Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đời Du Nữ

Saikaku Và Thế Gian Đa Tình "Con người là những hiện thân ma quái”, đó là nhận xét của Ihara Saikaku, văn hào Nhật Bản thế kỷ XVII. Đó không phải là một lời phê phán về đức lý mà chỉ miêu tả tài tình bản tính của con người bằng một mệnh đề ngắn gọn. Những hiện thân ma quái, ôi con người, đó là hữu thể khó nắm bắt nhất, khó định tính nhất. Đó là một sinh vật đa chiều. Nhận xét của Saikaku tình cờ phù hợp và như thể là cộng hưởng với lời thơ Hy Lạp trong khúc hợp xướng thứ nhất từ vở bi kịch Antigone của Sophocles: “Nhưng không gì vượt qua nổi con người Trong sự kỳ lạ của nó!” Chính bản thân Saikaku cũng là một hiện tượng lạ trong văn học Nhật, người có thể được so sánh với Rabelais của văn học Pháp về một tiếng cười chói lọi mà cả hai đã ném vào đời sống. CHÂN DUNG CỦA “VẦNG TRĂNG PHÙ THẾ” Ihara Saikaku (1641 – 1693) là người cùng thế hệ với thi hào Basho dù hai người ít có điểm chung nào về tâm hồn lẫn cuộc sống. Tuy nhiên, trong 26 năm sáng tác đầu tiên (Saikaku bắt đầu viết văn vào tuổi 14) ông chuyên tâm làm thơ, nhất là thơ haiku. Ông có tài làm thơ nhanh đến mức nổi danh là “Nimano” (Nhị Vạn Ông). Vì trong một cuộc thi thơ, Saikaku đã đọc hầu như liên tục hơn hai vạn bài haiku, chính xác là 23.500 bài, trong khoảng thời gian một ngày (đúng 24 giờ đồng hồ) vào năm 1684 trước ngôi đền Sumiyoshi ở Osaka. Đó là một kỷ lục thơ ca không thấy ai tìm cách vượt qua. Khả năng sáng tác thần tốc ấy không mấy thích hợp cho thơ trữ tình – hàng vạn bài haiku (hay haikai theo cách gọi thời đó) mà ông làm rồi ra sẽ không còn vương lại trong trí nhớ ai. Tuy vậy vào năm 1672 Saikaku cũng đã là nhân vật trung tâm của một nhóm nhà thơ tiên phong đi theo phái Danrin. Và tác phẩm đầu tiên của Saikaku được ấn hành nằm trong tập thơ haiku của nhóm này xuất hiện vào năm 1673. Cho dù sau này nổi tiếng là một tiểu thuyết gia lỗi lạc, Saikaku cũng dành cho thơ không ít thời gian. Tính đến cuối đời, ông xuất bản chừng khoảng 12 tập thơ và tác phẩm phê bình thơ. Nuôi ba đứa con, trong đó có một đứa con gái mù. Ông không tục huyền bao giờ và năm 1677, làm lễ thí phát, một cử chỉ khá thông thường của các nghệ sĩ thời đó khi muốn dành cuộc đời mình cho sáng tạo nghệ thuật hoặc đi tu. Năm năm sau, vào tuổi 40, ông đạt được thành công lớn khi quay ngòi bút sang văn xuôi với cuốn tiểu thuyết Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko). Cuốn sách ấy mở đầu cho hàng loạt tác phẩm “Phù thế thảo tử” (Ukiyo zoshi) của ông, ảnh hưởng đến cả thời đại. Và Saikaku trở thành tiểu thuyết gia hàng đầu, linh hồn của thời Phục hưng Nhật Bản. Saikaku tuy không phải là người sáng tạo ra văn chương phù thế, tức “Phù thế thảo tử” nhưng ông đã đem lại cho nó một màu sắc huy hoàng, tựa như tranh khắc gỗ, vẽ lại cuộc sống đa tình của thế gian, kể cả những hiện thân ma quái của nó. Phù thế, ấy là Ukiyo, là cõi người ta. Uki là “ưu” (ưu sầu) nhưng cũng là “phù” (trôi nổi). Cuộc đời hẳn nhiên là phù ảo nhưng cuộc đời cũng là phiêu lãng. Phiêu lãng là sống. Là đi. Là yêu. Là ôm ấp trần gian. Là mộng. Là bay đi theo hương. Là phong ba. Là cát bụi. Là không chết trong khi sống. Là cười cho cả tiếng. Là khóc cho khô lệ. Là một hiện thân tràn đầy của từng khoảnh khắc. Văn chương phù thế, mà Saikaku là người dẫn đầu, là văn chương của những ngọn sóng náo nức, mãnh liệt, lúy túy, nén mình về phía trước mà quay lưng lại với những thần linh xưa cũ. Sống là sóng, là nổi sóng, là thay đổi, là trôi, là dâng tràn. Và con người đô thị, những thị dân Edo chợt khám phá ra tiếng nói của chính mình nơi Saikaku. Khác với võ sĩ đạo, các thị dân ấy đã có con đường của riêng mình gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo). Các nhân vật của Saikaku, cả nam lẫn nữ, đều phiêu lãng trên con đường ấy, cuồng nhiệt và liều lĩnh, ngây thơ và sành sõi, đa tình và tuyệt vọng, thường vấp phải sai lầm nhưng tất cả đều không sợ sống. Sau đó ít năm, Saikaku thử bút trong lãnh vực sân khấu, viết kịch bản cho múa rối (Joruri). Cũng như trong thơ, ông không đọ nổi với Basho thì trong sân khấu, ông chẳng bì được với Chikamatsu. Vở kịch ông soạn vào năm 1685 chỉ là một thất bại. Ngoài ra ông cũng viết một số bài phê bình về kịch nghệ Kabuki. Và với năng lực tài hoa của mình, Saikaku còn đi vào hội họa, vẽ minh họa cho một số tập thơ và tiểu thuyết của chính ông. Các minh họa phù thế thảo tử của ông được yêu thích và nhiều nhà phê bình đánh giá khá cao. Chưa hết, Saikaku còn là một nhà thư pháp có tiếng. Do thành công của cuốn truyện đầu tay, Saikaku tiếp tục viết tiểu thuyết. Từ đó, đến cuối đời, cứ trung bình mỗi năm ông cho ra hai tác phẩm. Đặc biệt, vào năm 1688 sức sáng tạo của ông lên đến tuyệt đỉnh, hoàn thành tất cả 5 tác phẩm dài. Như vậy, viết tiểu thuyết trong khoảng 10 năm cuối đời, ông đã có không dưới 25 bộ sách. Saikaku mất vào tuổi 51. Trước đó ông soạn bài haiku từ biệt thế gian: “Vầng trăng phù thế Hai năm dài tôi đã Dõi đôi mắt nhìn theo.” Di cốt tro tàn của Ihara Saikaku được chôn cất trong chùa Seigan ở Osaka. Saikaku theo sự mô tả của thời ấy có một mái đầu thanh tú và lãng mạn, một dáng dấp trẻ trung. Chân dung ông do nhà thơ Haga Issho đương thời vẽ cho thấy một con người có vóc dáng nhỏ bé đầu cạo trọc, ngồi trầm tư trên sàn với tấm áo choàng truyền thống, đôi tai mở lớn như đang chăm chú nghe, đôi mắt đang nhìn chăm chú một điều gì đó, đôi bàn tay đặt lên nhau trên đầu gối thì rất nhỏ nhưng gân guốc. Toàn thể chân dung ấy toát lên một tính cách mãnh liệt, tràn trề sinh lực, một cái nhìn sắc sảo tinh anh, một hài hước sành đời và một lòng bao dung đầy hiểu biết. Đó là chân dung của một vầng trăng trầm lặng nhưng nồng nàn. Sự trộn lẫn giữa bóng tối và ánh sáng. CHỦ ĐỀ ĐA TÌNH Tiểu thuyết của Saikaku có thể chia làm hai đề tài lớn: Sắc dục và tiền tài. Trước hết là các tác phẩm về sắc tình, gọi là Koshokubon (Hiếu sắc bản). Thứ hai là các tác phẩm về đời sống thực tiễn hàng ngày của thị dân gọi là Choninmono (Đinh nhân vật) hầu như lúc nào cũng liên quan đến tiền tài. Tiểu thuyết những năm đầu thường tập trung vào đề tài sắc dục. Càng về sau Saikaku càng chú ý đến đời sống kinh tế của thị dân. Đa tình, hay “hiếu sắc”, là chủ đề đặc biệt đã làm nên danh tiếng của Saikaku và cũng là yếu tố từng làm cho người ta loại trừ ông trong một thời gian dài. Những tác phẩm hiếu sắc – gọi như thế vì chữ Koshoku (hiếu sắc) được Saikaku đưa vào nhan đề nhiều tiểu thuyết ban đầu của ông: ▪ Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko: Hiếu sắc nhất đại nam, 1682) ▪ Người đàn bà đa tình/ Đời du nữ (Koshoku ichidai onna: Hiếu sắc nhất đại nữ, 1686) ▪ Năm người đàn bà đa tình (Koshoku gonin onna: Hiếu sắc ngũ nhân nữ, 1686) Và ngay cả những tác phẩm mà nhan đề không có chữ “Koshoku” thì trong thời kì đầu ấy vẫn xoay quanh đề tài sắc tình. “Koshoku” ám chỉ tình yêu lẫn sắc dục trong mọi phương diện của nó, có khi bao gồm cả những mối quan hệ yêu đương đồng tính – Các nhân vật ấy thường đa tình đến cực điểm, cả nam lẫn nữ. Hiếu sắc có thể là lần lượt có nhiều người tình khác nhau trong cuộc đời. Nhưng hiếu sắc cũng có thể là chung tình đến cực điểm, có thể cùng nhau chết (tự sát đôi) để bảo vệ tình yêu. Hiếu sắc có thể là nỗi đam mê với trần gian muôn màu, niềm vui sống (Joie de vivre) lúy túy trào dâng. Thế gian xuất hiện trước mắt Saikaku là một thế gian đa tình. Hay trong ông là cả thế gian ấy, là cả người đàn ông, là cả người đàn bà. Con người trở thành nhan sắc của chính cuộc đời chứ không phải chỉ có vẻ đẹp của hoa đào, hoa mơ, hay trăng, nước. Ngắm hoa ư? Được. Ngắm trăng ư? Được. Nhưng con người, đó chính là hoa, là trăng của thời đại mới. Ngắm đi. Nâng niu đi. Ôm ấp đi. Phố xá bỗng nhiên trở thành những bài thơ mới và con người trở thành những bức tranh mới. Một truyện ngắn của Saikaku bắt đầu như thế này: “Tôi chán những đám mây hoa đào đến độ xa lánh kinh đô suốt cả mùa xuân”. Xưa nay, với người Nhật chẳng có gì đẹp bằng hoa anh đào. Thế mà ở đây, chẳng những nó mất hết vẻ quyến rũ mà còn gây buồn phiền khó chịu. Không phải Saikaku tấn công vào hoa đào và thiên nhiên. Nhưng ông thấy rõ thời đại của “hoa” đang nhường lại ngôi vị ưu tiên cho thời đại của “người” với tất cả cái đẹp và cái xấu của nó. Sau chiến tranh, con người đang tận hưởng tự do và những lạc thú mới. Họ trở nên phóng đãng, lao vào sắc dục như những con thiêu thân. Và cái gì quá độ mà chẳng có nguy cơ lố bịch. Saikaku thấy rõ thời đại mới đã đánh mất các cảm thức tinh tế của ngày xưa, thấy rõ sự dung tục đang lan tràn trong lối sống thị dân. “Người ta đến rừng mơ ở Kitano hay viếng hoa tử đằng ở Otani nhưng không phải để ngắm hoa mà để vò xé nó. Người ta nhìn làn khói hùng vĩ tuôn trào từ đỉnh Toribe để chỉ thấy nó không khác nào khói ống điếu!” Trích đoạn trên nằm trong Người đàn ông đa tình. Đó là câu chuyện về cuộc đời phóng đãng của một chàng trai tên là Yonosuke, có nghĩa là “con người của thế gian”. Đứa con trần thế ấy có mặt trong tất cả các chương sách với những phiêu lưu tình ái. Nó theo đúng số chương sách của Truyện Genji do nữ sĩ Murasaki viết từ đầu thế kỷ XI dù nó là một cuốn tiểu thuyết ngắn chứ không phải một tác phẩm trường thiên như kiệt tác cổ điển kia. Và khác với Truyện Genji, nó thuộc vào một thời đại mà người ta bộc lộ nhục cảm một cách táo bạo. Nhục cảm koshoku đã thay thế cho niềm bi cảm aware thời cổ điển. Đúng ra, cái gọi là tình ái ở đây chỉ là những cuộc ăn chơi phóng đãng qua các thành phố Edo, Osaka, Kyoto… và cái đó gọi là “tự do”: “Hơn bất kỳ điều gì khác trên đời, Yonoseko yêu tự do”. Như thế, Yonoseko là một mẫu người dục tính, khác với Hoàng tử Genji là con người lãng mạn. Con người lãng mạn đi tìm cái đẹp, cứu vớt cái đẹp và sáng tạo cái đẹp. Cỏ hoa, bóng trăng, nhan sắc và tâm hồn được tái tạo và huyễn hóa. Con người dục tính thuộc về thế gian này, khoảnh khắc này, nhục thể này. Nó tìm kiếm hoan lạc khắp nơi. Nó lấy thực làm mộng, nó không vỡ mộng nhưng lại làm vỡ thực tại với dục vọng của mình. Và khi con người dục tính làm “tiên tri” thì nó chỉ có thể là tiên tri giả. Yonoseko từng đóng vai một nhà tiên tri thần đạo mà hát to trên đường rằng “ngọn gió thiêng sẽ thổi và tàn sát tất cả các cô gái nào ở tuổi mười bảy đôi mươi mà vẫn còn trinh trắng”! Vậy mà Người đàn ông đa tình vẫn còn chút ít màu sắc lãng mạn nếu đem so sánh với tiểu thuyết viết sau đó bốn năm là Người đàn bà đa tình, tức Đời du nữ. Nhân vật trung tâm lần này là một du nữ và đây là câu chuyện của thân xác nàng. Đó là một thân xác liên kết mọi biến cố trong đời nàng và vì vậy trở nên một thân xác “có tính cách”. Nàng là nhân vật tiểu thuyết được tạo dựng sinh động nhất của Saikaku, một chân dung mang nhiều màu sắc hiện thực tâm lý nhất của văn học Nhật Bản đương thời. Các chương của tác phẩm kể theo ngôi thứ nhất trong truyền thống “Sám hối vật ngữ” (Zange monogatari) tức loại truyện tự thú, tự bạch. Tên thật của nhân vật không hề được nêu lên. Xuất thân từ một gia đình tử tế, nàng làm thị nữ cho một phu nhân ở triều đình. Nhưng sau đó bị đuổi đi vì tội vụng trộm tình ái lúc mới 12 tuổi. Không bao lâu, gia đình nàng sa sút, nàng bị bán vào “thành phố không đêm” Shimabara ở Kyoto. Những thành phố không đêm (Fujajo: bất dạ thành) là các khu vực vui chơi thời ấy. Vừa là chốn ăn chơi, vừa là trung tâm của đời sống xã hội nghệ thuật. Đó là các khu phố Yoshiwara ở Edo, Shimabara ở Kyoto và Shinmachi ở Osaka. Những khu phố ấy bao gồm các thanh lâu, nhà tắm, lữ quán, sân khấu… chứa đựng đông đảo các du nữ, vũ nữ, vai hề, diễn viên cùng với những người hầu, phục vụ và buôn bán. Chính các thị tứ của lạc thú ấy đóng một vai trò quan trọng làm nên văn hóa thời Tokugawa (1600 – 1868). Bởi vì là nguồn đề tài bất tận cho nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia, họa sĩ và cả thơ. Nhân vật chính của các thành phố không đêm là du nữ (Yujo: gái làng chơi, các ả đào). Họ đàn hay, múa giỏi và nghệ thuật ứng xử, trò chuyện khéo léo… Những thị tứ như vậy được gọi là Yukaku (du quách). Shimabara chính là một Yukaku, ở đó bắt đầu cuộc đời lưu lạc khắp xứ của người đàn bà đa tình. Nàng lần lượt là du nữ, là tình nhân của một nhà sư, là thầy dạy viết thư, hầu phòng, hầu gái, ca nữ, gái nhà tắm, trà thất và khi xuống tận đáy, làm cả gái điếm đường. Có một số yếu tố khách quan từ hoàn cảnh gia đình và xã hội nhưng vẫn không mạnh bằng bản chất “Koshoku” (hiếu sắc) ở nàng. Nàng không hề là một nhân vật lãng mạn. Nàng đến với đàn ông bằng thân xác chứ không bằng tình yêu và giấc mơ. Nàng tống khứ cả tôn giáo ra khỏi ngày lễ của nó, ra khỏi tâm hồn một sư già đang mặc tăng bào, cầm kinh khí tượng A di đà. Có lúc nàng hóa thành lang thang trên đường và hát theo vũ khúc xưa: “Ta cần một người đàn ông! Ta cần một người đàn ông!”. Về già, khi không còn có thể tìm thấy lạc thú nào nữa, đứng trước dãy tượng Ngũ Bách La Hán ở chùa Đại Vân nàng vẫn đầy ắp trong tâm cuộc sống hoan lạc cũ. “Khi đứng yên lặng ngắm nhìn năm trăm vị Phật này, Tôi cảm thấy rằng từng vị một gợi cho tôi nhớ đến mỗi người đàn ông mà tôi đã từng giao hoan trong quá khứ.” Ngay cả Phật cũng không thoát khỏi sự cảm nhận của nàng bằng thân xác là đàn ông, là nam và nàng là người nữ, dường như đó là điều nàng quan tâm trong suốt cuộc đời. Về cuộc đời, nàng ngỡ rằng mình đã thoát khỏi “những đám mây ảo vọng của chính mình”. Nàng lầm. Người đàn bà đa tình là nàng, là du nữ trong bản chất, là cư dân vĩnh viễn của những thành phố không đêm. CON ĐƯỜNG CỦA THỊ DÂN Đề tài thứ hai mà tiểu thuyết của Saikaku thường khai thác là tiền tài. Biết sử dụng tiền tài là một trong những yếu tố của Chonindo (Đinh nhân đạo). Những câu chuyện về thị dân và tiền tài thuộc về chủ đề Choninmono (Đinh nhân vật) mà Saikaku bắt đầu với bộ Kho tàng vĩnh cửu (Nippon Eitaigura: Nhật Bản vĩnh đại tàng, 1688). Đó là một tập sách gồm 30 truyện diễn tả các phương cách kiếm tiền và tiêu phí nó của thị dân. Cuốn sách được xem là bộ cẩm nang làm giàu và vì thế đã trở thành kinh thánh của thế kỷ XVIII. Giá trị của Kho tàng vĩnh cửu chính là bức tranh hiện thực về thế giới thị dân dưới ảnh hưởng của tiền tài. Saikaku có lẽ là tác giả đầu tiên ở Nhật đề cập đến đời sống kinh tế một cách cụ thể, linh hoạt và đầy đủ đến như vậy. Saikaku cũng là nhà văn đầu tiên vạch ra đường lối sống của thị dân, có thể gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo), khác với tính cách cứng nhắc của võ sĩ đạo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ông đồng tình với việc làm giàu bằng mọi giá. “Những cách làm tiền bỉ ổi” bị ông vạch ra trong Kho tàng vĩnh cửu với lời kết luận như sau: “Chỉ người nào mưu sinh bằng những phương tiện đàng hoàng mới đáng gọi là người. Đời sống của con người có lẽ chỉ là giấc mơ, nhưng dù chỉ kéo dài độ năm mươi năm thì chọn một công việc tử tế trong thế gian này hẳn là cũng tìm được thôi”. Ảnh hưởng của tiền tài trong đời sống thị dân còn có thể tìm thấy trong nhiều tác phẩm khác của Saikaku, đáng kể hơn cả là cuốn sách ấn hành vào khoảng cuối đời, mang tên Nợ nần thế gian (Seken Munesanyo, 1692). Đây cũng là tập truyện ngắn. Những câu chuyện xoay quanh ngày cuối năm, thời điểm phải lo thanh toán mọi nợ nần. Đời sống tối tăm đầy lo buồn của những thị dân hiện lên trên các trang sách này khác hẳn với đời sống xa hoa của những nhân vật mà Saikaku phác họa trong thời kỳ đầu. Không phải là những cá nhân đào hoa mà là những tập thể lầm than. Cũng không còn vấn đề làm giàu như trong Kho tàng vĩnh cửu nữa mà chỉ còn là vấn đề trả nợ trong địa ngục năm tàn. “Mùa cuối năm đầy những chuyện mà người đứng ngoài cũng thấy nát lòng!”. Ở đây hầu hết các nhân vật không có tên mà chỉ có những danh từ chung để chỉ các quan hệ xã hội: ông chủ, bà chủ, người thâu tiền, thư ký, người nghèo, người vợ, người con… Ngoài hai chủ đề trên, Saikaku còn viết các tạp thoại bao gồm những truyện truyền kỳ, truyện võ đạo và cả truyện trinh thám. Nổi bật trong loại này là Truyện các xứ (Shokoku banashi, 1685). Qua Truyện các xứ, Saikaku muốn thám hiểm “cuộc đời trong tất cả chiều rộng của nó”. Nó gọi ta nhớ đến Truyện mười ngày của Boccaccio vào thời Phục hưng ở Ý. Vẻ đẹp và thói xấu của con người trong các tác phẩm ấy đều có vẻ lý thú. Đó chính là hình ảnh con người như “hiện thân ma quái”. Đó là con người trong một thế gian có muôn màu kỳ diệu, có hoan lạc, có đau khổ, có bất trắc, có bình an… nghĩa là một thế gian đa sự, đa tình. Cái hiện thực căng đầy ở Saikaku thường đi đôi với sự trào lộng. Như chính cuộc đời, ngay cả trong những cảnh bi đát, Saikaku vẫn để lóe lên tia sáng nghịch thường. Theo Hibbett đó là “nghệ thuật đan xen ánh sáng và bóng tối” của Saikaku và cho rằng: “Bằng cách trộn lẫn trào tiếu với trang nghiêm, Saikaku đã sáng tạo ra một phong cách hiện thực châm biếm đầy chất thơ để có thể miêu tả cả phương diện vui thú lẫn buồn phiền của cõi phù thế”. Tính chất hiện đại của Saikaku đã làm dậy lên một phong trào khôi phục ông vào cuối thế kỷ XIX sau khi ông bị lãng quên gần hai thế kỷ. Người ta chợt nhận ra rằng, hóa ra ngay từ thế kỷ XVII, văn học Nhật đã biết đến một chủ nghĩa hiện thực tràn trề sự sống. Với Saikaku, “những con người phù thế khám phá ra rằng các câu chuyện kể về những rồ dại và mê cuồng của họ cũng hứng thú như bất kỳ truyện kể nào nhập từ Trung Quốc sang hay của ngày xưa truyền lại. Gái hồ ly, võ sĩ và các tiểu thư vẫn còn là thời thượng văn chương đấy nhưng đã có vẻ sáo mòn, khác với các nhân vật phù thế như chàng tuổi trẻ phóng đãng, như các du nữ tài sắc quyến rũ hoặc người vợ bướng bỉnh ngang tàng” (Hibbett, The Floating in Japanese Fiction, Tokyo 1992). Những gì Saikaku sáng tạo vào cuối thế kỷ XVII giữa một xứ Phù Tang đóng kín đến nay vẫn còn tràn đầy một niềm vui sống say nồng. Con người thời đại, cho dù ở xa Nhật Bản, vẫn tìm thấy hình bóng mình trong các tác phẩm của Saikaku, cả vẻ đẹp lẫn thói xấu, cả sắc lẫn tình, cả chơi đùa và bán buôn, cả trang trọng và khôi hài. Và nhất là đọc ông, ta chợt nhận ra thế gian quanh ta đa tình biết mấy! NHẬT CHIÊU *** Thời đại Edo (1603 – 1867) dưới sự lãnh đạo của Mạc phủ Tokugawa kéo dài 264 năm có thể xem là một trong những thời kỳ êm đềm nhất trong lịch sử Nhật Bản. Với chính sách bế quan tỏa cảng, người Nhật dựa vào nội lực của chính mình để phát huy đặc tính văn hóa trên tất cả lĩnh vực từ cá tính dân tộc, tay nghề, mỹ thuật… Giai cấp samurai được khuyến khích coi trọng văn hơn võ; giai cấp thương gia ngày càng trở nên giàu có. Thêm vào đó nhờ vào sự phổ cập các trường tư thục, trường dạy trong chùa (terakoya 寺子屋) và kỹ thuật in ấn phát triển, sách in bằng bản khắc gỗ ra đời nên dân thường có điều kiện tiếp xúc với văn chương. Văn học được đại chúng hóa và văn hóa trở thành văn hóa của thị dân (Chonin bunka 町人文化). Sinh vào đầu thời Edo, Ihara Saikaku (Tỉnh Nguyên Tây Hạc 井原西鶴) (1642 – 1693) là nhà thơ haiku và tác gia tiêu biểu cho dòng tiểu thuyết “phù thế thảo tử”. Phần lớn cuộc đời ông viết về cuộc sống thị dân Edo với những mối quan tâm về tiền bạc và sắc tình. Với khả năng quan sát nhạy bén và tài năng đa dạng, Saikaku đã khắc họa tinh tế bản chất con người trong một xã hội của kim tiền và sắc dục. Những tác phẩm của ông vẫn còn có giá trị cho đến ngày hôm nay vì cho dù có văn minh đến đâu nhưng tâm lý con người ngàn năm nay vẫn không hề thay đổi. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là “Năm người đàn bà si tình” (Hiếu sắc ngũ nhân nữ 好色五人女). Ueda Akinari (Thượng Điền Thu Thành 上田秋成) (1734 – 1809) vốn là con hoang của một kỹ nữ, sau được một thương nhân nhận nuôi để nối nghiệp nhưng cuối cùng lại chuyển sang nghề y. Ueda có niềm tin sâu sắc về những truyện huyền bí. “Vũ nguyệt vật ngữ” (雨月物語 Truyện kể trong mưa và trăng) đúng như tên gọi được viết xong vào đêm mưa tạnh trăng mờ năm 1768. Tuy viết về chuyện yêu ma quỷ quái nhưng lại ẩn chứa rất nhiều bài học về thế thái nhân tình. Hai tác phẩm tiêu biểu “Năm người đàn bà si tình” và “Vũ nguyệt vật ngữ” đặt song song và tương chiếu với nhau giúp chúng ta thấy được cuộc sống và quan niệm nhân sinh của người dân Nhật Bản thời Edo một cáchsống động và chân thực và từ đó có thể rút ra bài học cho chính mình trong cuộc đời hôm nay. Đặc biệt là lời cảnh tỉnh về sắc dục và ái tình. Từ xưa đến nay đã có biết bao nhiêu tấn tuồng đời diễn ra với mùi vị của kim tiền. Chính tiền bạc và sắc dục đã biến con người trở thành yêu ma, yêu ma vì tình mà trả thù người, người và yêu ma lẫn vào nhau, chung sống với nhau. Như xà tinh trong truyện “Con rắn tà dâm” vì tình mà uổng phí công tu luyện ngàn năm, nhà sư trong truyện “Chiếc khăn trùm đầu màu xanh” của “Vũ nguyệt vật ngữ” vì tình yêu với chú tiểu mà biến thành một con yêu quái. Chính Ueda Akinari cũng thừa nhận: “Trên núi ái tình mà bản thân Khổng Tử cũng trượt ngã, người đời dễ quên đi nghĩa vụ của mình và cả bản thân mình nữa”[1]. Còn truyện “Năm người đàn bà si tình” thì kết thúc hầu hết là bi thương, nhân vật chính không chết thì cũng đi tu. Ái tình đã biến thành nghiệp chướng. Cả hai tác phẩm này đều đã có bản dịch tiếng Việt dù không đầy đủ. “Năm người đàn bà si tình” của Ihara Saikaku được Phạm Thị Nguyệt dịch, Nhà xuất bản Tiền Giang ấn hành năm 1988. Còn “Vũ nguyệt vật ngữ” được Nguyễn Trọng Định dịch với tên “Hẹn mùa hoa cúc” do Nhà xuất bản Kim Đồng in năm 2000. Những trích dẫn trong bài của chúng tôi là lấy từ hai bản dịch này. ... Mời các bạn đón đọc Đời Du Nữ của tác giả Ihara Saikaku.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karik và Valia - Yan Larri
Tên ebook: Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karik và Valia (full pdf, pdf, epub) Tác giả: Yan Larri Thể loại: Phiêu lưu, Sách thiếu nhi, Văn học Nga Dịch giả: Thiệu Huy và Phan Thị Mế Công ty phát hành: Đông A Nhà xuất bản: NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển: 400 grams Kích thước: 13,5 x 20,5 cm Số trang: 336 Ngày xuất bản: 08/2012 Nguồn: vnthuquan.net Ebook: http://www.dtv-ebook.com Bìa sách  Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karik và Valia - Yan Larri Giới thiệu: Tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Yan Larri, Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karik và Valia, kể về cuộc phiêu lưu của hai anh em Karik và Valia sau khi uống nhầm thuốc thu nhỏ của giáo sư Enotov và bám theo con chuồn chuồn bay khỏi nhà. Phát hiện ra sự việc, giáo sư Enotov cũng quyết định uống thuốc thu nhỏ để đuổi theo cứu hai đứa trẻ. Dưới hình dạng tí hon, ba bác cháu được chứng kiến một thế giới sinh vật kì ảo ngay trong khu vườn bé tẹo thường ngày với nhiều bất ngờ đến khó tin và vô cùng hấp dẫn, nhưng cũng gặp không ít hiểm nguy khi phải chạm trán với những “quái vật khổng lồ”... Những tình tiết hồi hộp đến thót tim cứ bám theo họ trong suốt cuộc hành trình. Từ bao năm nay,Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karik và Valia là tác phẩm gắn bó với nhiều thế hệ thiếu nhi Liên Xô và Việt Nam. Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karik và Valia đã được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh vào năm 1987 và là một trong những bộ phim sử dụng nhiều kĩ xảo nổi tiếng ở Liên Xô thời đó. Tác giả Yan Leopoldovich Larri (1900 - 1977): Yan Leopoldovich Larri sinh năm 1900 tại Riga, Nga. Ông sớm mồ côi và phải làm nhiều nghề để kiếm sống trước khi trở thành một chiến sĩ Hồng quân. Sau khi xuất ngũ, ông làm báo ở Leningrad và bắt đầu sáng tác văn học từ những năm 1920. Tác phẩm của Yan Larri chủ yếu mang màu sắc viễn tưởng. Ông thường lồng ghép các tiên đoán trào phúng về xã hội tương lai và cảnh báo các nguy cơ do sự phát triển quá mức của khoa học kĩ thuật trong các tiểu thuyết: - Cửa sổ tương lai, 1930;  - Đất nước hạnh phúc, 1931;  - Các vị khách trên trời, 1940-41 ... Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karik và Valia (1937) là cuốn sách nổi tiếng nhất của ông, được nhiều thế hệ thiếu nhi ở Liên Xô và Việt Nam hết sức yêu thích. Yan Larri mất năm 1977 tại Leningrad, Nga. Mời các bạn đón đọc Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karik và Valia của tác giả Yan Larri.
Người Đua Diều - Khaled Hosseini
Tên ebook: Người Đua Diều (full prc, pdf, epub) Tác giả: Khaled Hosseini Thể loại: 100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới, Best seller, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Dịch giả: Nguyễn Bản Nhà xuất bản liên kết: Phụ Nữ Số trang: 460 Kích thước: 14 x 20,5 cm Giá bìa: 86 000 VND Nguồn: e-thuvien.com   Ebook: http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Người Đua Diều - Khaled Hosseini Giới thiệu: Khaled Hosseini, sinh ngày 4 tháng 3, 1965, là một tiểu thuyết gia và dược sĩ người Hoa Kỳ. Tên tuổi ông trở nên nổi tiếng nhờ hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Người đua diều (2003) và Ngàn mặt trời rực rỡ (2007) bán được 38 triệu bản trên toàn thế giới. Ngoài ra, Người đua diều đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên năm 2007. Người Đua Diều là câu chuyện nồng nhiệt của Hosseini về sự phản bội và chuộc tội, được bao quanh bởi bối cảnh quá khứ bi kịch mới đây của Afghanistan. Người Đua Diều có lẽ là cuốn sách đầu tiên giúp người đọc Việt Nam nhìn nhận một cách đầy đủ và chân thực nhất về vẻ đẹp cũng như nỗi đau của Afghanistan, một đất nước, một dân tộc, một nền văn hóa lâu đời bị tàn phá bởi những kẻ cuồng tín. Người Đua Diều là món quà tặng xúc động và đầy ý nghĩa nhà văn Khaled Hosseini gửi lại cho quê hương mình, nơi cuộc sống yên bình vẫn chưa trở lại. Người Đua Diều có đầy đủ các yếu tố cần thiết để trở thành một tác phẩm best-seller: tính thời sự, cốt truyện ly kỳ, xúc động, xung đột gay gắt giữa các tuyến nhân vật, trong chính bản thân nhân vật… Và sự thật, tác phẩm đã nắm giữ vị trí đầu bảng của The New York Times trong 110 tuần. Ngoài những khía cạnh trên, sức hấp dẫn của Người đua diều còn bắt nguồn từ giá trị nhận thức sâu sắc. Người Đua Diều là lời tự thuật của nhà văn người Mỹ gốc Afghanistan Amir về những năm tháng tuổi thơ đầy niềm vui cũng như lỗi lầm, về những ngày trôi dạt trên đất khách rồi cuộc hành trình trở lại quê hương đổ nát để cứu chuộc tội lỗi cho bản thân và cho cả người cha đã khuất. Theo dòng hồi ức của Amir, người đọc trở lại hơn hai mươi năm về trước, khi Amir còn là một cậu bé mười hai tuổi sống trong vòng tay che chở của Baba giàu sang và thanh thế. Cùng gắn bó với Amir suốt những năm tháng tuổi thơ là Hassan, con trai của người quản gia Ali, một cậu bé lanh lợi, mạnh mẽ nhiều lần xả thân để bảo vệ Amir. Thế nhưng tình bạn và lòng tận tụy của Hassan đã không được đền đáp, một ngày mùa đông năm 1975, Hassan vì ra sức bảo vệ chiếc diều xanh chiến lợi phẩm của Amir đã bị bọn trẻ xấu hành hung và nhục mạ. Sự nhu nhược và hèn nhát đã cản bước Amir cứu bạn, thậm chí, còn biến cậu thành một kẻ gian dối khi bịa chuyện nhằm đuổi cha con Ali và Hassan ra khỏi nhà. Và Amir đã phải trả giá cho lỗi lầm ấy trong suốt phần đời còn lại. Ngay cả khi anh đang sống sung túc trên đất Mỹ, ngay cả khi tìm được một mái ấm cho riêng mình hay thực hiện được mơ ước trở thành nhà văn, nỗi ám ảnh của một kẻ gian dối vẫn ngày đêm đeo đuổi Amir. Và cuối cùng, trở lại Afghanistan để cứu con trai Hassan khỏi tay bọn Taliban là con đường duy nhất để Amir chuộc lỗi với người bạn, người em cùng cha khác mẹ Hassan đã chết dưới họng súng Taliban. "Tôi yêu mùa đông ở Kabul. Tôi yêu nó vì những bông tuyết mềm mại vỗ nhẹ vào cửa sổ phòng tôi ban đêm, vì tuyết mới rơi lạo xạo dưới đôi ủng cao su đen của tôi, vì hơi ấm của chiếc lò sưởi gang khi gió rít qua sân, qua đường phố... Mùa đông nào, các quận của Kabul cũng tổ chức cuộc thi đấu diều. Và nếu bạn là một đứa con trai sống ở Kabul, thì ngày thi đấu chắc chắn là sự kiện nổi bật của mùa giá lạnh... Có lần, một thằng nhóc Hindi, gia đình nó mới chuyển đến ở quanh vùng, kể cho chúng tôi nghe rằng, ở thị trấn quê nó, đấu diều có những luật lệ và quy tắc chặt chẽ... Hassan và tôi nhìn nhau cười. Cười phá. Thằng nhóc Hindi rồi sẽ nhanh chóng học được những gì người Anh học được hồi đầu thế kỷ này, và những gì người Nga cuối cùng đã học được vào những năm cuối thập kỷ tám mươi rằng người Afghan là một dân tộc độc lập. Người Afghan yêu quý phong tục nhưng ghê tởm các luật lệ. Và việc đấu diều cũng thế. Luật lệ thật đơn giản: Không luật lệ nào. Thả diều của bạn lên. Cắt hạ đối thủ. Chúc may mắn". Bằng một lối văn xuôi giản dị, không gọt giũa, không ẩn dụ hay khó hiểu, Khaled Hosseini đã dẫn dắt người đọc đi qua những thăng trầm của lịch sử nước mình, đã giúp người đọc hiểu được những góc sáng tối trong tâm hồn người Afghanistan, và hơn hết, đã khiến người đọc xúc động và nuối tiếc trước sự tàn lụi của cả một nền văn hoá đầy bản sắc. Mời các bạn đón đọc Người Đua Diều của tác giả Khaled Hossenini.
Thất Lạc Cõi Người
THẤT LẠC CÕI NGƯỜI   Thông Tin   Tác phẩm: Thất Lạc Cõi Người Tác giả: Dazai Osamu Thể loại: Tiểu thuyết, Sách hay, Tự truyện, Bi quan, SE, Văn học phương đông, văn học nhật bản, NXB: Hội Nhà Văn Dịch: Hoang Long Ebook: Romance book Nguồn: Romance book Đăng: dtv-ebook.com   Giới Thiệu   Xa lạ với nhân gian là nỗi ám ảnh bi ai mà nhân vật "tôi" (Yozo) luôn luôn cảm thấy. Anh tin rằng mình không biết cách làm người, đã mất tư cách làm người, đúng như tiêu đề của truyện: "Nhân gian thất cách". Anh đành buông mình thất lạc trong cõi người ta, tuyệt vọng nhưng lúc nào cũng chân thật, không dối người cũng như không dối mình. Do đó anh không hiểu nổi sự giả tạo và những quy ước kỳ lạ của xã hội con người. Nhân vật Yozo của Dazai Osamu, trong hình dung của chúng ta, có thể đồng hành với nhân vật Meursault trong Kẻ xa lạ (L'Etranger) của Albert Camus. Cả hai đều trầm mình trong cái chân thật của cảm thức và hiện hữu với một niềm đam mê tuyệt đối, dù phải trả giá bằng thất lạc tiêu vong. Ngoài đời, Dazai thật sự trầm mình trong một cuộc tự tử đôi. Còn Camus tử nạn giao thông. Cả hai đã uống cạn chén đắng của cái phi lý và bi ai cõi người ta.   Thông Tin Tác Giả:   Dazai Osamu (太宰 治 (Thái Tể Trị) sinh 19 tháng 6 năm 1909 – mất 13 tháng 6 năm 1948?) là một nhà văn Nhật Bản tiêu biểu cho thời kỳ vừa chấm dứtThế chiến thứ Hai ở Nhật. Osamu sống và viết Cùng một nghĩa như nhau, thành thực mà bi đát.   Những Tác Phẩm: - Thất Lạc Cõi Người [Nhân Gian Thất Cách] - Ký ức - Vãn niên - Tiên phong thế kỉ XX - Một trăm cảnh núi Phú Sĩ - Nữ sinh - Đàn bà quyết đấu - Yêu cầu khẩn thiết - Melos ơi, chạy nhanh lên - Tân Hamlet - Chính nghĩa và Nụ cười - Hữu đại thần Sanetomo - Tsugaru - Chiếc hộp Pandora - Câu chuyện mới về các quốc gia - Tích biệt - Chuyện kể dân gian - Pháo hoa mùa đông - Người vợ của Villion - Tà dương - Chính tai tôi nghe - Anh đào - Good-Bye *** Tóm tắt Thất lạc cõi người là tiểu thuyết tự truyện của nhà văn Nhật Bản Dazai Osamu, được xuất bản năm 1948. Cuốn sách kể về cuộc đời của nhân vật "tôi", một người đàn ông trẻ tuổi luôn cảm thấy mình là kẻ "thất lạc cõi người". Anh không biết cách hòa nhập với xã hội, không hiểu được những quy tắc và kỳ vọng của con người. Anh cảm thấy mình là kẻ xa lạ, lạc lõng giữa cuộc đời. Nhân vật "tôi" bắt đầu cuộc đời của mình trong một gia đình giàu có và có địa vị xã hội. Anh được học hành tử tế và có cơ hội được sống trong một môi trường tốt đẹp. Tuy nhiên, anh sớm nhận ra rằng mình không thuộc về nơi này. Anh không thích học hành, không thích những quy tắc và lễ nghi của gia đình. Anh cảm thấy mình là kẻ thừa thãi và lạc lõng. Sau khi tốt nghiệp đại học, nhân vật "tôi" bắt đầu cuộc sống tự lập. Anh rời khỏi gia đình và bắt đầu lang thang khắp nơi. Anh làm nhiều công việc khác nhau, nhưng không công việc nào khiến anh cảm thấy hứng thú. Anh tiếp tục cảm thấy mình là kẻ thất lạc, không biết mình muốn gì và cần gì. Trong cuộc hành trình của mình, nhân vật "tôi" gặp gỡ nhiều người khác nhau. Anh có những mối quan hệ tình cảm, nhưng tất cả đều không bền lâu. Anh luôn cảm thấy cô đơn và trống rỗng. Cuối cùng, nhân vật "tôi" quyết định tự tử. Anh cùng người tình nhảy xuống sông Tamagawa. Tuy nhiên, anh được cứu sống, còn người tình thì chết. Review Thất lạc cõi người là một tác phẩm văn học xuất sắc, mang đậm dấu ấn của nhà văn Dazai Osamu. Cuốn sách đã khắc họa thành công tâm trạng của những người trẻ tuổi trong giai đoạn hậu chiến Nhật Bản. Họ là những người đã bị tổn thương bởi chiến tranh và xã hội, khiến họ cảm thấy mình là kẻ thất lạc, không biết mình muốn gì và cần gì. Cuốn sách cũng là một lời phản ánh về sự phi lý của cuộc sống. Nhân vật "tôi" là một người đàn ông thông minh và tài năng, nhưng anh lại không thể tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Anh cảm thấy mình như một kẻ thừa thãi, không thuộc về nơi này. Thất lạc cõi người là một cuốn sách đáng đọc cho những ai muốn tìm hiểu về tâm lý con người và triết lý cuộc sống. Cuốn sách sẽ khiến bạn suy ngẫm về những vấn đề như ý nghĩa của cuộc sống, giá trị của con người và sự phi lý của thế giới. Đánh giá Ưu điểm: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Tâm lý nhân vật được khắc họa sâu sắc Đề cập đến những vấn đề triết học sâu sắc Nhược điểm: Cuối truyện có phần hơi bất ngờ Đánh giá chung: Thất lạc cõi người là một tác phẩm văn học xuất sắc, mang đậm dấu ấn của nhà văn Dazai Osamu. Cuốn sách sẽ khiến bạn suy ngẫm về những vấn đề như ý nghĩa của cuộc sống, giá trị của con người và sự phi lý của thế giới.
Sống Lưng Của Jesse - Yamada Amy
Sống Lưng Của Yamada Amy             Thông Tin Tác phẩm : Sống Lưng Của Yamada Amy Tác giả : Yamada Amy Thể loại :   Tiểu thuyết ,   Sách hay ,   Tình cảm, 18+,   Văn học phương đông , văn học nhật bản NXB : Văn hóa sài gòn Dịch : Thùy Dương Na Ebook : Romance book Nguồn : Romance book Đăng :   dtv-ebook.com   Giới Thiệu   Cô gái Nhật Bản có tên Koko đem lòng yêu anh chàng Rick, một tay gà trống nuôi con uống rượu như hũ chìm. Xinh đẹp và phóng túng, Koko hễ muốn chàng nào là khiến chàng ta lên giường, cũng như chỉ cần từ chối là có thể gieo vào lòng bất cứ anh nào một nỗi thất vọng lớn lao. Ấy vậy mà cô yêu Rick. Một tình yêu đích thực khiến chính cô sửng sốt. Rồi cô bỗng nhận ra, ngoài những màn làm tình nóng bỏng giữa haingười, tình yêu còn có một khía cạnh khác: sự hy sinh. Jesse – thằng bé 11 tuổi, con riêng của Rick và người vợ trước, thực sự là một thằng quỷ sứ. Và tình yêu của cô sẽ phải đối mặt với sự tai quái cùng những trò hành hạ của Jesse… Với một thứ văn phong gợi người ta nhớ tới Papa You’re Crazy của William Saroyan, Sống lưng của Jesse thực sự là một tác phẩm đáng giá của một nhà văn đương đại Nhật Bản đầy ảnh hưởng và gây tranh cãi. Chỉ có thể nói sắc sảo và tài tình khi ca ngợi tài năng của Yamada Amy trong bút pháp miêu tả tâm lý và những tổn thương tinh thần của một cậu bé mới lớn. Và vẫn là những cuồng nhiệt và đam mê đã làm nên Yamada Amy trong những miêu tả về tình yêu nam nữ. “Một tựa sách có ý nghĩa cho tủ sách hàn lâm” - (New London)