Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kim Ji Young, Sinh Năm 1982

Kim Ji Young, Sinh Năm 1982 là cuốn sách kể về cuộc đời của một người phụ nữ bị chứng rối loạn tâm lí sau sinh, tên là Kim Ji Young. Câu chuyện mở đầu bằng những dòng giới thiệu về cô - ở thời điểm hiện tại. Nếu tinh ý, độc giả sẽ có thể nhận thấy ở nhiều phân đoạn, tác giả thường gọi cả họ tên của nhân vật chính, lặp đi lặp lại chứ ít dùng đại từ thay thế. Đó là vì trong tiểu thuyết này tác giả đóng vai trò là một nam bác sĩ tâm lí trị liệu cho Kim Ji Young, và phần đầu được viết dưới dạng hồ sơ bệnh án của bác sĩ, mô tả chi tiết về bệnh chứng của bệnh nhân. Những trang viết dần hé lộ về cuộc đời tưởng như rất đỗi bình thường của thiếu phụ trẻ, từ khi cô sinh ra đến khi lấy chồng rồi sinh con như bao người phụ nữ Hàn Quốc rất bình thường khác. Các triệu chứng kì lạ của Kim Ji Young xuất hiện sau khi cô sinh con, có những lúc dường như cô không phải là một Kim Ji Young thực sự, mà đã hóa thân thành những người phụ nữ khác, lúc thành mẹ cô, lúc lại thành người bạn gái cũ của chồng... Dường như cái vỏ thân xác Kim Ji Young cùng lúc có rất nhiều người khác nhau cùng tồn tại, có người còn sống và có người đã khuất, nhưng điểm chung nhất là họ đều là phụ nữ. Kim Ji Young như người phát ngôn hộ những người phụ nữ ấy những lời tự đáy lòng, nhưng bản thân họ thì có lẽ sẽ không bao giờ tự dám nói: “Ông thông gia, tôi xin mạn phép được nói điều này. Chỉ có nhà ông là có gia đình thôi sao? Chúng tôi cũng có gia đình chứ. Ba đứa nhà tôi cũng chỉ có ngày lễ tết mới có thể gặp mặt nhau. Bây giờ cuộc sống của đám trẻ đứa nào chẳng như vậy. Nhưng nếu con gái ông đã về thăm nhà rồi, thì cũng phải cho con gái chúng tôi về thăm nhà chứ”. Nghe những lời ấy, những người sống quanh cô sững sờ, thậm chí là bị sốc, bởi cô đã nói ra một cách khá thẳng thắn, đòi lại công bằng cho phụ nữ trước đặc quyền mà từ trước đến nay gần như cả xã hội vẫn mặc nhiên dành cho nam giới. Kí ức sâu đậm nhất về tuổi thơ của Kim Ji Young là vị sữa bột ngọt ngào: “...mỗi khi mẹ pha sữa cho em, cô lại ở bên cạnh dùng nước bọt thấm ướt ngón tay rồi chấm những hạt sữa bột rơi trên sàn để ăn. Đôi khi mẹ cô sẽ bảo cô ngửa đầu lên và mở miệng rộng, rồi đổ một thìa sữa bột ngọt ngào đậm đà lên lưỡi cô...” Vị sữa ấy sẽ không thể khiến cô nhớ đến vậy, nếu nó không đi kèm với chuyện hễ cô bị bà nội bắt gặp cảnh cô ăn sữa thì sẽ lập tức bị bà cho ăn đòn, khiến sữa phun ra cả miệng lẫn mũi. “Có thể hiểu rằng biểu hiện đó của bà có nghĩa là tại sao chúng mày ‘dám’ đụng vào đồ của cháu trai quý giá của tao. Em trai và những gì thuộc về em là quý giá nhất, không một ai có thể tùy tiện đụng tới bất cứ thứ gì, Kim Ji Young cũng chỉ là ‘không một ai’ trong con mắt của bà. Và cả chị gái cô cũng vậy...” Còn mẹ cô, một người phụ nữ lớn lên trong gia đình làm nông, học xong tiểu học thì ở nhà làm lụng để các anh em trai được đi học tiếp, lớn hơn chút nữa, bà vào làm việc cực nhọc trong xưởng dệt, cùng chị gái bán sức lao động lấy đồng lương còm cõi để tiếp tục nuôi các anh em trai đi học đại học, xây dựng sự nghiệp riêng, để rồi cuối cùng nhận ra rằng trong gia đình và sự nghiệp của những người kia, họ không có chỗ đứng, họ trắng tay. Sau tất cả, những người đàn ông được cả xã hội công nhận là đã “một tay nuôi sống gia đình”, đã gánh vác giang sơn, đã làm nên công to việc lớn, và dĩ nhiên là không hề nhắc đến đồng tiền mồ hôi nước mắt của hai người phụ nữ đổi lấy bằng cả thanh xuân. Những người phụ nữ nhận thấy điều ấy, nên họ phải tự tìm đường sống cho mình, tự đi học, tự xây dựng cuộc sống, sau khi lấy chồng lại tiếp tục guồng quay, sinh con đẻ cái, làm lụng nuôi mình, nuôi chồng, nuôi con. Guồng quay cuộc sống ấy chúng ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu, quá quen thuộc đến nỗi cả xã hội coi đó là điều mặc nhiên phải thế, nam giới mặc nhiên được ưu tiên, còn phụ nữ mặc nhiên xếp hàng thứ yếu. Ngay từ khi còn là những đứa trẻ, họ đã được dạy như vậy, từ những việc nhỏ nhất: Xếp số ăn cơm thì con trai xếp trước, lớp trưởng cũng là con trai; bị quấy rối, sàm sỡ thì nạn nhân là người có lỗi... Một điều khá thú vị là những người phụ nữ được khắc họa trong tiểu thuyết này hiện lên rất đời thường, gần gũi, có thể bắt gặp hình ảnh họ ở bất cứ đâu trong cuộc sống, và họ không đối xử độc ác với nhau. Đây là một điều ít thấy, không có sự hãm hại, dèm pha, chơi xấu giữa những phận đàn bà như thường gặp trong các câu chuyện khác, mà chỉ thấy họ cố gắng để thấu hiểu và nâng đỡ nhau vượt qua đau khổ, tiếp tục duy trì cuộc sống: Cô giáo sau khi nghe học sinh khiếu nại đã đối xử công bằng và tạo điều kiện cho học sinh nữ hơn; người phụ nữ trên xe bus nhận ra mối nguy mà cô bé xa lạ trên xe bus muốn cầu cứu bà; người đồng nghiệp của Ji Young dám chống lại nạn quấy rối tình dục nơi công sở... Câu chuyện tưởng như bình thường mà hóa ra lại chẳng bình thường, bởi nó khiến chúng ta giật mình nhìn lại cuộc sống của chính mình, có phải chúng ta cũng là một Kim Ji Young? Có phải mẹ chúng ta cũng chẳng khác nào bà Oh Mi Sook? Có phải ta cũng đã từng gặp được người bênh vực chúng ta như người phụ nữ xa lạ trên xe bus? Và có khi nào ta tưởng như có thể phát điên, nếu không được bàn tay ai đó nắm lấy đồng cảm, như bà Oh Mi Sook khi nằm trên bàn phá thai?... Quả thực không phải ngẫu nhiên mà cuốn tiểu thuyết khá mỏng này lại có thể khiến cả xã hội Hàn Quốc xôn xao dậy sóng, thậm chí các sao lớn của làng giải trí Hàn Quốc cũng không đứng ngoài cuộc. Không chỉ dừng lại ở phong trào Metoo - phong trào ủng hộ những người phụ nữ từng bị quấy rối tình dục dũng cảm nói lên câu chuyện của mình, Hàn Quốc gọi nữ nhà báo Kang Kyung Hoon là “hung thần” của nhiều công ty cũng như nghệ sĩ của showbiz. Chính cô là người nắm giữ trong tay hàng loạt bằng chứng môi giới mại dâm, quay lén và rao bán phụ nữ, trẻ vị thành niên của ca sĩ bậc nhất xứ Hàn. Một lần nữa truyền thông Hàn Quốc lại đặt câu hỏi cho vị trí cũng như vấn đề an toàn trong môi trường sống dành cho phụ nữ. Hàng loạt các ngôi sao ngầm ủng hộ phong trào nữ quyền bằng việc chia sẻ các trích dẫn về cuốn sách Sinh năm 1982 - cuốn sách nữ quyền gây tiếng vang lớn tại Hàn Quốc, Nhật Bản. Nhà xuất bản Phụ nữ xin được giới thiệu tới độc giả cuốn tiểu thuyết nữ quyền dũng cảm và giàu tính nhân văn này, để nhận thức rõ hơn về vị trí của người phụ nữ cùng những bất công mà họ phải chịu đựng do tình trạng bất bình đẳng giới trong xã hội, cũng như khích lệ những người phụ nữ hãy sống dũng cảm hơn để đấu tranh cho cuộc sống của chính mình. Một số phản hồi, nhận xét của truyền thông Hàn Quốc “Trên thực tế, trong số những phụ nữ sinh năm 1982 ở Hàn Quốc thì Kim Ji Young là cái tên được đặt nhiều nhất. Sinh năm 1982, bây giờ đang ở độ tuổi giữa 30. Tựa đề Kim Ji Young born 1982 đã phản ánh được mục đích của tác giả khi viết cuốn tiểu thuyết này, đó là vẽ nên cuộc sống phổ biến của đại đa số phụ nữ đương đại”. (--Kim Go Yeon Ju, học giả về nữ giới--) “Tôi biết rất nhiều người phụ nữ cảm thấy mình trong đó. Thật sự rất đáng buồn khi họ thấy đồng điệu với nhân vật Kim Ji Young. Ước gì không ai thấy mình giống nhân vật đó!”  (--Noh Hong Chul, diễn viên--) “Mặc dù đây chỉ là một cuốn tiểu thuyết, nhưng câu chuyện bên trong rất chân thật. Tôi không thể ngừng đọc nó cho đến hết. Tôi biết chính xác những gì Kim Ji Young đã cảm nhận... biết đến từng giây mà cô ấy phải trải qua, từ bất hạnh, buồn đau và sợ hãi... Cho dù đó không phải là câu chuyện của tôi nhưng tôi vẫn cảm thấy Kim Ji Young như là một người bạn thân của mình. Và tôi chắc chắn rằng có rất nhiều Kim Ji Young đang sống xung quanh tôi.”  (--Park Shin Hye, diễn viên--) “Dành cho những người có hứng thú muốn hiểu hơn về tình cảnh của người phụ nữ trong xã hội Hàn Quốc hiện nay, cuốn tiểu thuyết nữ quyền mang tên ‘Kim Ji Young sinh năm 1982’ được viết bởi nhà văn Cho Nam Joo sẽ cho bạn thấy một cái nhìn tổng quan thực tế về vấn đề này. Cuốn sách này không giống như những cuốn sách thông thường, thiên về một chuỗi giai thoại ghép lại hơn là tiểu thuyết. Cốt truyện không mấy thú vị. Nhân vật chính Ji Young đến trường, có việc làm, lập gia đình, nghỉ việc và sinh con. Ngoài những điều thường nhật ra thì không còn gì xảy ra nữa. Nhưng đó mới chính là cốt yếu của toàn bộ câu chuyện. Tất cả những người phụ nữ đều là Ji Young. (Kim Ji Young là cái tên được đặt khá phổ biến cho con gái sinh năm 1982, vì thế đây cũng chính là tên của cuốn tiểu thuyết này) Ji Young không chiến đấu chống lại chế độ như một người vận động nữ quyền. Khi có một lão khách già nua phóng đãng bắt cô phải ra ngoài để đi uống rượu với lão thì cô sẽ không chọn cách đứng dậy, đổ ly nước lên đầu lão và rời đi. Mà cô sẽ vẫn ngồi yên và đưa ra những bình luận chính kiến của mình về phân biệt đối xử giới tính như những nữ công nhân trẻ khác cũng làm. Cơ bản thì cô cũng chỉ là phụ nữ trẻ tuổi bị cuốn vào một xã hội sống theo lối gia trưởng." (--Trích review từ dramasrok và được dịch lại từ IRAINvn--) Tôi luôn có cảm giác rằng Kim Ji Young đang thực sự sống ở đâu đó. Bởi cô ấy có quá nhiều điểm giống với những người bạn, những người chị và cả tôi. Lúc viết tôi luôn cảm thấy ngột ngạt và thương cảm cho Kim Ji Young. Nhưng tôi biết rõ cô ấy đã lớn lên như vậy, đã sống như vậy, không có cách thay đổi nào khác nên tôi cũng phải viết như vậy. Kim Ji Young luôn luôn thận trọng và nghiêm túc khi đưa ra quyết định và làm hết khả năng của mình vì sự lựa chọn đó, tôi nghĩ rằng cô ấy cần sự ủng hộ và đền đáp thỏa đáng. Chúng ta cần cho cô ấy nhiều hơn nữa những cơ hội và sự lựa chọn. Tôi có một cô con gái lớn hơn Ji Won năm tuổi. Con gái tôi nói lớn lên muốn làm nhà du hành vũ trụ, nhà khoa học và nhà văn. Thế giới của con tôi sẽ sống phải tốt đẹp hơn thế giới tôi đã sống, tôi tin vào điều đó và đang nỗ lực để hiện thực hóa điều đó. Tôi hi vọng tất cả những bé gái trên thế gian này sẽ có thể mơ ước nhiều hơn, mơ những giấc mơ lớn lao hơn. (--Cho Nam Joo--) Tác giả Cho Nam Joo Sinh năm 1978 tại Seoul. Tốt nghiệp khoa Xã hội học trường Nữ Ehwa và là biên kịch cho những chương trình truyền hình nổi tiếng như Sổ tay PD, Bất mãn zero, Truyền hình trực tiếp buổi sáng... trong suốt 10 năm. Các tác phẩm đạt giải thưởng: Tiểu thuyết Lắng tai nghe (giải thưởng văn học Munhakdongne, năm 2011) Vì Komaneji (giải thưởng văn học Hwangsanbyeon lần thứ 2, năm 2016). Dịch giả: Dương Thanh Hoài Tốt nghiệp khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc - Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội; tốt nghiệp thạc sĩ Kinh tế, Viện nghiên cứu Hàn Quốc học Trung Ương, Hàn Quốc. Các tác phẩm đã dịch, in và phát hành tại Nxb Phụ nữ: Tiểu thuyết: Lời nói dối hoa mỹ, Mây họa ánh trăng (tập 1), Cảm ơn tất cả Truyện thiếu nhi: Con chính là điều kỳ diệu, Mẹ nổi giận, Nàng công chúa giả vờ không biết mọi chuyện, Những chú ngựa của mẹ, Con là hạt giống nào vậy nhỉ, series Pretty girl - Là con gái... *** [Review Sách] "Kim Ji Young Sinh Năm 1982": Cuốn Sách Nữ Quyền Làm Bùng Nổ Trào Lưu "Metoo" Ở Hàn Quốc Hàn Quốc luôn được biết đến là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất khu vực châu Á. Tuy nhiên trái ngược lại với kinh tế giàu mạnh, xứ sở kim chi lại được đánh giá là quốc gia còn mang nặng tư tưởng phong kiến và phân biệt đối xử với phụ nữ. Trước những bất cập xã hội ấy thì cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 ra đời và gây chấn động Hàn Quốc. Cuốn sách nữ quyền này đã giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ tư tưởng lạc hậu và mở ra tương lai tươi sáng hơn cho những người phụ nữ đáng lý phải có được hạnh phúc. Em trai và những gì thuộc về em là quý giá nhất, không một ai có thể tùy tiện đụng tới bất cứ thứ gì, Kim Ji Young cũng chỉ là “không một ai” trong con mắt của bà. Và cả chị gái cô cũng vậy… Kim Ji Young Sinh sinh năm 1982 - người phụ nữ của một thế hệ Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 của tác giả Cho Nam Joo kể từ khi ra đời đã gây được tiếng vang lớn tại quê nhà Hàn Quốc. Cuốn sách xoay quanh hành trình trưởng thành, lập gia đình, đối mặt với định kiến xã hội của nhân vật Kim Ji Young. Cuộc đời của cô được đánh giá là được xây dựng dựa trên cuộc đời của người phụ nữ Hàn Quốc trong xã hội hiện đại nhưng vẫn còn tư tưởng phong kiến.    Họ Kim là một người rất phổ biến tại Hàn Quốc. Cái tên Ji Young là cái tên được đặt phổ biến cho các bé gái chào đời vào những năm 80. Có thể nói như là cái tên  này đại diện cho thế hệ phụ nữ chào đời trong những ngày tháng Hàn Quốc còn chưa có những luật cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Và cho đến tận ngày nay họ còn phải gánh chịu sự bất bình đẳng giới. Vì vậy khi viết cuốn sách này, Cho Nam Joo không định kể lại cuộc đời của một người phụ nữ mà bà muốn khắc họa cuộc đời của phần đông phụ nữ Hàn Quốc. Cho Nam Joo bộc bạch: Tôi luôn có cảm giác rằng Kim Ji Young đang thực sự sống ở đâu đó. Bởi cô ấy có quá nhiều điểm giống với những người bạn, những người chị và cả tôi. Lúc viết tôi luôn có cảm giác ngột ngạt và thương cảm cho Kim Ji Young. Nhưng tôi biết rõ cô ấy đã lớn lên như vậy, đã sống như vậy, không có cách thay đổi nào khác nên tôi cũng phải viết như vậy.   Những bất công xã hội bắt đầu đổ xuống cuộc đời của mẹ của Kim Ji Young, bà Oh Mi Sook. Thuở thiếu thời, bà Oh Mi Sook phải nghỉ học làm công nhân và dành dụm tiền làm thuê để nuôi những người anh và em trai của mình đi học. Không chỉ có bà mà những người phụ nữ sống ở thời đại đó đều vậy. Họ sẽ phải từ bỏ tương lai của mình chỉ vì họ là phụ nữ. Họ phải dành hết cả công sức của mình để tìm đến những điều kiện tốt đẹp nhất cho những người anh, em trai trong nhà. Sau đó những người em, anh của bà đều có công việc ổn định. Người anh cả của bà làm bác sĩ, em thứ làm cảnh sát và em út làm giáo viên. Nhưng sau đó thì họ cũng dần thành gia lập thất. Họ phải chăm lo cho gia đình của mình và không thể thể báo đáp công ơn của bà Oh Mi Sook nữa. Vì chỉ hết tiểu học nên bà có cuộc sống rất khó khăn. Sau khi bà Oh Mi Sook kết hôn thì bà sinh được hai đứa con gái là Kim Ji Young,  Kim Eun Young và một con trai. Những đứa con gái của bà được đối xử bình đẳng hơn thời của người mẹ. Kim Ji Young và chị gái Kim Eun Young được đến trường, được đi học và hưởng những quyền lợi cần thiết. Chính phủ Hàn Quốc đã có những sự cải cách mạnh mẽ điểm xóa bỏ sự bất bình đẳng giới. Nhưng điều này chỉ khá hơn so với trước đây nhưng không có nghĩa là xã hội Hàn Quốc đã hoàn toàn bình đẳng nam nữ. Những dấu hiệu của sự không công bằng giữa nam và nữ được khắc họa trong cuốn sách từ gia đình đến xã hội đều vô cùng chân thật. Lúc còn nhỏ chị em Kim Ji Young luôn phải dành những thứ tốt đẹp nhất cho em trai của mình. Ăn cơm cũng phải để em trai ăn trước, cặp sách đi học của em trai luôn lành lặn còn của hai chị em cô thì lại là đồ cũ. Tương lai và kỳ vọng của cả gia đình điều đặt lên vai của người con trai. Có lẽ tư tưởng "Con gái gả đi rồi như nước đã đổ đi" khó mà thay đổi được trong xã hội Hàn Quốc hiện đại. Ở trường học theo tỉ lệ lớp trưởng là nam chiếm tối đa. Dù các giáo viên ở đây có thói quen chọn ra mỗi lớp vài bạn nữ để chạy việc vì họ cảm thấy nữ sinh chăm chỉ hơn nhưng họ không chọn lớp trưởng là nữ. Trong những năm sau nhờ chính sách mới mà tư duy xã hội thay đổi, tỉ lệ lớp trưởng là nữ đã tăng dần. Những con số trong này vẫn chiếm rất ít so với tỷ lệ lớp trưởng là nam. Nhưng có lẽ những sự phân biệt ấy là rất là quá nhỏ so với những thái độ của mọi người khi những nữ sinh bị quấy rối. Hàng loạt những vụ quấy rối nữ sinh đến từ những kẻ lạ mặt thường xuyên đi lại quanh trường. Khi ấy những nữ sinh đã dũng cảm đứng lên tố giác những kẻ quấy rối thì lại phải chấp nhận những ánh mắt kỳ thị. Chỉ vì các cô bé đã dám nói lên những tội ác mà những người xấu đã làm mà bị xem là không biết xấu hổ. Vì cái tâm lý "tốt khoe xấu che" ấy mà những quyền lợi cơ bản nhất của những nữ sinh đã bị xâm phạm nghiêm trọng. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng đến tương lai và cơ hội việc làm của phụ nữ Hàn Quốc Khác với Việt Nam, ở Hàn Quốc cơ hội việc làm không hề bình đẳng giữa nam và nữ. Phụ nữ có rất ít cơ hội việc làm, nhất là những công việc có chế độ đãi ngộ tốt. Lý do mà các doanh nghiệp đưa ra nhằm giải thích cho việc này là do người đàn ông có thể đảm đương được công việc tốt hơn. Họ không phải lo lắng về việc gia đình, chăm sóc con, chăm sóc cha mẹ già, họ không giống như phụ nữ. Phụ nữ sau khi lấy chồng phải chăm sóc cho cha mẹ chồng. Khi họ mang thai cần thêm chế độ đãi ngộ, họ phải nghỉ một khoảng thời gian để nuôi con. Khi con ra đời họ phải dành hết thời gian của mình để chăm sóc con nhỏ. Phần nhiều doanh nghiệp cho rằng phụ nữ có nhiều thứ phải lo nên họ không thể tập trung cho công việc được. Một lí do cũng quan trọng không kém là vì tư tưởng người đàn ông có năng lực, trí lực hơn người phụ nữ vẫn còn nặng trong xã hội xứ sở kim chi.   Trên một trang web thông tin tuyển dụng đã đưa ra kết quả điều tra tỷ lệ tuyển dụng lao động nữ khoảng 100 doanh nghiệp thì tỷ lệ này chỉ ở mức 29,6%[…] người ta vẫn nói rằng tỷ lệ nữ như vậy là khá cao! Trong 50 tập đoàn lớn thì có đến 44% trả lời rằng “nếu ứng viên có điều kiện tương tự nhau thì sẽ chọn ứng viên nam” và không một ai trả lời rằng “sẽ chọn ứng viên nữ”. Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 đã khắc họa rõ nét hình ảnh của người phụ nữ Hàn Quốc trong công việc. Kim Ji Young đã từng rất chật vật sau khi ra trường vì không tìm được việc làm. Trong một lần đậu vòng phỏng vấn cô đã rất vui vẻ và hy vọng. Nhưng sự hy vọng của cô đã nhanh chóng tan biến bởi câu hỏi tình huống mà bên công ty đưa ra: Cuối cùng một giám đốc nam tầm tuổi trung niên ngồi ở vị trí xa nhất nãy giờ chỉ gật đầu mà không nói gì đặt ra một câu hỏi: "Giả sử các bạn tới tham dự một buổi gặp đối tác. Tìm đối tác của các bạn lại cứ liên tục, như thế này, đụng chạm thân thể bạn. Ví dụ như khoác vai, hoặc sờ đùi. Những việc đại loại như thế. Các bạn hiểu chứ hả? Trong trường hợp như vậy các bạn sẽ làm thế nào? Bắt đầu từ Kim Ji Young đi." Câu hỏi này dành cho ba ứng viên cùng tham gia phỏng vấn là Kim Ji Young và hai ứng viên nữ khác. Cả ba người đều có phong thái lịch sự, nhã nhặn và có trình độ học vấn tốt. Vì trình độ ngang nhau nên ai được nhận vào công ty sẽ quyết định bởi câu trả lời tình huống này. Đây là một câu hỏi phản ánh tình trạng chung của nạn xem thường phụ nữ tại Hàn Quốc. Cả ba ứng viên đều đưa ra những câu trả lời khác nhau. Một ứng viên nữ thì nói rằng sẽ xem lại bản thân ăn mặc có không phải phép không và xin lỗi người quấy rối mình để bảo toàn công việc. Một ứng viên khác thì quyết liệt hơn nói rằng sẽ không tha cho hành vi quấy rối của người đối tác, sẽ truy tố đến cùng dù cho có bị đuổi việc. Còn Kim Ji Young thì nói rằng cô sẽ viện cớ đi vệ sinh hoặc lấy tài liệu để tránh thái độ của đối tác vừa không làm tổn hại đến lợi ích của công ty. Không lâu sau thì Kim Ji Young nhận được kết quả là mình đã trượt phỏng vấn. Cô cứ nghĩ rằng ứng viên đã kiên quyết từ chối hành động quấy rối sẽ là người được tuyển vào công ty. Vì cô ứng viên này quá dũng cảm. Tuy nhiên khi cô gọi điện hỏi nhân viên trong công ty rằng ai là người đậu thì câu trả lời là có ba đều trượt. Trong thực tế thì cách tốt nhất để giải quyết câu hỏi tình huống ấy chính là không tuyển nhân viên nữ. Như vậy sẽ không xảy ra những vụ quấy rối nhân viên nữ của đối tác. Từ đó giảm tối đa thiệt hại của công ty. Cuốn sách bán được hơn 1 triệu bảng làm sống dậy hashtag #metoo Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 bắt đầu nổi tiếng tại Hàn Quốc sau những vụ bê bối về những đường dây phát tán những đoạn clip nhạy cảm về phụ nữ của những nghệ sĩ nổi tiếng hàng đầu. Cùng với đó là việc phát hiện hàng trăm trang web đen quay lén phụ nữ. Điều này được thể hiện rõ trong cuốn sách khi nhà vệ sinh nữ trong công ty cũ của Kim Ji Young bị gắn camera quay lén và phát sáng lên mạng thì những người đầu tiên biết việc này đã không tố giác. Đó chính là những nam nhân viên đã xem những tấm ảnh này. Họ lén lút chuyền tay nhau xem mà không có một chút cảm giác tội lỗi. Sau khi sự việc được phơi bày, những nhân viên nữ đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Dù cố gắng vui vẻ khi đến công ty nhưng lúc nào cũng có cảm giác như sắp phát điên. Chỉ cần chạm vào một người không quen biết cũng có cảm giác như người ta đã xem ảnh của mình, ai đó cười thì nghĩ họ đang cười mỉa mình, lúc nào cũng thấy như tất cả mọi người đều biết mình. Các nhân viên nữ đa số đều phải uống thuốc, gặp bác sĩ tâm lý. Còn nữa, Jung Un vì uống thuốc ngủ mà phải cấp cứu đấy. Thậm chí có người đã nghỉ việc vì không chấp nhận được những sự sỉ nhục và xem thường ngầm ấy. Có lẽ khó tin nhưng một đất nước có nền kinh tế phát triển như Hàn Quốc lại luôn tồn tại hàng trăm web đen có nội dung quấy rối phụ nữ. Và số lượng người xem những trang web này không hề nhỏ. Sự bất bình đẳng nam nữ này đã đẩy nhiều người phụ nữ vào cái chết. Sự việc rúng động gần đây là cái chết của nữ thần tượng Sulli. Sulli đã tự sát tại nhà riêng vì căn bệnh trầm cảm kéo dài. Nổi tiếng là một nghệ sĩ xinh đẹp nhưng Sulli thường xuyên bị cộng đồng mạng chỉ trích vì phong cách ăn mặc của mình. Thậm chí sau khi cô tự sát thì người đồng nghiệp Bang Min Ah đã lòng tỏ tiếc thương trên mạng thì lại bị một số người dùng tấn công bằng lời lẽ thô bỉ trên internet. Bên cạnh sự tiếc thương vô bờ thì sự ra đi tuyệt vọng của Sulli cũng khiến một bộ phận người mang tưởng phong kiến cảm thấy không có gì để tiếc. Sáu tháng sau ngày Sulli qua đời, bạn thân của cô là Goo Hara đã tự sát vì những sự xem thường phụ nữ và bất bình đẳng giới phải chịu đựng. Có thể thấy sự bất bình đẳng nam nữ đã gây ra những hậu quả tiêu cực. Đồng thời những định kiến ấy đã người phụ nữ đến bước đường cùng. Có thể thấy cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 không chỉ được viết ra để mở mang kiến thức như những cuốn sách khác. Cuốn sách được sinh ra để thức tỉnh và thay đổi xã hội. Kim Ji Young Sinh Năm 1982 đã bán được hơn 1 triệu bản tại Hàn Quốc và rất nổi tiếng tại Nhật Bản, Đài Loan và Việt Nam. Cuốn sách nổi lên và làm sống dậy trào lưu #Metoo rúng động Hàn Quốc. Đó là trào lưu "Tôi cũng vậy", "Tôi đã từng sống và bị quấy rối như vậy". Phụ nữ đã không còn e dè mà dũng cảm lên tiếng tố cáo những tội ác. Phụ nữ đã chịu đựng quá nhiều bất công nhưng từ nay sẽ không bao giờ yếu đuối. Càng không bao giờ từ bỏ ước mơ và tương lai của mình. Tấm bản đồ thế giới trong phòng của chị em Kim Ji Young chính là biểu tượng tươi đẹp cho tương lai của những người phụ nữ. Dẫu trải qua bao sóng gió họ vẫn luôn lạc quan và tin rằng bản thân sẽ vượt qua tất cả. Họ tin rằng sẽ vượt qua những định kiến khắc nghiệt để xây dựng lên ước mơ bằng chính đôi tay của mình.   Một vài miếng sticker hình trái tim màu xanh lá cây và xanh dương được dán lên tấm bản đồ cũ kỹ với những vệt gấp giấy. Những miếng sticker đó để biểu hiện vị trí những đất nước mà Kim Eun Young muốn đi, cô cũng đưa cho cả Kim Ji Young để dán trang trí sổ nhật ký nữa. Kể từ khi cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 xuất hiện thì Hàn Quốc nổi lên trào lưu cắt tóc ngắn và để mặt mộc. Họ sẽ không để bất cứ ai đánh giá mình dựa trên vẻ bề ngoài. Phụ nữ hiện đại Hàn Quốc không cần phải ép mình xinh đẹp bằng cách phẫu thuật thẩm mỹ hay trang điểm. Điều này đi ngược lại so với trước đây. Ở Hàn Quốc, phụ nữ không xinh đẹp mà không phẫu thuật thẩm mỹ thì khó mà xin được việc làm. Bất chấp định kiến họ sẽ luôn đấu tranh, vì họ tin rằng có một ngày không xa người phụ nữ trong xã hội Hàn Quốc sẽ được đối xử một cách công bằng và họ sẽ tìm được hạnh phúc. Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 của Cho Nam Joo đã làm cảm động biết bao trái tim của những người ủng hộ xã hội công bằng và bình đẳng. Cuốn sách đã góp phần truyền động lực sống mạnh mẽ cho những người phụ nữ bị đối xử bất công ở xứ kim chi. Tìm ẩn trong từng trang sách ấy luôn là lòng tin về tương lai tươi đẹp hơn sẽ đến với họ vào một ngày không xa. Review bởi Trần Hạnh - Bookademy Mời các bạn đón đọc Kim Ji Young, Sinh Năm 1982 của tác giả  Cho Nam Joo & Dương Thanh Hoài (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cây Cam Ngọt Của Tôi
“Vị chua chát của cái nghèo hòa trộn với vị ngọt ngào khi khám phá ra những điều khiến cuộc đời này đáng số một tác phẩm kinh điển của Brazil.” - Booklist “Một cách nhìn cuộc sống gần như hoàn chỉnh từ con mắt trẻ thơ… có sức mạnh sưởi ấm và làm tan nát cõi lòng, dù người đọc ở lứa tuổi nào.” - The National Hãy làm quen với Zezé, cậu bé tinh nghịch siêu hạng đồng thời cũng đáng yêu bậc nhất, với ước mơ lớn lên trở thành nhà thơ cổ thắt nơ bướm. Chẳng phải ai cũng công nhận khoản “đáng yêu” kia đâu nhé. Bởi vì, ở cái xóm ngoại ô nghèo ấy, nỗi khắc khổ bủa vây đã che mờ mắt người ta trước trái tim thiện lương cùng trí tưởng tượng tuyệt vời của cậu bé con năm tuổi. Có hề gì đâu bao nhiêu là hắt hủi, đánh mắng, vì Zezé đã có một người bạn đặc biệt để trút nỗi lòng: cây cam ngọt nơi vườn sau. Và cả một người bạn nữa, bằng xương bằng thịt, một ngày kia xuất hiện, cho cậu bé nhạy cảm khôn sớm biết thế nào là trìu mến, thế nào là nỗi đau, và mãi mãi thay đổi cuộc đời cậu. Mở đầu bằng những thanh âm trong sáng và kết thúc lắng lại trong những nốt trầm hoài niệm, Cây cam ngọt của tôi khiến ta nhận ra vẻ đẹp thực sự của cuộc sống đến từ những điều giản dị như bông hoa trắng của cái cây sau nhà, và rằng cuộc đời thật khốn khổ nếu thiếu đi lòng yêu thương và niềm trắc ẩn. Cuốn sách kinh điển này bởi thế không ngừng khiến trái tim người đọc khắp thế giới thổn thức, kể từ khi ra mắt lần đầu năm 1968 tại Brazil. *** Tóm tắt Cây cam ngọt của tôi là câu chuyện về cậu bé Zezé, một cậu bé 5 tuổi thông minh, tinh nghịch và đáng yêu, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo đông con ở vùng ngoại ô Rio de Janeiro, Brazil. Cậu bé có ước mơ trở thành một nhà thơ cổ thắt nơ bướm. Cuộc sống của Zezé không hề dễ dàng. Cậu phải chịu đựng sự hắt hủi, đánh mắng của cha mẹ và anh chị em. Cậu cũng phải đối mặt với những khó khăn của cuộc sống nghèo khó. Tuy nhiên, Zezé vẫn giữ được trái tim trong sáng và trí tưởng tượng phong phú. Cậu bé tìm thấy một người bạn đặc biệt, đó là cây cam ngọt trong vườn sau nhà. Cậu bé thường tâm sự với cây cam về những niềm vui, nỗi buồn của mình. Cây cam ngọt cũng trở thành nguồn động viên, khích lệ cậu bé trong cuộc sống. Một ngày kia, Zezé gặp gỡ một người bạn mới, đó là Lọ Lem. Lọ Lem là một cậu bé mồ côi, sống lang thang trên đường phố. Lọ Lem đã giúp Zezé khám phá thế giới bên ngoài và dạy cậu bé cách yêu thương. Cuộc sống của Zezé đã thay đổi mãi mãi sau khi cậu gặp Lọ Lem. Cậu bé học được cách đối mặt với những khó khăn và vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Cậu cũng học được cách yêu thương và trân trọng những người xung quanh. Đánh giá Cây cam ngọt của tôi là một cuốn sách hay và ý nghĩa. Cuốn sách đã khắc họa chân thực cuộc sống của những đứa trẻ nghèo ở Brazil. Cuốn sách cũng gửi gắm những thông điệp sâu sắc về tình yêu thương, lòng trắc ẩn và ý nghĩa của cuộc sống. Cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, nhưng lại vô cùng sâu sắc và cảm động. Cuốn sách đã chạm đến trái tim của hàng triệu người đọc trên khắp thế giới. Điểm nổi bật Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Nhân vật được xây dựng chân thực, gần gũi Ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu nhưng lại vô cùng sâu sắc và cảm động Thông điệp ý nghĩa về tình yêu thương, lòng trắc ẩn và ý nghĩa của cuộc sống Kết luận Cây cam ngọt của tôi là một cuốn sách hay và ý nghĩa. Cuốn sách là một món quà tinh thần quý giá dành cho tất cả mọi người. *** Nếu Hảo hán nơi trảng cát của Jorge Amado (1912 - 2002) là cuộc sống của những đứa trẻ mồ côi ở Salvador thì Cây cam ngọt của tôi là cuộc đời của những con người trong khu xóm nghèo ở thủ đô Rio de Janeiro. Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ lần đầu tiên cậu bé Zezé bước vào văn chương và ở lại đó cùng với cây cam ngọt ngào lẫn đắng chát của mình, độc giả tiếp tục khóc cười với cuốn tiểu thuyết thành công nhất của nhà văn José Mauro de Vasconcelos (1920 - 1984) - Cây cam ngọt của tôi (Nguyễn Bích Lan - Tô Yến Ly dịch, Nhã Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà Văn). Cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1968 ở Brazil, khi cơn sốt văn chương châu Mỹ Latin đang lan dần ra toàn thế giới. Nếu Hảo hán nơi trảng cát của Jorge Amado (1912 - 2002) là cuộc sống của những đứa trẻ mồ côi ở Salvador thì Cây cam ngọt của tôi là cuộc đời của những con người trong khu xóm nghèo ở thủ đô Rio de Janeiro. Ở đó, những người lớn tất tả trong cuộc mưu sinh bỏ quên chú bé Zezé nghịch ngợm chật vật trong thế giới tuổi thơ của mình. Trước một thế giới ảm đạm buồn chán, Zezé phải bày đủ trò quậy phá đến mức bị đòn roi. Zezé lấy trí tưởng tượng để làm vũ khí chống lại thế giới người lớn quay cuồng trong tiền bạc nhưng thiếu vắng hạnh phúc và ước mơ. Cậu đặt tên cho cây cam trong vườn là Minguinho và như hai người bạn, chúng trò chuyện với nhau, cùng nhau bước qua một tuổi thơ khốn khó nhưng không tuyệt vọng. Câu chuyện đơn giản nhuốm màu sắc tự truyện vẫn khiến cuốn sách gặt hái được thành công quốc tế, trở thành một tác phẩm mang tính giáo dục cao, dẫu tác giả không tuyên ngôn dưới bất kỳ hình thức nào. Tác phẩm được đưa vào chương trình tiểu học, chuyển thể thành phim và cách đây không lâu trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho một ngôi sao K-pop. Thời đại bất an mà nhà văn sống là thời đại của những nhà độc tài, những cuộc cách mạng, nội chiến liên miên. Cho nên tác phẩm không chỉ là hành trình hướng thiện của một đứa trẻ mà còn là cuộc chiến thu nhỏ diễn ra ở chốn tận cùng, nơi con ngư *** Tác giả: JOSÉ MAURO DE VASCONCELOS (1920-1984) là nhà văn người Brazil. Sinh ra trong một gia đình nghèo ở ngoại ô Rio de Janeiro, lớn lên ông phải làm đủ nghề để kiếm sống. Nhưng với tài kể chuyện thiên bẩm, trí nhớ phi thường, trí tưởng tượng tuyệt vời cùng vốn sống phong phú, José cảm thấy trong mình thôi thúc phải trở thành nhà văn nên đã bắt đầu sáng tác năm 22 tuổi. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết mang màu sắc tự truyện Cây cam ngọt của tôi. Cuốn sách được đưa vào chương trình tiểu học của Brazil, được bán bản quyền cho hai mươi quốc gia và chuyển thể thành phim điện ảnh. Ngoài ra, José còn rất thành công trong vai trò diễn viên điện ảnh và biên kịch. *** Chúng tôi đi xuống phố, tay trong tay, chẳng có gì phải vội. Totoca đang dạy tôi về cuộc sống. Và điều đó khiến tôi thực sự hạnh phúc, được anh trai nắm tay và dạy nhiều điều. Nhưng là dạy về những điều thuộc thế giới bên ngoài. Bởi vì ở nhà, tôi học hỏi bằng cách tự mày mò khám phá và tự làm, tôi mắc lỗi nhiều và vì mắc lỗi, tôi thường bị ăn đòn. Cho tới tận trước đây không lâu, tôi vẫn chưa bị ai đánh bao giờ. Nhưng rồi mọi người nghe được chuyện này, chuyện nọ và bắt đầu nói tôi là quỷ, là quái vật, là tiểu yêu tóc hung. Tôi không muốn biết về điều đó. Nếu không phải đang ở bên ngoài thì tôi đã bắt đầu hát. Hát thú vị lắm. Ngoài ca hát, Totoca còn biết làm điều khác nữa: anh có thể huýt sáo. Nhưng dù cố gắng đến mức nào tôi cũng chẳng thể bắt chước anh huýt sáo được, chẳng âm thanh nào bật ra cả. Để an ủi tôi, anh bảo chuyện đó cũng bình thường thôi, rằng tôi chưa có cái miệng của người huýt sáo. Nhưng vì không thể hát thành lời, tôi hát thầm ở trong lòng. Thoạt đầu điều đó thật kỳ cục, nhưng về sau tôi cảm thấy hát như thế thực sự thú vị. Và lúc này, tôi đang nhớ lại một bài hát mẹ thường hát khi tôi còn bé xíu. Mẹ đứng bên chậu giặt, mảnh khăn buộc quanh đầu để che nắng. Với chiếc tạp dề ôm quanh thắt lưng, mẹ đứng đó hết giờ này đến giờ khác, dầm tay trong nước, khiến xà phòng nổi cơ man nào là bọt. Sau đó mẹ vắt kiệt nước khỏi quần áo và đem ra dây, phơi lên, kẹp lại và kéo chiếc dây phơi lên cao. Mẹ làm thế với tất cả quần áo. Mẹ giặt thuê cho nhà bác sĩ Faulhaber để kiếm thêm chút ít giúp trang trải chi phí sinh hoạt. Mẹ cao, gầy, nhưng rất đẹp. Da mẹ rám nắng, tóc thẳng và đen. Khi mẹ không cột tóc lên, tóc mẹ xõa đến tận thắt lưng. Nhưng tuyệt nhất là khi mẹ hát, và tôi hay quanh quẩn bên mẹ học lỏm. Chàng thủy thủ ơi, chàng thủy thủ ơi Chàng thủy thủ của nỗi buồn ơi Vì chàng Ngày mai em sẽ chết... Những con sóng xô bờ Quăng mình lên bờ cát Chàng ra khơi rồi Chàng thủy thủ ơi... Tình yêu của chàng Chẳng được nổi một ngày Tàu nhổ neo rồi Tàu ra khơi... Những con sóng xô bờ... Bài hát đó luôn khiến lòng tôi dâng trào một nỗi buồn khó hiểu. Totoca giật tay tôi. Tôi bừng tỉnh. “Sao thế Zezé?” “Không sao ạ. Em đang hát thôi mà.” “Hát ư?” “Vâng.” “Vậy chắc anh điếc rồi.” Anh ấy không biết con người ta có thể hát thầm ư? Tôi im lặng. Nếu anh không biết thì tôi cũng chẳng định dạy anh đâu. Chúng tôi đã tới lề đường quốc lộ Rio-São Paulo. Trên đường quốc lộ, có đủ mọi loại xe. Xe tải, xe con, xe ngựa, xe đạp. “Này,Zezé, chuyện quan trọng đây này. Trước hết chúng ta phải quan sát thật kỹ một chiều, sau đó nhìn chiều kia. Bây giờ sang đường nào.” Chúng tôi chạy sang đường. “Em có sợ không?” Tôi sợ, nhưng tôi lắc đầu. “Chúng mình cùng làm lại nào. Sau đó anh muốn xem em đã biết cách hay chưa.” Chúng tôi chạy trở lại phía bên kia đường. “Bây giờ em sang đường đi. Đừng ngập ngừng, bởi vì em lớn rồi mà.” Tim tôi đập nhanh hơn. “Nào. Sang đi.” Tôi chạy sang đường, gần như nín thở. Tôi đợi một chút và anh ra hiệu cho tôi quay trở về chỗ anh. “Lần đầu mà làm được thế là tốt đấy. Nhưng em đã quên một điều. Em phải nhìn cả hai phía xem có xe đang chạy tới không. Không phải lúc nào anh cũng có mặt ở đây để ra hiệu cho em đâu. Chúng ta sẽ thực hành thêm trên đường về nhà nhé. Nhưng giờ thì đi thôi, vì anh muốn chỉ cho em một thứ.” Anh cầm tay tôi và chúng tôi lại bắt đầu bước đi, thong thả. Tôi không cách nào thôi nghĩ về một cuộc trò chuyện cách đây ít lâu. "Totoca." “Gì cơ?” “Anh đã cảm nhận được tuổi chín chắn chưa?” “Thứ vớ vẩn gì vậy?” “Bác Edmundo nói đấy. Bác nói em khôn trước tuổi và rằng chẳng bao lâu nữa em sẽ đến tuổi chín chắn. Nhưng em chẳng cảm thấy có gì khác cả.” “Bác Edmundo bị ngớ ngẩn đấy. Bác ấy luôn nhồi những thứ vớ vẩn vào đầu em.” “Bác ấy không ngớ ngẩn đâu. Bác ấy khôn ngoan đấy chứ. Và khi lớn lên em muốn trở nên khôn ngoan, thành nhà thơ và thắt nơ bướm. Một ngày nào đó em sẽ được chụp ảnh chân dung thắt nơ hẳn hoi.” “Tại sao lại thắt nơ?” “Bởi vì anh không thể trở thành nhà thơ nếu không thắt nơ. Khi bác Edmundo cho em xem ảnh các nhà thơ trong cuốn tạp chí đó, em thấy ai cũng thắt nơ cả.” “Zezé, em phải thôi đi, đừng tin mọi điều bác ấy nói với em nữa. Bác Edmundo hơi biêng biêng đấy. Bác ấy còn hơi xạo nữa.” “Bác ấy là đồ chó đẻ ư?” “Em đã bị tát lệch mặt vì nói bậy quá nhiều mà chưa chừa à! Bác Edmundo không như vậy. Anh nói biêng biệng cơ mà. Nghĩa là hơi hâm hâm.” “Anh bảo bác ấy là kẻ nói xạo mà.” “Đó là hai chuyện hoàn toàn khác.” “Không, có khác gì đâu. Hôm nọ cha kể về ông Labonne với bác Severino, bạn chơi bài của cha, và cha nói, “Lão chó đẻ ấy là một kẻ nói xạo trời đánh thánh vật.” Và chẳng ai tát chả lệch mặt cả.” “Người lớn nói thế thì không sao.” Chúng tôi không nói gì trong vài phút. “Bác Edmundo không... Mà biêng biêng có nghĩa là gì, anh Totoca?” Anh giơ ngón tay chỉ lên đầu, quay quay ngón tay vẽ thành những vòng tròn trong không khí. “Không, bác ấy không phải vậy. Bác ấy tốt lắm. Bác ấy dạy em nhiều điều, và chỉ đánh em có mỗi một lần, lại còn chẳng đánh mạnh nữa.” Totoca giật mình. “Bác ấy đánh em à? Khi nào?” “Khi em hư thật và bị Gloria tống đến nhà bà. Bác ấy muốn đọc báo nhưng không tìm thấy kính. Bác tìm hết chỗ cao đến chỗ thấp và nổi điên thực sự. Bác hỏi bà kính của bác ở đâu nhưng bà không biết. Hai người lục tung cả nhà lên để tìm. Thế rồi em nói em biết kính của bác ở đâu và nếu bác cho em ít tiền để mua bi thì em sẽ nói cho bác biết. Bác đi đến chỗ để áo khoác và lấy ra một ít tiền. “Mang kính ra đây thì bác đưa tiền cho mày.” “Em đến chỗ rương đựng quần áo lấy cái kính ra. Bác nói, Ra là mày, đồ ranh con!” Bác phát vào lưng em và cất béng tiền đi.” Totoca cười phá lên. “Em đến đó để khỏi bị ăn đòn ở nhà thế mà lại bị đánh ở đó. Đi nhanh chân lên một chút, nếu không chúng ta sẽ chẳng bao giờ đến nơi được đâu.” Tôi vẫn đang nghĩ về bác Edmundo. “Totoca, trẻ con nghỉ hưu phải không?” “Gì cơ?” “Bác Edmundo chẳng làm gì cả mà vẫn có tiền. Bác không làm việc, nhưng Tòa Thị chính vẫn trả tiền cho bác hằng tháng.” “Thì sao?” “À thì, trẻ con chẳng làm gì. Trẻ con ăn, ngủ và được cha mẹ cho tiền.” “Nghỉ hưu khác chứ, Zezé. Người nghỉ hưu đã làm việc trong một thời gian dài rồi, tóc đã ngả bạc, chân chậm mắt mờ như bác Edmundo rồi. Nhưng đừng nghĩ về những thứ khó nhằn ấy nữa. Nếu em muốn học nhiều điều từ bác ấy thì tốt thôi. Nhưng khi đi với anh thì không nhé. Hãy cư xử như những đứa con trai khác. Em thậm chí có thể chửi thề, nhưng đừng nhét đầy đầu những thứ khó nhằn. Nếu không anh sẽ không đi chơi với em nữa đâu.” Tôi xị mặt xuống và không muốn nói chuyện nữa. Tôi cũng chẳng muốn hát. Chú chim nhỏ ca hát bên trong tôi đã bay mất rồi. Chúng tôi dừng lại và Totoca chỉ tay về phía ngôi nhà. “Nó đấy. Thích không?” Đó là một ngôi nhà bình thường. Màu trắng với những ô cửa sổ màu xanh dương. Toàn bộ cửa nẻo đều đóng im ỉm và im ắng như tờ. “Có ạ. Nhưng tại sao chúng ta phải chuyển đến đây chứ?” “Thay đổi cũng tốt mà.” Chúng tôi đứng trông qua hàng rào, nhìn cây xoài phía bên này và cây me ở phía bên kia. “Em là đứa hay chạy lăng xăng, nhưng em không biết nhà mình đang có chuyện gì đâu. Cha thất nghiệp rồi, đúng không? Đã sáu tháng kể từ khi cha choảng nhau với ông Scottfield và bị đuổi việc. Em có biết bây giờ Lala đang làm việc ở nhà máy không? Còn mẹ thì sắp đi làm ở thành phố, trong xưởng English Mill đấy, biết không? Giờ thì em biết rồi đấy, đồ ngốc ạ. Ở cái nhà mới này, ta sẽ tiết kiệm được tiền thuê nhà... Cái nhà kia thì cha nợ tám tháng tiền thuê nhà rồi. Em còn quá nhỏ nên không phải lo lắng về những chuyện buồn như thế. Nhưng anh sẽ phải giúp thật lực, xắn tay vào hỗ trợ việc nhà.” Anh đứng im lặng một lát. “Totoca, họ sẽ mang con báo đen và hai con sư tử cái tới đây chứ?” “Dĩ nhiên. Và lão gia nhân này sẽ phải tháo dỡ cái chuồng gà.” Anh nhìn tôi bằng ánh mắt thương xót, trìu mến. “Anh chính là người sẽ dỡ vườn thú và lắp ghép nó lại ở đây.” Tôi thở phào. Bởi vì nếu không tôi sẽ phải kiếm thứ gì đó mới mẻ để chơi với em trai út Luis của tôi. “Em đã thấy anh là người bạn như thế nào của em rồi, đúng không Zezé? Này, em sẽ chẳng mất mát gì nếu nói cho anh biết em đã làm chuyện đó như thế nào...” “Totoca, em thề là em không biết. Em thực sự không biết.” “Em nói dối. Ai đó đã dạy em học.” “Em chẳng học gì cả. Chẳng ai dạy em hết. Trừ phi quỷ sứ dạy em trong giấc ngủ. Jandira nói quỷ sứ là cha đỡ đầu của em.” Totoca bối rối. Anh thậm chí còn cốc đầu tôi mấy cái, cố bắt tôi phải nói cho anh biết. Nhưng tôi không biết mình đã làm được chuyện đó như thế nào. “Chẳng ai tự học cái đó được.” Nhưng anh không biết phải nói gì bởi vì chẳng ai thực sự nhìn thấy người nào dạy tôi học gì hết. Đó là một bí ẩn. Mời các bạn đón đọc Cây Cam Ngọt Của Tôi của tác giả José Mauro de Vasconcelos & Nguyễn Bích Lan (dịch) & Tô Yến Ly (dịch).
Cách Mạng Kiến
1 + 1 = 3? Khó tin nhưng có thật!!! Lũ kiến có thể thèm muốn gì ở chúng ta? Hài hước, tình yêu và nghệ thuật. Con người có thể thèm muốn gì ở lũ kiến? Sự hòa hợp với thiên nhiên, không biết sợ hãi và trao đổi tuyệt đối. Không hề biết nhau, Julie Pinson, một nữ sinh nổi loạn, và 103, kiến thám hiểm, gắng thử làm một cuộc cách mạng trong thế giới riêng của mình để đưa xã hội tiến hóa hơn. Kiến là cuốn sách cầu nối, Ngày của Kiến là cuốn về đối đầu còn Cách mạng Kiến là cuốn sách để hiểu nhau. Nhưng vượt lên trên chủ đề kiến, đó là cuộc cách mạng của con người, cuộc cách mạng phi bạo lực, hình thành từ những ý tưởng mới mẻ mà Bernard Werber đề xuất với chúng ta. Chú ý: bạn không bắt buộc phải đọc những cuốn khác để hiểu toàn bộ câu chuyện. Và tại sao 1 + 1 = 3? Độc giả, hãy đọc cuốn sách và bạn sẽ hiểu! Hồi hộp hấp dẫn hơn cả Harry Potter, đó chính là Werber!!!!!!!!!!!!! *** Kiến đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, giành giải thưởng của độc giả tờ Sciences et Avenir, và là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bernard Werber, nhà văn Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. - “Trong Kiến, Bernard Werber đã làm được cho loài kiến những gì Richard Adams đã làm cho loài thỏ trong đồi thỏ…” – Bantam Doubleday Dell Publishing - “Đây là tiểu thuyết đầu tiên mà nhân vật chính là… kiến.” – Albin Michel - “Bernard Werber đã sáng tạo nên một thế giới loài vật gần gũi và chi tiết đến mức mỗi người đọc đều cảm thấy như mình là một phần của nó” – Kevin Grandfield. *** Bernard Werber sinh năm 1961 tại Toulouse, Pháp. Ngay từ khi mười bốn tuổi, anh đã viết truyện cho một tập san nhỏ về khoa học viễn tưởng. Sau khi học luật tại Toulouse và báo chí tại Pháp, Bernard Werber dành hơn mười năm làm nhà báo khoa học và đã từng cộng tác với rất nhiều tờ có tên tuổi như Nouvel Observateur, Le Point, Ça m'intéresse. Sau đó, anh tập trung vào viết văn. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên xuất bản năm 1992,Kiến, nhà văn này đã nổi tiếng với một phong cách viết độc đáo, pha trộn giữa loại truyện phiêu lưu, khoa học viễn tưởng và triết lý.Kiến đã giành giải thưởng của độc giả tờ Khoa học và Tương lai (Sciences et Avenir). Cuốn thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết về kiến,Le jour des fourmis (Ngày của kiến), ra đời ngay sau đó, đã được nhận giải thưởng lớn của độc giả tờ Elle. Các tác phẩm của Bernard Werber đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng. Với 15 triệu bản bán được trên toàn thế giới, cùng với Marc Levy, Bernard Werber là một trong những nhà văn Pháp đương đại nổi tiếng nhất. Ngoài tiểu thuyết, Bernard Werber còn được biết đến với truyện ngắn, truyện tranh, kịch và phim. Chú ý chỗ bạn đặt chân. Sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết quyến rũ này, bạn dám không nhìn thực tế theo cùng cách hiện giờ nữa. Mời các bạn đón đọc Cách Mạng Kiến của tác giả Bernard Werber & Thi Hoa (dịch).
Người Vợ Cô Đơn
Một người đã bước vào cuộc đời nàng, nhờ đó tất cả những gì đối với nàng đều thấy vô nghĩa; một người mà không ai trong chỗ bạn hữu có quen biết; một nhân vật rất tầm thường, rất ít ai biết, nhưng toàn thể cuộc đời của Têre chạy quanh vừng mặt trời chỉ riêng mắt nàng nhìn thấy, và riêng xác thịt nàng biết vị ấm nóng. Pari xào xạc như gió hú trong ngọn thông. Thân thể đó đè lên thân thể nàng, dù nhẹ đến đâu cũng làm cho nàng ngừng thở. *** Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Landes, một vùng dân cư thưa thớt ở tây nam nước Pháp, được bao phủ rộng bởi những cánh rừng thông. Khi thiên tiểu thuyết bắt đầu, một vụ kiện đang bị bác bỏ. Người tường thuật, Thérèse có địa vị, bị xét xử tội đầu độc chồng mình Bernard bằng cách cho ông uống Fowler’s Solution quá liều, một thứ thuốc chứa thạch tín. Tuy có những bằng chứng vững vàng chống lại mình, bao gồm cả những toa thuốc cô giả mạo, vụ kiện bị ngừng lại; gia đình kết thúc các địa vị xã hội để tránh tai tiếng và bản thân Bernard cũng làm chứng cho lời biện hộ của cô. Trên đường từ tòa án về nhà, Thérèse nhìn lại cuộc sống của mình, cố gắng hiểu được điều gì đã khiến cô tiếp tục đầu độc chồng mình sau khi cô quan sát ông tình cờ uống thuốc quá liều. Cô giả thuyết rằng những hành động của cô là một phần của một “con dốc không thể nhìn thấy”, tạo nên từ những áp lực khi làm mẹ và hôn nhân và cuộc sống ngột ngạt khi làm vợ một địa chủ đạo Thiên Chúa những năm 1920 của nước Pháp thôn dã. Tuy vậy, Thérèse và cả người tường thuật không cung cấp một lời giải thích rõ ràng cho hành vi của cô. Thérèse cho rằng cô có thể âm thầm rời bỏ chồng bây giờ khi vụ kiện đã kết thúc. Thay vào đó, Bernard thông báo rằng cô sẽ sống tại nhà của gia đình ông, Argeluose, một vị trí biệt lập trong rừng thông. Ông thực sự giam cầm cô ở đó, lấy lý do rằng cô đang mắc phải bệnh thần kinh, và thường xuyên xuất hiện trước công chúng với cô để dập tắt mọi lời xầm xì. Mối quan tâm của ông là cuộc hôn nhân sắp tới của em gái ông Anne với một chàng rể được duyệt bởi gia đình, không bị ngăn cản bởi vụ tai tiếng nào hết. Ông chỉ cho phép Thérèse bầu bạn với những người hầu dễ ghét, tách cô khỏi con gái mình, và đe dọa tống cô vào ngục vì tội đầu độc nếu không hợp tác. Thérèse sống chủ yếu nhờ rượu và thuốc lá, rơi vào trạng thái ngẩn ngơ thụ động và mất ngủ. Khi cô được yêu cầu tham dự một bữa dạ yến tổ chức cho Anne, chồng chưa cưới và gia đình anh, cô đã tham dự, nhưng vẻ ngoài hốc hác khiến cho các vị khách bị sốc. Bernard quyết định, không phải bàn cãi nữa, rằng vụ bê bối sẽ không bao giờ hoàn toàn được quên lãng trừ khi Thérèse được phép biến mất. Ông hứa cô có thể rời đi sau đám cưới của Anne, và chuyển cô về Argelous để theo dõi sự hồi phục của cô. Đám cưới trôi qua, ông đưa Thérèse tớiParisvà chào tạm biệt. Không có sự ly thân và li dị chính thức, và ông sẽ chu cấp cho cô để tiếp tục sống. Cô được tự do. Thùy Andịch *** Mauriac không đòi cái tuyệt đối; ông biết rằng cái tuyệt đối không tồn tại với đức hạnh trong trạng thái thuần khiết... FRANÇOIS MAURIAC(11/10/1885 - 01/9/1970) Giải Nobel Văn học 1952 * Nhà văn, nhà thơ Pháp * Nơi sinh:Bordeaux(Pháp) * Nơi mất: Paris (Pháp) François Mauriacđược trao giải Nobel vì những tác phẩm phản ánh bi-hài kịch đời người với một tinh thần thấu suốt và nghệ thuật thuyết phục. Chủ đề chính trong sáng tác của ông là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa Xác thịt và Linh hồn của “những con người sa ngã” và “nỗi cơ cực của con người không có Thượng đế”. François Mauriacsinh trong một gia đình buôn rượu vang giàu có theo Công giáo, mồ côi bố khi chưa đầy hai tuổi, đến sống ở trang trại ông bà ngoại; bảy tuổi đi học, suốt đời mang ấn tượng về phong cảnh miền quê. Tốt nghiệp trung học,F. Mauriacvào học khoa văn chương tại Đại họcBordeaux, sau chuyển đếnParis, làm báo và sớm trở thành nhà văn độc lập. Năm 1909, theo lời khuyến khích của tòa soạn báo Thời đại chúng ta,F. Mauriacxuất bản tập thơ đầu tiênNhững bàn tay gắn kết; nhưng phải đến năm 1922 ông mới nổi tiếng là nhà viết tiểu thuyết có tài với cuốnNụ hôn cho người hủi. Trong Thế chiến I, tuy không phải nhập ngũ vì lí do sức khỏe,F. Mauriacvẫn tình nguyện tham gia tổ chức Hồng thập tự, phục vụ trong quân y viện hai năm ở Balkans, năm 1918 mới giải ngũ. Trong những năm 1920 ông viết hàng loạt tiểu thuyết, trong đó có cuốnSa mạc tình yêuđược tặng giải thưởng cao nhất của Viện Hàn lâm Pháp. Thérèse Desqueyroux(1927) cũng là tác phẩm thành công, được giới phê bình coi là tiểu thuyết Pháp hay nhất đầu thế kỉ XX. Ổ rắn độc (1932) kể về một bi kịch gia đình với nghệ thuật phân tích tâm lí sâu sắc được coi là đỉnh điểm trong sáng tác củaF. Mauriac. Năm 1933, nhà văn được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp. Trong Thế chiến II,F. Mauriactham gia chống phát xít Đức chiếm đóng Pháp, ủng hộ De Gaulle. Tiểu thuyếtCuốn sổ đenđược trao tặng huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh. Sau năm 1945F. Mauriaclàm đại diện Pháp trong tổ chức Liên Hiệp quốc (UNESCO). Lần đầu tiên ông được đề cử tặng giải Nobel vào năm 1946, nhưng phải 6 năm sau mới được trao giải. Từ đó đến cuối đờiF. Mauriacxuất bản thêm 2 cuốn tiểu thuyết, hàng loạt hồi kí (chủ yếu về De Gaulle) và làm báo (giữ những chuyên mục rất nổi tiếng thời bấy giờ). Nhà văn mất năm 85 tuổi, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết cuối cùng. Có thời kìF. Mauriacđược đánh giá là nhà văn Pháp lớn thứ hai trong thế kỉ XX (sau M. Proust), nhưng dần dần uy tín của ông bị giảm sút, theo các nhà phê bình thì chủ yếu là do đề tài và văn phong của ông hơi đơn điệu. *Tác phẩm: Những bàn tay gắn kết (Les mains jointes, 1909), thơ. Đứa con dưới gánh nặng xích xiềng (L’enfant chargé de chaines, 1911), tiểu thuyết. Thịt và máu (La chair et le sang, 1920), tiểu thuyết. Nụ hôn cho người hủi (Le baiser aux lepreux, 1922), tiểu thuyết. Sông lửa (Le fleuve de feu, 1923), tiểu thuyết. Bà cụ tổ (Genitrix, 1923), tiểu thuyết. Giông tố (Orages, 1925), thơ. Sa mạc tình yêu (Le désert de l’amour, 1925), tiểu thuyết. Điều đã mất (Ce qui était perdu, 1926), kí. Thérèse Desqueyroux (Thérèse Desqueyroux, 1927), tiểu thuyết. Những đau khổ của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances du Chrétien, 1928), tiểu luận. Chúa và Mammon (Dieu et Mammon, 1929), tiểu luận. Đau khổ và niềm vui của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances et bonheur du chrétien, 1931), [Anguish and Joy of the Christian Life], tiểu luận. Ổ rắn độc (Le noeud de vipère, 1932), tiểu thuyết. Bí ẩn nhà Frontenac (Le Mystère Frontenac, 1933), tiểu thuyết [The Frontenac mystery]. Đêm tàn (La fin de la nuit, 1935), tiểu thuyết. Các thiên thần đen (Anges noirs, 1936), truyện. Đời Jésus (La vie de Jésus, 1936), tiểu luận. Lặn dưới nước (Plongées, 1938), tập truyện. Asmodée (Asmodée, 1938), kịch. Những con đường của biển (Les chemins de la mer, 1939), truyện. Máu Atys (Sang d’Atys, 1940), thơ. Người đàn bà đạo đức giả (La pharisienne, 1941), kịch. Cuốn sổ đen (Le cahier noir, 1943), tiểu thuyết. Nhật kí (Journal, 1934-1950), hồi kí. Con cừu non (L’Agneau, 1954), tiểu thuyết. Hồi kí nội tâm (Mémoires intérieurs, 1959), luận văn. Điều tôi tin (Ce que je crois, 1962), hồi kí. Nghiên cứu về Charles de Gaulle (1964). Một đứa trẻ ngày nào (Un adolessent d’autrefois, 1969), tiểu thuyết. Ba câu chuyện (Trois récits), tập truyện ngắn. *Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Cuộc tình buồn, Nguyễn Bích Như - Thu Uyên dịch, NXB Tổng hợp Bình Định, 1990/Người vợ cô đơn, Mặc Đỗ dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1997. Bí ẩn nhà Frontenac, Dương Linh dịch, NXB Thế Giới, 1999. Mời các bạn đón đọc Người Vợ Cô Đơn của tác giả François Mauriac & Mặc Đỗ (dịch).
Cuộc Tình Buồn
Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Landes, một vùng dân cư thưa thớt ở tây nam nước Pháp, được bao phủ rộng bởi những cánh rừng thông. Khi thiên tiểu thuyết bắt đầu, một vụ kiện đang bị bác bỏ. Người tường thuật, Thérèse có địa vị, bị xét xử tội đầu độc chồng mình Bernard bằng cách cho ông uống Fowler’s Solution quá liều, một thứ thuốc chứa thạch tín. Tuy có những bằng chứng vững vàng chống lại mình, bao gồm cả những toa thuốc cô giả mạo, vụ kiện bị ngừng lại; gia đình kết thúc các địa vị xã hội để tránh tai tiếng và bản thân Bernard cũng làm chứng cho lời biện hộ của cô. Trên đường từ tòa án về nhà, Thérèse nhìn lại cuộc sống của mình, cố gắng hiểu được điều gì đã khiến cô tiếp tục đầu độc chồng mình sau khi cô quan sát ông tình cờ uống thuốc quá liều. Cô giả thuyết rằng những hành động của cô là một phần của một “con dốc không thể nhìn thấy”, tạo nên từ những áp lực khi làm mẹ và hôn nhân và cuộc sống ngột ngạt khi làm vợ một địa chủ đạo Thiên Chúa những năm 1920 của nước Pháp thôn dã. Tuy vậy, Thérèse và cả người tường thuật không cung cấp một lời giải thích rõ ràng cho hành vi của cô. Thérèse cho rằng cô có thể âm thầm rời bỏ chồng bây giờ khi vụ kiện đã kết thúc. Thay vào đó, Bernard thông báo rằng cô sẽ sống tại nhà của gia đình ông, Argeluose, một vị trí biệt lập trong rừng thông. Ông thực sự giam cầm cô ở đó, lấy lý do rằng cô đang mắc phải bệnh thần kinh, và thường xuyên xuất hiện trước công chúng với cô để dập tắt mọi lời xầm xì. Mối quan tâm của ông là cuộc hôn nhân sắp tới của em gái ông Anne với một chàng rể được duyệt bởi gia đình, không bị ngăn cản bởi vụ tai tiếng nào hết. Ông chỉ cho phép Thérèse bầu bạn với những người hầu dễ ghét, tách cô khỏi con gái mình, và đe dọa tống cô vào ngục vì tội đầu độc nếu không hợp tác. Thérèse sống chủ yếu nhờ rượu và thuốc lá, rơi vào trạng thái ngẩn ngơ thụ động và mất ngủ. Khi cô được yêu cầu tham dự một bữa dạ yến tổ chức cho Anne, chồng chưa cưới và gia đình anh, cô đã tham dự, nhưng vẻ ngoài hốc hác khiến cho các vị khách bị sốc. Bernard quyết định, không phải bàn cãi nữa, rằng vụ bê bối sẽ không bao giờ hoàn toàn được quên lãng trừ khi Thérèse được phép biến mất. Ông hứa cô có thể rời đi sau đám cưới của Anne, và chuyển cô về Argelous để theo dõi sự hồi phục của cô. Đám cưới trôi qua, ông đưa Thérèse tớiParisvà chào tạm biệt. Không có sự ly thân và li dị chính thức, và ông sẽ chu cấp cho cô để tiếp tục sống. Cô được tự do. Thùy Andịch *** Mauriac không đòi cái tuyệt đối; ông biết rằng cái tuyệt đối không tồn tại với đức hạnh trong trạng thái thuần khiết... FRANÇOIS MAURIAC(11/10/1885 - 01/9/1970) Giải Nobel Văn học 1952 * Nhà văn, nhà thơ Pháp * Nơi sinh:Bordeaux(Pháp) * Nơi mất: Paris (Pháp) François Mauriacđược trao giải Nobel vì những tác phẩm phản ánh bi-hài kịch đời người với một tinh thần thấu suốt và nghệ thuật thuyết phục. Chủ đề chính trong sáng tác của ông là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa Xác thịt và Linh hồn của “những con người sa ngã” và “nỗi cơ cực của con người không có Thượng đế”. François Mauriacsinh trong một gia đình buôn rượu vang giàu có theo Công giáo, mồ côi bố khi chưa đầy hai tuổi, đến sống ở trang trại ông bà ngoại; bảy tuổi đi học, suốt đời mang ấn tượng về phong cảnh miền quê. Tốt nghiệp trung học,F. Mauriacvào học khoa văn chương tại Đại họcBordeaux, sau chuyển đếnParis, làm báo và sớm trở thành nhà văn độc lập. Năm 1909, theo lời khuyến khích của tòa soạn báo Thời đại chúng ta,F. Mauriacxuất bản tập thơ đầu tiênNhững bàn tay gắn kết; nhưng phải đến năm 1922 ông mới nổi tiếng là nhà viết tiểu thuyết có tài với cuốnNụ hôn cho người hủi. Trong Thế chiến I, tuy không phải nhập ngũ vì lí do sức khỏe,F. Mauriacvẫn tình nguyện tham gia tổ chức Hồng thập tự, phục vụ trong quân y viện hai năm ở Balkans, năm 1918 mới giải ngũ. Trong những năm 1920 ông viết hàng loạt tiểu thuyết, trong đó có cuốnSa mạc tình yêuđược tặng giải thưởng cao nhất của Viện Hàn lâm Pháp. Thérèse Desqueyroux(1927) cũng là tác phẩm thành công, được giới phê bình coi là tiểu thuyết Pháp hay nhất đầu thế kỉ XX. Ổ rắn độc (1932) kể về một bi kịch gia đình với nghệ thuật phân tích tâm lí sâu sắc được coi là đỉnh điểm trong sáng tác củaF. Mauriac. Năm 1933, nhà văn được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp. Trong Thế chiến II,F. Mauriactham gia chống phát xít Đức chiếm đóng Pháp, ủng hộ De Gaulle. Tiểu thuyếtCuốn sổ đenđược trao tặng huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh. Sau năm 1945F. Mauriaclàm đại diện Pháp trong tổ chức Liên Hiệp quốc (UNESCO). Lần đầu tiên ông được đề cử tặng giải Nobel vào năm 1946, nhưng phải 6 năm sau mới được trao giải. Từ đó đến cuối đờiF. Mauriacxuất bản thêm 2 cuốn tiểu thuyết, hàng loạt hồi kí (chủ yếu về De Gaulle) và làm báo (giữ những chuyên mục rất nổi tiếng thời bấy giờ). Nhà văn mất năm 85 tuổi, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết cuối cùng. Có thời kìF. Mauriacđược đánh giá là nhà văn Pháp lớn thứ hai trong thế kỉ XX (sau M. Proust), nhưng dần dần uy tín của ông bị giảm sút, theo các nhà phê bình thì chủ yếu là do đề tài và văn phong của ông hơi đơn điệu. *Tác phẩm: Những bàn tay gắn kết (Les mains jointes, 1909), thơ. Đứa con dưới gánh nặng xích xiềng (L’enfant chargé de chaines, 1911), tiểu thuyết. Thịt và máu (La chair et le sang, 1920), tiểu thuyết. Nụ hôn cho người hủi (Le baiser aux lepreux, 1922), tiểu thuyết. Sông lửa (Le fleuve de feu, 1923), tiểu thuyết. Bà cụ tổ (Genitrix, 1923), tiểu thuyết. Giông tố (Orages, 1925), thơ. Sa mạc tình yêu (Le désert de l’amour, 1925), tiểu thuyết. Điều đã mất (Ce qui était perdu, 1926), kí. Thérèse Desqueyroux (Thérèse Desqueyroux, 1927), tiểu thuyết. Những đau khổ của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances du Chrétien, 1928), tiểu luận. Chúa và Mammon (Dieu et Mammon, 1929), tiểu luận. Đau khổ và niềm vui của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances et bonheur du chrétien, 1931), [Anguish and Joy of the Christian Life], tiểu luận. Ổ rắn độc (Le noeud de vipère, 1932), tiểu thuyết. Bí ẩn nhà Frontenac (Le Mystère Frontenac, 1933), tiểu thuyết [The Frontenac mystery]. Đêm tàn (La fin de la nuit, 1935), tiểu thuyết. Các thiên thần đen (Anges noirs, 1936), truyện. Đời Jésus (La vie de Jésus, 1936), tiểu luận. Lặn dưới nước (Plongées, 1938), tập truyện. Asmodée (Asmodée, 1938), kịch. Những con đường của biển (Les chemins de la mer, 1939), truyện. Máu Atys (Sang d’Atys, 1940), thơ. Người đàn bà đạo đức giả (La pharisienne, 1941), kịch. Cuốn sổ đen (Le cahier noir, 1943), tiểu thuyết. Nhật kí (Journal, 1934-1950), hồi kí. Con cừu non (L’Agneau, 1954), tiểu thuyết. Hồi kí nội tâm (Mémoires intérieurs, 1959), luận văn. Điều tôi tin (Ce que je crois, 1962), hồi kí. Nghiên cứu về Charles de Gaulle (1964). Một đứa trẻ ngày nào (Un adolessent d’autrefois, 1969), tiểu thuyết. Ba câu chuyện (Trois récits), tập truyện ngắn. *Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Cuộc tình buồn, Nguyễn Bích Như - Thu Uyên dịch, NXB Tổng hợp Bình Định, 1990/Người vợ cô đơn, Mặc Đỗ dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1997. Bí ẩn nhà Frontenac, Dương Linh dịch, NXB Thế Giới, 1999. *** Yêu nhau, cả hai cũng nhìn về một hướng. Trong tình yêu chân chính không thể có sự áp đặt bởi một mãnh lực nào, càng không thể đòi hỏi trong tình yêu phải có sự trả giá bằng sự hẹp hòi, ích kỷ, quyền lợi và danh vọng... Thế nhưng, quan niệm “môn đăng hộ đối” của xã hội phong kiến đã khiến cho tình yêu chân chính bị lệch ngả, sai đường. Thérèse, một cô gái sống trong một tỉnh lẻ, có phẩm hạnh và có học thức, đã chấp nhận thành hôn với chàng trai láng giềng không phải vì tình yêu, mà vì sự gán ghép của họ hàng làng xóm theo quan niệm “môn đăng hộ đối” vô cũng nghiệt ngã, và cũng vì cha cô, một người đàn ông góa vợ muốn khỏi vướng bận vì có con gái. Bản thân cô muốn cơ nghiệp bền vững và gia tăng gấp bội... Và cũng do chính mình biếng lười đấu tranh, chấp nhận số phận như một an bài cho cuộc đời xuôi chèo mát mái, Thérèse đã phải sai lầm. Ngay sau ngày cưới, Thérèse thất vọng vì cảnh sống khuôn phép, gò bó nơi gia đình chồng, và nàng đã phải chịu đựng những tháng ngày tẻ nhạt và vô vị bên người mình không yêu. Trớ trên thay, Thérèse lại được cha mẹ chồng tin cẩn, giao cho nhiệm vụ lôi kéo cô em chồng “về với lẽ phải”, nghĩa là “phải chấp nhận sự xếp đặt hôn nhân do chính gia đình lựa chọn”! Cô em chồng buộc phải từ bỏ người mà có ấy yêu say mê tha thiết, Jean Azévédo, để lấy con trai nhà Deguzlhem. Cô gái thề bảo vệ tình yêu cho đến chết, và cô tuyên bố nhận chịu sự phán xử của chị dâu mình. Thérèse bị đặt trước tình huống nan giải: lẽ nào bắt cô em chồng đáng thương kia phải đi theo con đường buồn chán khổ đau như hiện thân của mình trong gia đình chồng hiện tại. Chính hàng đang khao khát có được mối tình say mê nồng nhiệt như cô em chồng mà không sao có được! Cuối cùng, bởi nhiệm vụ nặng nề thúc bách, Thérèse buộc phải tìm đến gặp chàng trai đề mong thuyết phục anh ta buông thả, trả em mình về với gia đình. Ðiều bất ngờ đến thảng thốt, nàng đã khám phá ra rằng, chàng trai nọ không hề có tình yêu chân chính với em mình, và... hạnh phúc là điều không có thật! Thérèse hoàn toàn thất vọng và nàng muốn thoát khỏi kiếp sống vô vị, ảo vọng đã ràng buộc nàng bởi quan niệm gia đình không tạo bằng tình yêu chân chính. Không biết vô tình hay cố ý, Thérèse đã cho chồng uống thuốc quá liều, nhưng may thay chồng nàng thoát chết. “Vụ đầu độc” rốt cuộc được chính gia đình bên chồng dàn xếp ổn thỏa, và ngay cả cha nàng cũng đã làm như vậy. Tất cả chỉ vì muốn bảo vệ danh dự gia đình bên chồng, cũng như để khỏi ảnh hưởng đến việc thăng quan tiến chức của cha nàng đối với xã hội... Nói chung, Thérèse cũng như những người trẻ tuổi của xã hội phong kiến, bởi ràng buộc quan niệm gia đình khắt khe, vụ lợi... đã không thể sống cho chính mình bằng một tình yêu chân chính. Phải chăng, bản thân con người thiếu sự đấu tranh, dễ dàng chấp nhận sự an bài số phận, để phải trả giá đắng cay cho chính mình, và có nên cho đó là “cuộc tình buồn”? Trong tác phẩm THÉRÈSE DESQUEYROUX, Françoise Mauriac sẽ trả lời cho chúng ta câu hỏi đó. 4-1990  NHỮNG NGƯỜI DỊCH Mời các bạn đón đọc Cuộc Tình Buồn của tác giả François Mauriac & Nguyễn Bích Như (dịch) & Thu Uyên (dịch).