,” Oyun chỉnh lại. “Người du mục ở đây chỉ có bò lai. Hiếm khi có bò Tây Tạng hoang dã.” “Hoặc một con bò lai,” người lái xe nhượng bộ trong lúc xoay nắp chiếc bình giữ nhiệt giữa hai bàn tay đeo găng lót lông cừu to tướng. Anh ta tự rót cho mình một ca trà bơ nóng bỏng trước khi mời Oyun một ca. Là bò thuần hay bò lai, điều đó cũng chẳng làm thay đổi gì nhiều. Cái xác bị phanh bụng của con vật phủ lên những cái xác khác. Băng bện thành những lọn lấp lánh các đốm sương giá trên bộ lông và trong bụng con vật. Con vật phủ phục, bốn chân xoạc ra, nom thật ghê tởm, phủ phần ruột gan đóng băng lên những thứ nằm dưới bụng nó. Ít nhất cũng không có mùi gì. Vào mùa hè, khi nhiệt độ ở cùng địa điểm lên tới hơn bốn mươi độ, đống xác chết này hẳn đã phả ra mùi xú uế không thể nào chịu nổi. Không khí lạnh giá khử trùng cho mọi thứ, kể cả nỗi kinh hoàng. Người lái xe cúi xuống để nhìn qua những rẻ sườn bị gãy của con vật, rồi lách một bàn tay vào giữa khối phủ tạng cứng đơ, rắn chắc… “Bò cái!” anh ta nói. “Đây là con cái.” “Cũng chả quan trọng!” Oyun vừa thở dài vừa bấu chặt ngón tay vào ca trà. “Thế còn bên dưới?” “Bên dưới là một con ngựa,” người lái xe nói không chút do dự. Có thể nhận ra điều đó nhờ những chiếc móng đóng vào bốn cái chân bị bẻ trật khớp nằm lẫn lộn với chân của con bò Tây Tạng. Phần thân con vật mà Oyun nhìn thấy có vẻ đã bị gãy ở lưng. Xác một con bò cái Tây Tạng bị phanh bụng phủ lên xác bị đánh gãy của một con ngựa, trong điều kiện âm hai mươi lăm độ và ở cách Oulan-Bator năm trăm kilômét, đây không hẳn là cuộc điều tra thuộc đội cảnh sát hình sự. Có lẽ cô sẵn sàng để lại vụ này cho cảnh sát địa phương. Thế nhưng lại còn cái chân đó. Một cái chân đi ủng, bàn chân vẫn còn mắc vào bàn đạp thúc ngựa, trồi ra giữa phần lưng đóng băng của con ngựa chết và cái bụng mở phanh của con bò Tây Tạng. “Đó là người kỵ sĩ,” anh lính giải thích. “Tôi hơi nghi ngờ chuyện đó,” Oyun đáp, hai bên hông đột nhiên đau buốt vì giá lạnh và mệt mỏi. “Vấn đề là tìm xem anh ta làm gì ở đó!” “Anh ta đã ở trên lưng ngựa,” người lính nhận xét. “Phải, và bây giờ anh ta ở dưới con bò!” nữ thanh tra bực bội. “Ta đã có manh mối gì về việc đây có thể là ai chưa?” “Chưa,” người lính trả lời. “Ta mới chỉ có mỗi cái chân.” “Và anh đã không tìm cách kéo anh ta ra để tìm kiếm manh mối sao?” “Tôi là quân nhân,” người lính bật ra cụt lủn. Oyun quay đầu nhìn anh ta chằm chằm không chút e dè. Yeruldelgger đã kể với cô về những người du mục trở thành viên chức nhà nước. Mọi điều tạo nên phẩm chất của người du mục cũng chính là hạn chế của người viên chức. Nhất là nếu anh ta lại là quân nhân. “Dẫu sao cũng có thể thử tìm hiểu xem người này là ai, phải không?” Oyun quỳ gối xuống tuyết mà không chờ câu trả lời, rồi nắm lấy chiếc ủng mà băng giá đã gắn chặt phần da vào bàn đạp. Cô cố kéo cái chân của xác chết ra nhưng không ăn thua. Cẳng chân, cứng đơ như một thân cây hóa thạch, không nhúc nhích lấy một li. Cô liền chống người tạo thành đồn bẩy, tì vai vào xác con bò, và trong lúc thực hiện hành động của mình, cô bắt gặp ánh mắt người lính. Anh ta không có vẻ tán thành việc cô làm. “Sao hả?” cô bực bội, thở hổn hển vì gắng sức. Cô vã mồ hôi dưới lớp áo khoác, trong khi hai lá phổi của cô như bị băng giá phủ kín từ bên trong. Cô không trong tâm trạng có thể chịu đựng vẻ uể oải cam chịu của người lính. “Không nên làm thế,” anh ta lẩm bẩm chê trách. “À vậy hả? Thế sao lại không?” nữ thanh tra vừa đáp lại vừa kéo cái chân như một tên tù khổ sai đẩy mái chèo. “Vì băng giá.” “Bởi vì anh tin là nó…” Có thứ gì đó gãy rắc và Oyun ngã bật ra sau trong tiếng lạo xạo của tuyết bị đè bẹp. Khi cô nhổm dậy, khuôn mặt bị giá lạnh cứa vào, Oyun giật mình kinh hãi vội ném ngay cái cẳng chân ra xa. “Tôi từng thấy những mùa dzüüd làm thân bạch dương bị đóng băng tới tận lõi khiến chúng trở nên giòn như thủy tinh,” người lính giải thích. “Thế nên một cái chân…” “Tôi không tin chuyện đó!” Oyun vừa lẩm bẩm vừa nhặt cái chân đóng băng cứng giơ lên. Cả xương lẫn da thịt bị bẻ gãy ngang đùi, cũng như phần vải của ống quần. Nó không còn chút đặc tính nào của một cái chân người. “Ít nhất tôi cũng có thứ để yêu cầu xét nghiệm ADN…” Cô nhìn lần cuối đống xác chết nhỏ, ngẫm nghĩ một lát, rồi ra hiệu bảo anh lính lại gần. “Theo anh, chúng ta có thể chằng một sợi xích vòng quanh rồi dùng xe của anh kéo bật cả đống này lên được không?” “Cô sẽ làm gãy con ngựa và có thể là cả người kỵ sĩ nữa…” “Chúng ta không thể để anh ta lại đó suốt mùa đông được! Sớm muộn gì lũ thú ăn xác chết cũng tìm tới.” “Cô có thể nán lại hai ngày không?” “Ở đây á?” Oyun thốt lên. “Ở chỗ tôi, tại đồn.” “Làm thế sẽ giúp công việc của tôi tiến triển như thế nào?” “Nếu cô muốn mang ba cái xác của cô về, cần rã đông chúng, và tôi biết phải làm thế nào.” “Phải, tôi cũng đã nghĩ tới chuyện đó,” Oyun đáp. “Chúng ta có thể đốt lửa xung quanh…” “Chúng sẽ không trụ được qua đêm đâu. Ở đồn có một chiếc lều cũ do những người du mục bỏ lại sau một mùa dzüüd. Chúng ta sẽ quây lều xung quanh đống xác. Rồi đốt hai hay ba lò than bên trong, và tôi có hai chiếc máy sưởi điện nhỏ. Tất cả sẽ tan chảy trong hai mươi bốn giờ. Cô có thể ra về với trọn vẹn anh chàng gãy chân của cô.” “Này, nói năng tôn trọng một chút!” Oyun cắt ngang. “Đó là một nạn nhân.” “Tôi đâu phải người đã bẻ giò anh ta!” người lính nói đùa. “Đồng ý. Nhưng dù sao cũng tôn trọng anh ta. Tôi đủ hối tiếc về những gì mình đã gây ra cho anh ta rồi.” “Cô không phải hối tiếc đâu, cô em. Cô giúp anh ta chán vạn ra rồi!” “À thế sao?” “Phải. Tổ tiên chúng tôi nghĩ rằng phải bẻ xương người chết để linh hồn họ có thể thoát ra. Họ để người chết ngoài thảo nguyên mà không chôn cất để cho thú hoang tới gặm xương và giải phóng linh hồn những người này.” Oyun chợt nhớ Yeruldelgger từng kể cho cô nghe điều tương tự. Cô cũng nhớ lại tất cả những gì ông đã dạy cô về việc tôn trọng lều du mục. “Nhất trí về chiếc lều, nhưng đừng xúc phạm các linh hồn từng sống trong đó.” “Cô đừng có lo. Các linh hồn đã rời khỏi căn lều này từ lâu rồi. Hơn nữa chúng ta sẽ không bít kín các khe. Chúng ta chỉ phủ kín nó bằng mái lều lớn thôi. Linh hồn người xưa trú ẩn trong lớp dạ. Chúng ta sẽ không quấy quả họ.” “Được,” Oyun đáp, cô bắt đầu thấy có cảm tình với anh chàng quân nhân ngày càng ít chất quân nhân và nhiều chất du mục này. “Tôi sẽ quay lại cùng anh. Tôi nợ nạn nhân cụt chân khốn khố này điều đó.” Trước khi quay trở lại chiếc xe bọc thép, cô đưa mắt nhìn đống xác lần cuối, và người lính đoán ra điều cô đang nghĩ. “Tôi từng thấy lũ bò Tây Tạng nhảy chồm lên như dê bất chấp trọng lượng của chúng. Người ta nghĩ chúng lờ đờ và điềm đạm, nhưng nếu bị săn đuổi, chúng có thể trở nên nhanh nhẹn và hung hãn. Người kỵ sĩ có thể đã đuổi theo con bò cái để bắt nó về chuồng. Có thể con ngựa của anh ta đã trượt chân, và thế là trong cơn hốt hoảng, con bò cái đã nhảy chồm tới đè lên anh ta trước khi anh ta kịp nhảy khỏi ngựa.” “Và làm gãy lưng con ngựa sao?” “Một con bò cái to có thể nặng tới ba trăm kí lô.” “Nhưng nếu vậy thì vì sao con bò cái lại bị phanh bụng ra?” “Chúng ta không biết người kỵ sĩ ở bên dưới là người như thế nào. Có khi anh ta có một cây urga. Có thể là cây sào buộc thòng lọng đã gãy trong cú ngã và con bò cái bị xuyên thủng bụng chăng?”   Mời các bạn đón đọc Thời Hoang Dã của tác giả Ian Manook & Lê Đình Chi (dịch).