Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuồng Vọng

Vật lạ đến từ một nơi nào đó trong không gian. Đó là một khối tinh vân rắn - một đám mây khổng lồ do nhiều khối băng, đá, bụi bặm và các loại khí kết tụ lại - có mặt cùng lúc với sự hình thành của vũ trụ, khi những hành tinh trong hệ thống mặt trời xuất hiện từ bốn tỉ sáu trăm triệu năm trước. Ngay sau khi những hạt li ti rời rạc của nó đông lại thành một khối cứng rắn có đường kính rộng một dặm, nó bắt đầu lặng lẽ di chuyển cực nhanh qua không gian trống trải, mênh mông, trên một quĩ đạo quanh mặt trời và những ngôi sao gần nhất, một hành tinh kéo dài nhiều ngàn năm từ lúc khởi đầu đến khi chấm dứt... *** Clive Cussler sinh năm 1931 tại bang Illinois (Mỹ) nhưng tuổi thơ và quá trình trưởng thành lại gắn liền với vùng đất California. Ông từng là thợ máy phục vụ trong Không quân Mỹ suốt thời kỳ Chiến tranh Triều Tiên. Năm 1973, tác phẩm đầu tay của ông được phát hành. Sau đó, tên tuổi của Cussler nhanh chóng được khẳng định khi cho ra mắt cuốn "Raise the Titanic!" vào năm 1976, số lượng phát hành cuốn sách này cùng cuốn "Sahara" lên tới hàng chục triệu bản và được coi là tác giả của những tiểu thuyết bán chạy nhất nước Mỹ. Theo New York Times, Cussler sở hữu khối tài sản lên tới 80 triệu USD. Có thể thấy, trong sự nghiệp sáng tác của mình, Cussler đã phát hành hơn 80 cuốn sách trong đó phần lớn mang đề tài bí hiểm và những tác phẩm của ông được phát hành ở hơn 100 nước trên thế giới, đồng thời được dịch ra khoảng 40 thứ tiếng. Bên cạnh công việc tiểu thuyết gia, Clive Cussler còn sở hữu và điều hành Cơ quan Hàng hải và dưới nước quốc gia Mỹ - một tổ chức phi lợi nhuận, phát hiện hơn 60 xác tàu, thuyền dưới lòng đại dương. Đặc biệt, Cussler chính là người đã là tìm ra con tàu Carpathia – con tàu tham gia giải cứu những người sống sót trong vụ đắm tàu Tinanic lịch sử. Các tác phẩm được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Thác Lũ Cuồng Vọng Bí Ẩn Titanic Sóng Dữ Hoang Mạc Băng Cháy ... *** SỰ VA CHẠM KHỦNG KHIẾP   Năm 7.120 trước Công nguyên sự va chạm đã tạo ra Vịnh Hudson tại Canada ngày nay.   Vật lạ đến từ một nơi nào đó trong không gian. Đó là một khối tinh vân rắn - một đám mây khổng lồ do nhiều khối băng, đá, bụi bặm và các loại khí kết tụ lại - có mặt cùng lúc với sự hình thành của vũ trụ, khi những hành tinh trong hệ thống mặt trời xuất hiện từ bốn tỉ sáu trăm triệu năm trước. Ngay sau khi những hạt li ti rời rạc của nó đông lại thành một khối cứng rắn có đường kính rộng một dặm, nó bắt đầu lặng lẽ di chuyển cực nhanh qua không gian trống trải, mênh mông, trên một quĩ đạo quanh mặt trời và những ngôi sao gần nhất, một hành tinh kéo dàỉ nhiều ngàn năm từ lúc khởi đầu đến khi chấm dứt. Phần lõi của sao chổi, còn gọi là hạt nhân, là một khối kết hợp gồm hơi nước đông đặc, carbon monoxỉde, khí mê tan và những tảng đá kim loại vỡ nát. Có thể mô tả chính xác nó là một quả bóng tuyết bẩn thỉu bị ném mạnh qua không gian của hệ thống mặt trời, hoặc sự bức xạ của mặt trời phản ứng lại với nhân của nó và xảy ra sự biến đổi hình dạng. Một con vịt con xấu xí nhanh chóng trở thành một vật xinh đẹp. Khi nó bắt đầu hấp thụ nhiệt lượng và tia tử ngoại của mặt trời, một vệt dài hình thành và chậm chạp phát triển thành một cái đuôi lóng lánh khổng lồ, cong và trải rộng ra phía sau cái lõi với một chiều dài đến chín mươi triệu dặm. Một cái đuôi ngắn hơn, màu trắng, do bụi tạo thành rộng hơn một triệu dặm cũng hình thành và nằm cong theo cái đuôi lớn giống như những cái vây trên mình một con cá. Mỗi lần sao chổi đi qua mặt trời, nó mất đi một phần khối băng của nó và lõi cũng giảm bớt. Sau cùng, trong một thời gian hai trăm triệu năm, nó mất hết khối băng và vỡ vụn thành một khối mây bụi gồm vô số thiên thạch nhỏ. Tuy nhiên, sao chổi này không bao giờ lệch khỏi quĩ đạo của nó trong hệ thống mặt trời hoặc đi qua quanh mặt trời một lần nữa. Nó không được phép chết một cách chậm chạp và lạnh lẽo tại một nơi xa thẳm nào đó trong không gian tối tăm. Chỉ trong vài phút ngắn ngủi, sự sống của nó vụt tắt. Nhưng trên quĩ đạo cuối cùng của nó, sao chổi vẫn đi qua chín trăm ngàn dặm của sao Mộc, và trọng lực rất lớn của sao này làm nó đổi chiều sang một hành trình khác và chạm mạnh vào một hành tinh thứ ba trong hệ thống mặt trời, một hành tinh mà cư dân của nó gọi là Trái Đất. Lao vào bầu khí quyển của Trái Đất với vận tốc một trăm ba mươi ngàn dặm mỗi giờ theo một góc bốn mươi lăm độ, vận tốc của nó càng tăng thêm vì sức hút của trọng lực, sao chổi gây ra sự va chạm khủng khiếp và phát sáng với kích thước rộng mười dặm, và sức nặng bốn tỉ tấn của nó vỡ vụn vào lúc đó. Bảy giây sau, khối sao chổi méo mó trở thành một quả cầu lửa sáng rực, đập vỡ bề mặt Trái Đất với một sức công phá không thể tưởng tượng. Hậu quả tức thì từ vụ nổ làm thoát ra những năng lượng phá hủy khoét sâu vào vỏ Trái Đất tạo thành một lòng chảo rộng bằng hai lần diện tích đảo Hawaii khi nó bốc hơi và chiếm chỗ một khối khổng lồ gồm nước và đất đá. Toàn bộ Trái Đất rung chuyển do sự va chạm, tạo ra một vụ động đất lên tới mười hai độ rít-te. Hàng triệu tấn nước các loại trầm tích và các thứ đổ nát bị tống vào bầu khí quyển phía trên chỗ va chạm và xâm nhập vào tầng bình lưu, cùng với khối bụi nước khổng lồ bị phá hủy, khối đá bị cháy đỏ thoát ra và lao vào những quĩ đạo chung quanh trước khi rơi xuống lại trên mặt đất như những thiên thạch cháy sáng. Những trận bão lửa thiêu rụi những khu rừng trên khắp mặt đất. Những núi lửa đã ngủ yên hàng ngàn năm đột nhiên hoạt động trở lại, tống vào các đại dương những dung nham lỏng lan rộng trên một triệu dặm vuông, phủ lên mặt đất một lớp dày đến trên một ngàn bộ. Vô số khói và bụi bị tống vào tầng khí quyển, sau đó bị những trận gió khủng khiếp từ mặt trời thổi đến từng ngõ ngách trên Trái Đất và biến nó thành một nơi tối tăm kéo dài gần một năm. Khí hậu của Trái Đất đột ngột thay đổi khủng khiếp. Nhiệt độ trên những vùng băng tuyết mênh mông và những băng hà hoặc băng trôi ở phía bắc tăng lên cho tới khi chúng đạt đến chín mươi và một trăm độ Fahrenheit, gây ra sự bốc hơi nhanh chóng. Các chủng động vật từng quen với khí hậu nhiệt đới và những vùng ôn đới trở nên bị tuyệt chủng chỉ trong một đêm. Nhiều chủng loại như loài voi ma-mút có lông chết nhanh chóng đến nỗi cỏ và hoa trong dạ dày chúng vẫn chưa tiêu hóa kịp. Cây cối cùng với lá và trái của chúng nhanh chóng chín muồi. Chỉ vài ngày, cá trong các sông ngòi hồ ao đều nằm phơi bụng. Những đợt sóng cao từ năm đến mười dặm tràn lên các lục địa, tàn phá tất cả những gì cản đường chúng. Nước tràn qua những bình nguyên thấp dọc bờ biển, cuốn đi hàng trăm dặm vào trong đất liền. Vô số những trầm tích và các thứ cặn bã từ đáy những đại dương trải rộng trên những vùng đất thấp. Chỉ đến khi đợt trào dâng kinh khủng này đập vào chân những ngọn núi, dội lại và bắt đầu chậm chạp rút lui sau khi đã làm thay đổi dòng chảy những con sông, lấp đầy những chỗ trũng trên mặt đất - nơi trước kia không có sự sống - biến đổi những hồ ao rộng lớn thành những sa mạc. Chuỗi phản ứng này có vẻ kéo dài bất tận. Với những tiếng động ì ầm phát triển thành tiếng gầm rú liên tục như tiếng sấm, những ngọn núi bắt đầu lắc lư như những cây cọ dưới một làn gió nhẹ. Những sa mạc và những đồng cỏ nhấp nhô khi những đợt tấn công dữ dội từ các đại dương lại tràn lên đất liền. Sự chấn động từ vụ va chạm của sao chổi đã tạo ra sự thay đổi vị trí hoàn toàn và nhanh chóng trên lớp vỏ mỏng của Trái Đất. Lớp ngoài cùng, dày chưa tới bốn mươi dặm, và mặt đất bao bọc cái lõi nóng chảy của Trái Đất trở nên vặn vẹo như lớp vỏ của một trái táo bị bóc ra rồi ráp lại để nó có thể chuyển động quanh cái lõi của trái táo bên trong. Như được kiểm soát bởi một bàn tay vô hình, toàn bộ lớp vỏ Trái Đất chuyển động như một bộ phận duy nhất. Toàn bộ các lục địa trôi nổi đến những vị trí mới. Những ngọn đồi nhô cao thành núi hoa. Những hòn đảo khắp Thái Bình Dương biến mất, trong lúc những đảo khác trồi lên lần đầu tiên. Nam Cực, về phía tây Chi Lê, trượt dài hơn hai ngàn dặm về phía nam, tại đây nó nhanh chóng bị chôn vùi dưới những lớp băng mới thành hình. Khối băng khổng lồ từng trôi nổi trên Ấn Độ Dương và phía tây Úc châu giờ đây lạc lõng tại vùng ôn đới và nhanh chóng bắt đầu bốc hơi. Tình trạng đó cũng xảy ra tại nơi trước kia là Bắc Cực, lan rộng tới vùng bắc Canada. Địa cực mới nhanh chóng sản xuất ra một khối băng dày giữa một nơi trước kia là một đại dương rộng lớn. Sự tàn phá thật khắc nghiệt. Sự chấn động và đổ nát tiếp tục xảy ra như thể chúng sẽ không bao giờ chấm dứt. Đó là lúc lớp vỏ mỏng của Trái Đất chồng chất hết biến động này tới biến động khác. Sự bốc hơi đột ngột của những khối băng trước kia kết hợp với các băng hà và băng trôi bao phủ khắp các đại dương đột ngột trôi vào hoặc gần những vùng nhiệt đới, làm cho các đại dương dâng cao tới bốn trăm bộ, nhấn chìm những vùng đất đã bị tàn phá với những đợt sóng thủy triều khổng lồ phát sinh từ vụ va chạm của sao chổi. Chỉ trong một ngày, nước Anh, từng nối liền với phần còn lại của lục địa châu Âu bởi một bình nguyên khô ráo, lúc này biến thành một hòn đảo, trong lúc một sa mạc bị nhận chìm trở thành vịnh Ba Tư. Sông Nil từng chảy vào một thung lũng phì nhiêu mênh mông rồi đổ ra một đại dương ở phía tây lúc này lại kết thúc dòng chảy của nó tại một nơi đột ngột biến thành Địa Trung Hải. Kỷ nguyên băng hà rộng lớn cuối cùng chấm dứt về mặt địa chất chỉ trong nháy mắt. Sự thay đổi ngoạn mục trong các đại dương và sự lưu thông của chúng quanh Trái Đất làm cho các địa cực di chuyển, quấy nhiễu dữ dội sự quân bình cố hữu của Trái Đất. Trục Trái Đất tạm thời bị lệch hai độ, khi Bắc Cực và Nam Cực bị đổi chỗ đến những vùng địa lý mới, làm biến đổi lực hướng tâm quanh mặt ngoài của địa cầu. Vì chúng là lưu chất, các đại dương thay hình đổi dạng trước khi các địa cực ngừng rung lắc và trở nên ổn định quanh cái trục mới của chúng. Trong thời gian đó, mực nước biển cũng trở nên ổn định, cho phép nhiều bờ biển mới được hình thành trong khi những điều kiện khí hậu kỳ quặc tiếp tục được điều chỉnh dần. Những thay đổi trở nên thường xuyên. Thời gian nối tiếp giữa ngày và đêm thay đổi khi số ngày trong một năm giảm còn một nửa. Từ trường của Trái Đất cùng bị ảnh hưởng và di chuyển về hướng tây bắc hơn một trăm dặm. Hàng trăm, có lẽ hàng ngàn những loài động vật và cá khác nhau nhanh chóng bị tuyệt chủng. Tại châu Mỹ, loài lạc đà một bướu, loài voi ma-mút, loài ngựa của kỷ nguyên băng hà và loài cu-li khổng lồ, tất cả đều biến mất. Loài cọp răng kiếm, loài chim khổng lồ với sải cánh dài đến hai mươi lăm bộ và nhiều loài thú khác có trọng lượng nặng cả trăm cân Anh hoặc hơn, phần lớn chết ngạt vì khói và các loại khí độc từ núi lửa thoát ra. Các chủng loại thực vật trên mặt đất cũng không thoát khỏi thảm họa. Đời sống của thảo mộc nếu không biến thành tro thì cũng chết vì thiếu ánh sáng mặt trời, kể cả các loài rong tảo trong nước. Cuôi cùng, trên tám mươi lăm phần trăm sự sống trên Trái Đất đều chết vì lụt lội, lửa, bão táp, tuyết lở, chất độc từ bầu khí quyển và thậm chí vì nạn đói. Các xã hội loài người, đa số đã hoàn toàn tiến triển và vô số nền văn hoá đang trên ngưỡng cửa của một thời đại tiến hóa vàng son bỗng chốc đã bị tiêu hủy chỉ trong một ngày đêm. Hàng triệu đàn ông, phụ nữ và trẻ con trên Trái Đất đã chết một cách khủng khiếp. Mọi dấu vết về những nền văn minh đều tuyệt tích, và một số ít những kẻ sống sót sau thảm họa chẳng còn gì ngoài mớ ký ức u ám về quá khứ. Cỗ quan tài đã nằm trên sự tiến hóa to lớn nhất và không hề gián đoạn của nhân loại, kết thúc một chuyến hành trình dài mười ngàn năm từ những người Cro-Magnon hoang dã cho đến các bậc vua chúa, các kiến trúc sư, những thợ điêu khắc đá, những nghệ sĩ và chiến sĩ. Những công trình của họ và những tồn tại chết chóc của họ đều bị chôn sâu dưới các đại dương và những biển mới, chỉ còn lưu lại một ít mẫu vật và những mảnh vụn của một nền văn hóa tiến bộ cổ đại. Nhiều quốc gia và thành phố chỉ đứng được vài giờ trước khi biến mất không để lại một dấu vết. Biến cố khủng khiếp này hầu như không lưu lại một bằng chứng nào về những nền văn minh ưu việt trước đó. Trong số rất ít những người sống sót, hầu hết đều sống tại những vùng núi cao, họ có thể trú ẩn trong những hang động để trốn tránh những cơn giận của sự hỗn loạn. Không giống những người trong thời kỳ Đồ Đồng tiến hóa hơn, có khuynh hướng tập trung lại và xây dựng trên những bình nguyên thấp gần những con sông và bờ biển, những cư dân sống tại những vùng núi cao đều là dân du mục trong thời kỳ Đồ Đá. Những người tài giỏi nhất của họ về những ngành khác nhau trong kỷ nguyên của họ - những Leonardo da Vinci, những Picasso và những Einstein - đều bốc hơi không lưu lại vết tích. Chỉ còn lại trên mặt đất những kẻ săn bắn du mục, một hiện tượng tương tự như những gì đã xảy ra dành cho sự vinh quang của Hy Lạp và La Mã sau khi sự vinh quang đó bị ném sang một bên, trải qua những thế kỷ chỉ có sự ngu dốt và mê muội. Một thời kỳ Đồ Đá mới đen tối đã che giấu những nền văn minh có văn hóa cao từng có mặt trên Trái Đất, kỷ nguyên đen tối này kéo dài đến hai ngàn năm. Rất chậm chạp, sau cùng nhân loại cũng bước ra khỏi tình trạng đen tối đó để bắt đầu xây dựng và kiến tạo lại những thành phố và những nền văn minh tại Mesopotamia và Ai Cập. Đáng tiếc, rất ít những nhà xây dựng có thực tài và những người có đâu óc sáng tạo còn sống sót từ những nền văn hóa bị thất lạc đạt tới trình độ cao. Nhận thấy nền văn minh của mình đã mất và không bao giờ phục hồi được, họ bắt đầu tìm tòi trong nhiều thế kỷ, để xây dựng những lăng mộ và những ngôi mộ đá huyền bí với những khối đá đồ sộ dựng đứng được tìm thấy trong nhiều vùng tại châu Âu, châu Á, tại quần đảo Pacific đến tận phía nam châu Mỹ. Về sau, ký ức về những ưu thế rực rỡ do tiền nhân để lại trở nên lu mờ dần và trở thành huyền thoại, những kỷ niệm về sự tàn phá và chết chóc vẫn là những cảnh báo về sự hủy diệt các thế hệ trong tương lai. Nhưng trong một thiên niên kỷ, con cháu họ dần dà quên hết những hoạt động xưa kia của tổ tiên để dung nạp kiểu sống của những bộ lạc du mục và chẳng còn biết gì về quá khứ văn minh của họ. Nhiều thế kỷ sau vụ va chạm khủng khiếp đó, nhân loại vẫn còn sợ hãi, không dám mạo hiểm lìa bỏ vùng núi non để xuống sinh sống tại những vùng đất thấp và dọc bờ biển. Những xứ sở có kỹ thuật vượt trội về chuyện đi lại trên biển chỉ còn những ý niệm mơ hồ về quá khứ gần của họ. Kỹ thuật đóng tàu và vượt biển đã thất lạc, và phải đợi đến nhiều thế hệ sau đó mới xuất hiện trở lại. Sự chết chóc và tàn phá này phát sinh do một khối băng bẩn thỉu không lớn hơn một thảo nguyên trung bình. Sao chổi đã tàn phá mọi thứ không chút xót thương. Trái Đất chưa từng bị tàn phá dữ dội như thế từ khi một thiên thạch đâm vào nó sáu mươi lăm triệu năm trước đó trong một thảm họa đã hủy diệt loài khủng long. Nhiều ngàn năm sau vụ va chạm, sao chổi được gắn kết với mê tín dị đoan về những sự cố gây tai họa và được xem như những điềm xấu báo trước những thảm kịch trong tương lai. Chúng bị kết tội đã gây ra chiến tranh và những đại dịch gây chết chóc và hủy diệt. Mãi cho tới lịch sử cận đại, sao chổi mới được xem như những hiện tượng lạ của thiên nhiên, như vẻ đẹp chói lọi của cầu vồng hoặc những đám mây được mạ vàng lúc mặt trời lặn. Sự kiện đại hồng thủy được ghi lại trong Kinh Thánh và những truyền thuyết về các tai họa khác, tất cả đều gắn liền vào thảm kịch này. Những nền văn minh cổ đại của người Olmac, Maya và Aztec tại Trung Mỹ có nhiều truyền thống liên hệ tới một sự cố thảm họa xa xưa. Những bộ lạc người Da Đỏ Indian khắp Hoa Kỳ có truyền thuyết với những câu chuyện về nước lụt tràn ngập xứ sở của họ. Người Trung Hoa, người Polynesian và người Phi châu, tất cả đều nói về một thảm họa đã tàn sát phần lớn tổ tiên của họ. Nhưng một truyền thuyết đã xuất hiện và phát triển qua nhiều thế kỷ, gợi ra sự huyền bí và gây ảnh hưởng nhiều nhất, đó là sự biến mất của lục địa và nền văn minh Atlantis. Mời các bạn đón đọc Cuồng Vọng của tác giả Clive Cussler & Phạm Đăng Phụng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng
Thế nào là “người đàn ông Mỹ”? Cuốn sách kỳ lạ, lôi cuốn của Elizabeth Gilbert, tác giả của Ăn, cầu nguyện, yêu, dẫn ta đi sâu tìm lời đáp cho câu hỏi đó. Eustace Conway, “người đàn ông Mỹ”, có niềm tin quyết liệt rằng sứ mệnh của mình là làm mọi cách sao cho người dân Mỹ thấy lẽ ra họ có thể mạnh mẽ và đảm lược như cha ông họ ngày xưa - những người Mỹ thời lập quốc - ra sao, họ đã sa đọa và trở nên kém cỏi đến thế nào vì tiện nghi vật chất của cuộc sống hiện đại. Conway là “thần tượng” với nhiều người bởi ý chí kiên định đi theo con đường mình đã chọn, cho dẫu anh không phải không có những nhược điểm riêng khiến cho công cuộc xây chốn địa đàng theo tâm nguyện của anh thật không dễ dàng. Song cái lớn ở anh là những khiếm khuyết và bất thành đó không làm anh gục ngã; anh luôn luôn là anh, con người xứng đáng với cái danh xưng đẹp mà gây bứt rứt, “Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng”. *** “Conway là một nhân vật đẹp đến nỗi khó tin là thật. Ở Gilbert, có lẽ anh đã tìm được nhà văn hoàn hảo để viết ra câu chuyện của anh… Từ cuộc đời Conway, Gilbert bàn rộng ra về bản chất của nam tính, sự hấp dẫn của các cộng đồng không tưởng chủ nghĩa, lịch sử vùng biên cương và huyền thoại dai dẳng về người đàn ông vùng biên cương. Chủ đề trở nên rộng lớn hơn nhiều so với một đời người. Cuốn sách cho ta thấy sự tiến bộ đã khiến ta đánh mất những gì và ta có thể phục hồi lại những gì.” - The Atlanta Journal-Constitution *** Elizabeth Gilbert thực sự “gây chấn động” giới văn chương với cuốn tự truyện Eat, Pray, Love: One Woman’s Search For Everything Across Italy, India And Indonesia (NXB Viking - 2006). Thành công của Eat, Pray, Love... là tác phẩm này gây ấn tượng với độc giả không phải bằng những thủ pháp thông thường như đánh vào cảm giác mạnh, khêu gợi những bản năng hay thú tính tầm thường. Vấn đề mà nó đặt ra đầy mới mẻ và thời sự... Cố gượng dậy sau vụ ly dị người chồng đầu tiên, Elizabeth Gilbert quyết định dành một năm đi qua Italia, Ấn Độ và Indonesia để tìm kiếm những trải nghiệm mới cho sự nghiệp sáng tác của mình, dù khi đó chị đã 34 tuổi... Ngay sau khi xuất hiện tại các hiệu sách, cuốn tự truyện này lập tức có tên trong danh sách các tác phẩm ăn khách thể loại không hư cấu trên tờ New York Times. Eat, Pray, Love... còn được hãng Paramount Pictures chọn chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh với diễn xuất của “Người đàn bà đẹp” Julia Roberts. Tác phẩm thứ tư này của chị được tạp chí Entertainment Weekly suy tôn là “1 trong 10 tác phẩm không hư cấu hay nhất năm 2006” và đã đến với khoảng 5 triệu độc giả ở 36 quốc gia, đa phần là độc giả nữ. Khi mới 18 tuổi, Elizabeth Gilbert đã bắt đầu gửi đăng các truyện ngắn của mình, với mục đích mà như chị nói là “phải đem đến cho công chúng một cái gì đó trước khi chết”. Nhưng đáp lại, mấy năm sau đó, chị chỉ nhận được những lá thư từ chối. Mãi đến năm 1993, tạp chí Esquire mới chọn đăng truyện ngắn Pilgrims của Elizabeth Gilbert với lời quảng cáo “Sự ra mắt của một nhà văn Mỹ” và ngay lập tức thu hút sự chú ý của công chúng yêu văn chương. Elizabeth Gilbert là nhà văn đầu tiên chưa có tác phẩm xuất bản xuất hiện trên Esquire kể từ sau Norman Mailer (1923 - 2007) hồi năm 1964. Pilgrims được nhà văn, nhà báo nổi tiếng người Mỹ Annie Proulx ca ngợi là “tác phẩm của một tài năng trẻ rực sáng”. Thành công của Pilgrims giúp Elizabeth Gilbert có công việc viết báo khá ổn định cho nhiều tạp chí có uy tín như SPIN, GQ, New York Times Magazine, Allure, Real Simple, Travel + Leisure. Elizabeth Gilbert sinh ngày 18/ 7/1969 trong một gia đình nông dân ở Connecticut (Mỹ). Năm 1991, chị tốt nghiệp ngành Khoa học chính trị tại Đại học Tổng hợp New York. Cho đến nay, Elizabeth Gilbert mới có 4 tác phẩm được xuất bản, nhưng khá đa dạng về thể loại, gồm tập truyện ngắn Pilgrims (1997), tiểu thuyết Stern Men (2000), cuốn tiểu sử The Last American Man (2002) và tác phẩm mới đây nhất là tự truyện Eat, Pray, Love... (2006). Là một người sở hữu cá tính mạnh, trong Elizabeth Gilbert luôn có sự giằng xé giữa ham muốn được tự do với việc phải tuân thủ một cách rập khuôn, đôi khi quá gò bó những nguyên tắc hoặc các ràng buộc xã hội. Elizabeth Gilbert từng sống như một “nhà văn lang thang” - trải nghiệm cuộc đời của một đầu bếp, người phục vụ quán bar, chân sai vặt ở một tạp chí... tại nhiều bang của Mỹ, rồi qua cả châu Âu, châu Phi... để viết về chính những con người, sự việc mà chị gặp thường ngày. Các ghi chép của Elizabeth Gilbert trong những ng ngày rong ruổi đã làm nên tập truyện ngắn đầu tay Pilgrims (NXB Houghton-Mifflin - 1997, đoạt giải văn học Pushcart và vào chung khảo giải PEN/Hemingway). Bài báo “The Muse Of The Coyote Ugly Saloon” của Elizabeth Gilbert trên tạp chí GQ năm 1997, một ký sự về quãng thời gian chị làm người phục vụ quán bar Coyote Ugly Saloon ở East Village (Manhattan, New York), được lấy làm cốt truyện cho phim Coyote Ugly (ra mắt năm 2000 và từng giành được một số giải thưởng điện ảnh). Elizabeth Gilbert sau đó còn chuyển thể bài báo “Eustace Conway Is Not Like Any Man You’ve Ever Met” trên GQ năm 1998 thành cuốn tiểu sử về nhà tự nhiên học đương đại người Mỹ Eustace Conway mang tên The Last American Man (NXB Viking - 2002, tác phẩm này vào chung khảo giải Sách quốc gia Mỹ ở thể loại Tác phẩm không hư cấu và Giải thưởng Hội phê bình Văn học quốc gia Mỹ). Elizabeth Gilbert ở Việt Nam hồi tháng 8/2006. *** Bạn không thể giải quyết nó. Bạn không thể vứt bỏ nó đi. Tôi chẳng biết bạn định làm gì với nó, nhưng tôi biết mình sẽ làm gì với nó. Đơn giản là tôi sẽ bỏ nó ra đi. Có thể một phần nhỏ của nó sẽ chết nếu tôi không ở bên chăm sóc cho nó nữa. - Lew Welch Tiểu sử của Eustace Conway chính là lịch sử phát triển của con người trên lục địa Bắc Mỹ này. Đầu tiên, anh ngủ trên mặt đất và mặc đồ da thú. Anh đánh lửa bằng que củi và ăn những gì có thể săn bắn hái lượm. Khi đói, anh ném đá vào chim chóc và phóng tên vào thỏ và đào rễ củ từ lòng đất, và thế là anh sống sót. Anh đan giỏ từ thân cây cối trong lãnh thổ của mình. Anh là dân du cư; anh chỉ đi bộ. Rồi anh chuyển vào sống trong lều vải và trở thành kẻ bẫy thú tinh vi hơn. Anh đánh lửa bằng đá lửa và thép. Khi thành thạo việc này rồi, anh dùng diêm. Anh bắt đầu mặc đồ len. Anh không ở lều vải nữa mà chuyển vào sống trong nhà gỗ đơn sơ. Anh trở thành nông dân, phát quang đất đai và trồng vườn. Anh kiếm được gia súc. Anh mở lối vào rừng, lối đi ấy trở thành đường mòn rồi thành đường cái. Anh hoàn thiện đường cái bằng những cây cầu. Anh mặc vải bò. Ban đầu anh là thổ dân da đỏ, sau đó trở thành nhà thám hiểm, rồi thành người khai hoang. Anh xây cho mình căn nhà gỗ và trở thành người định cư thực thụ. Là con người mang mộng tưởng về xã hội không tưởng, giờ đây anh duy trì cuộc đời mình với niềm hy vọng rằng những người có cùng chí hướng như anh sẽ mua đất quanh Đảo Rùa và nuôi nấng gia đình mình như anh sẽ nuôi nấng gia đình của chính anh một ngày nào đó. Những người hàng xóm ấy sẽ canh tác trên đất đai của họ với máy móc sử dụng sức kéo gia súc, đến giúp đỡ nhau vào đúng vụ mùa, tham gia bữa tiệc nhảy nhót vui vẻ của nhau, và họ sẽ cưỡi ngựa sang nhà nhau để trao đổi hàng hóa. Chừng nào tất cả điều này xảy ra, Eustace sẽ trở thành một người làng. Đó là điều anh muốn - xây dựng một thị trấn. Và khi tất cả đã đâu ra đó, anh sẽ xây ngôi nhà mơ ước của mình. Anh sẽ rời căn nhà gỗ mà chuyển vào sống trong một ngôi nhà xa hoa rộng thênh thang đầy các phòng thay đồ khổng lồ và trang thiết bị và con cái đề huề và đủ thứ. Và cuối cùng anh sẽ bắt kịp thời đại mình. Tới lúc đó, Eustace Conway sẽ là hình mẫu của một người Mỹ hiện đại. Anh biến đổi liên tục trước mắt chúng ta. Anh cải tiến và mở rộng rồi lại cải tiến và mở rộng bởi vì anh thông minh và tháo vát tới mức không dừng được. Anh không muốn nghỉ ngơi vui thú với những gì anh đã biết rõ cách làm; anh phải không ngừng tiến lên. Anh không dừng lại được. Và chúng ta cũng không dừng lại được. Con người chúng ta trên lục địa này xưa nay vẫn không dừng lại được. Tất cả chúng ta đều tiến lên, như de Tocqueville từng nhận xét, “giống như một dòng lũ người, cứ cuồn cuộn dâng lên không hề suy giảm, và tiến lên phía trước từng ngày dưới bàn tay điều khiển của Thượng đế.” Chúng ta vắt kiệt sức mình và mọi người khác. Chúng ta vắt kiệt nguồn lực - cả tự nhiên lẫn nội tâm - và Eustace chỉ là đại diện rõ ràng nhất cho tình trạng khẩn cấp của chúng ta. Tôi nhớ có một buổi cuối chiều, tôi cùng anh lái xe trở lại Đảo Rùa sau khi tới thăm Trại Sequoyah, đế chế cũ xưa của ông ngoại anh. Chúng tôi sắp về đến nhà, đang đi qua Boone, và dừng lại tại một đường giao. Bỗng nhiên Eustace quay ngoắt đầu lại hỏi, “Hai ngày trước, hôm chúng ta đi Asheville, tòa nhà kia đã ở đó chưa?” Anh chỉ vào khung của một tòa nhà văn phòng nhỏ mới. Chưa, hai ngày trước tôi không thấy nó ở đó. Nhưng trông có vẻ như nó sắp hoàn thiện rồi. Chỉ cần lắp cửa sổ vào nữa thôi. Một tốp thợ xây đang rời khỏi công trường vào cuối ngày. “Không thể thế được,” Eustace nói. “Chẳng lẽ họ xây được một ngôi nhà nhanh đến thế sao?” “Tôi không biết nữa,” tôi nói, thầm nghĩ anh phải biết rõ hơn ai hết. “Tôi nghĩ họ làm được đấy.” Anh thở dài. “Đất nước này…” anh than. Nhưng Eustace Conway là đất nước này. Và, từ thực tế đó, sẽ còn lại cái gì? Sẽ còn lại gì sau tất cả hoạt động này? Đó là câu hỏi Walt Whitman từng đặt ra. Ông nhìn khắp lượt nhịp độ thần tốc của đời sống Mỹ, sự phát triển công nghiệp, sự ồn ào gồng mình trong tham vọng của đồng bào mình, và tự hỏi, “Sau khi ta đã vắt kiệt những gì có trong buôn bán, chính trị, tiệc tùng... - nhận ra rằng rốt cuộc chẳng thứ gì trong số này làm ta thỏa mãn, hay tồn tại lâu bền vĩnh cửu - sẽ còn lại cái gì?” Và như mọi khi, nhà thơ già Walt đáng mến đưa ra cho chúng ta một câu trả lời: “Còn lại tự nhiên.” Đó cũng là thứ còn lại cho Eustace. Tuy nhiên, giống như tất cả chúng ta (và đây là điều trớ trêu nhất của anh), Eustace không có nhiều thời gian như anh ao ước để tụng ca thế giới Đúng như anh nói với tôi qua điện thoại vào một đêm đông, “Tuần này trên Đảo Rùa chúng tôi có một cơn bão tuyết. Một người bạn lên thăm có bảo, ‘Này Eustace, cậu đã làm việc vất vả quá đấy. Cậu nên nghỉ tay ra ngoài nặn người tuyết. Đã bao giờ nghĩ đến điều đó chưa?’ Ôi trời ơi, tất nhiên là tôi đã từng nghĩ đến điều đó chứ. Buổi sáng hôm ấy chỉ cần bước một bước chân ra khỏi cửa là tôi đã có thể thấy lớp tuyết tuyệt vời để làm người tuyết. Tôi đã tưởng tượng sẵn người tuyết mà tôi sẽ đắp, nếu thật sự phải đắp. Tôi nhanh chóng phân tích độ đặc của tuyết và quyết định chính xác chỗ đặt người tuyết để trưng bày đẹp nhất, chính xác nó to cỡ nào, và tôi có thể tìm mẩu than làm đôi mắt ở đâu trong xưởng rèn của mình. Tôi tưởng tượng ra mọi chi tiết của người tuyết đến tận cái mũi làm bằng củ cà rốt, với cái mũi này tôi phải nghĩ trong một giây: Bọn mình có còn đủ cà rốt dự trữ để mình có thể thửa một củ cho người tuyết này không? Sau khi thôi chơi người tuyết mình có thể lấy lại củ cà rốt để cho vào món hầm kẻo phí phạm không? Hay là một con thú nào đó sẽ chén mất củ cà rốt trước rồi? Tôi suy nghĩ lướt qua tất cả điều này trong khoảng năm giây, ước tính xem mình phải bỏ ra bao nhiêu thì giờ trong một ngày bận rộn để đắp người tuyết ấy, tôi cân nhắc thấy thời lượng đó tỉ lệ nghịch với mức độ niềm vui mà việc đắp người tuyết sẽ mang đến cho tôi - và quyết định không làm.” Thật quá đáng buồn, bởi vì anh thực sự thích được ở bên ngoài kia và biết đâu anh đã có được nhiều niềm vui từ người tuyết hơn bản thân anh có thể ước lượng một cách logic. Bởi vì anh thực sự yêu thiên nhiên, bất chấp mọi cam kết và nghĩa vụ của anh. Anh yêu mọi thứ thuộc về thiên nhiên - cái bao la của rừng; đốm nắng xuyên xuống qua một tấm mái thiên nhiên tươi tốt; vẻ đẹp của các từ bồ kết, bu lô, hoàng dương... Hơn cả tình yêu, anh cần thiên nhiên. Như ông ngoại của Eustace từng viết, “Khi trí óc mệt mỏi hay tâm thần bất an, chúng ta hãy đi vào rừng để hít vào đầy ắp phổi làn không khí được tắm gội trong mưa và thanh lọc trong nắng, để đong đầy trái tim ta vẻ đẹp của cây cối, hoa lá, pha lê, đá quý.” Người đàn ông tốt nhất mà Eustace có thể làm là người đàn ông mà anh trở thành khi một mình trong rừng thẳm. Đó là lý do tại sao lần nào lên Đảo Rùa tôi cũng lôi anh ra khỏi phòng làm việc và bắt anh đưa đi dạo. Mặc dù nói chung anh không có thời gian cho việc này, tôi buộc anh phải làm, bởi vì chưa đi được mười bước vào rừng là anh đã thao thao, “Đây là hương phong thảo. Cô có thể dùng cái thân rỗng của nó làm ống hút để uống nước ẩn nơi những viên đá cuội nằm trong lòng suối cạn quá nên có thể ta không dùng miệng uống được.” Hoặc, “Đây là hoa huệ đốm tím, loài hoa này rất giống hoa huệ đốm da cam, chỉ có điều trông lạ mắt hơn. Nó cực hiếm đấy. Tôi ngờ là chỉ có năm cây hoa này trên toàn bộ một nghìn mẫu đất Đảo Rùa.” Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng của tác giả Elizabeth Gilbert.
Ngày Thứ Tám Trong Tuần
Ngày Thứ Tám Trong Tuần là tiểu thuyết đầu tay của Marek Hlasko (1934-1969) — “nhà văn nổi loạn” nổi tiếng nhất của Ba Lan vào thời hậu-Stalin. Xuất bản lần đầu tại Ba Lan cách đây đúng 50 năm, tác phẩm một thời vang bóng này nói lên cuộc sống đương thời ngột ngạt, quá khứ nặng nề và tương lai mờ mịt của đông đảo những người trẻ tuổi bị gạt bên lề xã hội. *** "Không được. Bây giờ không được," Agnieszka nói, nàng đẩy mạnh tay của chàng thanh niên và khép chặt lại chiếc váy của mình. "Em muốn sao cũng được," người con trai đáp. Chàng nằm cạnh nàng trên bãi cỏ, nhìn qua bên kia bờ dòng Vistula. Giữa sông, một chiếc tàu kéo cục mịch đang mệt nhọc kéo ba chiếc xà lan, đầu máy hổn hển như nhịp tim của người già. Đêm đang xuống dần. Khí lạnh đông lại như sữa. Cây cối chung quanh sẫm lại. Chàng nằm yên cho đến khi cảm thấy bàn tay của Agnieszka đặt trên đầu của mình. Cô gái nói nhỏ: "Pietrek, em không muốn chuyện tầm thường. Nếu không yêu anh, có lẽ em không bận tâm đâu. Nhỡ có ai đến thì sao. Em không muốn người ta chà đạp lên những gì mà em xem là quan trọng. Anh phải hiểu như thế. Nếu mình phải giữ gìn một điều gì, thì đó chính là điều này." ... Mời các bạn đón đọc Ngày Thứ Tám Trong Tuần của tác giả Marek Hlasko.
Một Kiếp Lênh Đênh
Bối cảnh truyện là Sài Gòn những năm trước giải phóng, đầy hoa lệ mà cũng cực kỳ phóng túng. Ở đó, sau những ánh đèn chớp nháy đầy xa hoa là bao mảnh đời, số phận vật vã, nổi trôi. Liên là một trong số đó, số kiếp cô lênh đênh hết biến cố này lại sóng gió khác. Từ một cô bé ngây thơ như bao cô gái khác, chỉ vì cảnh nhà túng bấn, bố mất sớm mẹ đi bước nữa. Đến năm mười bốn tuổi, sự thô bạo và dâm tục của bố dượng đã buộc Liên bước chân ra lề đường, chấp nhận kiếp sống bụi đời. Như thứ nọc độc, nó chiếm lĩnh cô dần dần bằng những nét phù hoa giả dối, những ảo mộng cuộc sống trong tiện nghi vật chất với lối sống an nhàn, vương giả. Qua bà mẹ nuôi và cô chị kết nghĩa, từ lúc nào Liên đã thành thạo với cách kiếm tiền từ kinh doanh thân xác con người. Và rồi, chính lối sống ấy đã buộc cô phải trả giá bằng sự trinh trắng của mình. Từ đó, phần vì kế sinh nhai, phần để trả thù đời, Liên đã điên cuồng lao vào các cuộc tình đỏ đen. Cứ vậy, Liên ngụp lặn trong dòng đời ngầu đục, bất kể những biến thiên thời cuộc… Tiểu thuyết Một Kiếp Lênh Đênh đã đề cập phần lớn về góc khuất trong xã hội tạp nham đương thời. Đồng thời cuốn sách này cũng sẽ chạm tới trái tim bạn đọc để kiếm tìm sự đồng cảm với những số phận nghiệt ngã, đắng cay. *** Lối đi quen thuộc chứa chấp nhiều mạo hiểm... NGUYỄN KHẮC PHỤC Đọc “Một kiếp lênh đênh” của Thu Trang, tôi bỗng miên man nghĩ ngợi. Và gợi ra khá nhiều điều về nghề tiểu thuyết. Mà cụ Tố Như bảo “nghề chơi cũng lắm công phu”, huống hồ cái nghề khó nhằn trên... Nghĩ cho cùng, văn chương, mà ráo riết nhất là tiểu thuyết, chỉ chăm bẵm vào việc mô tả, đào bới các khía cạnh của kiếp người. Vâng, cái kiếp người với tất cả những thăng trầm, biến cải, ái, ố, hỉ, nộ... chính là cốt liệu làm nên tác phẩm; chính là chất men gây hứng khởi (và cả buồn, vui, bi phẫn cùng hi vọng...) cho văn sĩ; chính là chỗ quy chiếu để ta xem nhà văn nhìn đời, nhìn người, nhìn thế sự xoay vần ra sao, yêu cái gì, ghét cái gì, muốn cái gì phải chết, phải bị diệt vọng, cái gì phải còn lại, phải phát triển và đơm hoa kết trái... Tóm lại, dù “tiểu thuyết là cỗ máy tri giác thực tại” (theo định nghĩa của nhà văn Pháp Lu-i A-ra-gông), hay là “tấm gương đặt trên một cỗ xe, kéo lê trên đường cái, phản chiếu mọi sinh hoạt của đời sống” (theo cách nghĩ của Phốc-nơ, tiểu thuyết gia Hoa Kỳ)..., hay tiểu thuyết là gì gì đi nữa, “kiếp người” vẫn cứ là lý do đầu tiên và mục đích cuối cùng, khiến các nhà văn cầm bút, canh cánh bên lòng trước những cảnh ngộ éo le, bi thiết, niềm vui sống, tình yêu, lòng căm hận, bài ca bất tận của lao động sáng tạo, tinh thần hướng thiện, lòng sùng bái Mẹ Thiên Nhiên và cuộc vật lộn mưu sinh, những xô xát, tranh chấp giữa tốt-xấu, hay-dở, đúng-sai..., hăm hở tạo dựng lại một “thế giới ảo” mang dấu ấn cá nhân của nhà văn, trên trang giấy, từ những mảnh vụn tưởng chừng rời rạc, ngẫu nhiên của hiện thực. Cái thế giới ảo ấy vừa bắt rễ, nảy mầm từ mảnh đất đời sống, vừa vươn cành lá xum xuê đón nhận ánh sáng mặt trời, tổng hợp nên chất “diệp lục tố” - cái chất huyền diệu biến “sự bịa đặt” (hư cấu) thành tác phẩm văn chương, “thật” hơn cả cái “thật” xuất phát điểm của nó... Trong cuốn sách của mình, Thu Trang quả là đã bắt ta theo dõi một “kiếp” lênh đênh trong tiểu thuyết thật hơn “kiếp lênh đênh” mà ta từng thấy trong đời. Mà lại lênh đênh trong trận cuồng phong những năm nửa sau thế kỷ 20 trên đất Nam Việt Nam. Liên, nhân vật chính, người đàn bà trong trại giam, sống lại trong hồi tưởng quá vãng, với bao ngậm ngùi, tủi hổ, trách móc và cũng không ít những lời biện hộ trắng trợn, đổ vấy cho “hoàn cảnh”... Ta hiểu, lắng nghe mà vẫn có thể cảm thông, thương xót và hy vọng một cái kết khả dĩ hơn, sẽ đến với con người có cái “kiếp lênh đênh” ấy. Mọi chuyện bắt đầu từ chuyến tàu thuỷ chạy ven biển, chở những người miền Bắc di cư vào Nam, sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954... Trong đó có gia đình của cô bé Liên. Rồi bố chết, mẹ đi bước nữa, gặp phải ông bố dượng chẳng ra gì, cô bé từ tổ ấm bước vào một cô nhi viện Công giáo và từ đó, bước thẳng vào giang hồ. Những gì xảy ra như một hậu quả lô-gich, Liên trở thành vũ nữ trong vũ trường, thành một thứ “gái bao” cho những ông Tây, ông Mẽo và khách làng chơi. Cứ thế trượt mãi xuống dưới đáy xã hội. Sau 1975, Liên cố gượng lại nhưng “hoàn cảnh xô đẩy” và cuối cùng, “nàng kiều nữ - sản phẩm kiêm nạn nhân của chủ nghĩa thực dân kiểu mới” tạm dừng chân trong một trại giam, trò chuyện, thổ lộ với tác giả về “cái kiếp lênh đênh” của mình... Giọng văn (qua lối tự thuật của nhân vật chính) giản dị, chân thật, gợi cảm u sầu, tiết tấu nhanh và ít khi bận tâm chẻ sợi tóc làm tư (gần gũi với lối ta thường bắt gặp ở một số cây bút di cư sau 1954). Nhưng có điều đáng ái ngại: chính trên những lối đi quen thuộc, nhà văn rất dễ gặp nhiều mạo hiểm khi độc giả dường như đã đoán biết trước những gì mà các nhân vật chính sẽ phải nếm trải và nhận lãnh... Nhưng Thu Trang đã không bắt đồng nghiệp và độc giả của mình phải thót tim lâu. Chị đã vượt qua những mạo hiểm trên một cách bản lĩnh mà vẫn hồn nhiên, tươi tắn chứ không đến nỗi phải gồng mình... Phường Quan Hoa - Cầu Giấy Một đêm chủ nhật N.K.P. Mời các bạn đón đọc Một Kiếp Lênh Đênh của tác giả Thu Trang.
Mộng Phù Du
Tác giả 'Rừng son' Candace Bushnell tái ngộ độc giả VN với 'Mộng phù du', câu chuyện về sức mạnh của nhan sắc và ý chí của người phụ nữ hiện đại. Tác phẩm nằm trong loạt sách của Chibooks ra mắt nhân Lễ tình yêu. Với “Mộng phù du”, Bushnell nêu cao tuyên ngôn: Chiến thắng dành cho những phụ nữ làm chủ đời mình; mặc dù vậy, mọi nấc thang danh vọng đều có giá của nó.Janey Wilcox - cô người mẫu đồ lót nổi tiếng của Victoria’s Secret, nỗ lực leo lên những nấc thang danh vọng trong xã hội New York bằng mọi giá. Quá trình đi tới đỉnh vinh quang đầy thử thách và đau đớn khi Janey bị lộ tẩy quá khứ rắc rối cùng vô số quan hệ tình ái không minh bạch. Mối quan hệ bạn bè với Mimi Kilroy - một nhân vật có vị trí hàng đầu trong xã hội New York, ông chồng tốt Selden Rose - người đứng đầu kênh truyền hình cáp Movie Time, người tình Comstock Dibble - giám đốc hãng Parador Pictures… đều chỉ là những bước đệm tạm thời cho Janey tiến lên phía trước. Thế nhưng, thành công của bất cứ ai sống trong thế giới hào nhoàng của Janey cũng đều là “một thành công kiểu Hollywood - bất ngờ, kỳ diệu, và choáng ngợp - được tạo ra để cuối cùng hủy hoại linh hồn của người nhận nó”. Qua cuốn sách, tác giả gửi thông điệp đến những con người đang sống trong “giấc mộng phù du”: “Trong tương lai, sẽ còn rất nhiều những giây phút thất vọng, khi khám phá ra mình bị bội phản, khi nhận ra rằng mới hôm nay mình thật “hot”, hôm sau mình đã đóng băng, và không ai nhận điện thoại của mình nữa…”. *** Review Mê Đọc Truyện Tình: Lâu rồi tớ mới đọc được một cuốn sách hay như này. Hành văn và cốt truyện đều hay song dịch thuật hơi kém một chút. Có thể do bản này người dịch còn chưa chuyên. Chắc chắn tớ sẽ mua bản gốc đọc Sách viết về một cô người mẫu .Cô tên Janey Wilcox. Phải bò từng bước trên nấc thang danh vọng . Thuở đầu, cô phải làm gái cho một ông trùm buôn vũ khí giàu nứt đố đổ vách. Mối tình với anh lái tàu đã kết thúc cuộc sống nhung lụa ấy. Cô trở về, bắt đầu làm người mẫu. Thời gian đầu rất khó khăn, đôi khi phải vay tiền các tình nhân. Trong lúc ấy, cô nhận được thư mời làm việc của Victoria’s Secret. Cuộc đời sang trang mới. Nổi tiếng, giàu có,... như cô hằng mong. Cô lấy chồng, ly dị và bắt đầu làm phim. Bản thân tớ thấy rất thích cô Janey Wilcox này. Một cô gái mạnh mẽ, khôn ngoan. Vẫn rất tình cảm và yêu cái đẹp. Thực ra con người cô không xấu, cô xấu là do cô buộc phải thế. để sống sót, để cho những người kia thấy cô không dễ dàng bị quật ngã, Phụ nữ thời nay nên như vậy. Không quá ủy mị, không quá khôn ngoan.  Sách lột tả bộ mặt thật sự của Hollywood Hoa Lệ. Đừng tưởng làm minh tinh là sướng, là giàu. Để có được điều đó, người ta phải đánh đổi quá nhiều thứ, đôi khi là chính bản thân mình.  Hành văn khá ổn, cốt truyện hấp dẫn, thực tế và lời văn giản dị khiến nó trở thành cuốn sách viết cho tuổi mới lớn rất hay.   *** Đó là đầu hè năm 2000, và ở thành phố New York, nơi những con phố lấp lánh bụi vàng lọt xuống từ những vụ mua bán hàng tỉ đô trong nền kinh tế đang hưng thịnh, vẫn là chuyện làm ăn kinh doanh như mọi khi. Thế giới yên bình bước sang một kỷ nguyên mới, tổng thống một lần nữa tránh được việc bị buộc tội, và hiện tượng Y2K đã xì đi như một chai champagne Pháp cổ. Thành phố ngời lên với tất cả vẻ huy hoàng vừa rực rỡ, vừa thông tục, vừa nhẫn tâm của nó. Và vào đúng thời điểm đó, cả thành phố đang xôn xao về Peter Cannon, một luật sư trong ngành giải trí đã quịt tới ba mươi lăm triệu đô la của vài khách hàng ngôi sao. Những tháng năm kế sau đó, sẽ còn có nhiều vụ scandal hơn, hàng tỉ đôla bị mất, và những vụ lừa đảo dân chúng Mỹ. Nhưng vào lúc này, “vụ Peter Cannon” đã liên đới tới đủ những cái tên mặt dạn mày dày mà ít nhất tạm thời làm thỏa mãn đám dân New York đói khát chuyên ngồi lê đôi mách. Một trong những nạn nhân là nhạc sĩ rock ba mươi mốt tuổi tên là Digger. Digger là một trong những người thành công với cái tên chỉ có một từ, như rất nhiều nghệ sĩ vĩ đại, có khởi đầu khiêm tốn kết hợp với vẻ ngoài hơi quái đản. Anh là dân ở Des Moines, bang Iowa, có mái tóc vàng bẩn thỉu và làn da trắng nhờ đến đáng sợ mà ta có thể nhìn thấy cả mạch máu xanh bên dưới, và thường đội mũ phớt mềm, đặc trưng riêng của anh. Vào một chiều thứ Sáu kỳ nghỉ Ngày Liệt sĩ, anh ngồi lặng im bên bể bơi trong căn nhà thuê mùa hè với giá 100.000 đô tại Sagaponack ở Hamptons, hút thuốc không đầu lọc và nhìn vợ mình, Patty, đang giận dữ nói chuyện trên điện thoại. Digger dụi điếu thuốc vào chậu hoa cúc (trong chậu đã có một đống nhỏ đầu lọc thuốc mà người làm vườn sau đó sẽ dọn đi), và ngả người ra chiếc ghế dài bằng gỗ tếch. Hôm đó trời khá đẹp và anh thực sự không hiểu cái vụ lùm xùm về Peter Cannon này là sao. Là loại người coi mục đích đời mình đứng cao hơn công cuộc săn đuổi tiền bạc bẩn thỉu, Digger không thể hiểu nổi giá trị đồng tiền. Quản lý của anh ước tính anh mất phải đến một triệu đô. Nhưng với Digger, một triệu đô là khái niệm trừu tượng không rõ ràng chỉ có thể hiểu được bằng những thuật ngữ âm nhạc. Anh hiểu rằng mình có thể kiếm lại được một triệu đô đó bằng cách viết một bài hát hit, nhưng vào cái buổi chiều dễ chịu hôm đó, chìm trong sự xa hoa biếng nhác của một ngày ở Hamptons, dường như chỉ mỗi mình anh là có thái độ thờ ơ lãnh đạm như thế. Patty, cô vợ yêu quý của anh, đang hoang mang lo lắng, và nửa tiếng vừa qua đã nói toàn chuyện ngớ ngẩn trên điện thoại với chị gái cô, Janey Wilcox, một người mẫu nổi tiếng của Victoria’s Secret. Khi anh nhìn qua bể bơi tới nhà chòi nơi Patty ngồi cúi xuống cái điện thoại, ngắm nhìn thân hình hơi đẫy đà của vợ trong bộ áo tắm một mảnh màu trắng, thì cô ngước lên. Hai mắt họ gặp nhau và cùng hiểu một điều. Patty đứng dậy và bắt đầu bước về phía anh, và như mọi khi, anh ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thuần Mỹ giản dị của vợ mình: tóc vàng ánh đỏ dài đến ngang lưng, cái mũi hếch xinh xinh với những nốt tàn nhang, và đôi mắt xanh tròn. Janey, chị gái cô, được mọi người coi là “người đẹp hoàn hảo”, nhưng Digger chưa bao giờ thấy như vậy. Mặc dù Janey và Patty đều có cái mũi hếch giống nhau, mặt Janey có gì đó vừa xảo quyệt vừa hoang dại không làm anh thấy cuốn hút. Và hơn nữa, anh coi Janey, với những giá trị khỉ gió về địa vị và tiền bạc, thái độ kiêu căng và xấc xược, và ám ảnh về chính bản thân, đơn giản chỉ là một ả khốn mắc bệnh ái kỷ. Mời các bạn đón đọc Mộng Phù Du của tác giả Candace Bushnell.